P

11 Tháng Tám 20167:22 SA(Xem: 2838)
P
TRÍCH LỤC TỪ NGỮ PHẬT HỌC
Cư sĩ Hạnh Cơ biên soạn,
đánh máy và trình bày trang sách
Cư sĩ Tịnh Kiên đọc và sửa chữa bản thảo

P

Phá. Chữ “phá” được dùng trong các bộ Luận vốn là một thuật ngữ thuộc Nhân Minh Luận, có nghĩa là đả kích, bài xích, đánh đổ những lập luận sai lầm, không đúng chân lí trong các luận thuyết ngoại đạo; chữ “phá” trong các từ “phá tà”, “phá chấp”, “phá tướng” v.v... là nằm trong ý nghĩa này. Trong Luật, chữ “phá” có nghĩa là không tuân giữ giới luật, không thi hành đúng qui trình đã định, như các từ “phá giới”, “phá trai”, “phá hạ”; cũng có nghĩa là làm cho sứt mẻ, làm mất sự toàn vẹn, như câu “phá hòa hợp tăng”, v.v... Trong Kinh, chữ này được dùng với ý nghĩa phỉ báng, hủy hoại, diệt trừ, hàng phục, như các từ “phá pháp” (phỉ báng chánh pháp), “phá hữu” (chấm dứt sinh tử), “phá tội nghiệp” (dứt trừ tội chướng), “phá ác, phá hoặc, phá vô minh” (tiêu trừ phiền não, vô minh), “phá ma quân” (hàng phục ma quân), “phá địa ngục” (thoát li cảnh giới khổ đau), v.v... Trong Thiền tông, chữ “phá” còn được dùng với những ý nghĩa đặc biệt, như nói “phá nhan vi tiếu” (đổi sắc mặt nghiêm nghị mà mỉm cười - chỉ cho trường hợp tôn giả Đại Ca Diếp mỉm cười trong pháp hội Linh-sơn khi đức Thế Tôn đưa cành hoa lên trước đại chúng), “phá môn” (chỉ cho người đệ tử bị thầy đuổi ra khỏi chùa), “phá phàm phu” (chỉ cho thiền sinh tâm tánh quá ám độn), v.v...

Phá bản tham: là cái cửa ải đầu tiên mà các thiền giả phải vượt qua. Theo Thiền tông, có ba loại cảnh giới tham thiền từ thấp lên cao, mà hành giả Thiền môn phải thấu suốt, thuật ngữ Thiền học gọi là “tam quan” (ba cửa ải). 
1) Cửa ải đầu tiên, hành giả phải diệt trừ hết mọi phàm tình, thấy rõ các pháp là hư vọng không chân thật, tỏ ngộ được tâm tính bản nguyên của mình (tức là bản lai diện mục). Đạt được cảnh giới này, gọi là “phá sơ quan” (tức vượt được cửa ải đầu tiên), hoặc cũng gọi là “phá bản tham” (tức vượt được cảnh giới tham thiền căn bản), và đó cũng tức là giai đoạn “kiến tánh”. 
2) Cửa ải kế tiếp, sau khi đã kiến tánh, tiếp tục dụng công tu trì, không những không bị cái “hữu” làm cho chướng ngại, mà cả cái “không” cũng không bị vướng mắc. Đạt được cảnh giới này, gọi là “thấu trùng quan” (đã vượt suốt hai lớp cửa).
3) Cửa ải sau cùng, hành giả tiếp tục dụng công mài luyện, cho đến khi đạt được cảnh giới tịch chiếu (vắng lặng và sáng soi) không hai, không có vô ngại, ngũ dục lục trần đầy dẫy trước mắt mà không nhiễm ô, cứ sử dụng tự tại mà không mất bản tánh thanh tịnh; đó là giai đoạn “mạt hậu lao quan” (cửa ải khó khăn sau cùng), cùng với chư Phật không khác.

Phá hòa hợp tăng. Chúng tăng hòa hợp để tu tập và thực hiện các Phật sự. Nếu dùng thủ đoạn để li gián, khiến cho họ phải phân tán, rối loạn mà bỏ phế Phật sự, hoặc cưỡng chiếm chùa miếu, áp bức họ phải hoàn tục, đều là phá sự hòa hợp của tăng đoàn. Vì cắt đứt tuệ mạng của người, dứt tuyệt duyên lành giải thoát của người, cho nên tội rất nặng, và quả báo cũng cực kì thảm khốc.

Phái Dương Kì (Dương Kì phái): là một chi phái của tông Lâm Tế, và cũng là một trong “năm nhà bảy tông” của Thiền tông Trung-quốc, do thiền sư Dương Kì Phương Hội (996-1049) khai sáng. Ngài Phương Hội, ban đầu tham học với ngài Sở Viên (986-1039) ở thiền viện Sùng-thắng, núi Thạch-sương (tỉnh Hồ-nam), được cử giữ chức giám viện. Ngài cùng với ngài Tuệ Nam, là hai vị đệ tử đắc pháp kiệt xuất nhất của thiền sư Sở Viên. Trong khi Tuệ Nam lập thiền phái Hoàng Long ở núi Hoàng-long (tỉnh Giang-tây) thì ngài cũng lập thiền phái Dương Kì ở núi Dương-kì (tỉnh Giang-tây). Cả hai chi phái đều thuộc dòng thiền Lâm Tế. Phái Dương Kì phát dương mạnh mẽ, tiếp hóa người học đông đảo, môn nhân truyền thừa rất nhiều. Từ đời Tống trở về sau, trong khi phái Hoàng Long suy yếu dần thì phái này coi như bao trùm toàn bộ các đạo tràng thuộc tông Lâm Tế. Cuối thế kỉ 12, vị tăng Nhật-bản là Tuấn Tú (Shunjo, 1166-1227), đã sang Trung-quốc theo học thiền pháp với phái Dương Kì này, rồi trở về nước sáng lập thiền phái Dương Kì ở Nhật-bản.

Phái Hoàng Long (Hoàng Long phái): là một chi phái thuộc tông Lâm Tế, và cũng là một trong “năm nhà bảy tông” của Thiền tông Trung-quốc, do thiền sư Hoàng Long Tuệ Nam (1002-1069) khai sáng. Ngài Tuệ Nam là đệ tử đắc pháp của vị tổ đời thứ 7 của tông Lâm Tế là thiền sư Thạch Sương Sở Viên (986-1039); từ năm 1036 (dưới đời vua Nhân-tông của vương triều Bắc-Tống) ngài trú tích hoằng hóa tại núi Hoàng-long (tỉnh Giang-tây), sáng lập ra phái Hoàng Long. Chi phái này thịnh hành cho đến thời đại Nam-Tống (1127-1279) thì bắt đầu suy vi. Năm 1186, vị tăng Nhật-bản là Vinh Tây đã sang Trung-quốc thọ học thiền pháp của phái Hoàng Long này, sau khi về nước đã thành lập tông Lâm Tế tại Nhật-bản.

Phàm phu. Chữ Phạn “prthag-jana”, cựu dịch là “phàm phu”, tân dịch là “dị sinh”. Phàm phu là người bình thường; đối với Phật pháp thì đó là hạng người trí thức còn thiển cận, chưa thấy rõ được đạo lí bốn sự thật. Phàm phu còn bị vô minh chi phối, tâm ý khởi nhiều tà kiến, sinh nhiều phiền não; còn tạo nghiệp và theo nghiệp mà thọ quả báo, không được tự tại. Do tạo nhiều nghiệp nhân khác nhau mà phải thọ nhiều quả báo khác nhau; từ đó mà sản sinh ra nhiều loài chúng sinh khác biệt nhau, cho nên, các nhà tân dịch đã theo ý nghĩa đó mà dùng từ “dị sinh” để dịch chữ Phạn “prthag-jana”. Dị sinh cũng có nghĩa là sinh vào các loài không phải thánh nhân. Vì vậy, tất cả chúng sinh chưa bước vào bốn địa vị thánh nhân là Thanh-văn (từ quả Dự-lưu trở lên), Duyên-giác, Bồ-tát (từ Sơ-địa trở lên), và Phật, đều là phàm phu; theo đó, phàm phu gồm có sáu loài là trời, người, a-tu-la, súc-sinh, ngạ-quỉ, và địa-ngục; hay nói cách khác, tất cả hữu tình trong ba cõi sáu đường, còn trôi nổi chìm đắm trong sinh tử luân hồi, đều là phàm phu.

Phàm phu bác địa (bác địa phàm phu). Chữ “bác” nghĩa là rộng, nhiều. Chúng sinh ở địa vị phàm phu rất nhiều, nên gọi là “phàm phu bác-địa”. Từ “bác địa” (博地) vốn được nói là “bạc địa” (薄地), có ý chỉ cho hàng phàm phu thấp kém, phước mỏng, luôn bị phiền não bức bách làm cho đau khổ triền miên.

Phạm âm (hay phạm thanh, hoặc phạm âm thanh): là âm thanh vi diệu thanh tịnh của chư Phật và Bồ-tát. Kinh luận thường diễn tả rằng, âm thanh của chư Phật và Bồ-tát có đầy đủ năm đức tính như âm thanh của thiên vương Đại Phạm: - âm thanh nghe sâu thẳm như tiếng sấm vang; - âm thanh trong trẻo và vang xa, người nghe đều cảm thấy vui vẻ; - âm thanh làm cho người nghe sinh tâm kính yêu; - người nghe nếu để ý lắng nghe thì sẽ hiểu rõ dễ dàng; - nghe hoài mà không cảm thấy nhàm chán.

Phạm chí. Người bà-la-môn Ấn-độ có chí cầu pháp Phạm Thiên, gọi là “phạm chí”. Phạm thiên nghĩa là tịnh, lấy tịnh hạnh lập chí, cho nên gọi là “phạm chí”.

Phạm Cổ Nông (1881-1952): hiệu là Kí Đông, biệt hiệu là Huyễn Am, bút hiệu là Hải Thi đạo nhân, quê huyện Gia-hưng, tỉnh Triết-giang, Trung-quốc. Thuở nhỏ ông từng du học ở Nhật, sau khi về nước, đem hết tâm lực hoằng dương Phật pháp. Năm 1931, ông được cử làm tổng biên tập cho Phật Học Thư Cục ở Thượng-hải, viết Hải Triều Âm Văn Khố, Phật Học Bách Khoa Tòng Thư, cùng phát hành Kinh Tạng bản đời Tống, chỉnh lí nền văn hiến Phật giáo. Năm 1935, ông làm chủ bút Nhật Báo Phật Giáo. Năm 1951, ông làm hội trưởng hội Cư Sĩ Lâm của Phật giáo thế giới. Trước tác của ông có Huyễn Am Văn Tập, Cổ Nông Phật Học Vấn Đáp, và Phát Thú Luận (dịch).

Phạm hạnh 1: là một trong năm hạnh của hàng Bồ-tát. “Phạm” là trong sạch. Các vị Bồ-tát không vướng mắc vào hai cực đoan có và không, gọi là trong sạch; đem sự trong sạch ấy mà vận dụng tâm từ bi để cho vui và vớt khổ cho chúng sinh, gọi là “phạm hạnh”.

Phạm hạnh 2: là hạnh trong sạch. Vì Phạm Thiên đoạn trừ dâm dục, cho nên sự xa lìa dâm dục được gọi là “phạm hạnh”. Cuộc đời một người Bà-la-môn được chia làm bốn thời kì, thời kì đầu tiên gọi là “thời kì phạm hạnh”; đó là thời kì mà trong sinh hoạt hằng ngày phải giữ giới bất dâm và chuyên học các kinh điển Phệ Đà và lễ nghi tế tự. Trong Phật giáo, các hành giả tu tập phải giữ không những giới bất dâm mà còn bao nhiêu giới luật khác nữa, cho nên gọi là “phạm hạnh”. – Hàng cư sĩ tại gia không giữ giới bất dâm (mà chỉ là bất tà dâm) thì không được gọi là phạm hạnh; nhưng nếu họ cũng hành trì hạnh không dâm dục như tăng sĩ thì vẫn được gọi là phạm hạnh. – Nói rộng ra, các hành giả tu thiền, đạt được đầy đủ tám bước giải thoát (bát giải thoát); tu tập thuần thục tám sự hành trì chân chánh (bát chánh đạo); tu tập trọn vẹn bốn tấm lòng rộng lớn (tứ vô lượng tâm); biết rõ bảy pháp lành (thất thiện pháp); v.v..., đều gọi là “phạm hạnh”.

Phạm tăng. Từ “Phạm tăng” được dùng để chỉ chung cho chư tăng từ Ấn-độ và các nước vùng Tây-vực (Trung-Á) từng tới Trung-quốc truyền giáo.

Phạm Võng giới: tức giới luật của hàng Bồ-tát, được ghi chép trong kinh Phạm Võng, gồm có 10 giới trọng và 48 giới khinh, cả hai chúng xuất gia và tại gia đều có thể thọ trì.

Phạn bản: tức là kinh điển bằng ngữ văn Ấn-độ.

Pháp. Phật giáo dùng chữ “pháp” để chỉ cho mọi hiện tượng tâm lí, sinh lí và vật lí trong vũ trụ. Danh từ Phật học Hán ngữ có một định nghĩa rất thông dụng về chữ “pháp” là: “Nhậm trì tự tánh, quĩ sinh vật giải” – có nghĩa: “Pháp” là bất cứ hiện tượng gì, nó giữ gìn được bản tánh và khuôn mẫu của nó, khiến cho người ta nghĩ đến, nhìn thấy, nghe thấy, v.v... thì biết ngay là nó. Vì vậy, “pháp” là tiếng chỉ bao gồm tất cả mọi hiện tượng cụ thể (như núi, sông, cây cỏ, con người, v.v...) lẫn trừu tượng (như tư tưởng, đạo đức, chân lí, v.v...). Các pháp trong vũ trụ không thể đếm hết được, cho nên thường chỉ nói tổng quát là “vạn pháp”. Vạn pháp có thể được phân làm hai loại theo tính chất đối đãi nhau của chúng, như pháp sắc và pháp tâm, pháp thiện và pháp bất thiện, pháp ô nhiễm và pháp thanh tịnh, pháp hữu lậu và pháp vô lậu, pháp thế gian và pháp xuất thế gian, pháp hữu vi và pháp vô vi, v.v... Kinh điển Phật giáo gọi những lời dạy của Phật là Phật pháp, giáo pháp, chánh pháp, hay pháp bảo; kết tập tất cả lời dạy của Phật lại, gọi là pháp tạng. Nói chung, có rất nhiều từ Phật học ghép với chữ “pháp” để chỉ cho những sự việc liên quan đến giáo pháp (như pháp nhãn, pháp nghĩa, pháp hải, pháp tử, pháp môn, pháp thí, v.v...). Tóm lại, chữ “pháp”, ngoài ý nghĩa tổng quát chỉ cho mọi sự vật cụ thể và trừu tượng trong vũ trụ, Phật giáo còn dùng nó để chỉ riêng cho lời Phật dạy và tất cả những gì liên quan đến Phật pháp.

Pháp ái. Chữ “pháp” ở đây là nói về pháp lành. Người mới chứng ngộ thường sinh tâm yêu thích thiện pháp; theo tông Thiên Thai, như thế vẫn chưa gọi được là chứng ngộ chân thật – vì tâm “ái” vẫn còn, dù là ái thiện pháp! Phải hoàn toàn diệt trừ cái tâm “pháp ái” ấy thì mới thực sự chứng ngộ.

Pháp ấn. Chữ “pháp” ở đây là chỉ cho Phật pháp; chữ “ấn” ở đây nghĩa là cái ấn, con dấu, phù hợp, tiêu chuẩn, chân thật, không thay đổi. Con dấu dùng để ấn chứng một sự việc là thật, chắc chắn, đáng tin tưởng. “Pháp ấn” là một thuật ngữ Phật học, có nghĩa là chân lí, là điều chân thật được chứng ngộ và nói ra bởi Bậc Giác Ngộ (tức là đức Phật). Tất cả kinh luận, giáo lí nào phát biểu đúng với nội dung của những pháp ấn này, tức đều là Phật pháp. Tất cả mọi nhận thức, phát biểu nào không phù hợp với những pháp ấn này, tức đều là ngụy ngữ, tà pháp.
Trong các kinh luận thường nêu ra có ba pháp ấn, bốn pháp ấn hoặc năm pháp ấn.
- Ba pháp ấn là:
1. Nhất thiết hành vô thường (tất cả vạn hữu đều biến đổi không ngừng)
2. Nhất thiết pháp vô ngã (tất cả vạn hữu đều không có bản ngã chân thật)
3. Niết bàn tịch tịnh (bản thể của vạn hữu là vô phân biệt, lìa khỏi mọi hình tướng, mọi tri kiến, mọi khái niệm)
Trong ba pháp ấn trên, hai pháp ấn 1 và 2 (vô thường và vô ngã) nói lên tướng trạng của vạn pháp, pháp ấn 3 (niết bàn tịch tịnh) nói lên bản thể của vạn pháp.
- Nếu thêm pháp ấn “nhất thiết hành thị khổ” (tất cả vạn pháp là khổ) vào ba pháp ấn trên thì gọi là bốn pháp ấn. – Pháp ấn “khổ” này cũng nói lên tướng trạng của vạn pháp.
- Nếu thêm pháp ấn “nhất thiết pháp không” (tất cả vạn hữu đều không có tự tánh) vào bốn pháp ấn trên thì gọi là năm pháp ấn. – Cùng với pháp ấn “niết bàn tịch tịnh”, pháp ấn “không” này cũng nói lên bản thể của vạn pháp.
Đặc biệt, theo Kinh Pháp Ấn thì có ba pháp ấn như sau:
1. Không: Bản thể của vạn pháp là không.
2. Vô tướng: Bản thể của vạn pháp không thể nhận biết được bằng khái niệm hay nhận thức phân biệt, mà chỉ hiển lộ trong trí tuệ bình đẳng, vô phân biệt.
3. Vô tác (hay vô nguyện): Trong trí tuệ bình đẳng, vô phân biệt, sẽ không còn có sự phân biệt giữa chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức, về chủ thể chứng đắc và đối tượng chứng đắc.
Nhưng theo giáo nghĩa rốt ráo của đại thừa thì chỉ có một pháp ấn, đó là pháp ấn “nhất thật tướng”, tức là lí chân thật, xa lìa các tướng hư vọng, không hai, không khác. Tất cả kinh điển đại thừa do Phật nói đều lấy lí chân thật để ấn chứng, khiến cho các học thuyết ngoại đạo không thể trộn lẫn vào, mà tà ma cũng không thể xuyên tạc, phá hoại. Những kinh luận nào phát biểu đúng với pháp ấn nhất thật tướng này đều phù hợp với giáo pháp của Phật, nếu không thì chỉ là tà thuyết.

Pháp Chiếu. Các sử liệu đều không ghi rõ các chi tiết về niên đại cũng như quê quán của ngài; chỉ biết rằng, ở thời đại nhà Đường, dưới triều vua Đại-tông (762-779), ngài thường vân du ở vùng Đông-Ngô, nhân đó mà ngưỡng mộ đạo phong của đại sư Tuệ Viễn (đã viên tịch từ lâu) ở Lô-sơn, bèn vào núi xin theo tu tập pháp môn “niệm Phật tam muội”. Sau đó ngài đến núi Nam-nhạc, xin thờ đại sư Thừa Viễn (712-802, tổ thứ ba của tông Tịnh Độ) làm thầy. Năm 767 ngài đến cư trú tại chùa Vân-phong ở Hành-châu. Một hôm ngài trông thấy trong bát cháo của ngài hiện rõ đám mây năm sắc, trong đám mây ấy lại có hình ảnh ngôi chùa Đại-thánh Trúc-lâm. Một hôm khác, cũng lại ở trong cái bát ấy, ngài trông thấy hình ảnh các chùa ở núi Ngũ-đài cùng các thắng tướng của cảnh giới Tịnh-độ. Mùa hạ năm 769 ngài đến chùa Hồ-đông (cũng ở Hành-châu), mở đạo tràng tu “ngũ hội niệm Phật”, và cảm nhận được sự hiện diện của đức Phật A Di Đà cùng chư vị Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền. Năm sau ngài đến chùa Phật-quang ở núi Ngũ-đài, bỗng có hai vị đồng tử xuất hiện dẫn đường, ngài mới thấy rõ các cảnh vật đã từng thấy trong bát cháo mấy năm trước; lại được hai đức Bồ Tát Văn Thù, Phổ Hiền trao truyền yếu môn niệm Phật.
Ngài là người đã mô phỏng theo tiếng gió lay động cành cây phát ra năm thứ âm thanh, được diễn tả trong Kinh Vô Lượng Thọ, mà sáng lập ra pháp môn tu gọi là “ngũ hội niệm Phật”. Ngài thường qua lại các địa phương trong khoảng từ núi Ngũ-đài cho đến kinh thành Trường-an để hoằng dương Phật pháp, nhất là hướng dẫn tu tập pháp môn niệm Phật do ngài sáng lập. Sau khi viên tịch, ngài được vua ban thụy hiệu là Đại Ngộ hòa-thượng. Người đương thời cho rằng, ngài chính là hậu thân của đại sư Thiện Đạo (613-681). Trước tác của ngài có Tịnh Độ Ngũ Hội Niệm Phật Tụng Kinh Quán Hạnh Nghi và Tịnh Độ Ngũ Hội Niệm Phật Lược Pháp Sự Nghi Tán.

Pháp Dung (594-657): là vị thiền sư đời Đường, khai tổ của tông Ngưu Đầu, người đời xưng là Ngưu Đầu Pháp Dung. Ngài họ Vi, quê ở Nhuận-châu (huyện Trấn-giang, tỉnh Giang-tô), 19 tuổi đã bác thông kinh sử, tình cờ được xem kinh Bát Nhã, bèn kính tin Phật pháp; liền vào núi Mao xin xuất gia với pháp sư Quế. Trải 20 năm tinh cần tu tập không giải đãi, được thể nhập pháp môn đại diệu. Năm 643 ngài lập riêng thiền thất ở núi Ngưu-đầu, chuyên tu thiền quán, học lữ các nơi qui tụ theo học có đến hơn trăm người. Tổ Đạo Tín nghe tiếng, thân hành đến nơi trao cho pháp môn đốn giáo đã từng được tổ Tăng Xán truyền cho. Từ đó, núi này trở thành trung tâm của một pháp hệ Thiền tông, gọi là tông Ngưu-đầu, truyền thừa được sáu đời thì suy vi. Ngài thị tịch năm 657, thế thọ 64 tuổi.

Pháp giới. “Pháp” tức các pháp, “giới” tức ranh giới; các pháp đều có tự thể và ranh giới khác nhau, gọi là “pháp giới”. Vì vậy, mỗi một pháp gọi là pháp giới, mà gọi tổng quát vạn hữu cũng là pháp giới.

Pháp giới duyên khởi: cũng gọi là pháp giới vô tận duyên khởi, thập huyền duyên khởi, hay nhất thừa duyên khởi, là nội dung của pháp giới “sự sự vô ngại”, một pháp tu quán thuộc giáo nghĩa của tông Hoa Nghiêm. Tông Hoa Nghiêm chủ trương rằng, trong cách hình thành của pháp giới, từ tất cả pháp mà khởi sinh một pháp, và từ một pháp mà hình thành tất cả pháp. Cho nên, một pháp có mặt trong tất cả vạn pháp trong vũ trụ (nhất tức nhất thiết), và tất cả vạn pháp trong vũ trụ cũng có mặt trong một pháp (nhất thiết tức nhất); như thế cũng có nghĩa, một pháp và tất cả pháp cùng là chủ và cùng là phụ thuộc của nhau, một trong tất cả và tất cả trong một, một là tất cả và tất cả là một, viên dung vô ngại, trùng trùng vô tận, đó gọi là “pháp giới duyên khởi”.

Pháp Hải. Tên họ và tuổi tác của ngài đều không rõ, chỉ biết ngài là người tỉnh Quảng-đông, lần đầu gặp tổ Tuệ Năng thì hỏi ngay ý nghĩa “tức tâm tức Phật”, Tổ chỉ dạy một lời thì liền liễu ngộ. Từ đó chuyên theo hầu Tổ để ghi chép lại tất cả những lời giảng dạy của Tổ. Kinh Pháp Bảo Đàn là một trong các tác phẩm thuộc loại này, và cũng được coi là tác phẩm cương yếu của Thiền tông Trung-quốc.

Pháp hạnh. Ý nghĩa chung của từ “pháp hạnh” là y theo giáo pháp của Phật mà tu hành; đại khái, bao gồm mười phương diện: 1) Biên chép và quảng bá Kinh Luật Luận. 2) Tôn kính, cúng dường bất cứ nơi nào có kinh điển, có chùa, tháp Phật. 3) Giáo hóa quần chúng bằng cách giảng dạy chánh pháp, bố thí kinh sách, v.v... 4) Chăm chú lắng nghe người khác đọc tụng kinh điển. 5) Tự mình siêng năng đọc tụng kinh điển. 6) Chuyên tâm thọ trì giáo pháp, ghi nhớ không quên. 7) Dùng mọi phương tiện, tùy cơ thuyết pháp, giúp người nghe phát khởi lòng tin và hiểu rõ Phật pháp để tu hành. 8) Đọc tụng và tuyên dương kinh điển, làm cho người nghe sinh niềm hỉ lạc. 9) Dùng trí sáng suốt để suy nghĩ, tìm hiểu rõ ràng nghĩa lí lời dạy của đức Phật. 10) Tinh cần tu tập, thực hành những lời dạy của đức Phật trong đời sống.
Mặt khác, từ “pháp hạnh” cũng dùng để chỉ cho tất cả các pháp môn mà hành giả phải tu tập từ buổi ban đầu mới phát tâm cho đến khi thành tựu quả vị cứu cánh (A-la-hán đối với Thanh-văn thừa; Bích-chi Phật đối với Duyên-giác thừa; và Diệu-giác [Phật] đối với Bồ-tát thừa).

Pháp Hỉ: là tên Hán dịch của ngài Đàm Ma Nan Đề (Dharmanandi, ?-?). Ngài là người Tây-vức, xuất gia hồi còn nhỏ, thông minh mẫn nhuệ, học thông Ba Tạng, đặc biệt chuyên về Trung A Hàm và Tăng Nhất A Hàm, rất được người đời kính trọng. Năm 384 ngài đến Trường-an (kinh đô nhà Tiền-Tần), cùng với hai ngài Đạo An và Trúc Phật Niệm, đã dịch hai bộ kinh Trung A Hàm và Tăng Nhất A Hàm ra Hán văn. Đó là lần đầu tiên Kinh Đại Bộ được phiên dịch. Hai bộ kinh này về sau được ngài Tăng Già Đề Bà hiệu đính, và lưu truyền đến ngày nay. Ngài được người đời trọng vọng, lại được vua Tiền-Tần là Phù Kiên dùng lễ mà đãi ngộ. Khi Phù Kiên bị Diêu Trành giết để lập nên nhà Hậu-Tần, ngài vẫn tiếp tục ở Trường-an để dịch kinh. Trong thời gian này ngài đã dịch A Dục Vương Tức Hoại Mục Nhân Duyên Kinh, Tam Pháp Độ Luận, và Tăng Già La Sát Tập Kinh. Đó là theo sự ghi chép của sách Lịch Đại Tam Bảo Kỉ; nhưng trong sách Lương Cao Tăng Truyện lại ghi rằng, trong lúc Diêu Trành đang đánh vào lãnh thổ Tiền-Tần thì ngài liền rời Trường-an trở về Tây-vức, rồi không biết về sau ra sao.

Pháp Hiển (340?-?): là vị cao tăng sống vào thời đại Đông-Tấn (317-419). Ngài họ Cung, quê ở Vũ-dương (Sơn-tây). Có người nói ngài sinh năm 340 (triều vua Tấn Thành đế), nhưng không chắc chắn lắm. Ngài xuất gia từ năm mới lên 3 tuổi. Có chuyện lạ trong gia đình ngài. Song thân ngài đã có ba người con trai, đều bị chết yểu. Ngài là người con thứ tư. Vì sợ ngài bị chết yểu nữa, nên vừa lên 3 tuổi, song thân ngài đã cạo tóc cho ngài làm chú tiểu, hi vọng nhờ Phật gia hộ mà được thoát tai nạn (người Trung-quốc lúc đó, ai cũng tin tưởng như vậy). Tuy cạo tóc làm tiểu, nhưng song thân vẫn giữ chú ở nhà. Và rồi chú lại bị bệnh nặng, suýt chết, song thân đành phải tức tốc đem chú lên cho ở hẳn trong chùa; thế là chú lành bệnh. Từ đó chú phát tâm xuất gia luôn, không muốn trở về nhà nữa. Song thân nài nỉ thế nào chú cũng nhất quyết không trở về nhà. Vì quá thương nhớ con, thân mẫu ngài phải cất một cái chòi lá nhỏ bên cạnh chùa để ở, cho tiện thăm nom. Ngài lên 10 tuổi thì thân phụ qua đời. Ông chú ngài lại viết thư khuyên ngài về nhà sống với mẹ, nhưng ngài vẫn cương quyết từ chối, trả lời rằng: “Không phải vì cha mẹ mà cháu đi tu, mà chỉ vì muốn từ bỏ mọi dục vọng và tránh xa những chuyện thế tục.” Năm 20 tuổi ngài thọ giới cụ túc. Ngài được người đương thời ca tụng là người thông minh, nhanh trí, tính khí can đảm, đầy đủ đức vô úy, một lòng vì đạo. Khi tuổi đã cao, vì thấy kinh luật ở Trung-quốc còn quá thiếu thốn, giới luật trong đời sống tăng đoàn quá kém cỏi, vào năm 399 (thời vua Tấn An đế, lúc đó ngài khoảng 60 tuổi), ngài đã rủ bốn vị đồng môn là Tuệ Cảnh, Đạo Chỉnh, Tuệ Ứng, Tuệ Ngôi, cùng đi sang Thiên-trúc, trước là chiêm bái đảnh lễ Phật tích, sau là thỉnh kinh luật Phạn văn đem về Trung-quốc. Tâm nguyện của ngài là cố gắng xiển dương Luật Tạng để chấn chỉnh nếp sống qui phạm cho tăng đoàn Trung-quốc lúc bấy giờ. Ngài đã phát xuất từ Trường-an (lúc ấy là kinh đô nước Hậu-Tần), theo đường bộ về hướng Tây, qua Đôn-hoàng, Vu-điền v.v... hơn 30 nước, với biết bao sa mạc hãi hùng, những sơn đạo cheo leo hiểm trở, những đỉnh núi cao tuyết phủ quanh năm... trước khi đến được Ấn-độ. Ở Ấn-độ, ngài đã đi hết khắp nơi để chiêm bái thánh tích của Phật; rồi ở lại thành Ba-liên-phất 3 năm để tu học; và ở lại vùng hạ lưu sông Hằng thêm 2 năm trước khi rời Ấn-độ để đi sang nước Sư-tử (đảo Tích-lan). Ngài ở lại nước Sư-tử 2 năm, rồi theo đường biển sang Nam-dương, rồi từ đó, cũng theo đường biển trở về Trung-quốc (năm 414); tổng cộng thời gian xuất du của ngài là 15 năm. Kinh sách ngài mang về Trung-quốc, chủ yếu là thuộc Luật Tạng (như Luật Ma Ha Tăng Kì của Đại Chúng Bộ, Luật Thập Tụng của Nhất Thiết Hữu Bộ v.v...), ngoài ra còn có một bộ luận quan trọng của Đại Chúng Bộ là Tạp A Tì Đàm Tâm Luận, và các kinh thuộc bộ A Hàm. Sau khi về nước, ngài trú tại chùa Đạo-tràng ở Kiến-khang (tức Nam-kinh, lúc đó là kinh đô của vương triều Đông-Tấn), chuyên việc dịch kinh. Tại đây ngài đã cùng với ngài Phật Đà Bạt Đà La dịch chung các bộ Luật Ma Ha Tăng Kì, Kinh Đại Bát Nê Hoàn, Kinh Tạp Tạng, Luận Tạp A Tì Đàm Tâm. Ngài cũng đã đem tất cả các việc mắt thấy tai nghe trong suốt cuộc hành trình đi Ấn-độ, Tích-lan, ghi chép lại, làm thành tác phẩm Phật Quốc Kí, cũng gọi là Cao Tăng Pháp Hiển Truyện; trong đó, quan trọng nhất là phần ngài trình bày về sinh hoạt của tăng đoàn Phật giáo ở Ấn-độ và Tích-lan vào thế kỉ thứ 5. Ngài ghi nhận rằng, tăng đoàn ở các nơi đó hành trì giới luật Phật chế rất nghiêm cẩn, được cả vua chúa và dân chúng kính ngưỡng cúng dường. Năm viên tịch của ngài không ai biết rõ, chỉ biết là ở trong khoảng những năm từ 418-423. Thế thọ của ngài, có người nói là 82, có người nói là 86 tuổi.

Pháp hoa tam muội. Tông Thiên Thai lập ra bốn loại tam muội (Thường tọa tam muội, Thường hành tam muội, Bán hành bán tọa tam muội, Phi hành phi tọa tam muội), trong đó, Bán hành bán tọa tam muội lại chia làm hai loại: Phương đẳng tam muội và Pháp hoa tam muội. Pháp hoa tam muội cũng gọi là Pháp hoa sám pháp, nói tắt là Pháp hoa sám; tức là pháp môn tu hành y cứ vào Kinh Pháp Hoa và Kinh Quán Phổ Hiền mà lập nên. “Tam muội” nghĩa là chuyên thực hành một pháp môn để điều phục tâm ý. Pháp tu Pháp hoa tam muội này lấy 21 ngày làm một kì hạn, chuyên hành đạo, tụng kinh. Hành giả hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, tư duy quán chiếu lí thật tướng trung đạo. Pháp môn này lấy việc sám hối diệt tội làm chủ yếu; cho nên, trong cả 6 thời (sáng sớm, giữa trưa, chiều, đầu đêm, giữa đêm, khuya) của một ngày đêm, hành giả đều phải tinh cần tu 5 phép sám hối (ngũ hối), gồm có: 1- sám hối: sám hối tội lỗi; 2- khuyến thỉnh: cung thỉnh chư Phật mười phương thường chuyển pháp luân cứu độ chúng sinh; 3- tùy hỉ: khen ngợi những người làm việc thiện; 4- hồi hướng: đem công đức lành hồi hướng về quả vị bồ đề vô thượng; 5- phát nguyện: phát nguyện nhất tâm thành Phật cứu độ chúng sinh.

Pháp Hộ (Dharmapala, 963-1058). Ngài là người nước Ca-thấp-di-la ở Bắc Ấn-độ, họ Kiều-thi-ca, nguyên thuộc dòng Bà-la-môn. Thuở nhỏ học thông bốn kinh Phệ Đà cùng các kí luận. Về sau ngài xuống vùng Trung-Ấn xuất gia theo Phật giáo, theo học cả tiểu lẫn đại thừa với nhiều vị cao tăng. Năm 1004 ngài sang đến Biện-kinh, dâng tặng vua Tống Chân-tông xá lợi Phật cùng kinh bản chữ Phạn, được vua ban cho cà sa tía và mời tham gia công tác phiên dịch kinh điển; lại được vua ban hiệu là Truyền Phạn đại sư. Trước sau ngài đã dịch được 35 bộ kinh luận, gồm 270 quyển. Ngài viên tịch năm 1058 (dưới triều vua Tống Nhân-tông (1023-1063), thụy hiệu là Diễn Giáo tam tạng.

Pháp nạn ba vua Võ một vua Tông (tam Võ nhất Tông pháp nạn). Thuật ngữ này được dùng để chỉ cho bốn vị hoàng đế Trung-quốc đã bách hại Phật giáo một cách nghiêm trọng, gây ra bốn thời kì pháp nạn trong lịch sử Phật giáo Trung-quốc ở thời đại quân chủ:
1) Vua Thái-võ đế (424-452) nhà Bắc-Ngụy (386-534), vì tin lời gièm pha của đạo sĩ Khấu Khiêm Chi và quan tư đồ Thôi Hạo mà bách hại Phật giáo. Năm 446, nhà vua hạ lệnh giết hại tất cả quí vị sa môn ở khắp nước, phá hủy hết kinh điển và đồ tượng, khiến cho Phật giáo Bắc-Ngụy bị tiêu diệt. Phải đến đời vua sau là Văn-thành đế (452-465), Phật giáo mới được khôi phục. 
2) Vua Võ đế (561-578) nhà Bắc-Chu (559-581), tin dùng luận thuyết của hai đạo sĩ Trương Tân và Vệ Nguyên Tung, có ý phế bỏ Phật giáo. Nhờ có quí vị tôn đức nổi danh đương thời như Chân Loan, Đạo An, Tăng Miễn, Tĩnh Ái, v.v... ra sức biện hộ, mà Phật giáo tạm thời được yên. Bỗng dưng, năm 573, nhà vua hạ lệnh phế bỏ cả Phật giáo và Đạo giáo, hủy hoại kinh tượng, bắt tất cả quí vị sa môn và đạo sĩ đều phải hoàn tục; tuyển lựa 120 vị danh đức an trí tại Thông-đạo quán. Năm 577, vua Võ đế diệt nhà Bắc-Tề (550-577), tuy có ngài Tuệ Viễn hết sức chống đối, nhà vua vẫn cương quyết thi hành chính sách tiêu diệt Phật giáo trên khắp lãnh thổ Bắc-Tề. Năm sau nhà vua băng, hai tôn giáo Phật và Đạo mới được khôi phục. 
3) Vua Võ-tông (841-846) nhà Đường (618-907), từ nhỏ đã không thích Phật giáo, sau khi lên ngôi (năm 840) liền thờ đạo sĩ Triệu Qui Chân làm thầy, sùng tín Đạo giáo. Qui Chân cậy thế được vua sủng ái, lại được tể tướng Lí Đức Dụ hậu thuẫn, mỗi lời nói ra đều bài xích Phật giáo, cho Phật giáo là tôn giáo ngoại lai, làm hại sinh linh, phải nên tận diệt. Năm 845, nhà vua hạ lệnh phế bỏ Phật giáo, cho phá hủy hơn 4.600 ngôi chùa và hơn 40.000 tăng xá vãng lai trong toàn quốc, bắt 260.500 tăng ni phải hoàn tục, tịch thu hàng ngàn vạn đám ruộng của các chùa, đốt kinh, hủy tượng, lấy hết các tượng đồng và chuông khánh đem nấu để đúc tiền, tượng bằng sắt thì đem nấu làm nông cụ, các tư gia có các tượng bằng vàng, bạc, v.v... đều phải đem nộp cho chính quyền. Qua năm sau, nhân uống kim đan của đạo sĩ, nhà vua bị trúng độc mà băng.
4) Vua Thế-tông (954-959) nhà Hậu-Chu (951-960), năm 955 bắt đầu thi hành chính sách tiêu diệt Phật giáo. Nhà vua hạ lệnh phá bỏ 30.336 tự viện, hủy hết tượng Phật, đem nấu tất cả các pháp khí bằng kim loại để đúc tiền. Lúc bấy giờ ở Trấn-châu có một tượng Bồ Tát Quán Thế Âm bằng đồng, tiếng đồn rất linh ứng, dù có lệnh vua, không ai dám đến gần. Nhà vua nghe thế, liền tự mình đến nơi, lấy búa đập nát mặt và ngực của tượng, những người chứng kiến đều run sợ. Bốn năm sau, một hôm, đang trên đường Bắc chinh, trên ngực nhà vua bỗng nổi một mụn nhọt, rồi băng.

Pháp nhĩ: là một thuật ngữ Phật học. Chữ “nhĩ” (爾) ở đây có nghĩa là tự nhiên như vậy, không do ai tự ý đặt ra. “Pháp nhĩ” nghĩa là các pháp tự nhiên như vậy, tự chúng là như thế, không do ai tạo tác cả. Về phương diện tồn tại thì các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà thành, dù nước có sâu tới đâu, dù lửa có cao tới đâu, vẫn là việc tự nhiên như thế. Về tính chất, đất đá thì rắn chắc, nước thì lưu nhuận, lửa thì nóng, gió thì giao động, các pháp tự nhiên như vậy. Về bản thể chân như, thể tánh các pháp vốn thường hằng bình đẳng như vậy.

Pháp Tạng: tức là ngài Hiền Thủ, là vị tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm (xem mục “Hiền Thử”).

Pháp Tạng Bộ (Dharmaguptaka). Theo Dị Bộ Tông Luân Luận thì bộ phái này đã tách ra từ Hóa Địa Bộ, vào khoảng giữa thế kỉ thứ 3 PL; nhưng theo Xá Lợi Phất Vấn Kinh và một số sử liệu khác thì bộ phái này đã tách ra từ Thượng Tọa Bộ, hoặc Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Pháp Tạng là tên của vị bộ chủ, nguyên là đệ tử của ngài Mục Kiền Liên Tử Đế Tu, thường đi theo thầy và ghi nhớ tất cả những lời thầy đã nói. Sau khi thầy viên tịch, Pháp Tạng bèn đem kinh điển chia thành năm tạng: Kinh, Luật, Luận, Chú, Bồ-tát; vì thế mà biệt lập thành một bộ. Nhưng theo Xá Lợi Phất Vấn Kinh thì sáng tổ của bộ phái này chính là ngài Mục Kiền La Ưu Ba Đề Xá (tức Mục Kiền Liên Tử Đế Tu). Vì bộ phái này rất chú trọng đến hai tạng Chú và Bồ-tát, nên đã được coi là đầu mối của Mật giáo (đại thừa) về sau này.

Pháp tánh: tức thể tánh hay bản tánh chân thật của các pháp. Bản tánh này không sinh không diệt, không biến đổi, thường hằng. Do đó, “pháp tánh” là một tên gọi khác của “chân như”; nó không phải là “hành”. Nó không thể nhận biết bằng ý thức phân biệt của phàm phu, mà chỉ thể nhập bằng tuệ giác vô phân biệt của các bậc thánh giả.

Pháp thắng-nghĩa (thắng nghĩa pháp) và pháp pháp-tướng (pháp tướng pháp). Theo bộ Luận Câu Xá, chữ PHÁP được định danh một cách chính xác là “lí pháp” và “quả pháp”. Lí pháp tức là lí tứ đế (khổ tập diệt đạo) và quả pháp tức là quả niết bàn. Lí pháp tứ đế chính là tánh và tướng của vạn pháp, nên được gọi là pháp pháp-tướng; quả pháp niết bàn có tánh thiện, thường hằng (thắng) và có thật thể (nghĩa), nên được gọi là pháp thắng nghĩa.

Pháp thân: là một trong ba thân của Phật. Đó là cái thân chân thật của Phật, lấy chánh pháp làm thể, cho nên gọi là “pháp thân”.

Pháp-thân Đại-sĩ: tức là Bồ-tát Pháp-thân. (Xem mục “Bồ Tát Pháp Thân”.)

Pháp thế gian và pháp xuất thế gian (thế gian pháp, xuất thế gian pháp). “Pháp thế gian” là tất cả các pháp có tình thức và không có tình thức trong ba cõi. Các pháp này đều do hoặc nghiệp, nhân duyên sinh ra, biến chuyển vô thường. Tất cả các pháp thế gian đều làm cho chúng sinh lưu chuyển mãi trong vòng sinh tử luân hồi, cho nên chúng là “pháp hữu lậu”. Trong Bốn Sự Thật thì khổ và nguyên nhân của khổ (tập) thuộc về pháp thế gian. Trong tất cả các pháp thế gian, có tám thứ được đặc biệt gọi là “tám pháp thế gian” (bát thế gian pháp, hay bát pháp): 1) Những gì có lợi ích cho mình (lợi); 2) Những gì gây tổn hại cho mình (suy); 3) Những lời chê bai, hủy báng mình (hủy); 4) Danh tiếng của mình trong xã hội (dự); 5) Những lời tán dương, ca tụng trước mặt mình (xưng); 6) Những lời khiển trách, chỉ trích, nhục mạ mình (cơ); 7) Những duyên xấu, những nghịch cảnh làm cho mình khổ đau (khổ); 8) Những duyên tốt, những thuận cảnh làm cho mình vui thích (lạc). Tám pháp này luôn luôn làm lay động lòng người, khiến khởi lên mừng, giận, thương, ghét v.v...; cho nên thuật ngữ Phật học gọi chúng là “tám ngọn gió” (bát phong).
Đối lại với pháp thế gian là “pháp xuất thế gian”. Đó là các pháp siêu việt khỏi thế gian, không còn bị ràng buộc bởi các pháp hữu lậu; là các pháp vô lậu, giải thoát niết bàn. Phật pháp có công năng diệt trừ hoặc nghiệp, đưa chúng sinh thoát khỏi ba cõi sinh tử; cho nên Phật pháp chính là pháp xuất thế gian. Do đó, trong Bốn Sự Thật, thì tịch diệt (diệt) và pháp môn tu tập (đạo) thuộc về pháp xuất thế gian.

Pháp Thiên (Dharmadeva, ?-1001). Ngài người Trung Ấn-độ, xuất thân từ chùa Na-lan-đà ở nước Ma-kiệt-đà. Năm 973 (dưới triều vua Tống Thái-tổ) ngài đến Trung-quốc. Mới đầu ngài trú tại Lộc-châu (nay là huyện Thủy-tế, tỉnh Sơn-tây), dịch được bộ Thánh Vô Lượng Thọ Kinh và Thất Phật Tán. Đến năm 980, ngài được các quan viên địa phương dâng sớ tiến cử lên vua Tống Thái-tông. Vua mừng lắm, cho mời ngài về kinh đô. Nhân đó, nhà vua cho xây Dịch-kinh viện tại chùa Thái-bình-hưng-quốc. Năm 982, viện Dịch-kinh xây xong, nhà vua ban sắc mời ngài, cùng với hai ngài Thi Hộ và Thiên Tức Tai, đều vào cư trú tại Dịch-kinh viện để chuyên việc dịch kinh. Ngài đã dịch được bộ Đại Thừa Thánh Cát Tường Trì Thế Đà La Ni Kinh, được vua ban hiệu là Truyền Giáo đại sư. Năm 1001 (dưới triều vua Tống Chân-tông, 998-1022) ngài viên tịch, thụy hiệu là Huyền Giác đại sư. Từ năm 980 đến năm 1000, ngài đã dịch cả thảy 46 bộ kinh, gồm 71 quyển.

Pháp Thời (tức Đàm Ma Ca La, Dharmakala, ?-?). Ngài là người Trung Ấn-độ, thiên tư mẫn tuệ từ thuở nhỏ, thông hiểu Tứ Phệ Đà, tự cho văn lí trong thiên hạ đều chứa hết trong bụng mình. Về sau, một hôm đọc được bộ A Tì Đàm Tâm Luận, thì lòng dạ ngơ ngác, chẳng hiểu gì cả, bèn thỉnh một vị tì kheo nhờ giảng giải cho. Nghe xong bỗng nhiên tỏ ngộ, thấy rõ diệu lí nhân quả suốt cả ba đời. Từ đó ngài bỏ hết lạc thú thế tục, xuất gia theo Phật giáo, tinh tấn tu học, chẳng bao lâu thông suốt kinh điển đại tiểu thừa, lại vững vàng cả giới luật. Năm 222 đời vua Ngụy Văn đế (220-226), ngài đến Trung-quốc, ở tại kinh đô Lạc-dương của nước Tào-Ngụy. Ngài quan sát, thấy tăng chúng Trung-quốc chỉ cạo đầu và đắp y trơn (y của sa di), chứ không có luật pháp gì để hành trì, bèn phát nguyện hoằng truyền giới luật. Năm 250 (đời vua Ngụy Tề vương, tức Tào Phi) ngài dịch xong bộ Tăng Kì Luật Giới Bản, bèn thỉnh 10 vị Phạn tăng tác pháp yết ma, truyền trao giới luật. Tương truyền, vị tăng Trung-quốc đầu tiên được thọ giới là Chu Sĩ Hành (204-282 – Xem mục “Chu Sĩ Hành”). Pháp chế truyền giới ở Trung-quốc bắt đầu từ lúc đó. Hành trạng của ngài từ sau đó, không thấy tài liệu nào ghi chép.

Pháp Thượng Bộ (Dharmottariyah) - Hiền Trụ Bộ (Bhadrayanika) - Chánh Lượng Bộ (Sammatiya) - Mật Lâm Sơn Bộ (Sandagari-ka). “Pháp Thượng” nghĩa là pháp đáng được tôn kính, cũng có nghĩa, đối với chúng nhân trong thế gian, pháp là tối thượng; đó là tên của vị tổ sáng lập ra Pháp Thượng Bộ. “Hiền Trụ” nghĩa là hàng hậu duệ của A-la-hán Hiền. “Chánh Lượng” nghĩa là thẩm định phải quấy, chân ngụy một cách chính xác, không sai lầm. Có thuyết nói Chánh Lượng Bộ là các đệ tử của A-la-hán Đại Chánh Lượng, nên cũng có tên là Chánh Lượng Đệ Tử Bộ; hoặc cũng có thuyết nói, vị tổ của bộ phái này tên là Sammata, nên bộ phái này được đặt tên là Sammatiya, tức Chánh Lượng Bộ. “Mật Lâm Sơn” nghĩa là núi có rừng cây rậm rạp; đó là nơi cư trú của vị sáng tổ, nên bộ phái được đặt tên như vậy.
Cả bốn bộ phái ấy đều tách ra cùng lúc từ Độc Tử Bộ, vào khoảng giữa thế kỉ thứ 3 PL. Vì cùng có nguồn gốc từ Độc Tử Bộ, nên giáo nghĩa của bốn bộ phái này đều giống với Độc Tử Bộ; nhưng vì trong khi giải thích một bài tụng trong A Tì Đàm Luận của tôn giả Xá Lợi Phất, thấy ý tứ không rõ ràng, bèn đem ý nghĩa của kinh mà bổ túc, rồi do ý kiến bất đồng mà chia rẽ ra thành bốn bộ phái như trên. Trong bốn bộ phái ấy, giáo nghĩa của Chánh Lượng Bộ dần dần chiếm ưu thế, hơn hẳn các bộ phái khác – ngoại trừ Hữu Bộ. Giữa thế kỉ thứ 7 Tây lịch, lúc pháp sư Huyền Trang sang Ấn-độ, đó chính là lúc Chánh Lượng Bộ đang rất thịnh hành, truyền bá khắp các vùng Trung, Tây, Đông và Nam Ấn-độ, địa vị và thanh thế chỉ đứng sau Hữu Bộ. Vì vậy, Hữu Bộ và Chánh Lượng Bộ đã có thời được coi là hai bộ phái trọng yếu nhất của Phật giáo tiểu thừa.

Pháp tính vô sinh. Bản tính của các pháp tức là thật tướng chân như, vốn không sinh diệt, cho nên nói là “pháp tính vô sinh”.

Pháp trần - pháp cảnh: là cảnh sở duyên của ý căn. Ý căn đối với các cảnh sở duyên của năm căn trước, phân biệt tốt xấu mà khởi lên các pháp thiện ác, gọi là pháp trần (hay pháp cảnh); những động tác thường ngày của chúng ta, tuy đã trở thành quá khứ, nhưng những ảnh tượng của trần cảnh vẫn được ghi nhớ, đó cũng tức là pháp trần; những hình ảnh hoàn toàn do tưởng tượng, không có trong thực tế (như lông rùa, sừng thỏ), chỉ có trong ý thức, cũng là pháp trần; cho đến những tư tưởng không có ảnh tượng gì cả, cũng đều là pháp trần.

Pháp tự (法嗣): là người thừa kế tông chỉ của thầy tổ, môn phái. Sự truyền pháp của thầy tổ cho đệ tử kế thừa, gọi là “tự pháp”.

Pháp tướng: tức tướng trạng cùng ý nghĩa nội dung của các pháp. Tướng trạng của các pháp thì do nhân duyên sinh diệt, muôn vàn sai khác, biến chuyển trôi chảy không ngừng; ý nghĩa nội dung của các pháp tùy căn cơ, trình độ hiểu biết, thiên kiến v.v... của mỗi chúng sinh, cho nên không đồng nhất. Có thể nói, “pháp tánh” và “pháp tướng” là hai mặt không thể tách rời của vạn pháp; về mặt bản thể của vạn pháp thì gọi là “pháp tánh”, về mặt hiện tượng của vạn pháp thì gọi là “pháp tướng”.

Pháp vô vi và pháp hữu vi. Luận Câu Xá chia vạn pháp làm hai loại tổng quát: hữu vi và vô vi. 
a) HỮU VI nghĩa là có tạo tác. Tất cả các hiện tượng (các pháp) do nhân duyên hòa hợp mà sinh thành, do con người làm ra, đều mang tính chất sinh diệt biến đổi, đều bị chi phối bởi bốn tướng thành trụ hoại không, sinh trụ dị diệt, hay sinh lão bệnh tử, đều là pháp hữu vi. Theo đó, trong 75 pháp do Luận Câu Xá thuyết minh, thì 72 pháp thuộc 4 nhóm (vị): sắc pháp (11 pháp), tâm pháp (1 pháp), tâm sở pháp (46 pháp) và tâm bất tương ưng hành pháp (14 pháp), đều thuộc pháp hữu vi. – Trong khi đó, tông Pháp Tướng thì phân tích các pháp hữu vi có cả thảy 94 pháp, gồm trong 4 nhóm (vị): tâm pháp (8 pháp), tâm sở pháp (51 pháp), sắc pháp (11 pháp), và tâm bất tương ưng hành pháp (24 pháp).
b) VÔ VI nghĩa là không tạo tác. Trái lại với pháp hữu vi, các pháp không do nhân duyên sinh, không sinh diệt biến đổi, không bị chi phối bởi các tướng thành trụ hoại không, sinh trụ dị diệt, hay sinh lão bịnh tử, đều là pháp vô vi. Theo Luận Câu Xá thuyết minh, có 3 pháp thuộc về loại pháp vô vi:
1) Hư không vô vi: Bản tính của hư không là không chướng ngại. Hư không trải khắp mười phương thế giới mà không làm chướng ngại cho bất cứ một sự vật nào, cũng không bị bất cứ sự vật nào làm cho chướng ngại. Trong hư không, mọi vật sinh ra thì có mặt, tiêu diệt thì mất đi; tuy hiện tượng tùy thời gian mà biến hóa, tùy không gian mà thay đổi vị trí, nhưng hư không vẫn thường trụ bất động, không hề biến hóa chuyển di, cho nên nói hư không là vô vi. Cũng cần để ý, cái hư không trong quan niệm thông thường, cái khoảng không chúng ta thấy trước mặt, không phải là hư không vô vi mà Luận Câu Xá nói ở đây. Nó cũng là một loại sắc pháp (hữu vi) hiện hữu trong không gian mà thôi, có sinh có diệt, có thay đổi biến hóa, vẫn nằm trong khái niệm của con người; hư không vô vi vượt ra ngoài khái niệm, chúng ta không thể dùng ý thức của con người mà biết được.
2) Trạch diệt vô vi: Do dùng trí tuệ quán chiếu để diệt trừ mọi sự ràng buộc của phiền não vô minh mà hiển bày cảnh giới không tịch (niết bàn). Cảnh giới không tịch này xưa nay vốn hằng hữu, bất sinh bất diệt – cho nên gọi là vô vi; nhưng chỉ vì vô minh phiền não che khuất mà chưa hiển lộ ra được; nay nhờ tuệ giác quét sạch vô minh mà nó lại hiện rõ ra, cho nên gọi là “trạch diệt vô vi”.
3) Phi trạch diệt vô vi: Đây là pháp vô vi không cần phải dùng trí tuệ tiêu diệt vô minh mới hiển bày, mà là thể tính không tịch vốn có hiển nhiên. Tất cả mọi vật đều sinh ra từ lúc chúng chưa có – tức là từ vị lai. Bất cứ hiện tượng nào trong vũ trụ cũng phải sinh khởi theo lịch trình thuận tự: từ vị lai để đi đến hiện tại (có sinh), rồi từ hiện tại đi về quá khứ (có diệt). Không có vật nào mà không đến từ vị lai, và đó chính là sự sinh khởi của pháp hữu vi. Nhưng cũng có những pháp không có nhân để phát sinh, hoặc có nhân mà thiếu duyên thì cũng không thể sinh khởi được; như thế có nghĩa là, những pháp ấy phải dừng lại ở vị lai, không tiến đến hiện tại – tức không sinh – được. Nếu vĩnh viễn thiếu duyên thì pháp ấy vĩnh viễn không sinh; đã không sinh thì tất nhiên cũng không diệt. Pháp không sinh không diệt là pháp vô vi. Pháp vô vi này không phải do dùng trí tuệ dứt trừ lậu hoặc để chứng đắc, nên gọi là “phi trạch diệt vô vi”.
Trong khi đó, theo tông Pháp Tướng thì có 6 pháp vô vi, tức là, ngoài 3 pháp vô vi nói trên, còn có: bất động vô vi (thể tính của niết bàn là như như, tĩnh lnặg), thọ tưởng diệt vô vi (trạng thái của sự tận diệt mọi tư tưởng và cảm thọ) và chân như vô vi (bản thân của vạn pháp).

Pháp xứ sở nhiếp sắc. Tông Pháp Tướng chia vạn pháp trong vũ trụ thành năm nhóm tổng quát – thuật ngữ Duy Thức học gọi là “ngũ vị”, trong đó có nhóm Sắc pháp (là các pháp thuộc về vật chất, có hình sắc, có tính chất ngại, biến hoại). Nhóm Sắc pháp bao gồm 11 pháp, tức là 5 căn (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân), 5 cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc), và pháp xứ sở nhiếp sắc. Chữ “xứ” ở đây có nghĩa là trưởng dưỡng (tức sinh trưởng và dưỡng dục); có ý chỉ cho những gì có thể trưởng dưỡng tâm và tâm sở của chúng ta, lại cũng là nơi để cho tâm và tâm sở phan duyên, nương tựa. Những gì được gọi là “xứ” đó, có cả thảy 12 thứ mà thuật ngữ Duy Thức học gọi là “mười hai xứ”, gồm có 6 căn và 6 cảnh: nhãn căn, nhĩ căn, tị căn, thiệt căn, thân căn, ý căn, sắc cảnh, thanh cảnh, hương cảnh, vị cảnh, xúc cảnh, và pháp cảnh. (Nếu thay những chữ “căn” và “cảnh” bằng chữ “xứ”, chúng ta sẽ có 12 xứ là: nhãn xứ, nhĩ xứ, tị xứ, thiệt xứ, thân xứ, ý xứ, sắc xứ, thanh xứ, hương xứ, vị xứ, xúc, và pháp xứ.) Vậy, PHÁP XỨ tức là PHÁP CẢNH. Nhưng chỗ khác nhau là, khi dùng từ “pháp cảnh” là có ý nhấn mạnh rằng, đó chính là đối tượng khách quan của tác dụng nhận thức phát khởi từ chủ thể ý căn; còn khi dùng từ “pháp xứ” là có ý nói rõ rằng, chính nó và 11 xứ kia là những gì có thể trưởng dưỡng tâm và tâm sở, lại cũng là nơi để cho tâm và tâm sở nương tựa, phan duyên. Tất cả những gì nằm trong phạm vi sắc pháp, hễ thống thuộc vào pháp xứ, thì gọi là “pháp xứ sở nhiếp sắc”.
Vậy, pháp xứ sở nhiếp sắc bao gồm những gì? Theo A Tì Đạt Ma Tạp Tập Luận và Pháp Uyển Nghĩa Lâm Chương (do Phật Quang Đại Từ Điển trích dẫn), pháp xứ sở nhiếp sắc bao gồm 5 lĩnh vực như sau:
1) Cực lược sắc: tức sắc pháp cực vi, là tất cả mọi thứ vật chất có tính chất ngại như 5 căn (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân), 5 cảnh (sắc, thanh, hương, vị, xúc) và 4 đại (địa, thủy, hỏa, phong), đem chia chẻ ra cho tới lúc đạt được đơn vị nhỏ nhất (cực vi).
2) Cực hồi sắc: cũng gọi là tự ngại sắc, là những loại hiển sắc không có tính chất ngại, như hư không, ánh sáng và bóng tối, đem chia chẻ ra cho tới đơn vị cực vi. 
3) Vô biểu sắc: là loại sắc pháp vô hình trong tự thân, được phát sinh bởi hai nghiệp thiện ác do thân miệng phát động, không biểu hiện ra ngoài để có thể trông thấy; ví như do sự hành trì giới luật, dẫn tới sự sinh khởi trong tự thân một loại tác dụng tinh thần có tính “ngừa sai quấy, ngăn xấu ác” (phòng phi chỉ ác). – Vì nó được xem là do bốn đại trong tự thân tạo thành, cho nên được liệt vào sắc pháp.
4) Biến kế sở khởi sắc: Ý thức duyên năm căn và năm cảnh mà phát sinh tác dụng kế độ, phân biệt một cách hư vọng, rồi biến hiện thành các ảnh tượng trong tâm; đó là loại sắc pháp này. Nói tóm tắt, biến kế sở khởi sắc là loại sắc pháp chỉ gồm toàn các ảnh tượng trong ý thức (tức pháp cảnh), không có thực chất.
5) Định tự tại sở sinh sắc: nói tắt là định sở sinh sắc, chỉ cho các cảnh như sắc, thanh, hương, v.v... do định lực biến hiện ra. Những loại sắc pháp này, vì do định lực thù thắng, biến hiện một cách tự tại đối với tất cả các sắc, nên gọi là định tự tại sở sinh sắc. Nhưng, cả phàm và thánh đều có thể biến hiện các loại sắc pháp như vậy, cho nên cần phải phân biệt chân giả. Nếu do định lực của phàm phu biến hiện thì đó là giả sắc, không thể sử dụng; nếu do định lực của bậc thánh nhân (Bồ-tát ở địa thứ tám trở lên) với đầy đủ uy đức thù thắng biến hiện, thì đó là thật sắc, có thể sử dụng – như biến hiện đất cát thành ra vàng bạc cơm nước, v.v... để cứu giúp chúng sinh.
Theo cái nhìn của Duy Thức Học đối với năm loại sắc vừa kể trên, bốn loại đầu (cực lược sắc, cực hồi sắc, vô biểu sắc, biến kế sở khởi sắc) đều là “giả sắc”; còn loại sau cùng (định sở sinh sắc) thì vừa là giả, vừa là thật; bởi vì, định lực của thánh nhân có đầy đủ uy đức thù thắng, đó là loại định lực vô lậu, cho nên những sắc pháp từ đó biến hiện ra đương nhiên đều là “thật sắc”. Nhưng, nếu cứ theo quan điểm của các bộ phái tiểu thừa, như Hữu Bộ chẳng hạn, thì cả năm loại sắc ở trên đều là thật sắc.

Phát lồ: tức là thú thật trước đại chúng những tội lỗi mình đã phạm.

Phát tâm: là một thuật ngữ Phật học, có nghĩa là phát tâm nguyện cầu đạo bồ đề vô thượng, tức là phát khởi nguyện vọng giải thoát sinh tử, nguyện cầu thành Phật để cứu độ chúng sinh. Đối với tông Tịnh Độ, phát khởi tâm nguyện cầu vãng sinh về thế giới Cực-lạc, cũng gọi là “phát tâm”.

Phát Tư Ba (1239-1280): cũng gọi là Bát Tư Ba, dịch âm của Tạng ngữ “Chos-rgyal-hphags-pa”, là một vị lạt-ma Tây-tạng. Ngài là vị tổ thứ 5 của phái Sakyapa, một trong 4 phái Mật-tông thuộc Hồng-mạo phái ở Tây-tạng. Năm 15 tuổi ngài đã làm thầy truyền giới, đồng thời làm cố vấn cho vua Mông-cổ Hốt Tất Liệt. Năm 19 tuổi, ngài đã dùng quan điểm Phật giáo để phê phán sách Lão Tử Hóa Hồ Kinh và đả kích đạo sĩ Lão giáo. Năm 1260, Hốt Tất Liệt (bấy giờ đã thống trị hơn một nửa nước Trung-hoa) đem ngài sang kinh đô Kara-korum của Mông-cổ, tôn làm đế sư (quốc sư), thống lãnh Phật giáo toàn đế quốc (trong đó có phần lãnh thổ của Trung-quốc). Uy quyền của ngài thật là lẫm liệt, mỗi khi tới chốn cung đình, ngài được trên từ hoàng đế, xuống đến công khanh, bách quan, tất cả đều ra tận cửa điện để nghênh tiếp. Năm 1269, vâng mệnh vua, ngài đã lấy văn tự Tây-tạng làm cơ sở, sáng chế ra văn tự Mông-cổ để sử dụng riêng cho dân Mông-cổ, gọi là “Bát-tư-ba văn” (tức văn tự Mông-cổ). Bởi thế, ngài càng được vua trọng đãi, và được ban hiệu là Đại Bảo pháp vương; lại được ban cho ngọc ấn.
Năm 1276 (có thuyết nói 1274), vua Hốt Tất Liệt lại đưa ngài trở về Tây-tạng, ủy thác cho ngài trách nhiệm vừa làm vua cai trị Tây-tạng, vừa lãnh đạo Phật giáo Tây-tạng; đó là vị “vua sư” đầu tiên của vương quốc Tây-tạng. Ngài đã xúc tiến việc giao lưu văn hóa giữa Tây-tạng và Trung-quốc, đem các kĩ thuật về ấn loát, nghệ thuật và kịch nghệ của Trung-quốc truyền vào Tây-tạng, và đem các kĩ xảo về kiến trúc, điêu khắc và nghệ thuật của Tây-tạng hội nhập vào Trung-quốc. Năm 1280 ngài viên tịch, thế thọ 42 tuổi. Vua Hốt Tất Liệt rất mến tiếc, tặng cho ngài thụy hiệu “Đại Bảo Pháp Vương, Tây Thiên Phật Tử, Đại Nguyên Đế Sư”. Nhà vua còn cho dựng chùa Đế-sư ở các nơi và tạc tượng ngài để thờ.

Phân biệt y - Nhiễm tịnh y - Chủng tử y. Chữ “y” nghĩa là nơi nương tựa, căn cứ, hoặc phương tiện giúp cho một sự việc nào đó sinh khởi. - Thức thứ sáu (ý thức) có khả năng phân biệt, phán đoán, là nơi y cứ để năm thức trước (nhãn, nhĩ, v.v...) phân biệt rõ ràng trần cảnh, nên được gọi là “phân biệt y”; - Thức thứ bảy (mạt-na thức) là nơi y cứ, từ đó mà các thức khác trở thành ô nhiễm hay thanh tịnh, nên được gọi là “nhiễm tịnh y”; - Thức thứ tám (a-lại-da thức) là nơi chứa giữ chủng tử của các thức khác và cả vạn pháp, để từ đó, các thức khác và vạn pháp được hiện hành, nên được gọi là “chủng tử y” – cũng gọi là “căn bản y”. Đây thuộc giáo nghĩa của tông Duy Thức.

Phần biệt giải thoát. Chỉ có chư Phật mới đạt được cảnh giới giải thoát rốt ráo; tất cả còn lại, từ hàng Bồ-tát trở xuống, sự giải thoát chỉ đạt được từng phần (không rốt ráo) mà thôi, gọi là “phần biệt giải thoát”.

Phần đoạn sinh tử. Tất cả chúng sinh trong ba cõi sáu đường, do chiêu cảm các nghiệp lành dữ mà mạng sống đều có phần hạn (phần), thân hình đều có tướng trạng, kích thước (đoạn) khác nhau, cho nên sự sinh tử của chúng sinh được gọi là “phần đoạn sinh tử”.

Phật Đà Bạt Đà La (Buddhabhadra, 359-429): dịch ra Hán ngữ là Giác Hiền. Ngài là người Bắc-Ấn, họ Thích, vốn là hậu duệ của Cam Lộ Phạn vương ở thành Ca-tì-la-vệ. Ngài xuất gia khi lên 17 tuổi, tinh cần tu học, thông thuộc mọi kinh điển, nhưng đặc chuyên về Thiền và Luật. Sau ngài sang nước Kế-tân, nhập môn học Thiền với ngài Phật Đại Tiên (Buddhasena). Tại đây ngài gặp ngài Trí Nghiêm (350-427) từ Trung-quốc sang, cũng đang học Thiền với ngài Phật Đại Tiên, bèn đáp ứng lời mời của ngài Trí Nghiêm, năm 408, cùng về đến Trường-an (kinh đô nhà Tiền-Tần), chuyên truyền bá Thiền học. Lúc ngài đến thì nơi đây đã có ngài Cưu Ma La Thập đang dạy đồ chúng ước khoảng 3.000 người, tiếng tăm lừng lẫy. Hai ngài có tiếp xúc với nhau và bàn luận về Pháp Tướng học, nhưng sau đó, vì môn hạ của hai ngài không dung hợp nhau, nên ngài đã dẫn hơn 40 đệ tử đi về phương Nam, nhận lời mời của ngài Tuệ Viễn, lên núi Lô-sơn, dịch bộ Đạt Ma Đa La Thiền Kinh. Ở đây vài năm, đến năm 415, ngài rời Lô-sơn để đi Kiến-khang, trú tại chùa Đạo-tràng, chuyên việc phiên dịch, cho đến khi viên tịch.

Phật Đà Da Xá (Buddhayasas, ?-?): là vị cao tăng chuyên dịch kinh ở Trung-quốc vào thời đại Đông-Tấn. Ngài người nước Kế-tân, 13 tuổi xuất gia, đến 15 tuổi thì mỗi ngày có thể tụng hai, ba vạn câu kinh, 27 tuổi mới thọ giới cụ túc. Ngài thông hiểu khắp các kinh luận đại, tiểu thừa, chuyên cần đọc tụng, không biết mệt mỏi. Khi ngài Cưu Ma La Thập còn vân du tham học, từng thờ ngài làm thầy. Năm 408 (tức năm thứ 10 niên hiệu Hoằng-thỉ của nhà Hậu-Tần), đáp ứng lời thỉnh cầu của La Thập, ngài đã đến Trường-an để giúp ngài La Thập dịch Kinh Thập Trụ. Ngài cũng đã cùng với ngài Trúc Phật Niệm dịch các bộ Luật Tứ Phần Tăng Giới Bản, Tứ Phần Luật, và Kinh Trường A Hàm. Sau đó ngài trở về lại nước Kế-tân, tìm được bản Phạn ngữ của Kinh Hư Không Tạng, bèn gửi cho những người khách buôn đem sang tặng chư tăng ở Lương-châu (tỉnh Cam-túc). Về sau không biết ngài ra sao.

Phật Đà Thập (Buddhajiva, ?-?): là vị sa môn người nước Kế-tân, sống vào thế kỉ thứ 5. Từ nhỏ ngài xuất gia với tăng đoàn của bộ phái Di Sa Tắc, chuyên cần học Luật, lại thông cả Thiền học. Năm 423 (thời Lưu-Tống) ngài đến Trung-quốc, được Lang Da vương thỉnh ở chùa Long-quang tại kinh đô Kiến-khang, và đã dịch bộ Luật Di Sa Tắc tức bộ Ngũ Phần Luật hiện hành). Hành trạng của ngài sau đó không thấy tài liệu nào ghi chép.

Phật độ: là quốc độ có Phật trụ thế. Một Phật độ (cõi Phật) là một khu vực giáo hóa của một đức Phật, bao gồm 3 ngàn đại thiên thế giới.

Phật giáo truyền vào Tây-tạng. Từ thời Hán, người Trung-quốc vẫn gọi Tây-tạng là nước Thổ-phồn, nhưng ngày nay, Thổ-phồn là nước East Turkestan. Tây-tạng (Tibet - tiếng Phạn: Bhota) là một nước ở vùng địa thế rất cao (có nơi cao tới hơn 8.000m so với mặt biển), từng được gọi là “nóc nhà thế giới”, khí hậu rất lạnh, nằm giữa hai mạch núi vĩ đại là Côn-lôn ở phía Bắc và Hi-mã-lạp ở phía Nam; Đông giáp Trung-quốc, Nam giáp Miến-điện, Ấn-độ, Bhutan, Sikkim, và Nepal, Tây giáp Ấn-độ, Bắc giáp East Turkestan.
Theo lời đức Đạt Lai Lạt Ma, trong cuốn hồi kí Nước Tôi và Dân Tôi (My Land and My People – Hồng Hà dịch), nước Tây-tạng được thành lập vào năm 127 tr. TL, và vị vua đầu tiên là Nya-Tri-Tsenpo. Vị vua thứ 28 là Lha-Tho-Ri-Nyen-Tsen đã nhận được một cuốn sách về giáo lí đạo Phật, và Phật giáo đã được truyền bá ở Tây-tạng bắt đầu từ đó. (Tuy nhiên, ngài Đạt Lai Lạt Ma đã không cho biết tên cuốn sách giáo lí ấy là gì, do từ đâu, và sự việc đó đã xảy ra vào năm nào.) Từ vị vua thứ 28 ấy trở về trước, tôn giáo chính của Tây-tạng là đạo Bon (sùng kính thần linh, chuyên dùng chú thuật, phù phép, bói toán) và nhiều thứ tín ngưỡng mê tín khác thật kì quái. Đến đời vua thứ 33, Song-Tsen-Gampo (sinh vào năm 629 TL), ông bộ trưởng Thumi-Sam-Bhota được phái sang học tại Ấn-độ; khi trở về, ông đã dựa vào chữ Phạn (Sanskrit) mà sáng chế ra chữ viết Tây-tạng. Vị vua này, ngoài ba bà vợ bản xứ, còn cưới thêm hai bà vợ ngoại quốc, là công chúa của hai nước láng giềng Nepal và Trung-hoa; hai bà công chúa này đều sùng tín Phật giáo, nhờ vậy mà Phật giáo Nepal và Phật giáo Trung-hoa đã có ảnh hưởng lớn đối với Phật giáo Tây-tạng. Vua thứ 37 là Thi-Song-Deu-Tsen (sinh năm 790), đã mời được hai nhà bác học Ấn-độ, Khen-Bodi-Sattawa và Lopon-Pema-Samba, sang Tây-tạng. Các học giả Ấn-độ và những người Tây-tạng giỏi Phạn ngữ, bắt đầu dịch kinh điển từ Phạn ngữ ra Tạng ngữ. Dưới triều vua thứ 41 là Lang-Dar-Ma (lên ngôi năm 901), Phật giáo bị bách hại đến diệt vong, phải hàng trăm năm sau mới khôi phục trở lại được.
Theo lời thuật của đức Đạt Lai Lạt Ma thì không thấy đề cập gì tới mật chú và pháp thuật, nhưng những thứ này lại thuộc về Mật giáo, là giáo phái chính thức của Phật giáo Tây-tạng; và các niên đại do ngài ghi ra thì khác nhiều so với các sử liệu của Phật giáo Trung-quốc. Về Mật giáo ở Tây-tạng, theo sử liệu của Phật giáo Trung-quốc cũng như các tài liệu khảo cứu của các học giả Nhật-bản và Tây-phương, vào năm 747, vua Tây-tạng là Khri-Sron-Lde-Btsan (742-797) đã cho sứ thần sang Ấn-độ thỉnh ngài Tịch Hộ (Santa-raksita, 700-760, ở học viện Na-lan-đà, là sáng tổ của phái Du Già Trung Quán) vào Tây-tạng hoằng dương giáo pháp Trung Quán. Nhà vua lại nghe lời khuyên của ngài Tịch Hộ, thỉnh được ngài Liên Hoa Sinh (Padma-sambhava, ?-?) đến Tây-tạng cùng trong năm 747. – Ngài Tịch Hộ cùng với các đệ tử thì truyền bá Hiển giáo; trong khi đó, ngài Liên Hoa Sinh cùng với các đệ tử thì truyền bá Mật giáo Kim-cương thừa. Nhà vua đã xây ngôi chùa lớn Samyas tại kinh đô Lhasa để làm nơi cư trú và dịch kinh điển của quí vị đại sư từ Ấn-độ sang. Ngôi chùa này đã được xây theo kiểu mẫu của ngôi đại tự Vikramasila, là trung tâm của Kim-cương thừa Mật giáo ở vùng Bengal, miền Đông Ấn-độ.
Ngài Liên Hoa Sinh vốn là một vị đại học giả của phái Kim-cương thừa Mật giáo Ấn-độ, có gốc từ ngôi đại tự Vikramasila. Vì vậy, sau khi tới Tây-tạng, ngài đã hết sức truyền bá tư tưởng Mật giáo, và được coi như là vị sáng tổ của Mật giáo Tây-tạng. Từ đó, mỗi thời kì đều có nhiều cao tăng từ Ấn-độ tới, từ từ họ di chuyển toàn bộ kinh điển Mật giáo Ấn-độ vào Tây-tạng. Do đó mà ngày nay chỉ có nước Tây-tạng là có đầy đủ tất cả kinh điển Mật giáo; không nước nào có đầy đủ như vậy, kể cả Trung-quốc.– Vua thứ 41 của Tây-tạng là Lang-Dar-Ma (đức Đạt Lai Lạt Ma nói nhà vua này lên ngôi năm 901, nhưng Phật Quang Đại Từ Điển và các tài liệu khác thì nói ông ở ngôi từ năm 836-841), sau khi lên ngôi đã tiêu diệt Phật giáo; nhưng ông chỉ ở ngôi được 6 năm thì bị ám sát. Phật giáo Tây-tạng đã lấy thời đại trị vì của vị vua này làm cái mốc để phân chia lịch sử truyền bá Phật giáo ở Tây-tạng làm hai thời kì chính: Từ vua Lang-Dar-Ma trở về trước là thời kì “sơ truyền”; và từ đó trở về sau là thời kì “hậu truyền”.

Phật giáo tuyệt tích ở Ấn-độ. Từ triều đại A Dục vương (thế kỉ thứ 3 tr. TL), Phật giáo bắt đầu phát triển và bành trướng rộng rãi trên gần khắp lục địa Ấn-độ. Từ đầu kỉ nguyên Tây lịch cho đến tiền bán thế kỉ thứ 7 (dưới triều đại Giới Nhật vương - Shiladitya, hay Harsa, lên ngôi khoảng năm 610), có thể coi đó là thời đại hoàng kim của Phật giáo, chiếm địa vị độc tôn, lấn át cả Ấn giáo và Kì-na giáo trên khắp lãnh thổ Ấn-độ. Nhưng từ giữa thế kỉ thứ 7 trở đi, Ấn giáo (tức hậu thân của Bà-la-môn giáo) bắt đầu quật khởi và lấn át, làm cho Phật giáo đi dần vào giai đoạn suy thoái. Đến thế kỉ thứ 9, Phật giáo chỉ còn có mặt tại vài khu vực ở Trung, Đông và Nam Ấn-độ. Khi người Hồi giáo xâm lăng Ấn-độ, thì Phật giáo bị hủy diệt. Cuối thế kỉ 12, quân Hồi giáo chiếm thủ đô của tỉnh Bihar (miền Đông-Ấn, vùng hạ lưu sông Hằng), phá hủy hết chùa tháp, giết sạch tăng chúng, thì Phật giáo trên đất Ấn đã thực sự cáo chung, sau 17 thế kỉ (từ ngày đức Phật nhập diệt) có mặt liên tục trên lục địa Ấn-độ. (Cũng có tài liệu nói, riêng Phật giáo ở Nam-Ấn, lúc đó vẫn còn tồn tại, và khá thịnh; mãi đến hai thế kỉ sau nữa mới suy tàn hẳn. Như vậy, phải 19 thế kỉ Phật lịch, Phật giáo mới thực sự tuyệt tích ở Ấn-độ.) Đến cuối thế kỉ 19 dương lịch, Phật giáo tại Ấn-độ đã được phát hiện trở lại, rồi dần dần phục hưng và phát triển cho đến ngày nay.

Phật Kim Túc: là một đức Phật đời quá khứ, mà theo truyền thuyết, là tiền thân của cư sĩ Duy Ma Cật. Truyền thuyết này rất được thịnh hành từ xưa tới nay. Có người nói rằng, truyền thuyết này đã phát xuất từ kinh Phát Tích và kinh Tư Duy Tam Muội, nhưng hai kinh này đến nay chưa ai tìm thấy.

Phật lịch: là niên lịch Phật giáo, được tính bắt đầu từ năm đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Các tài liệu về niên đại nhập diệt của đức Phật, xưa nhất là thuyết “Chúng thánh điểm kí” của Phật giáo Nam-truyền. Theo thuyết này, sau khi Phật nhập diệt, tôn giả Ưu Ba Li kết tập Luật tạng. Vào cuối mùa an cư, ngày Rằm tháng Bảy, sau lễ tự tứ, tôn giả Ưu Ba Li đã dùng hương hoa cúng dường Luật tạng, rồi chấm xuống một chấm trước nơi đặt Luật tạng. Từ đó về sau, cứ mỗi năm, khi mùa an cư hoàn mãn, chư thánh tăng đều nối tiếp nhau chấm một chấm như vậy, để ghi số năm trôi qua sau khi Phật nhập diệt. Công việc này vẫn được tiếp nối sau khi Phật giáo truyền vào Trung-quốc. Đến niên hiệu Vĩnh-minh thứ 8 nhà Tề, thời đại Nam-triều, Trung-quốc (tức năm 490 TL, một năm sau khi ngài Tăng Già Bạt Đà La dịch bộ Luật Thiện Kiến Tì Bà Sa), vào nửa đêm ngày Rằm tháng Bảy, mùa an cư vừa hoàn mãn, một chấm nữa được chấm xuống; đến đây, cộng lại từ chấm đầu tiên sau khi Phật nhập diệt, được cả thảy 975 điểm. Từ đó mà suy tính thì đức Phật nhập diệt 486 năm tr. TL.
Đây là tài liệu trọng yếu để nghiên cứu Phật lịch, nhưng không chắc chắn là chính xác. Ngày nay, Phật giáo Nam-phương Thượng Tọa Bộ thường dùng niên đại Phật nhập diệt là 543 hoặc 544 năm tr. TL. Từ năm 1950, các nước Phật giáo trên thế giới đều thống nhất công nhận niên đại Phật nhập diệt là năm 544 tr. TL, và lấy năm đó làm năm thứ nhất Phật lịch.

Phật sự. Tất cả các công việc nhằm hộ trì Tam Bảo, hoằng dương Phật pháp và giáo hóa chúng sinh, đều được gọi là “Phật sự”. Riêng trong Thiền tông Trung-quốc, từ “Phật sự” được dùng để chỉ cho các công việc nhất định trong thiền môn như an vị Phật, khai nhãn, niêm hương, thượng đường, nhập thất, khai thị, phổ thuyết v.v... Ngày nay, Phật giáo Trung-quốc thường dùng từ này để gọi chung cho các nghi thức được cử hành trước Phật, kể cả nghi thức tụng kinh cầu siêu cho các vong linh; và từ Phật sự ở đây cũng được gọi là pháp sự, hay pháp hội.

Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakya-muni) : là vị Giáo Tổ của Phật giáo. Ngài nguyên là thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha Gautama), con của vua Tịnh Phạn (Suddhodana Gautama) và hoàng hậu Ma Ha Ma Da (Mahamaya) ở thành Ca-tì-la-vệ (Kapila-vastu) của vương quốc Thích-ca (Sakya), ở phía Bắc bán đảo Ấn-độ thời cổ đại (nay là miền Nam của nước Nepal). Ngài đản sinh trong vườn Lam-tì-ni (Lumbini – phía Đông thành Ca-tì-la-vệ, nay thuộc lãnh thổ nước Nepal), vào ngày trăng tròn tháng Vesaka (lịch Ấn-độ – nhằm ngày trăng tròn tháng 5 dương lịch, tức ngày Rằm tháng Tư âm lịch) năm 624 tr. TL. Sau khi sinh thái tử được bảy ngày thì hoàng hậu Ma Da từ trần. Vua Tịnh Phạn bèn giao thái tử cho bà di mẫu (mà cũng là kế mẫu) của thái tử là hoàng hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Maha-prajapati) nuôi dưỡng và dạy dỗ thành người. Thái tử cực kì thông minh, lại được vua cha cho học hành chu đáo. Các môn như văn học, lí học, số học, nghệ thuật, thiên văn, v.v... kể cả võ nghệ, môn nào ngài cũng học mau chóng và xuất sắc, trội hẳn các vương tử khác trong hoàng tộc, làm cho các vị giáo sư đều phải kinh ngạc, bái phục.
Năm chín tuổi, thái tử được theo phụ vương đi dự lễ cày ruộng đầu năm (tức lễ “hạ điền”). Chính trong buổi lễ này, thái tử đã chứng kiến thảm cảnh con người phải đổ bao mồ hôi nước mắt để có miếng ăn; trâu bò vừa phải kéo cày, vừa phải chịu những lằn roi đau điếng trên lưng; những con trùn bị lưỡi cày cắt đứt nhiều đoạn, đau đớn quằn quại trên luống cày; các loài chim thú rình rập, cắn xé ăn thịt nhau... Đây là lần đầu tiên thái tử thấy tận mắt, cảm nhận được nỗi đau khổ của đời sống, và bắt đầu tư duy về cảnh khổ của cuộc đời. 
Ở tuổi trưởng thành thái tử càng học giỏi. Ngoài những môn học thường thức về văn học, võ nghệ v.v..., thái tử còn đặc biệt chăm chú đến những tư tưởng hàm chứa trong các kinh Vệ Đà (Veda), Phạm Thư (Brahmana) và Áo Nghĩa Thư (Upanisad) – tất cả đều là sản phẩm của đạo Bà-la-môn. Tuy còn trẻ tuổi, thái tử đã có những suy nghĩ chín chắn, sâu sắc đối với những tư tưởng này. Thái tử thấy rõ những điều vô lí, bất công hàm chứa trong giáo lí ấy. Bởi vậy, trong tâm tư thái tử đang có khuynh hướng không chấp nhận các giáo điều căn bản của đạo Bà-la-môn, cũng không chấp nhận cái trật tự xã hội với bốn giai cấp đầy bất công đã được xây dựng bằng luật Mã Nỗ (Manu) của Bà-la-môn. Từ những ý tưởng ấy, cộng với những hình ảnh đau thương đã mục kích trong ngày lễ hạ điền năm xưa, thái tử đã ấp ủ trong lòng một hoài bão, làm thế nào để tìm ra một con đường mới mẻ, có thể giúp cho mọi người và mọi loài thoát khỏi những nỗi khổ đau, bất hạnh triền miên trong cuộc sống. Nỗi bận tâm đó đã làm cho thái tử thường có dáng vẻ trang nghiêm, nét mặt lúc nào cũng trầm ngâm tư lự.
Thấy thái độ ấy của thái tử, vua Tịnh Phạn cũng đoán biết được tâm ý thái tử đang nghĩ ngợi gì, cho nên rất lấy làm lo lắng. Đức vua cho tổ chức thường xuyên các cuộc vui như hòa nhạc, vũ hội, du ngoạn v.v..., cho thái tử vui chơi. Đồng thời, thái tử cũng được phụ vương hướng dẫn thực tập chính trị để sẵn sàng kế vị sau này. Và một việc vô cùng quan trọng khác là chuẩn bị cưới vợ cho thái tử. Với tất cả những việc làm đó, nhà vua đều nhằm tạo các mối dây ràng buộc quấn chặt thái tử, để tránh việc thái tử “có thể bỏ nhà đi tu”. Vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề đều đã có ý chọn công chúa Da Du Đà La (Yasodhara), con của vua Thiện Giác (Suprabuddha) và hoàng hậu Cam Lộ (Pamita) của nước láng giềng Câu-lị (Koliya), làm chánh phi cho thái tử. Nàng là một công chúa nhan sắc diễm lệ, cốt cách đoan trang, dáng vẻ thùy mị, tính tình lại ôn nhu, giản dị, không kiêu kì, có lòng bao dung, hay thương người nghèo khó, bệnh tật. Và rồi đám cưới của thái tử Tất Đạt Đa và công chúa Da Du Đà La đã được tổ chức trọng thể trong niềm hân hoan của cả triều đình và dân chúng khắp vương quốc Thích-ca. Riêng vua Tịnh Phạn thì rất lấy làm thỏa mãn, vì tin tưởng rằng mình đã dùng được sợi dây tình ái để cột chân thái tử vĩnh viễn nơi hoàng cung.
Thái tử được ở trong cung điện cao sang lộng lẫy với đầy đủ mọi thứ dục lạc của cuộc sống đế vương. Mặc dù vậy, nhân những lần ra khỏi hoàng cung để du ngoạn phố phường làng xóm đó đây, được trực tiếp nhìn thấy nhiều hơn nữa những thực trạng đau khổ của kiếp người như già nua, bệnh tật, chết chóc, thái tử càng thấy xót xa cho thân phận con người. Trong lúc tâm tư thái tử còn đang rối bù với thân phận bất hạnh của con người, thì đứa con đầu lòng của thái tử và công chùa Da Du Đà La, hoàng tôn La Hầu La (Rahula), ra đời. Ái tình đã là một sợi dây ràng buộc, vương vị là một sợi dây ràng buộc khác, và bây giờ đây, với bé thơ La Hầu La, thì lại thêm một dây ràng buộc khác nữa. Đến lúc này thì thái tử phải quyết tâm tháo gỡ những ràng buộc ấy.
Một hôm, khi vừa nhìn thấy hình bóng thanh thoát của một vị sa môn, thái tử liền cảm thấy tâm thần rúng động. Trong phút chốc, chàng thấy rõ con đường đi chính đáng của mình. Ý tưởng xuất gia tìm đạo giải thoát vụt sáng trong lòng thái tử.
Thái tử xin phép phụ vương cho đi xuất gia học đạo. Đức vua cương quyết chối từ. Nhưng ý chí đã quyết, nhân một đêm khuya trăng sáng, mọi người trong cung đều đã ngủ say, thái tử bảo người đánh xe trung thành là Xa Nặc (Channa), thắng yên cương cho con ngựa Kiền Trắc (Kanthaka), rồi hai thầy trò cùng yên lặng ra khỏi hoàng thành, giục ngựa thẳng về phương Nam. Thái tử đã cương quyết xa lìa vợ đẹp con yêu, cha mẹ họ hàng, từ bỏ nếp sống vương giả và cả một tương lai rực rỡ nơi cung vàng điện ngọc, để đi xuất gia tìm đạo giải thoát. Năm đó thái tử được 29 tuổi.
Thái tử phi ngựa suốt đêm không nghỉ, đến sáng hôm sau thì tiến vào địa phận vương quốc Mạt-la (Malla). Sau khi vượt qua sông A-nô-ma (Anoma), thái tử dừng lại, xuống ngựa, lấy kiếm tự cắt tóc, rồi giao kiếm, áo bào và mớ tóc cho Xa Nặc đem về hoàng cung báo tin thái tử xuất gia cho hoàng gia biết. Xa Nặc đi rồi, thái tử đổi chiếc áo quí giá đang mặc trên mình để lấy tấm vải màu chàm của người thợ săn, khoác lên người, một mình đi vào rừng sâu... Từ đây, thái tử tự nguyện sống đời tu sĩ, biến mình thành sa môn Cồ Đàm, chấp nhận nếp sống kham khổ về vật chất, không tiền bạc, cửa nhà, đầu không đội nón, chân không dầy dép, chỉ có một quyết tâm dũng mãnh là tìm thầy học đạo giải thoát. 
Trước tiên sa môn Cồ Đàm theo học với các vị đạo sĩ lừng danh đương thời như A La Lam (Arada-kalama) ở gần kinh thành Tì-xá-li (Vaisali) của vương quốc Lê-xa (Licchavi), và Uất Đầu Lam Phất (Udraka-ramaputra) ở gần kinh thành Vương-xá (Rajagrha) của vương quốc Ma-kiệt-đà (Ma-gadha). Không bao lâu, Ngài đã thấu triệt giáo lí vi diệu nhất của các vị này, và chứng đắc quả vị cao nhất ngang bằng với họ, nhưng vẫn không thấy thỏa mãn, vì đó chưa phải là quả vị giải thoát rốt ráo, giác ngộ cùng tột, niết bàn tịch tịnh. Vì vậy, Ngài đã từ tạ các vị này ra đi, không theo học với vị đạo sư nào nữa, mà một mình nỗ lực để tự phát huy ánh sáng giác ngộ nơi chính bản tâm mình. Ngài dừng lại ở một khu rừng bên bờ sông Ni-liên, cạnh thôn Ưu-lâu-tần-loa (Uruvilva), thuộc vương quốc Ma-kiệt-đà. Tại đây, cùng với năm vị đạo sĩ bạn hữu, Ngài đã thực hành phép tu khổ hạnh, tự khép mình trong nếp sống cực kì kham khổ, ròng rã gần sáu năm trường, hình vóc khô gầy, nhưng rồi vẫn không có một tia hi vọng nhìn thấy chân lí. Một ngày kia, Ngài suy nghĩ, lối tu khổ hạnh chắc chắn không đem lại lợi ích gì, mà còn làm cho mỏi mệt tinh thần, giảm suy trí tuệ. Ngài bèn dứt khoát từ bỏ lối tu ấy, cũng như trước kia Ngài đã từ bỏ nếp sống đế vương. Ngài quyết định dùng vật thực tối thiểu để giữ cho thân thể có sức khỏe thì tinh thần mới sáng suốt được. Ngài lần ra bờ sông, thọ nhận bát sữa do một thôn nữ cúng dường. Sức khỏe hồi phục nhanh chóng, Ngài xuống sông tắm rửa rồi trở lại rừng, tìm một gốc cây để bắt đầu cuộc phấn đấu mới. Năm người bạn cùng tu, thấy Ngài bỏ phương pháp khổ hạnh, bắt đầu ăn uống, cho rằng Ngài đã thối chí, trở lại con đường lợi dưỡng, bèn cùng nhau bỏ Ngài mà đi sang vườn Lộc-dã (Mrgadava), phía Bắc thành Ba-la-nại (Ba-ranasi) thuộc vương quốc Ca-thi (Kasi). Biết là họ đã hiểu lầm mình, nhưng Ngài vẫn giữ im lặng. Còn lại một mình, Ngài quyết tâm tu tập thiền quán, vì, bằng những kinh nghiệm đã có của chính mình, Ngài nhận định rằng, chỉ có thiền quán mới là con đường dẫn đến giác ngộ. Ngài bèn chọn một cây tất-bát-la (pippala) to lớn, cành lá sum sê ở gần bờ sông để thiền tọa. Ngài lập lời thề mạnh mẽ, nếu không thấy được đạo giác ngộ thì nhất quyết sẽ không rời khỏi cội cây này. Thế rồi, trải qua 49 ngày suy niệm chân lí, quán chiếu thực tại, cuối cùng, buổi khuya hôm ấy, khi sao mai vừa mọc, thì tâm trí Ngài chợt bừng sáng, màn vô minh che lấp từ lâu đời, nay đã hoàn toàn bị quét sạch. Ngài đã dứt sạch mọi tham ái, ô nhiễm, chứng nhập thật tướng của vạn pháp. Ngài biết rõ là mình vừa tìm thấy được đạo lớn, thành quả giải thoát giác ngộ trọn vẹn từng ôm ấp bấy lâu, nay đã đạt được. Ngài đã trở thành một bậc Tối Chánh Giác, một đấng toàn giác, một đức Phật, trong thế gian không có ai sánh bằng. Cây tất-bát-la từ đó cũng được gọi là cây bồ-đề. Năm đó Ngài được 35 tuổi đời. 
Sau khi thành đạo, đức Phật đã lưu lại tại cây bồ-đề 49 ngày nữa để an hưởng sự tịnh lạc của hương vị giải thoát, và chiêm nghiệm lại những chân lí vừa khám phá được. Rồi Ngài quán sát căn tánh chúng sinh. Biết rằng đã đến lúc phải trở lại với xã hội loài người, phải cho bánh xe chánh pháp chuyển động để gieo rắc hạt giống giải thoát giác ngộ cho chúng sinh, Ngài bèn từ giã cây bồ-đề để ra đi. Trước tiên Ngài đến khu vườn Nai (Lộc-dã), nói pháp Bốn Sự Thât để hóa độ cho năm người bạn đồng tu khổ hạnh với Ngài lúc trước. Họ đều chứng quả A-la-hán, giải thoát khỏi ba cõi. Họ trở thành những vị tì kheo và cũng là những thánh tăng đầu tiên trong giáo đoàn của Phật; đó là các vị: Kiều Trần Như (Ajnata-Kaundinya), A Thuyết Thị (Át Bệ, A Xả Bà Thệ - Asvajit), Bà Sa Ba (Thập Lực Ca Diếp - Baspa), Ma Ha Nam (Ma Ha Nam Câu Li, Ma Nam Câu Li - Mahanama) và Bạt Đề (Bhadrika). Chính nơi vườn Nai này, ngôi Tam Bảo đã xuất hiện lần đầu tiên ở thế gian: đức Thích Ca Mâu Ni là Phật Bảo, giáo pháp Bốn Sự Thật là Pháp Bảo, và năm vị tì kheo là Tăng Bảo. Cũng tại vườn Nai này, sau đó đức Phật đã độ cho công tử Da Xá (Yasa) cùng 54 người bạn của Da Xá, đều trở thành những vị tì kheo chứng quả A-la-hán. Như vậy, trong vòng hai tháng đầu tiên sau ngày thành đạo, đức Phật đã có tổng cộng 60 vị đệ tử thánh tăng. Cha, mẹ và vợ của Da Xá cũng qui y, và trở thành những vị đệ tử tại gia đầu tiên của đức Phật đã thọ lễ qui y với đầy đủ Ba Ngôi Báu. Với 60 vị A-la-hán đầu tiên của thế gian, đức Phật đã thành lập Giáo hội Tăng già – đó là giáo hội của những tu sĩ độc thân xưa nhất của lịch sử nhân loại, vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay.
Nửa năm sau đó, Ngài đi về thăm lại thôn Ưu-lâu-tần-loa, và đã hóa độ cho ba anh em đạo sĩ Ca Diếp (Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp - Uruvilva Kasyapa, Na Đề Ca Diếp - Nadi Kasyapa, và Già Da Ca Diếp - Gaya Kasyapa) cùng một nghìn đệ tử của họ, đều chứng quả A-la-hán và trở thành tì kheo. Rồi Phật tiến về kinh thành Vương-xá. Vua Tần Bà Ta La (Bimbisara - trị vì nước Ma-kiệt-đà) đã xin qui y Tam Bảo, trở thành vị đệ tử tại gia đầu tiên của Phật trong hàng vua chúa. Nhà vua đã xây tinh xá Trúc-lâm (Venuvana-vihara) gần thành Vương-xá để cúng dường Phật và giáo đoàn. Đó là năm thứ hai sau ngày Phật thành đạo. Trong thời gian này, đức Phật cũng đã thu nhận hai vị đệ tử lỗi lạc là các tôn giả Xá Lợi Phất (Sariputra) và Mục Kiền Liên (Moggallana). 
Sau mùa an cư, đức Phật trở về thăm cố hương Ca-tì-la-vệ. Vua Tịnh Phạn, hoàng hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề, công chúa Da Du Đà La, hoàng tôn La Hầu La, các hoàng thân, vương tử, triều thần và nhân dân trong thành đều được Phật giáo hóa và thấm nhuần chánh pháp. Trong dịp này, người thợ cạo Ưu Ba Li (Upali), hoàng tử Nan Đà (Nanda – em cùng cha khác mẹ của Phật), hoàng tôn La Hầu La, và các vương tử Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), A Nan Đà (Ananda), A Na Luật (Anuruddha), v.v... đều theo Phật xuất gia. La Hầu La trở thành chú sa di đầu tiên và nhỏ tuổi nhất của giáo đoàn. Nửa năm sau, Ngài trở lại tu viện Trúc-lâm; và trong mùa an cư kế tiếp, Ngài lại thu nhận một vị đệ tử lỗi lạc khác nữa, là tôn giả Đại Ca Diếp (Mahakassapa), con một thương gia giàu có vào bậc nhất của nước Ma-kiệt-đà.
Sau mùa an cư này, đức Phật nhận lời thỉnh cầu của trưởng giả Cấp Cô Độc (Anathapindika, tức Tu Đạt - Sudatta) lên mở đạo tràng hoằng hóa tại tu viện Kì-viên ở kinh thành Xá-vệ (Sravasti) của vương quốc Kiều-tát-la (Kosala); và vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) và hoàng hậu Mạt Lị (Mallika) của nước này đã trở thành những Phật tử thuần thành của Phật trong hàng vua chúa.
Năm thứ năm sau ngày thành đạo, đức phật về quê hương Ca-tì-la-vệ lần thứ hai trước khi vua Tịnh Phạn băng. Sau tang lễ của vua, đức Phật thu nhận lệnh bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề, cùng một số đông mệnh phụ phu nhân trong dòng Thích-ca, làm đệ tử xuất gia phái nữ, thành lập giáo đoàn tì kheo ni. Quí bà đều chứng quả A-la-hán. Công nương Da Du Đà La cũng được Phật nhận cho xuất gia sau đó, và cũng chứng quả A-la-hán. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử tôn giáo Ấn-độ mà phái nữ được tham dự trực tiếp vào các sinh hoạt tôn giáo, và cũng là đoàn thể nữ tu sĩ độc thân đầu tiên của nhân loại mà ngày nay vẫn còn tồn tại. 
Đến đây thì danh tiếng của Phật đã vô cùng lừng lẫy, giáo đoàn của Ngài gồm đủ mọi thành phần xã hội, đủ mọi lứa tuổi, cả phái nam lẫn phái nữ, có mặt khắp mọi nơi, từ hang núi, rừng sâu, đến thôn quê, thành thị, không chỗ nào là không có chư tăng hành đạo. Trừ miền Nam Ấn-độ ra, còn thì các vương quốc từ miền Trung đến miền Bắc, từ miền Đông đến miền Tây, nơi nào cũng có đạo tràng tu học và hành đạo của giáo đoàn. Cứ như thế, bước chân của Phật trải khắp mọi nẻo đường, không ngừng nghỉ, suốt 45 năm ròng rã. Sức hoạt động của Phật, từ trước tới nay chưa có vị đạo sĩ nào sánh kịp. Tăng đoàn của Phật đông hàng vạn, mà số thánh chúng chứng quả cũng không phải là ít. Đệ tử tại gia của Phật thì nhiều không kể xiết. Cho đến một hôm, khi cảm thấy không còn bao lâu nữa mình sẽ xả bỏ báo thân, tại tu viện Trùng-các (Kutagarasala) ở ngoại ô thành Tì-xá-li, đức Thế Tôn đã thông báo quyết định nhập niết bàn của Ngài cho chư tăng ni biết. Rồi đó, có hai tôn giả A Na Luật và A Nan Đà hầu cận, Ngài cùng với khoảng 300 vị tì kheo, đã rời thành Tì-xá-li đi về phương Bắc. Phật vừa đi vừa nghỉ lại tại nhiều thị trấn, nơi nào Ngài cũng thuyết pháp và dặn dò những lời cuối cùng cho chư tăng ni địa phương. Buổi chiều nọ, Ngài và chư tăng đi đến thành Câu-thi-na (Kusinagara, thuộc vương quốc Mạt-la) thì dừng lại. Ngài cảm thấy người đã yếu lắm, bèn dẫn chư tăng vào trú trong khu rừng cây ta-la ở ngoại ô kinh thành. Đêm ấy, sau khi đã dạy những lời cuối cùng cho chư tăng, Ngài an nhiên vào thiền định, rồi nhập niết bàn. Năm đó Ngài được 80 tuổi đời.

Phật thừa (Nhất Phật thừa - Nhất thừa). Phật thừa, hay Nhất Phật thừa, hay Nhất thừa, là giáo pháp duy nhất đưa đến sự chứng ngộ tuệ giác viên mãn, siêu việt, tối thượng của chư Phật; cũng gọi là giáo pháp liễu nghĩa thượng thừa, hay đệ nhất nghĩa đế.

Phép quán sáu hành (lục hành quán). Sáu hành là sáu tính chất, gồm: thô trọng (thô - cõi Dục chẳng hạn, năm dục làm cho tâm tham đắm, thân thể chúng sinh chứa đầy các chất dơ bẩn); khổ đau (khổ - tâm chúng sinh dẫy đầy tham dục, thân phải chịu bao nhiêu khổ đau như đói khát, bệnh tật, bạo động, v.v...); chướng ngại (chướng - phiền não che lấp chân tính, thân bị chất ngại, không được tự tại); tịch tĩnh (tĩnh - cõi Sơ-thiền chẳng hạn, đã xa lìa năm dục của cõi Dục, bỏ được cái thân dơ dáy, tâm không còn loạn động, mà được định tĩnh trong thiền định); vi diệu (diệu - đã xa lìa tâm tham dục và các thứ phiền não, thoát khỏi các cảnh khổ đau của cõi Dục, hưởng niềm vui vi diệu); và xuất li (li - phiền não bớt che lấp, thoát khỏi cái thân bị chất ngại ở cõi Dục, thân được tự tại, có được năm phép thần thông). Phép quán sáu hành là: quán thô, quán khổ, quán chướng, quán tĩnh, quán diệu, và quán li. Ý nghĩa của phép quán như sau: Ba cõi, nếu chia nhỏ ra thì có chín địa. Nếu đem so sánh giữa hai địa với nhau, thì tính chất của địa ở dưới là thô, khổ và chướng; còn địa ở trên là tĩnh, diệu và li. Người phàm phu tu tập, dùng trí tuệ hữu lậu quán sát thấy được ba tính chất thô, khổ và chướng của địa dưới, rồi sinh tâm nhàm chán (gọi là “chán dưới”); lại quán sát thấy được ba tính chất tĩnh, diệu và li của địa trên, rồi sinh tâm vui thích (gọi là “vui trên”); cứ như thế, tuần tự quán sát, tu tập, chán dưới vui trên, diệt trừ phiền não của địa dưới mà tiến lên từng địa một, đó là “phép quán sáu hành”.

Phép tu tôn trọng (tôn trọng tu): cũng gọi là phép tu cung kính (cung kính tu), là một trong 4 phép tu nhân chung cho tất cả các hành giả tu hành Phật đạo để cầu thành Phật. Thực hành phép tu này, hành giả luôn luôn cung kính tôn trọng những gì mình học tập, không có niệm ân hận tiếc nuối, cũng không sinh tâm kiêu mạn. Theo cách giải thích đặc biệt dành cho người chuyên tu pháp môn Tịnh Độ, như đại sư Thiện Đạo (613-681, vị tổ thứ ba của tông Tịnh Độ) giải thích trong sách Vãng Sinh Lễ Tán Kệ, phép tu tôn trọng tức là cung kính lễ bái, nghĩ nhớ đến đức Phật A Di Đà và chư thánh chúng ở cõi Cực-lạc.

Phép tu trường thời (trường thời tu): là một trong 4 phép tu nhân chung cho tất cả các hành giả tu hành Phật đạo để cầu thành Phật. Bắt đầu từ lúc mới phát tâm, liên tục trải qua 3 a-tăng-kì kiếp, tu hành không mệt mỏi; còn ngay trong kiếp hiện tại, từ lúc phát tâm tu hành mãi cho đến hết cuộc đời, lấy đó làm thời kì tu tập, không mệt mỏi, gọi là “phép tu trường thời”. Riêng tông Tịnh Độ thì có cách giải thích khác về phép tu này để phù hợp với công phu tu tập của các hành giả chuyên tu Tịnh Độ. Ngài Thiện Đạo (613-681, vị tổ thứ ba của tông Tịnh Độ), trong sách Vãng Sinh Lễ Tán Kệ của ngài, đã nói về phép tu này rằng: Hành trì ba phép tu kia (tôn trọng, vô dư, vô gián) cho đến hết đời, thề không bỏ dở nửa chừng.

Phép tu vô dư (vô dư tu). Luôn luôn tu tập đầy đủ hai thứ tư lương là phước đức và trí tuệ (phúc tuệ song tu), không lúc nào thiếu sót, gọi là “phép tu vô dư”; đó là cách tu nhân chung cho tất cả hành giả tu hành Phật đạo, để cầu thành Phật (như trong Câu Xá Luận có đề cập tới). Riêng tông Tịnh Độ thì có cách giải thích khác về phép tu này để phù hợp với công phu tu tập của các hành giả chuyên tu Tịnh Độ. Trong sách Vãng Sinh Lễ Tán Kệ, đại sư Thiện Đạo (613-681, vị tổ thứ ba của tông Tịnh Độ) đã đứng trên giáo nghĩa của pháp môn tu Tịnh Độ mà giải thích “phép tu vô dư” là: Chuyên xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, chuyên niệm tưởng đến các thánh chúng cõi Cực-lạc, không xen lẫn phép tu nào khác.

Phép tu vô gián (vô gián tu): là luôn luôn tinh tấn dũng mãnh tu tập, không lúc nào để cho gián đoạn; đó là cách tu nhân chung cho tất cả hành giả tu hành Phật đạo, để cầu thành Phật. Riêng tông Tịnh Độ thì có cách giải thích khác về phép tu này để phù hợp với công phu tu tập của các hành giả chuyên tu Tịnh Độ. Đại sư Thiện Đạo (613-681, vị tổ thứ ba của tông Tịnh Độ), trong sách Vãng Sinh Lễ Tán Kệ của ngài, đã giải thích “phép tu vô gián” là: Cung kính lễ bái đức Phật A Di Đà, xưng danh tán thán, ức niệm quán sát, hồi hướng phát nguyện v.v..., niệm niệm tiếp nối, không để cho việc gì khác làm cho gián đoạn, không để cho các phiền não tham sân v.v... xen vào làm cho gián cách.

Phệ Đà (hay Vệ Đà - Veda): là kinh điển căn bản của đạo Bà-la-môn. Khoảng 1.500 năm trước TL, giống dân du mục Arya từ miền Trung Á tràn vào vùng Tây Bắc Ấn-độ. Họ đã chiến thắng dân bản xứ (Dravida), chiếm cứ vùng đất rộng lớn từ Punjab (cũng viết là Panjab) xuống đến lưu vực sông Hằng. Họ tự đặt mình ở địa vị chủ nhân ông, và biến người dân bản xứ thành hàng nô lệ. Sau khi mọi việc đã được bình định, giai cấp lãnh đạo tinh thần của giống Arya là các giáo sĩ Bà-la-môn, đã sưu tập lại tất cả những bài ca tán tụng thần thánh đã có từ trước và trong suốt thời kì chinh phục Ấn-độ, làm thành bộ thánh thư xưa nhất của Ấn-độ là Vệ Đà, gồm có bốn tập:
1) Lê Câu Vệ Đà (Rigveda): gồm những bài ca nói về sự sáng tạo vũ trụ, giải thích về số mạng dài ngắn của con người, cùng các cách tu dưỡng để bảo tồn tính lành. 
2) Sa Ma Vệ Đà (Samaveda): gồm những bài ca dùng trong việc tế tự, cầu đảo chư thần linh. 
3) Dạ Nhu Vệ Đà (Yajurveda): gồm những bài kệ dùng trong các việc như cưới gả, chôn cất, tiệc tùng v.v..., cùng đề cập đến các cách bói toán, binh pháp, quân trận. 
4) A Thát Bà Vệ Đà (Artharvaveda): gồm những thần chú dùng để giải trừ tai nạn.
Trong bốn tập trên thì Rigveda được thành hình sớm nhất, khoảng từ thế kỉ 14 đến thế kỉ 11 trước TL, được coi là cuốn thánh thư tối cổ của nhân loại; ba tập sau xuất hiện trong mấy thế kỉ kế tiếp. Bốn tập Vệ Đà này đã là nền tư tưởng và học thuật căn bản và dành riêng cho giới thượng lưu (Bà-la-môn, vua chúa, công hầu khanh tướng) của Ấn-độ trước khi Phật giáo xuất hiện; và theo truyền thống, chỉ có các giáo sĩ Bà-la-môn mới có quyền giảng giải các thánh thư ấy mà thôi. Sau đó, trong khoảng từ thế kỉ thứ 7 đến thế kỉ thứ 4 tr. TL (tức trong khoảng thời gian Phật giáo xuất hiện), lại có thêm Phạm Thư (Brahmana) và Áo Nghĩa Thư (Upanisad) ra đời. Nội dung của Phạm Thư gồm những bản “anh hùng ca”, được xem là phần nối dài của bộ Vệ Đà. Trong khi đó thì nội dung của Áo Nghĩa Thư hàm chứa những giáo lí cực kì uyên áo của đạo bà-la-môn, mà các triết thuyết về “tự ngã”, “không hai”, “nghiệp báo luân hồi” và “giải thoát” là những đặc điểm vô cùng quan trọng, ảnh hưởng không ít đến tư tưởng của Phật.

Phi hành phi tọa tam muội: cũng gọi là Giác ý tam muội, hay Tùy tự ý tam muội (một trong 4 loại tam muội do tông Thiên Thai chế lập: Thường tọa tam muội, Thường hành tam muội, Bán hành bán tọa tam muội, và Phi hành phi tọa tam muội), tức là loại tam muội tùy ý mà tu tập; đi, đứng, nằm hay ngồi đều tu tập được, thân thể không bị hạn cuộc vào một tư thế nào, cũng không có một hạn kì nhất định nào; bất cứ sự vật gì cũng là đối tượng để quán chiếu, giờ khắc nào cũng là giờ khắc quán chiếu.

Phi nhân: là chỉ cho các loài chúng sinh không phải loài Người, như 8 bộ chúng (Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, ca-lầu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già) và Ác quỉ; hoặc chỉ chung cho quỉ thần.

Phi phạm hạnh. Chữ “phạm” nghĩa là thanh tịnh; dứt bỏ dâm dục thì gọi là “phạm hạnh”. Vậy, “phi phạm hạnh” tức là hạnh bất tịnh, chỉ cho sự dâm dục. Trái lại, “bất phi phạm hạnh” (không phi phạm hạnh) tức là “bất dâm” (không dâm dục). Người tại gia, trong thời gian thọ trì tám giới trai, dù là người phối ngẫu, cũng không được hành dâm, huống chi không phải là người phối ngẫu.

Phiền não: là tiếng gọi tổng quát chỉ cho những hiện tượng tâm lí xấu xa, sai lầm, là động lực thúc đẩy con người gây nên mọi điều tội lỗi về cả ba nghiệp thân, miệng và ý; khiến cho thân tâm lúc nào cũng vọng động, lầm lạc, đau khổ, lo buồn, xao xuyến, bất an. Phiền não có những tên gọi khác là: sử (đeo đuổi, sai khiến, thôi thúc chúng sinh gây nghiệp ác), lậu (làm cho chúng sinh lọt vào vòng sinh tử luân hồi), kết (thắt buộc, kết tụ), hoặc (sai lầm), cấu (dơ bẩn), nhiễm (ô uế), tùy miên (đeo dính khiến chúng sinh lúc nào cũng ở trong trạng thái hôn muội trầm trọng), triền (quấn chặt, trói buộc), cái (che lấp), thủ (giữ chặt), bạo lưu (cuốn trôi), trần cấu (bụi bẩn). Mục đích tối cao của người tu học Phật là giác ngộ giải thoát; vậy, tất cả những gì làm cho chúng sinh bị chướng ngại trên bước đường tiến tới đạo quả giác ngộ giải thoát, đều được coi là phiền não.
Phần nhiều các kinh luận cho rằng, tham sân si là ba thứ phiền não độc dữ nhất (tam độc), là cội nguồn sinh ra bao thứ phiền não khác. Các vị luận sư chuyên về tâm lí học Phật giáo (như hai tông phái Câu Xá và Duy Thức) thường chia phiền não làm hai loại tổng quát: phiền não căn bản và phiền não chi mạt (tức tùy phiền não). Đi vào chi tiết thì giữa Câu Xá và Duy Thức có những trình bày khác nhau. Những chi tiết sau đây được trình bày theo tông Duy Thức:
- Căn bản phiền não rất khó đoạn trừ, gồm có 6 thứ: tham, sân, si (vô minh), mạn, nghi, kiến (ác kiến); ác kiến lại chia làm năm thứ: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến. Tổng cộng có 10 phiền não (cũng gọi là mười tùy miên, mười sử). Năm thứ phiền não tham, sân, si, mạn và nghi, được gọi đặc biệt là “năm độn sử” (khó đoạn trừ); năm thứ ác kiến được gọi đặc biệt là “năm lợi sử” (dễ đoạn trừ). (Xem mục “Phiền Não Căn Bản”)
- Tùy phiền não là các phiền não phụ thuộc của các phiền não căn bản ở trên, dễ diệt trừ hơn, gồm có 20 thứ: phẫn, hận, phú, não, tật, xan, cuống, siểm, hại, kiêu, vô tàm, vô quí, trạo cử, hôn trầm, bất tín, giải đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri. (Xem mục “Phiền Não Tùy Thuộc”)
Duy Thức Học còn nói rằng: Thức thứ bảy (mạt-na thức) có bản chất là chấp ngã, vì luôn luôn có bốn thứ phiền não căn bản đeo dính bên mình, đó là: ngã si (tức là si), ngã kiến (tức là ác kiến), ngã mạn (tức là mạn) và ngã ái (tức là tham).
Thật ra, con người ở thời đại ngày nay, nếu quán chiếu kĩ vào nội tâm, chúng ta sẽ thấy số lượng các “tùy phiền não” còn nhiều hơn gấp bội so với hai mươi thứ như tông Duy Thức vừa trình bày trên.

Phiền não căn bản (căn bản phiền não). Tất cả mọi đau khổ của chúng sinh đều do sáu thứ phiền não gốc rễ sau đây gây nên: 1) Tham: thấy gì vừa ý thì tham, muốn chiếm đoạt; 2) Sân: gặp điều không vừa ý thì oán giận; 3) Si: vô minh, không sáng suốt; 4) Mạn: tự cao, kiêu mạn; 5) Nghi: ngờ vực, do dự; 6) Ác kiến: thấy biết sai lạc, không đúng sự thật. Sáu thứ phiền não gốc rễ này rất khó đoạn trừ.

Phiền não tùy thuộc (tùy phiền não). Đây là các thứ phiền não phụ thuộc của sáu loại phiền não căn bản (xem mục “Phiền Não Căn Bản”), dễ diệt trừ hơn, gồm có 20 thứ: 1) Phẫn: nóng giận, cộc cằn, bực tức; 2) Hận: oán hờn; 3) Phú: che dấu tội lỗi; 4) Não: buồn phiền, bứt rứt, ẩn ức không yên; 5) Tật: ganh ghét; 6) Xan: keo kiệt bỏn sẻn; 7) Cuống: dối gạt; 8) Siểm: nịnh hót, gièm pha; 9) Hại: có ý làm tổn hại người; 10) Kiêu: khoe khoang, tự kiêu, tự phụ; 11) Vô tàm: làm lỗi mà không biết tự xấu hổ; 12) Vô quí: tài đức không bằng người mà không biết tự thẹn; 13) Trạo (điệu) cử: chao động không yên; 14) Hôn trầm: mê muội, dật dờ, trì trệ; 15) Bất tín: đa nghi, không tin tưởng; 16) Giải đãi: biếng nhác, bê trễ; 17) Phóng dật: buông lung, buông trôi; 18) Thất niệm: lãng quên, không có chánh niệm; 19) Tán loạn: xao xuyến, rối loạn; 20) Bất chánh tri: hiểu lầm, biết không chính xác.

Phó Nghị (?-90 s. TL): Tự là Vũ Trọng, quê ở Phù-phong (thuộc địa phận tỉnh Thiểm-tây ngày nay), thời đại Đông-Hán. Ông làm quan thái sử (chép sử, coi thiên văn, làm lịch) triều vua Minh đế (58-75). Dưới triều vua Chương đế (76-88), ông làm Lan-đài lệnh-sử (như thư viện trưởng ngày nay), cùng với Ban Cố trông coi thư khố ở nội phủ. Năm đầu vua Hòa đế (89-105), ông được Xa-kị tướng quân Bảo Hiến mời làm Kí-thất lệnh-sử (như chánh văn phòng ngày nay); năm sau Bảo Hiến được thăng làm đại tướng quân thì ông cũng được thăng làm tư mã (chức quan võ, thời Hán là thuộc cấp của đại tướng quân). Theo sách sử Phật giáo Trung-quốc, do ông đoán mộng cho vua Hán Minh đế mà nhà vua đã cử một phái đoàn gồm 18 quan viên triều đình đi sang Tây-vực tìm cầu Phật pháp đem về Trung-quốc. – Có sách viết tên ông là “Truyền Nghị”; có lẽ vì tự dạng chữ Hán của hai chữ “phó” (傅) và “truyền” (傳) trông giống nhau, nên vị này đã đọc nhầm.

Phóng sinh. Các loài vật như chim cá v.v... bị người ta bắt để ăn thịt, chúng ta xin hoặc mua lại, chim thì đem thả vào rừng, cá thì thả xuống sông, hồ, trả lại mạng sống cho chúng, gọi là “phóng sinh”. Những loài vật dù nhỏ hay lớn đang bị mắc nạn mà mình cứu chúng nó khỏi chết, cũng tức là “phóng sinh”. Như vậy, hạnh tu phóng sinh của người Phật tử đã xuất phát từ lời Phật dạy cấm giết hại chúng sinh để ăn thịt được ghi trong kinh luật, và tiến thêm một bước tích cực hơn là cứu hộ, bảo vệ mạng sống của muôn loài. Hồi còn tại thế, đức Phật đã từng dạy chư tăng luôn luôn phải lọc nước trước khi uống. Khi lọc nước, nếu có các sinh vật nhỏ bé thì hãy bỏ chúng vào một cái “bình phóng sinh” (phóng sinh khí), rồi đem thả ở sông, hồ. Có thể xem đó là khởi thỉ của hạnh tu phóng sinh trong Phật giáo. Trong kinh Phạm Võng có dạy: Tất cả chúng sinh trong sáu đường đều có thể là cha mẹ mình, cho nên người Phật tử phải dùng lòng từ bi mà tu hạnh phóng sinh, nếu thấy người đời giết các loài súc sinh thì nên tìm mọi cách để cứu hộ chúng. Có rất nhiều cách để thực hiện hạnh phóng sinh, như Kinh Kim Quang Minh chép: Trưởng giả Lưu Thủy, đi đường thấy một đàn cá rất đông, ở chỗ nước gần cạn hết, sắp chết. Ông bèn dùng túi đựng nước đổ xuống, nhờ đó mà cá thoát chết. Ông lại nói pháp cho chúng nghe. Sau khi mạng sống đã hết, cả đàn cá ấy đều được sinh lên cõi trời Đao-lợi. (Xem thêm các mục: “Bầy Lươn Báo Mộng”, “Cắt Thịt Cho Chim Ưng Ăn”, “Chim Xây Mộ Cho Người Phóng Sinh”, “Chồn Cứu Mạng Ân Nhân”, “Con Chết, Mẹ Đứt Ruột”, “Cứu Chim Sẻ, Bốn Đời Quí Hiển”, “Cứu Rắn Trở Thành Danh Y”, “Cứu Sống Ba Ba, Được Chữa Lành Bệnh”, “Cứu Sống Bầy Kiến Mà Thọ Mạng Kéo Dài”, “Cứu Sống Bầy Kiến Mà Trở Thành Thủ Khoa”, “Cứu Sống Cá Chép Được Tăng Tuổi Thọ”, “Cứu Sống Ruồi Nhặng, Được Minh Oan”, “Di Ái”, Đại Sư Liên Trì Cứu Rết, “Đức Nhân Của Vua Thành Thang”, “Phóng Sinh Được Phong Hầu”, “Phóng Sinh, Được Sinh Lên Thiên Giới”, “Quan Huyện Cấm Sát Sinh”, “Rùa Cứu Mạng”, “Tào Khê Giữ Lưới Thợ Săn”, “Thả Cá Phóng Sinh, Bệnh Mụt Nhọt Được Chữa Lành”, “Thí Thân Cho Cọp Đói”, “Thúc Ngao Đập Rắn”, “Tùy Hầu Cứu Rắn, Được Đền Ơn Trọng Hậu”, “Vì Cứu Sinh Vật Mà Cầu Mưa”.)
Ở Trung-quốc, từ các vương triều Nam-Tề (479-502), Tiêu-Lương (502-558), thuyết chủ trương “không ăn thịt” rất được thịnh hành; vua Lương Vũ đế (502-549) đã từng xuống chiếu cấm chỉ các hành động sát sinh, hủy bỏ tục giết súc vật cúng tế quỉ thần ở các đền miếu. Đời Tùy, đại sư Trí Khải (538-597) ở núi Thiên-thai, đã từng khuyên bảo dân chúng ở vùng ven biển không nên làm nghề đánh cá; chính ngài thì đào ao phóng sinh, cùng khuyên mọi người lập hạnh phóng sinh. Năm 759, vua Đường Túc-tông (756-762) xuống chiếu cho quốc dân đào 81 ao phóng sinh. Vào triều đại vua Tống Chân-tông (998-1022), năm 1019, đại sư Tuân Thức (964-1032) của tông Thiên Thai, đã tâu vua, xin lấy hồ Tây ở Hàng-châu làm ao phóng sinh, vua chuẩn cho; đại sư sáng tác bài “Phóng Sinh Từ Tế Pháp Môn”, mỗi năm vào ngày Phật Đản đều cử hành lễ hội Phóng Sinh. Tất cả những sự việc trên đều nhằm mục đích bảo vệ mạng sống các loài chúng sinh của tín đồ Phật giáo, tức là thực hiện hạnh tu phóng sinh vậy. Ở Việt-nam, hạnh tu phóng sinh cũng được thực hành phổ biến trong khắp các chùa viện, vào những dịp đại lễ hằng năm (như Phật Đản, Vu Lan v.v...), là một trong những sinh hoạt truyền thống của Phật giáo Việt-nam từ ngàn năm xưa cho đến bây giờ.
Có điều nên lưu ý: Phóng sinh tuy là việc thiện, nhưng chỉ cứu cái sắc thân của chúng sinh, mà không thể cứu cái huệ mạng của chúng sinh; cho nên không thể giúp chúng sinh chấm dứt sinh tử, thoát ra khỏi ba cõi. Nếu trong lúc phóng sinh, lại còn vì chúng mà niệm Phật, tụng kinh; đem công đức ấy hồi hướng và cầu nguyện cho chúng được vĩnh viễn thoát khỏi ba đường ác, vãng sinh về cõi Phật; như vậy mới là hành động triệt để.

Phóng sinh được phong hầu (truyền thuyết Trung-quốc). Khổng Du vốn là một quan chức nhỏ, cũng đã từng phóng sinh một con rùa. Rùa nổi lên mặt nước, ngoảnh đầu lại nhìn Du mấy lần rồi mới lặn xuống nước. Sau, vì có công mà ông được phong hầu. Khi đúc ấn, cái quai ấn khắc hình con rùa, và tự nhiên, đầu con rùa quay lại ngó ra sau. Người thợ bỏ đi, đúc lại mấy lần, đầu rùa nơi cái khuôn vẫn hướng thẳng phía trước, nhưng đầu rùa trên chiếc ấn cứ quay ngó ra sau. Viên quan trông coi việc đúc ấn kinh dị vô cùng, liền đi báo cho ông biết. Ông bỗng nhớ lại lúc thả con rùa, nó ngoái đầu ngó lại ông mấy lần. Thì ra, việc ông được phong hầu chính là quả báo của hành động phóng sinh.

Phóng sinh được sinh lên Thiên giới (truyền thuyết Trung-quốc). Đời Tống, có viên quan đề hình họ Trương, thường đến các lò sát sinh, mua những súc vật còn sống thả đi, khỏi bị giết. Về sau, lúc lâm chung, ông nói với người nhà: “Ta nhờ phóng sinh mà có nhiều phước đức. Nay thiên chúng đến đón ta lên trời.” Nói xong, an nhiên nhắm mắt.

Phổ Quang (?-?): là một vị cao tăng sống vào đời Đường, quê quán và tuổi tác đều không rõ. Ngài tư chất thông minh, ở chùa Từ-ân, thờ pháp sư Huyền Trang làm thầy, tuy học ít nhưng chứng nhập nhiều, được pháp sư Huyền Trang âm thầm ấn khả. Trong 20 năm (645-664) pháp sư Huyền Trang dịch được 75 bộ kinh luận, đa phần do ngài bút thọ. Năm 654, khi pháp sư Huyền Trang dịch xong bộ Luận Câu Xá, trước tiên trao cho ngài. Nhân đó ngài đã soạn bộ Câu Xá Luận Kí, gồm 30 quyển, trở thành một trong những điển tịch chủ yếu của tông Câu Xá. Ngoài ra ngài còn soạn Câu Xá Luận Pháp Tông Nguyên, Bách Pháp Minh Môn Luận Sớ v.v... Người sau đã công nhận ngài là đệ tử chánh truyền của pháp sư Huyền Trang về môn học Câu Xá.

Phù trần căn (浮塵根). Chữ “phù” (浮) nghĩa là nổi, lộ ra bên ngoài. Trong năm căn (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân), mỗi căn đều gồm có hai phần: phần vi tế nằm sâu kín ở bên trong, mắt thường không thể thấy được (như thần kinh mắt), gọi là “tịnh sắc căn”; và phần thô phù nổi lộ ra bên ngoài, mắt nhìn thấy được (như con mắt, cái mũi, v.v...), gọi là “phù trần căn”. Chữ 浮 cũng được viết bằng chữ 扶 (cũng đọc là phù), có nghĩa là phụ giúp; và trong trường hợp này, “phù trần căn” (扶塵根) có nghĩa là căn phụ giúp. Sở dĩ gọi là “phù trần căn” – hay gọi tắt là “phù căn” – vì phần này không thể phát sinh tác dụng nhận thức, mà chỉ làm điều kiện phụ giúp cho “chánh căn” (căn chính yếu) nhận thức ngoại cảnh. Chánh căn được gọi là “thắng nghĩa căn”, là tên gọi khác của “tịnh sắc căn”, là phần chính yếu của các căn, nằm sâu kín ở bên trong, có khả năng phát sinh tác dụng nhận thức, biết cảm giác đối với ngoại cảnh. Tóm lại, phù căn chỉ có nhiệm vụ làm chỗ y cứ cho chánh căn, không có tác dụng nhận thức. (Xem mục “Tịnh Sắc Căn”.) 
Cũng cần lưu ý: Chỉ có năm căn là có bộ phận bên ngoài (tức bộ phận lộ rõ ở bên ngoài, ai cũng có thể thấy được, sờ mó được) mà thôi; còn ý căn là một căn đặc biệt, tuy cũng có hai phần, nhưng cả hai phần đều không lộ ra bên ngoài, không thể trông thấy, sờ mó được. Phù trần căn của nó là phần vi tế ẩn trong não bộ (vẫn còn nằm trong lĩnh vực sinh lí), nhưng thắng nghĩa căn, phần chính yếu của nó, thì hoàn toàn thuộc lĩnh vực tâm lí – nó chính là một thức, tức mạt-na thức, cho nên không có bộ phận bên ngoài như năm căn kia.

Phú Lâu Na (Purna): đó chỉ là tên gọi vắn tắt, tên đầy đủ phải là Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử (Purnamaitraya-niputra), là vị giảng sư tài giỏi nhất trong tăng đoàn, được liệt vào hàng “mười vị đệ tử lớn” (thập đại đệ tử) của đức Phật. Tôn giả sinh trong một gia đình giàu có thuộc giai cấp phú thương nghiệp chủ, ở vương quốc Kiều-tát-la (Kausala). Vì sớm chán đời sống thế tục, muốn cầu giải thoát, nên tôn giả đã rủ ba mươi bạn hữu cùng vào núi tu tập, do chuyên cần tinh tấn, chứng được Tứ-thiền. Khi biết tin đức Thích Ca đã thành đạo và đang thuyết pháp tại vườn Nai, tôn giả liền về đó, xin Phật cho xuất gia, và chẳng bao lâu thì chứng quả A-la-hán.

Phúc tuệ song tu. Bỏ ác làm lành, ngay cả dứt trừ trọn vẹn mười nghiệp ác và tu tập đầy đủ mười nghiệp lành, thì cũng chỉ đủ tạo phúc đức để được hưởng quả báo sung sướng cùng tột ở các cõi trời mà thôi. Đó vẫn là thứ phước báo hữu lậu, không đủ khả năng giúp cho người tu hành phá vỡ vô minh, thoát li ba cõi, dứt tuyệt sinh tử luân hồi. Muốn giải thoát sinh tử để chứng nhập niết bàn, hành giả, ngoài việc tu tạo phúc đức, còn phải nỗ lực phát huy trí tuệ, bằng cách tu tập thiền định, suy nghiệm chân lí, cho đến khi tuệ giác bừng sáng, vô minh phiền não hoàn toàn tiêu diệt. Con đường tu tập như vậy, trong Phật giáo gọi là “phúc tuệ đồng tu” (phúc tuệ song tu). Đức Thích Ca Mâu Ni, đã từng trải bao đời kiếp tu tạo công đức lành, nhưng phải đợi đến kiếp cuối cùng, do công phu tu tập thiền định một cách triệt để trong bốn mươi chín ngày dưới cội cây bồ đề, mới đạt được quả vị giác ngộ viên mãn, thành bậc Tối Chánh Giác. Bởi vậy, lời chúc “Phúc Tuệ Viên Thành” được coi là lời chúc đầy đủ ý nghĩa nhất mà người tu hành thường dùng để chúc nhau.

Phục nhẫn. Các hành giả mới phát tâm, muốn chịu đựng được trước những cảnh thuận hay nghịch, trước hết phải điều phục tâm ý, gọi là “phục nhẫn”.

Phương đẳng. “Phương” là ngay thẳng, cũng có nghĩa là rộng; “đẳng” là bình đẳng, cũng tức là lí trung đạo; có nghĩa là, đã ngay thẳng, lại sinh tính bình đẳng của Phật. Tất cả kinh giáo đại thừa đều nói lên cái lí trung đạo, cho nên đều được gọi chung là giáo lí “phương đẳng”. Trong thời thuyết giáo thứ ba, đức Phật đã nói bốn loại pháp môn tạng, thông, biệt, viên một cách rộng rãi, đem lại lợi ích đồng đều cho cả mọi căn cơ cao thấp, cho nên gọi đó là thời “Phương Đẳng”.

Phương Đẳng tam muội. Thiên Thai đại sư đã y cứ vào Kinh Đại Phương Đẳng Đà La Ni mà chế lập phép hành trì Phương Đẳng tam muội, cùng với Pháp Hoa tam muội, đều thuộc loại bán hành bán tọa tam muội trong bốn thứ tam muội (xem mục “Pháp Hoa Tam Muội”). Trong Luận Chỉ Quán và sách Phương Đẳng Tam Muội Hành Pháp, có ghi rõ về nghi thức tác pháp. Hành trì phép tam muội này, lấy 7 ngày làm một hạn kì, hành giả ở trong đạo tràng, tụng trì Đà-la-ni chú; vừa đi nhiễu vừa tụng. Đi nhiễu được 120 vòng thì ngồi xuống tư duy quán chiếu về lí thật tướng. Hết ngồi quán tưởng thì lại đứng dậy đi nhiễu... Cứ tiếp tục hành trì như thế cho đến 7 ngày là dứt một hạn kì.

Phương tiện: là một thuật ngữ Phật học, chỉ cho những hành động, cử chỉ và ngôn ngữ khéo léo mà người tu tập hạnh Bồ-tát sử dụng trong công việc giáo hóa chúng sinh. Chân lí là pháp chân thật, chỉ có thể chứng nghiệm, thể nhập, chứ không thể suy nghĩ hay nói năng. Bởi vậy, muốn cho chúng sinh thể nhập pháp chân thật, chư Phật và Bồ-tát phải quán sát căn cơ của chúng sinh, tùy mỗi hạng mà bày ra những phương pháp (pháp môn) khác nhau để chỉ bày, hướng dẫn, hóa độ. Tất cả mọi pháp môn đó (thường nói là tám vạn bốn ngàn pháp môn) đều được gọi là “phương tiện”. Cũng vậy, tuệ giác của chư Phật là trí tuệ bát nhã, chân thật, bình đẳng, không phân biệt; nhưng trong công việc hóa độ chúng sinh, chư Phật và Bồ-tát phải dùng thứ trí tuệ quyền tạm để quán chiếu những hiện tượng sai khác của đời sống chúng sinh, để tùy cơ giáo hóa. Thứ trí tuệ quyền tạm ấy được gọi là “trí phương tiện”. Tóm lại, tất cả mọi pháp môn tu hành để đạt tới tuệ giác siêu việt, đều là “phương tiện”. – Ngay như việc phân chia có hai thứ trí tuệ chân thật và quyền tạm, cũng vẫn là “phương tiện”.