Giáo Huấn Dẫn Nhập

16 Tháng Tám 201612:24 CH(Xem: 2932)
Giáo Huấn Dẫn Nhập

GIÁO HUẤN DẪN NHẬP

Trong thời gian mà thế giới chúng ta đang sống, một ngàn vị Phật sẽ xuất hiện. Tương tự, mỗi vị Phật này sẽ có một ngàn Guru Rinpoche thực hiện những hoạt động của các Ngài. Trong thời hiện tại của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một thân lưu xuất trong thân người như vậy là Đức Padmasambhava, Liên Hoa Sanh. Người ta nói rằng trong tiểu sử, Ngài tự nhiên sinh ra từ một hoa sen ở trong một hồ mà không có cha mẹ. Sinh ra với thân người một cách kỳ diệu như vậy, Ngài được phú cho đại thần lực có khả năng hàng phục không chỉ nhân loại mà còn những tinh linh và những loại phi nhân khác. Ngài sống trong một thời gian dài. Ngài ở Ấn Độ khoảng một ngàn năm và sau đó ở Tây Tạng năm mươi năm. Khi sắp rời Tây Tạng Ngài được hai mươi lăm đệ tử chính và nhà vua đưa tiễn. Tại biên giới Nepal Ngài được những dakini của bốn bộ hộ tống trên một con ngựa gọi là Mahabala. Con ngựa thần thoại này bay lên trời, để lại những đệ tử nhìn hình ảnh Ngài Guru Rinpoche nhỏ dần rồi biến mất.

Theo truyện, Đức Padmasambhava xuống Bồ Đề Đạo Tràng và ở lại đó một thời gian. Sau đó đến tịnh thổ của Ngài được biết là Sangdok Palri, Núi Huy Hoàng Màu Đồng. Về vật chất, đó là một hòn đảo rộng lớn, một loại bán châu lục, ở ngoài biển về hướng Tây Nam của Bồ Đề Đạo Tràng. Đảo có một số tầng, chỗ thấp nhất là nơi cư trú của la sát. Theo tiên tri của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, loài quỷ ăn thịt người này sẽ xâm nhập thế gian trong một giai đoạn lịch sử sau này vào khoảng thời gian tuổi thọ trung bình của con người là hai mươi. Tạo ra một hiểm họa lớn, loài la sát sẽ khuất phục và tiêu diệt tất cả nhân loại. Đức Phật cũng tiên tri rằng Ngài Padmashambhava sẽ đến châu lục này và chiến thắng loài la sát. Guru Rinpoche đã ứng với lời tiên tri.

Ngọn núi chính trên đảo màu đồng này đi sâu xuống biển tới cõi Long cung. Đỉnh núi đâm thủng bầu trời lên tới thế giới Phạm Thiên của cõi sắc giới. Trên đỉnh núi là một cõi Phật ba tầng xuất hiện kỳ diệu. Tầng trên cùng là pháp thân lưu xuất của Guru Rinpoche, là Phật Vô Lượng Thọ (Amitayus), tầng giữa là tướng báo thân của Guru Rinpoche, là Đức Avalokitesvhara (Quán Tự Tại), và tầng dưới cùng là tướng hoá thân của chính Guru Rinpoche bao quanh bởi tám hiện thân. Guru Rinpoche là tâm lưu xuất của Phật A Di Đà, ngữ lưu xuất của Quán Tự Tại và thân lưu xuất của Phật Thích Ca Mâu Ni. Trước khi hiện thân đến thế gian này Ngài xuất hiện trước tiên trong cõi báo thân như năm gia đình Thotreng Tsal, sau đó là tám rồi mười hai hiện thân, và cuối cùng là vô số thân lưu xuất.

Trước lúc rời Tây Tạng, Guru Rinpoche tiên tri nhiều việc và đem chôn dấu nhiều giáo huấn để tương lai sau này phát hiện. Ngài ban phước cho những đệ tử thân cận được bất khả phân với Ngài. Trong tương lai những thân tái sinh của họ sẽ phát hiện những giáo huấn chôn dấu. Được phú cho đại thần lực kỳ diệu như chính đức Guru Rinpoche, họ có thể bay trong bầu trời, di chuyển tự do qua những vật thể cứng, giải nghĩa vô chướng ngại kinh điển và luận thư cũng như ý nghĩa những tantra. Đặc biệt là Guru Rinpoche tiên tri sự xuất hiện của 108 vị đại terton, những bậc khai mật tạng. Vì sự thay đổi thăng trầm trong lịch sử thế giới, mỗi vị terton sẽ xuất hiện vào thời điểm đã định để giúp chúng sanh đối mặt với khó khăn. Nhận biết được những khó khăn trong tương lai, Guru Rinpoche chôn dấu những thực hành đặc biệt nhất là khế hợp với thời điểm được phát hiện. Khi các terton khám phá ra những terma thì lúc đó sẽ có một giáo huấn hoàn toàn mới, khế lý, khế cơ và có ý nghĩa trong thời gian và hoàn cảnh đặc biệt đó. Ví dụ giống như chúng ta chuẩn bị thực phẩm tươi mới để không bị bệnh, tương tự những giáo huấn terma được phú cho những phẩm tính rất đặc biệt. Một phẩm tính là những terma có dòng truyền vắn tắt sẽ không bị gián đoạn vì bất kỳ vi phạm hoặc đứt samaya; ngoài ra, những terma cũng không bị người khác tự ý thêm vào. Những giáo huấn ẩn tàng bắt nguồn trực tiếp từ Đức Guru Rinpoche và được phát hiện bởi những đệ tử của Ngài trong những tái sanh tương lai; sau đó được phổ biến để nhanh chóng thực hành.

Tóm lại, để lặp lại và phát triển, phẩm tính đặc biệt của những giáo huấn terma do Guru Rinpoche chôn dấu cung cấp một thành tựu thích hợp cho mỗi thế hệ, từng thời điểm và cá nhân gặp được. Mỗi vị terton phát hiện những giáo huấn mới cho những người được định trước thực hành. Những terma cũ có thể bị tì vết do đứt samaya, khiến trì hỗn những dấu hiệu thành tựu. Vì vậy, những terma mới có ân phước lớn hơn nên nhanh thành tựu. Hơn nữa, đa số mọi người kể cả người Tây Tạng đều thích những gì mới lạ. Những terma mới có vẻ hấp dẫn hơn! Người Tây Tạng ít tin tưởng vào các terma cũ, nên kết quả của thực hành bị trì hỗn. Niềm tin lớn hơn và tin tưởng vào những terma mới khiến siêng năng thực hành nhiều hơn, nên kết quả sẽ nhanh hơn. Đó là những nhân tố trùng khớp để những terma mới xuất hiện. Nếu không thì một terma cho mỗi một trong Ba Gốc Guru (Đạo sư), Yidam (Bổn Tôn) và Dakini là đủ. Nhưng người ta thường thích những gì mới lạ; một vị terton mới phát hiện một giáo huấn terma mới gây ra niềm hoan hỷ to lớn. Điều này là một trong những phương tiện thiện xảo của Guru Rinpoche.

Yeshe Tsoygal là một trong năm lưu xuất của Vajra Yogini và, trong cốt tuỷ cũng chính là biểu hiện của Đức Guru Rinpoche. Bà xuất hiện để hỗ trợ Guru Rinpoche trong việc truyền bá Kim Cương Thừa, nhất là những giáo huấn terma trong xứ tuyết Tây Tạng.

Nhìn bề ngoài theo nghĩa đen, từ dakini có nghĩa “người an trụ trong hư không”, một vị trời không cần đi trên mặt đất. Có nhiều loại dakini khác nhau: dkini trí tuệ, dakini hành động, và dakini thế gian. Dakini trí tuệ thực sự là tánh hư không của sự tỉnh giác sáng ngời. Sự nhận biết là khía cạnh nam, trong khi trong nhận thức của chúng ta là phẩm tính nữ. Như vậy bà mẹ vĩ đại của pháp thân là nền tảng của tất cả dakini.

Trong thực tế, nền tảng của tất cả Bổn Tôn nam là pháp thân Phật Phổ Hiền (Samantabhadra) và nền tảng của mọi Bổn Tôn nữ là Samantabhadri. Samantabhadra là nền tảng của tất cả nhận thức và Samantabhadri là tánh hư không trong tất cả nhận thức đó. Ngoài ra, Samantabhadri được gọi là nền tảng của sự lưu xuất, vị nữ Phật đại trí. Vajra Varahi là một báo thân lưu xuất của trí tuệ, như năm vị Phật nữ Dhatvishvari, Mamaki, Buddhalochana, Pandaravasini, và Samayatara, là những vị consort của năm vị Phật nam. Trên bình diện hóa thân lưu xuất của trí tuệ là Đức Arya Tara. Đây là những dakini trí tuệ của ba thân.

Thêm vào các dakini trí tuệ, còn có những dakini thực hiện những hoạt động giác ngộ vì lợi ích của mọi chúng sanh, những dakini samaya (giới nguyện) giám sát cẩn thận những cam kết tantric samaya của chúng ta. Cũng có những dakini sống trong những thánh địa chính và phụ trong thế gian này như: ba mươi hai thánh địa chính và hai mươi bốn thung lũng thiêng liêng phụ, bao gồm tám đại mộ địa, được biết là sáu mươi bốn nơi linh thiêng mà sáu mươi bốn vị daka và dakini cư trú. Tương ứng với sáu mươi bốn địa điểm bên ngoài, trên bình diện vi tế, chư daka và dakini cũng trụ trong sáu mươi bốn trung tâm trên thân thể chúng ta như tinh túy thanh tịnh của các kinh mạch, năng lượng, và tinh chất.

Yeshe Tsoygal cũng là một lưu xuất của Đức Arya Tara. Arya Tara là một lưu xuất của Vajra Varahi. Nền tảng lưu xuất của Vajra Varahi là Prajnaparamita (Trí tuệ) và Samantabhadri. Ba thân nam tương ứng là Phật Phổ Hiền, Phật Kim Cương Trì và Phật Thích Ca Mâu Ni. Thật hoàn toàn sai lầm khi nói chỉ có phái nam mới thành Phật còn phụ nữ thì không, vì cả hai Prajnaparamita và Samantabhadri đều là Phật. Năm phương diện của Vajra Varahi cũng là năm vị Phật toàn giác. Đức Arya Tara xuất hiện trong thân tướng của một bồ tát ở địa thứ mười, nhưng trong thực tế Bà cũng là một vị Phật toàn giác. Ngoài ra, tám nữ bồ tát trong bốn mươi hai Bổn Tôn hiền minh cũng là những vị Phật. Thuộc tính nam, nữ không phải là quyết định tối hậu. Tám nam và nữ bồ tát trong số những Bổn Tôn hiền minh trong trạng thái trung ấm về cốt lõi giống hệt như tám thiên nữ mamo và tám yogini, tất cả phái nữ đều thuộc về Bổn Tôn phẫn nộ. Những vị Phật nam xuất hiện trong tướng người nữ, và ngược lại. Các dakini có thể xuất hiện trong nhiều cách và hình tướng khác nhau, một số có tướng phẫn nộ hay ghê sợ để ngăn chận những tư duy và nhận thức sai lạc.

Cuối cùng khi thực hành Giáo Pháp, thật là tốt khi nhớ lại phẩm tính đặc biệt của hệ thống Kim Cương Thừa theo truyền thống cựu dịch và nhất là giáo huấn Dzogchen là “nâng cao hành vi đạo đức trong lúc hạ mình khiêm tốn trong quan điểm.” Tuyên thuyết này của Guru Rinpoche là một quyết định quan trọng. Nếu chúng ta bắt đầu hành động theo quan niệm cao, thì giống như điên hay loạn trí. Nếu chỉ giữ quan điểm của những thừa thấp chúng ta sẽ không bao giờ gặp cơ hội giải thoát. Quan điểm của một Thanh văn hay Phật Độc giác không mang lại giải thoát trong một kiếp mà phải trải qua sau ba a tăng kỳ kiếp (không thể tính đếm) mới được giải thoát. Chúng ta phải hành động theo những thừa thấp trong lúc vẫn giữ quan điểm của những tantra nội.

TULKU URGYEN RINPOCHE  
Động Asura 1989