Chùa Phật Ân 475 Minnesota Avenue Roseville, MN 55113. Tel: (651) 482-7990 - Web: www.PhatAn.org. Email: chua_phatan@yahoo.com.
THƯ MỤC TÁC GIẢ

Câu đối có giai thoại sự tích và Thơ đối đáp Việt Nam

07 Tháng Mười 20169:04 CH(Xem: 27157)
Câu đối có giai thoại sự tích và Thơ đối đáp Việt Nam

Câu đối đã sưu tầm được giai thoại và sự tích hoàn chỉnh

Lê Văn Hưu

  • Lê Văn Hưu người làng Phủ-lý, huyện Đông-Sơn, lộ Thanh-hoa, đỗ bảng nhãn năm Đinh mùi (1247), niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình dưới triều Trần Thái Tông. Lúc đó ông mới 18 tuổi. Sau làm đến chức Hàn lâm học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu. Tương truyền, khi còn là học trò, một hôm đi ngang qua lò rèn, thấy người ta đang làm những cái dùi sắt, Lê Văn Hưu muốn xin một cái để làm dùi đóng sách. Bác thợ rèn thấy chú bé mới tí tuổi đầu đã chăm lo việc học hành, bèn ra một vế đối để thử tài:
vế ra: Than trong lò, sắt trong lò, lửa trong lò, thổi phì phò đúc nên dùi sắt
Bễ lò rèn là hai ống trụ tròn, rỗng ruột làm bằng gỗ (sau này bằng nhôm hoặc thép), đường kính chừng 15 - 20 phân, cao khoảng 70 phân. Bên trong đặt 2 thanh gổ, quân vải. Cấu trúc như cếc bơm tay xe đạp. Cần gío thỗi cho lửa cháy to, người thợ 2 tay 2 thanh gổ rút lên, hạ xuống… tạo ra luồng gió thổi vào lò nung. Khi có gió thổi, phát ra tiếng phì phò - như người bị hen thở, tất nhiên to hơn nhiều.
Lê Văn Hưu đối: Nghiên ở túi, bút ở túi, giấy ở túi, viết lúi húi mà đậu khôi nguyên
Câu đối này có thuyết nói của Đoàn Hy. Đoàn Hy vừa làm thợ rèn, vừa chăm chỉ học, đổ thủ khoa thi Hương trường Nam Định. Tuy nhiên có 1 số chữ nghĩa hơi khác cho nên đưa cả câu để phân biệt cho rõ. Quan chủ khảo biết nghề nghiệp vị tân khoa, ra câu đối: Than bỏ vào lò, sắt bỏ vào lò, bể thổi phì phò, đúc ra miếng bạc
Đoàn Hy đối lại: Mực nằm trong túi, bút nằm trong túi, người viết lúi húi, tên chiếm bảng vàng

Đặng Ma La (1234 - 1285)

Đặng Ma La là con Tiễn sĩ Đặng Nghiêm quê làng An Để, Vũ Thư, Thái Bình. Gặp thời tao loạn, nhà Trần cướp ngôi, hai cha con phải chạy về quê lánh nạn tại làng Khúc Thuỷ, Chương Đức, Hà Đông và đổi từ họ Lý sang họ Đặng. Thân mẫu của Đặng Ma La tên là Lý Thị Tiêu, một hôm đi cấy mướn về giữa đồng làng thì trời giông bão. Cô phải chui vào một cái quán, ngủ thiếp đi, cô mơ thấy một vị thần có bàn chân to lớn còn để lại dấu. Cô ướm bàn chân mình, người thấy khác lạ, rồi cô có mang. Cô sinh ra một chàng trai tuấn tú, đạt tên cho con là Ma La – ý nói con ma ở xứ đồng La đã nhập vào mình nên sinh con! Mùa xuân năm Đinh Mùi 1247, Vua Trần Thái Tông mở khoa thi lần đầu tuyển chọn Tam khôi đặt danh hiệu Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa. Dự khoa thi năm ấy, Nguyễn Hiền đỗ Trạng Nguyên, Lê Văn Hưu đỗ Bảng Nhãn, Đặng Ma La đỗ Thám Hoa.

Một hôm, thầy Đồ làng ra câu đối để thử tài Đặng Ma La :

Làm thằng chí, làm thằng chuột, làm thằng bạch đinh, khốn khó lầm than cùng mặt đất

Đặng Ma La nhanh chóng ứng khẩu: Đỗ ống cống, đỗ ông nghè, đỗ ông hoàng giáp, giàu sang phú quý lệch ngang trời

Trong bữa tiệc dãi các tân khoa, vua Trần hỏi “Do đâu mà có tài học như vậy ?”. Nguyễn Hiền trả lời:“sinh nhi tri chi” (sinh ra đã biết hết)

Vua nhìn sang Đặng Ma La: “Đắc ư sư truyền” (nhờ được thầy truyền dạy). Nhà vua rất hài lòng về câu của Đặng.

Tại đền thờ Đặng Ma La ở Hàng Kênh - Hải Phòng còn câu đối:

Khoa giáp tứ truyền thập tứ tuế Thám hoa kỳ thủy
Lương hoàn phúc trạch kỷ thiên niên trúc lãnh như anh

Dịch nghĩa:

Khoa giáp truyền đời khởi đầu đỗ Thám hoa 14 tuổi
Đất phúc hoàn lương nghìn năm xây đắp mãi dõi tinh anh

Nguyễn Hiền

  • Đối đáp với quan Lang Trung:

Hồi mới lên bảy tuổi, Nguyễn Hiền thường hay chơi trò nặn đất với bọn trẻ mục đồng. Một lần trạng nặn con voi đất, rồi lấy bốn con cua để vào bốn chân, lấy đỉa làm vòi, lấy bướm làm tai, thành ra voi đất cũng cử động được, khiến bọn trẻ vui thích reo hò ầm ĩ. Chợt một ông quan đi qua đứng lại xem và hỏi chuyện cậu bé Hiền. Thấy cậu bé khéo léo lại láu lỉnh, ông quan liền đọc đùa một câu:

vế ra: 童子六七人無如爾巧 Đồng tử ngũ lục nhân, vô như nhĩ xảo! (Bọn trẻ năm sáu đứa, không đứa nào khéo bằng mày)
Cậu bé Hiền thấy vậy, hỏi ông quan rằng: “Trước hết xin ông cho biết ông làm chức quan gì?”. Quan nói: “Ta là quan Lang Trung, mỗi tháng ăn lương hai ngàn hộc”
Thấy quan có ý khoe khoang, cậu bé Hiền liền đọc rằng: 郞中二千石莫若公... Lang trung nhị thiên thạch, mạc nhược công ... (Quan thái thú ăn lương hai ngàn hộc, chẳng ai. . . bằng ông).
Quan cười bảo: “Đối còn thiếu một chữ!”. Nguyễn Hiền nài cho tiền rồi sẽ đối nốt. Quan cho tiền xong, cậu bé Hiền liền bổ sung chữ 廉 Liêm vào cuối vế đối. Quan chịu là giỏi, nhưng vui miệng hỏi thêm: “Thế nếu ta không cho tiền, thì cháu đối chữ gì?”. Nguyễn Hiền trả lời: “ Khó gì? Nếu ông không cho tiền thì tôi chỉ việc điền chữ 貪 Tham vào thôi!”. Quan biết thằng bé láu cá, đành phải bỏ đi không dám trêu chọc gì nữa, kẻo lại mang tiếng “to đầu mà dại”! Có thuyết khác nói giai thoại này là của Vũ Công Duệ đời Hậu Lê, Vũ Công Duệ (1468 - 1522) tên lúc nhỏ là Nghĩa Chi, người xã Trình Xá, huyện Sơn Vi, trấn Sơn Tây (nay thuộc huyện Thanh Sơn, tỉnh Vĩnh Phú). Đỗ Trạng nguyên năm 20 tuổi khoa Canh Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 21 đời Lê Thánh Tông (1490). Làm quan đến Lại bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ chầu Kinh diên, được tặng Thiếu bảo, tước Trịnh Khê Hầu
  • Đối đáp với các quan khâm sai:

Nguyễn Hiền vốn quê làng Hà Dương (tỉnh Nam Định). Nguyễn Hiền thi đình, đỗ trạng nguyên lúc mới 13 tuổi. Tại lễ triều kiến các vị tân khoa, vua Trần Thái Tông thấy trạng quá nhỏ, bèn cho trạng về quê, hẹn ba năm sau sẽ cho vào triều phong quan. Được ít lâu, sứ thần Mông Cổ sang An Nam đem 1 bài thơ sang thách giải nghĩa: "Lưỡng nhật bình đầu nhật, tứ sơn điên đảo sơn, lưỡng vương tranh nhất quốc, tứ khẩu tung hoành gian". Vua Trần hỏi các quân thần thì không ai hiểu nghĩa lý ra làm sao, phải sai hai quan văn võ đến nhà ông Nguyễn Hiền mời vào triều để hỏi. Hai viên khâm sai không quản ngày đêm, phi ngựa nước đại tìm về làng Trạng, thấy một lũ trẻ đang đùa nghịch ở gốc đa đầu làng, viên quan võ thử ra một câu đối để dò xem Trạng có mặt trong đám ấy chăng, vế ra là:

Tự là chữ, cất giằng đầu, chữ tử là con, con ai con nấy? (câu này nói về cách chuyển hóa chữ: “tự” [字] (chữ), ‘tách’ [宀] (giằng đầu), còn “tử” [子] (con)
Một đứa trẻ đối ứng khẩu ngay: Vu là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh là đứa, đứa nào đứa này? (vế dưới cũng là phép tương tự: “vu” [于] (chưng), ‘bỏ’ [一] (ngang), thành chữ “đinh” [丁] (đứa)
Đối xong đám trẻ giải tán ai về nhà nấy, hai viên sứ giả biết đứa trẻ ấy là Trạng Hiền, mới hỏi thăm đến tận nhà thì thấy Trạng đang lúi cúi ở dưới bếp.
Viên quan văn bèn đọc một câu rằng: Văn quân từ viễn bảo trù, hà tu nự áo (Tôi nghe quân tử xa chỗ bếp nước, lọ là phải nịnh vua bếp)
Trạng Hiền ứng khẩu đối ngay: Ngã bản hữu quan cư đinh nại, khả tam điêu canh (Ta cốt có chức làm được Tể tướng, nhưng còn tạm nấu nồi canh. Nấu canh lạt mặn tại tay cũng như chức làm tướng)
Hai vị khâm sai biết đúng là trạng bèn mời về cung, trạng nói: “Nhà vua muốn mời ta về phải có voi ngựa, bằng sắc, mũ áo rước ta đi”. Sứ phản hồi xin vua đầy đủ các nghi thức trên, bấy giờ trạng mới chịu hồi cung. Khi đến kinh, Trạng Hiền cầm bút viết ra một chữ và giải rằng: "Câu thứ nhất nghĩa là chữ nhật, ngược suôi bằng đầu nhau; Câu thứ nhì là bốn chữ san, ngược suôi cũng là chữ san cả; Câu thứ ba hai chữ vương tranh nhau ở trong một nước, câu thứ tư là bốn chữ khẩu ngang dọc đều là khẩu cả. Tóm lại chỉ là một chữ điền". Giải xong, đưa cho sứ Tầu xem, sứ Tầu phải chịu vì thế vua cử Nguyễn Hiền làm Kim tử vĩnh lộc đại phu; sau làm đến Công bộ thượng thư, không được bao lâu thì ông mất.
  • Hiện nay, tại đền thờ trạng nguyên Nguyễn Hiền ở quê hương ông, thôn Dương A (Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định) còn giữ đôi câu đối ca ngợi công tích của Trạng như sau:
Thập nhị tuế khôi khai lưỡng quốc (Mười hai tuổi khai khoa hai nước)
Vạn niên thiên tuế lập tam tài (Nghìn năm ghi mãi chữ tam tài)
Đông A nhất giáp sinh tri Trạng
Nam Việt thiên thu quốc tế thần
  • Câu đối khắc tại đình Lại Đà thuộc xã Đông Hội huyện Đông Anh thủ đô Hà Nội:
Kình thiên đại quán long lân trụ
Dục nhật linh quang hổ nhãn trì

Dịch nghĩa:

Quán lớn chống trời cột vẩy rồng
Ao mắt hổ tắm trong ánh mặt trời

Mạc Đĩnh Chi

Mạc Đĩnh Chi, người xã Lũng động, huyện Chí Linh, nay là thôn Lũng động, xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh hải Dương. Mạc Đĩnh Chi mồ côi cha từ nhỏ, nhà nghèo, hai mẹ con phải đi vào rừng sâu hái củi để kiếm sống hàng ngày. Khoa thi Giáp Thìn (1304), thi hội, Mạc Đĩnh Chi đỗ Hội nguyên, thi Đình, ông được chấm đỗ Trạng Nguyên, nhưng khi vào ra mắt nhà vua, vua Trần Nhân Tông thấy ông tướng mạo xấu xí, có ý không muốn cho ông đỗ đầu. Biết ý, ông đã làm bài “Ngọc tỉnh liên phú”. Đó là bài phú bằng chữ Hán để gửi gắm chí khí của mình. Bài phú đề cao được phẩm chất trác việt và phong thái cao quý của một người khác thường, vượt xa người khác về mọi mặt; Song không muốn a dua với người tầm thường để mong cho đời biết đến. Ông dùng hình tượng một bông sen sinh ra trong giếng ngọc ở núi Hoa Sơn do một vị đạo sĩ kỳ dị hái mang xuống cõi trần. Vua Trần Anh Tông xem xong khen là thiên tài mới cho đậu Trạng nguyên, ban cờ hiển vinh quy bái tổ.

Câu đối viết ở trong nước

  • Câu đối viết tặng bạn đồng liêu:

Trong khi làm quan tại triều, Mạc Đĩnh Chi có người bạn đồng liêu, ông này lấy hai vợ nhưng hay ghen tuông nhau. Một hôm, tan triều, ông gọi ông bạn kia trao cho một đôi câu đối, nói mới nghĩ ra để tặng bạn dán ở cửa buồng. Câu đối ấy đều dùng liền trong sách Hán Cao Tổ và trong Kinh Thư, mà rất hợp với cảnh bạn ông:

Đông đầu Hán-vương thắng, Tây đầu Hạng vương thắng, quyền túc tại túc hạ (Danh Đông Hán vương được sang Tây Hạng vương được, quyền ở dưới gót)
Chinh Đông Tây- di oán, chinh Nam Bắc-địch oán, hà đọc hậu dự? (Đánh Đông mọi Tây oán, đánh Nam rợ Bắc oán: sao đến ta sau?)
  • Câu đối viết ở chốn lầu xanh:
Thốn thổ thị lương điền, canh giá bất câu xuân hạ nhật (Tấc đất làm ruộng tốt, cấy cày không kể hạ hay xuân)
Tứ hoang giai ngã thác, thân tình hề dụng bắc nam nhân (Tay rộng mở bốn bề, thân tình không kể kẻ bắc nam)

Đi sứ nhà Nguyên

Trên đường đi
  • Đối đáp với quan giữ ải Phong Lũy (tức Mục Nam quan):

Năm 1308, Mạc Đĩnh Chi đi sứ nhà Nguyên, do trời mưa làm trở ngại đường đi nên đến cửa khẩu sai hẹn, quân canh gác đóng cửa buộc phải chờ sáng hôm sau mới được qua ải. Thấy sứ bộ Đại Việt cứ biên bạch đòi mở cửa để đi cho kịp thì viên quan phụ trách ải nói: "Nghe nói ngài là người có tài văn chương. Sao không đem sử dụng lúc này? Bây giờ tôi ra một câu đối, nếu đối thông suốt, tôi sẽ mở cửa ải; bằng không xin ngài chờ tới sáng". Rồi quân Nguyên thả từ trên cửa thành cao xuống một câu đố thách thức nếu sứ bộ đối được thì họ sẽ mở của thành cho đi.

vế ra: 過闗遲闗官閉閼過客過闗 Quá quan trì, quan quan bế, át quá khách quá quan (Nghĩa là: “Tới cửa ải chậm trễ, cửa ải đóng, người coi ải đóng cửa không cho khách qua”).
Nhưng nghe không ổn; bởi vì sự thể rõ ràng là người giữ ải không muốn cho khách qua ải lúc tối; chứ không hề có ý mời khách đi qua?! vế đối có 3 chữ quá và 4 chữ quan, ông suy nghĩ một lát rồi đọc
vế đối như sau: 先對易對對難請先生先對 Tiên đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối (Nghĩa là: “Ra câu đối dễ, đáp lại khó, xin mời ngài đối trước”).
Vế đối của Mạc Đĩnh Chi có 4 chữ “đối” và 3 chữ “tiên,” đáp đúng với câu đối của viên quan giữ ải. Tưởng sẽ đưa sứ bộ Đại Việt vào thế bí; nào ngờ lại có vế đối quá hay. Quan coi ải vái Mạc Đĩnh Chi hai vái và quân Nguyên mở của ải để sứ bộ của Mạc Đĩnh Chi đi qua biên giới vào giữa đêm. Theo giáo sư Lê Văn Đặng thì có lẽ ai đó (?) đã bịa ra giai thoại nầy khá hay, nhưng vế 2 chỉ đối được âm Hán Việt, không đối được chữ; nghĩa không chỉnh ở chữ thứ 5 của 2 vế: 官 (ông quan) khác với 對 (câu đối)
  • Đối đáp với cao tăng đắc đạo:

Qua ải ít lâu, đoàn sứ bộ ghé vào vãn cảnh một ngôi chùa ở mé đường, Mạc Đĩnh Chi có ngồi bàn luận văn chương với một nhà sư Trung Hoa.

Nhà sư đọc: 几以木杯不木如何以几為杯 Kỷ dĩ mộc, bôi bất mộc, như hà dĩ kỷ vi bôi (Ghế là gỗ, chén chẳng là gỗ, sao nỡ lấy ghế làm chén)
Mạc Đĩnh Chi đối: 僧曾人佛弗人何乃以僧師佛 Tăng tằng nhân, Phật phất nhân, hà nãi dĩ tăng sư Phật? (Sư là người, Phật chẳng là người, sao lại để cho sư thờ Phật?)
Câu đối đều mang tính chiết tự: Chữ “kỉ” [杞] gồm hai chữ “dĩ” [已] và “mộc” [木]; chữ “bôi” [杯] gồm hai chữ “bất” [不] và “mộc” [木] ; chữ “tăng” [僧] gồm hai chữ “tằng” [曾] và “nhân” [ ] ; chữ “Phật” [佛] gồm hai chữ “phất” [弗] và “nhân” [ ]. Hàm ý của vế ra đối chê ông Mạc người thấp bé (như cây gỗ kỉ) mà được trọng dụng. Vế đối lại cũng có thể có hàm ý: "việc tu hành của ông chẳng hợp lẽ chút nào".
  • Giải oan cho Thư sinh:

Trên đường đi đến kinh đô nhà Nguyên, trong một chiều hè nóng bức, Mạc Đĩnh Chi và tùy tùng lúc ấy thấy một quán nước ven đường thì dừng lại nghỉ chân. Chủ quán là một bà cụ già tóc bạc phơ, đến chào khách. Gần quán có một giếng nước. Trên thành giếng có viết 5 chữ: 銀缾腱上鼻 Ngân bình, kiên thượng tị.

Thấy lạ, Mạc Đĩnh Chi hỏi duyên do. Bà cụ chủ quán chậm rãi kể: "Xưa có một cô gái bán hàng nước ở đây rất thông minh, học giỏi, chữ nghĩa tốt. Có một anh học trò thầm yêu cô hàng nước, muốn ngấp nghé. Ngày ngày đi học về, thường ghé vào quán uống nước; và tìm lời trêu ghẹo. Một hôm cô hàng nước nói thực với anh: "Thiếp là con nhà lương dân, có theo đòi bút nghiên, mà chàng cũng con nhà thi lễ, nếu như phải duyên trời, thực cũng xứng đôi vừa lứa, Nhưng mà thiếp chưa được biết tài học của chàng ra sao, vậy thiếp xin ra một câu đối, nếu chàng đối được, thiếp tình nguyện xin nâng khăn sửa túi, bằng không, thì xin chàng chớ qua đây quấy rầy làm gì nữa". Anh học trò bằng lòng. Cô hàng nhân nhìn thấy cái ấm tích bằng bạc trên bàn, mới ra câu đối trên có nghĩa là “Bình bạc, mũi trên vai.” (Ý nói cái vòi trên cổ ấm nước). Anh học trò nghĩ mãi mà không đối được, xấu hổ quá, đành đâm đầu xuống cái giếng gần đó chết. Ít lâu sau, người ta cho viết vế xuất câu đối ấy lên thành giếng để thách thức cả thiên hạ, nhưng xưa nay chưa ai đối được". Nghe đến đây, Mạc Đĩnh Chi cười: "Câu ấy dễ thế sao không đối được mà phải ngậm oan nơi đáy giếng! Thôi để ta đối giùm giải oan cho hồn kẻ thư sinh".
Mạc Đĩnh Chi bèn đọc: 金鎖腹中鬚 Kim tỏa, phúc trung tu (Nghĩa là “Khóa vàng, râu trong bụng.” Ý nói cái tua khóa ở trong ruột khóa). Sau đó, Mạc Đĩnh Chi sai người viết câu ấy lên thành giếng, bên cạnh câu đối của cô hàng nước năm xưa. Mọi người đều chịu ông đối giỏi.
  • Ứng khẩu khi bị sa xuống hố:

Sau nhiều ngày vất vả, Mạc Đĩnh Chi cùng sứ bộ đến Yên kinh, kinh đô nhà Nguyên. Nghe tin đồn Trạng nguyên An Nam nổi tiếng thông minh, quan lại nhà Nguyên mới hội nhau bàn cách chơi trác. Họ đào một cái hố vừa to, sâu quá đầu người, trên ngụy trang như đường đi ngay trước cây cầu vào kinh thành. Hôm sau, Mạc Đĩnh Chi dẫn sứ bộ vừa đi tới đó. “Huỵch" một tiếng, cả người lẫn ngựa Mạc Đĩnh Chi lăn luôn xuống hố. Các quan Tầu phá ra cười (cốt để hạ nhục Mạc Đĩnh Chi) rồi một viên quan nói: "Nghe nói tiên sinh là người đối đáp xuất chúng, chúng tôi không tin. Nếu tiên sinh đối được câu đối này thì toàn bộ quan lại chúng tôi xin đỡ tiên sinh lên". Ông đồng ý.

Viên quan kia đọc: 杆木横渠陸假相如私道 Can Mộc Hoành Cừ Lục Giả Tương Như Tự Đạo (Nghĩa là: “Gỗ thẳng, cầu ngang, đường đi ngỡ là đất phẳng”).
Cái khó của câu này là ở chỗ dùng toàn tên những người nổi tiếng trong sử Trung Hoa ghép lại. Theo đó, “Can mộc” là Đoàn Can Mộc, một nhân vật đời Chiến quốc; “Hoành Cừ” là tên hiệu của Trương Tải, một triết gia đời Bắc Tống; “Lục Giả” người nước Sở, giỏi biện luận, theo giúp Hán Cao Tổ; “Tương Như” là Lạn Tương Như, một nhân vật nổi tiếng đời Chiến Quốc; “Tự Đạo” là Giả Tự Đạo, người đời Tống, một quyền thần chuyên chế.
Mạc Đĩnh Chi nhớ lại lúc trước khi ngã, ông nhìn thấy ở bên kia sông có cái đình dưới chân núi, nhân thế chỉ tay thẳng đình mà đối: 大庭安石望之染略天台 Đại Đình An Thạch Vọng Chi Nghiễm Lược Thiên Thai (Nghĩa là: “Đình to, đá vững, nhác trông như thể (núi) Thiên Thai”)
Câu này cũng dùng toàn tên người ghép lại như ở câu chủ mà lại có ý khoáng đạt hơn nhiều, theo đó “Đại Đình” là một biệt hiệu của Thần Nông; “An Thạch” tức Vương An Thạch Thừa tướng đời Bắc Tống; “Vọng Chí” là danh nhân đời Hán, làm phụ chính cho Hán Nguyên Đế; Thiên Thai là một Tông Phái Phật Giáo, do Bồ-tát Long Thọ sáng lập 龍樹(梵文:Nāgārjuna) Riêng chữ "Nghiễm Lược" các nhà nghiên cứu chưa tra cứu ra là ai?! Chưa hiểu hết ý tưởng uyên thâm của Mạc Đĩnh Chi…Đúng theo lời hứa, văn võ bá quan triều Nguyên bất chấp áo mũ xúm lại đỡ ông Trạng lùn xấu xí nước Nam lên khỏi hố.
  • Đối đáp với viên quan người Tống:

Mạc Đĩnh Chi và đoàn sứ đang cưỡi lừa đi xem hàng ngoài đường phố, thì bỗng lừa Mạc Đĩnh Chi đụng độ với ngựa của một viên quan người Tống.

Viên quan này nhìn Mạc Đĩnh Chi bằng nửa con mắt và đọc một câu: Xúc ngã kỵ mã, Đông di chi nhân giả, Tây di chi nhân giả (chạm phải ngựa ta, không rõ là bọn Đông Di hay Tây Di vậy)
Viên quan này lấy chữ "Đông di" ở sách Mạnh Tử, tỏ ý khinh rẻ người nước Nam là kẻ mọi rợ.
Mạc Đĩnh Chi nhìn thẳng vào mắt tên quan, đáp: Át dư thừa lư, Nam phương chi cường dư, Bắc phương chi cường dư (cưỡi lừa dạo chơi, mới biết người Bắc khoẻ hay người Nam khoẻ). ::Vì chữ "Nam phương" lấy ở sách Trung Dung đã nói rõ thâm ý người phương Bắc chắc gì đã mạnh hơn người phương Nam, nếu mạnh hơn sao lại chịu để giặc Nguyên đô hộ? Viên quan người Tống kia tỏ ý xấu hổ, ra roi cho ngựa đi thẳng không dám hoạnh hoẹ nữa.
Trong hoàng cung

1 - Với chư quan đương triều:

  • Đối đáp với quan Thừa Tướng:
Bữa nọ, trong lúc chờ thiết triều, quan Thừa Tướng ra vế đối: 安去女已豕為家 An nữ khứ, dĩ thỉ vi gia (Chữ “an 安” bỏ chữ “nữ 女” đi, thêm chữ “thỉ 豕” vào thành chữ “gia 家”/“nhà”). Thấy ông là người thấp bé xấu xí tỏ ý khinh thường, đại ý là họ coi ông xấu xí như lợn, mà đưa đi sứ. Ngoài ra còn có ý khác là nhà Nguyên cần phải xóa sổ nước An Nam để nhập vào bản đồ Trung Quốc)
Mạc Đĩnh Chi đáp lại: 囚出人立王成囯 Tù nhân xuất, nhập vương thành quốc (Chữ “tù 囚” bỏ chữ “nhân 人” đi, thêm chữ “vương 王” vào thành chữ “quốc 囯”). Đại ý là người ở trong tù đưa ra thì họ cũng làm được vua một nước, câu này đối ý cũng rất chuẩn vì nó nói nên rằng dân Đại Việt không chịu đè nén như vậy mà vẫn đứng vững thành một quốc gia riêng)
  • Đối đáp với quan Quan Thượng Thư:
Quan Thượng Thư thấy vậy đọc: Thập khẩu tâm tư, tư quốc tư gia, tư phụ mẫu (câu này dùng phép chiết tự, chữ thập 十, chữ khẩu 口, chữ tâm 心 gộp lại thì thành chữ tư 思 có nghĩa là nhớ: nhớ nước, nhớ nhà, nhớ cha mẹ)
Mạc Đĩnh Chi lên tiếng đối luôn: Thốn thân ngôn tạ, tạ thiên, tạ địa, tạ quân vương (chữ thốn 寸,chữ thân 身, chữ ngôn 言 gộp lại thành chữ tạ 謝 có nghĩa là cám ơn: cám ơn trời, cám ơn đất, cám ơn vua)
Câu đối trên đây vế xuất na ná với giai thoại về mối tình của Đường Bá Hổ - Điểm Thu Hương bên Trung Quốc, chỉ khác ở 2 chữ cuối cùng là "xã tắc"
  • Đối đáp với quan Thái Sư:
Quan Thái Sư đứng cạnh đó tiếp tục ra: Thiên lý vi trùng, trùng thủy trùng sơn trùng nhật nguyệt (Nghĩa là: Việt cách Trung Quốc nghìn dặm, núi sông nước đều giống như Trung Quốc. Nghĩa bóng: Họ gạ nước Việt nhập vào Trung Quốc)
Mạc Đĩnh Chi đối lại như sau: Nhất nhân thành đại, đại quân đại quốc đại càn khôn (Nghĩa là: Một người cũng là lớn, có vua lớn, nước lớn có trời đất lớn. Nghĩa bóng: Nước Việt tuy nhỏ nhưng cũng có vua quan, có trời đất riêng không phụ thuộc vào ai)
  • Đối đáp với quan Thái Uý:
Quan Thái Uý liền nối tiếp mạch văn chương: Hải trung hàm thủy thanh thiên bao nhật nguyệt tinh thần (Nghĩa là: Trong bể đựng nước bao bọc trời xanh mặt trời mặt trăng và cả tinh thần. Nghĩa bóng: Đại ý nói Trung Quốc là nước lớn rộng như trời biển bao bọc cả trời xanh mặt trời mặt trăng và cả các vì sao, so nước Việt thì nước Việt nhỏ bé)
Mạc Đĩnh Chi đối lại như sau: Hàn thượng phân kim chỉ địa quát đông tây nam bắc (Nghĩa là: Trên mâm chia vàng chỉ xuống đất bao quát cả đông tây nam bắc. Nghĩa bóng: Trên một cái mâm chia vàng ai cũng được chia như nhau không cậy lớn mà chia ít cho người khác chỉ xuống đất bao quát thấu suốt được 4 phương đông tây nam bắc, nói cách khác không thể khinh nước nhỏ mà ăn hiếp được)

2 - Đối đáp với Hoàng Đế Nguyên Vũ Tông:

  • Đến khi thiết triều, vua Nguyên thấy sứ An Nam thấp lùn xấu xí liền ra một vế đối: Lị Mị Võng Lưỡng tứ tiểu quỷ (dịch nghĩa: Lị, Mị, Võng, Lưỡng là 4 con quỷ nhỏ) thiên tử có ý chê Mạc Đĩnh Chi hình dung xấu như quỷ, hơn nữa lại chơi chữ bởi các chữ lị [魑], mị [魅], võng [魍], lượng [魎] đều có bốn chữ quỷ [鬼] ở bên phải.
Mạc Đĩnh Chi đối lại: Cầm Sắt Tỳ Bà bát đại vương (dịch nghĩa: Cầm, Sắt, Tỳ Bà có 8 vua lớn) các chữ cầm [琴], sắt [瑟], tì bà [琵 琶] đều có tám chữ vương [王] đặt ở trên, phía trên là tên các loài quỷ phía dưới là tên các loại đàn. Vế đối này ông đã khéo chọn tên những cây đàn trong đó có 8 chữ vương. Chẳng những đã khéo tìm chữ đối lại với con số 4 mà lại có ý bảo ta đây là 8 vị đại vương chứ không phải 4 con quỷ nhỏ)
Sau này trong ca dao có những câu sau: "Cầm đàn gảy khúc nam thương, tì bà cầm sắt bát vương đối gì?" và "Khéo đưa sách cổ mà ôn, lị mị võng lượng bốn con quỷ ngồi" là lấy ý từ giai thoại đối đáp trên. Trong tiểu thuyết võ hiệp "Xạ điêu anh hùng truyện" của Kim Dung, tác giả đã dùng câu đối này đưa vào đoạn Quách Tĩnh cõng Hoàng Dung đi gặp Nam Đế chữa bệnh và thi thố với tứ đại đệ tử của ông là: Ngư, Tiều, Canh, Độc.
  • vua Nguyên tiếp tục ra một vế nữa: Quých tập chi đầu, đàm Lỗ luận: tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri (Chim chích đậu đầu cành, bàn sách Luận ngữ: biết thì nói là biết, không biết thì nói không biết, đó mới là biết - câu này dùng chữ trong Luận ngữ. Âm "i" nhại tiếng chim kêu líu lo, chọc âm của tiếng Việt)
Mạc Đĩnh Chi đáp lại: Oa minh trì thượng, độc Châu thư: lạc dữ thiểu nhạc lạc, lạc dữ chủng lạc nhạc, thục lạc? (Con ếch kêu trên bờ ao, đọc Châu thư: vui cùng ít người nhạc vui, vui cùng nhiều người nhạc vui, đằng nào vui hơn? - câu này dùng chữ trong Mạnh tử. Âm "ạc" nhại tiếng ếch kêu, chê giọng ồm ồm của người Tàu)
Không chỉ riêng câu đối mà còn qua rất nhiều những thử thách khác nữa, Thiên tử Nguyên triều và chư quan đều công nhận học vấn của Mạc Đĩnh Chi uyên bác và sắc phong ông làm Lưỡng Quốc Trạng Nguyên.

Hồ Quý Ly

  • Giai thoại đối đáp với vua Trần Nghệ Tông (1321 - 1394):
Trần Nghệ Tông tên thật là Trần Phủ, sinh tại kinh đô Thăng Long. Năm 1394, ông chiêm bao thấy Trần Duệ Tông đọc bài thơ: "Trung gian duy hữu xích chủy hầu, ân cần tiếm thượng bạch kê lâu, khẩu vương dĩ định hưng vong sự, bất tại tiền đầu tại hậu đầu". Dịch là: "Ở giữa chỉ có loài mỏ đỏ, lăm le lấn lên lầu gà trắng, khẩu vương đã định việc hưng vong, không ở trước mà ở về sau". Ông tự đoán: "xích chủy" (miệng đỏ) ám chỉ Quý Ly, "bạch kê" (gà trắng) là Nghệ Tông, vì ông tuổi Tân Dậu (1321); "khẩu vương" thì chữ khẩu và chữ vương là chữ "quốc"; việc nước còn hay mất sau sẽ thấy. Nghệ Tông biết ngày sau mình qua đời nhà Trần sẽ mất nước.

Hồ Qu‎ý Ly, trước có tên là L‎ê Qu‎ý Ly, tự là L‎ý Nguyên. Sau ông cướp ngôi nhà Trần, xưng là Quốc Tổ Chương Hoàng Đế, quốc hiệu Đại Ngu. Tương truyền Hồ Quý Ly lúc hàn vi thường theo cha nuôi họ Lê đi buôn đường biển, một lần thuyền ghé vào bờ, Quý Ly thấy trên bãi biển có ai vạch lên câu thơ: Quảng Hàn cung lý Nhất Chi Mai (Quảng Hàn cung nọ một cành mai). Quý Ly thấy hay liền nhẩm thuộc lòng câu thơ đó. Sau này làm quan một hôm hộ giá vua Trần Nghệ Tông đi chơi, nửa chừng ghé vào tránh nắng ở điện Thanh Thử, thấy trước điện rất nhiều cây quế, vua liền ra câu dối:

Thanh Thử điện tiền thiên thụ quế (Thanh Thử điện kia ngàn gốc quế)
Quy Ly chợt nhớ lại câu thơ trước đây liền đọc luôn: Quảng Hàn cung lý Nhất Chi Mai
Nghe xong, các quan đều tán thưởng tài văn chương của Hồ Qu‎ý Ly. Vua Trần vừa phục, vừa thấy lạ lùng bởi nhà vua có một người em gái là công chúa Nhất Chi Mai (Huy Ninh). Nàng đang để tang chồng là Phó kỳ lang Trần Nhân Vinh mới bị giết, vua cho xây dựng cung cấm rất kín đáo để em gái tiện cư tang, không tiếp xúc với bên ngoài nên kể cả các quan gần gũi cũng rất ít người biết. Vua hỏi Hồ Qu‎ý Ly tại sao lại biết được việc kín trong cung, rồi chuyện tòa lầu của công chúa ở là cung Quảng Hàn do chính vua đặt tên? Hồ Qu‎ý Ly cứ thật tình tâu bày chuyện câu thơ năm xưa trên bãi biển, vua cho đó là duyên trời định bèn hứa sau khi em hết tang ba năm sẽ cho tái giá với Quý Ly.
  • Câu đối với tướng quốc Hồ Nguyên Trừng (1374 - 1446):

Hồ Nguyên Trừng, tự là Mạnh Nguyên, hiệu Nam Ông là người huyện Vĩnh Phúc, lộ Thanh Hoa (nay thuộc tỉnh Thanh Hóa). Ông là con trai cả của Hồ Quý Ly, và là anh của Hồ Hán Thương. Đầu năm 1400, cha ông lên ngôi vua, Hồ Nguyên Trừng được cử làm Tả tướng quốc. Năm 1407, cả ba cha con đều bị quân Minh bắt, áp giải về Kim Lăng (Nam Kinh, Trung Quốc). Biết được Hồ Nguyên Trừng có tài, Minh Anh Tông cho ân xá. Sau này, Hồ Nguyên Trừng được thăng chức Công bộ Thượng thư. Tương truyền, Hồ Quý Ly định nhường ngôi cho Hồ Hán Thương nhưng còn e ngại người con cả là Hồ Nguyên Trừng. Một hôm, Quý Ly ngụ ý vào cái nghiên mực bằng đá, ra một vế đối để dò xét Nguyên Trừng:

vế ra: Thử nhất quyền kỳ thạch, hữu thời vi vân vi vũ, dĩ nhuận sinh dân! (Viên đá nhỏ bằng nắm tay, mà có lúc làm mây, làm mưa, nhuần tưới nhân dân)
Nguyên Trừng vốn không có ý tranh giành ngôi vua với em, nên cũng ngụ ý vào cây gỗ thông để nói tài mình chỉ đáng làm tôi giúp nước chứ không đáng làm vua, bèn đối lại như sau:
vế đối: Giá tam thốn tiểu tùng, tha nhật tác đống tác lương, dĩ phù xã tắc! (Cây thông bé chừng ba tấc, nhưng sau này làm cột làm xà, phù trì xã tắc)
Quý Ly xem câu đối rất hài lòng và yên tâm truyền ngôi cho Hồ Hán Thương

Quan nhà Minh và học trò Giao Chỉ

  • Lê Thúc Hiến và Thượng Thư Hoàng Phúc (1363 - 1440):

Hoàng Phúc tự là Như Tích, biệt hiệu Hậu Nhạc Ông, người Xương Ấp, Sơn Đông, là một đại thần triều Minh, từng được vua Minh Thành Tổ cử sang Đại Việt giữ chức Tán Quân Vụ để cai trị và truyền bá văn hóa Trung Hoa. Sử Việt Nam chép Hoàng Phúc sang Việt Nam hai lần, lần đầu ở Việt Nam suốt 18 năm, từ 1406 đến 1424. Lần thứ hai sang với tư cách trợ lý cho Liễu Thăng năm 1427. Như thế, trong bộ máy cai trị của nhà Minh đặt tại Đại Việt, Hoàng Phúc là người đứng đầu bộ phận dân sự. Ông mở trường để dạy cho các nho sinh Đại Việt. Nhân một hôm mưa bão nổi lên, nhà sập đổ, tường xiêu vẹo điêu tàn.

Trước đám học trò, Hoàng Phúc đọc: Tai chiêu phong vũ gia gia đồi hoại cựu viên tường (Hôm qua mưa gió nhà nhà sập đổ vách tường xiêu) và bắt học trò đối lại.
Câu này có ý gì sâu xa không? Lẽ nào chỉ là câu tả thực? Trong lúc mọi người đang suy ngẫm thì một nho sinh xin đọc: Kim nhật càn khôn xứ xứ phát sinh tân thảo mộc (Nay đất trời quang chốn chốn mọc lên cây cỏ mới).
Câu đối thật tài tình bởi quang cảnh đổ nát ở đây do mưa bão gây nên cũng như kẻ thù đã làm cho nước Nam điêu đứng. Cây cỏ mới mới mọc lên cũng như nhân tài Đại Việt sẽ sớm xuất hiện để khôi phục lại đất nước. Tác giả câu đối này là Lê Thúc Hiến, con trai của Lê Cảnh Tuân, ông bị quân Minh bắt giam ở Kim Lăng cùng với con trai Lê Thái Diêu đều chết ở trong ngục. Sau vụ này, Lê Thúc Hiến cùng với anh là Lê Thiếu Đính vào Lam Sơn chiến đấu dưới lá cờ Lê Lợi và đã lập nhiều chiến công hiển hách.
  • Phan Nhân với viên quan đô hộ nhà Minh:

Tại làng Phan Xá, Nghi Xuân, Hà Tĩnh có chàng hàn sĩ Phan Nhân bị quân Minh bắt về hầu hạ viên học quan Trung Quốc sang Đại Việt mở trường để truyền bá văn hóa Trung Hoa và ca ngợi công đức nhà Minh. Một hôm y ra một vế đối và bắt nho sinh Đại Việt đối lại:

Hồng lựu tự hỏa phi cầm lai vãng bất thiêu thân (Hoa lựu đỏ như lửa, chim bay qua lại thân chẳng bị thiêu).

Phan Nhân ứng khẩu đọc: Lục tảo như ti du lý phù trầm nan tước vĩ (Đám rêu xanh như tơ, cá lội nổi chìm đuôi chẳng bị vướng).

Vế ra viên quan nhà Minh muốn nói: Đạo quân của chúng tuy bề ngoài có vẻ hung dữ nhưng thực chất là đạo quân nhân nghĩa chẳng làm hại ai. Còn vế đối của Phan Nhân khẳng định rằng: Dù bị bủa vây nhưng không ngăn nổi ý chí tung hoành của người Đại Việt. Sau cuộc đấu trí này biết kẻ thù đang theo dõi mình, Phan Nhân đã trốn vào Lam Sơn theo Lê Lợi và đã lập được nhiều chiến công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Lê Thánh Tông

Lê Thánh Tông là vị vua mà tên tuổi và sự nghiệp vẻ vang đã gắn liền với giai đoạn cường thịnh của Việt Nam nửa cuối thế kỷ 15. Lê Thánh Tông tên thật là Hiệu, sau đổi là Tư Thành, hiệu Thiên Nam động chủ, con thứ tư Lê Thái Tông, mẹ là Ngô Thị Ngọc Dao. Trong gần 40 năm làm vua, ông đã đưa triều Lê phát triển tới đỉnh cao về mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế, quốc phòng, văn hóa. Sử gia Ngô Sĩ Liên khen Lê Thánh Tông là "vua sáng lập chế độ, mở mang đất đai, bờ cõi khá rộng, văn vật tốt đẹp, thật là vua anh hùng, tài lược".

Tự thuật và viết hộ người dân

1 - Câu đối tự thuật:

Tam nhân đồng hành tất hữu ngã (Ba người cùng đi tất trong đó có tôi)
Thiên lý nhi lai diệc lợi ngô (Ngàn dặm xa tới chắc hẳn có lợi cho tôi)

2 - Những câu đối viết hộ người dân:

  • Vào tối 30 Tết năm nọ, vua Lê Thánh Tông giả làm chân học trò đi dạo xem các câu đối ở kinh thành. Chợt qua cửa nhà một người đàn bà làm nghề thợ nhuộm, thấy không có câu đối, nhà vua lấy làm lạ ghé vào thăm hỏi. Người đàn bà kêu là goá chồng, con trai là học trò nhỏ chưa biết làm câu đối. Nhà vua liền bảo lấy giấy hồng điều và bút mực, rồi vua hạ bút viết hộ một câu đối như sau:
天下青黃皆我手 Thiên hạ thanh hoàng giai ngã thủ (Xanh vàng thiên hạ đều tay mỗ)
朝中朱紫總吾門 Triều trung chu tử tổng ngô môn (Đỏ tía trong triều bởi cửa ta)
Mấy hôm sau, Thượng thư đương triều là Trạng nguyên Lương Thế Vinh đi chầu qua nhà thợ nhuộm thấy câu đối có khẩu khí như vậy thì hoảng hốt vô cùng. Vào triều, họ Lương tâu với vua rằng ngoài phố có nhà ấy nhà nọ có ý muốn làm bá chủ thiên hạ, cần phải cho người đi dò xét. Lê Thánh Tông nghe xong, phì cười, nhận câu đối đó là do chính tay mình viết hộ, khiến Thượng thư họ Lương bị một phen chưng hửng. Nhưng sau đó, quan Thượng thư thầm nghĩ rằng nhà thợ nhuộm mà Tết nhất lại được Thiên tử ngự giá đến, hẳn sau này con cháu phải giàu sang lắm, bèn đem ngay cô con gái út đến gả cho con trai nhà thợ nhuộm. Có thuyết khác lại nói đôi câu đối này do vua Thiệu Trị tặng hàng thợ nhuộm.
  • Vào một dịp tết khác, vua Lê Thánh Tông lại ăn mặc giả làm thường dân đi chơi phố phường kinh đô để xem xét dân tình. Đi tới đâu nhà vua cũng thấy la liệt những câu đối ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị, nhà vua rất hài lòng. Riêng nhà nọ, chẳng treo đèn kết hoa, cũng chẳng có đối liễn gì hết. Vua rẽ vào hỏi, chủ nhà trả lời rằng: "Chả nói giấu gì bác, nhà cháu làm cái nghề hèn hạ quá, nên chẳng dám phô phang gì với phố phường cho thêm tủi!" Vua ngạc nhiên nói: "Sao lại có nghề gì là nghề hèn hạ?" Chủ nhà cứ thật thà trả lời: "Dạ, nhà cháu chỉ chuyên đi hót phân người để bán thôi ạ!" Nhà vua nghe xong, cười bảo: "Ồ, nếu vậy nhà bác đây là sang trọng bậc nhất, mà nghề của bác cũng vẻ vang bậc nhất. Câu đối của bác nếu dán lên cũng hay bậc nhất, việc gì mà lại kêu là hèn!" Rồi vua gọi lấy giấy bút, viết giùm cho một đôi câu đối như sau:
身衣一戎衣能擔世間難事 Thân nhất nhung y đởm thế gian chi nan sự (Khoác chiến bào, lo toan những việc khó khăn trên đời)
手持三尺劍盡收天下人心 Tri tam xích kiếm thu thiên hạ chi nhân tâm (Cầm ba thước gươm, thu tấm lòng mọi người trong thiên hạ)
  • Lê Thánh Tông trong ngày cuối năm đã mặc giả thường dân, ra ngoại thành xem dân tình chuẩn bị Tết. Nhà vua ghé thăm một quán bán trầu nước, thấy gia đình neo đơn, chưa hề có không khí đón Tết, đã tự tay viết giúp bà chủ quán đôi câu đối đỏ hoàn toàn bắng tiếng mẹ đẻ treo trước cửa hàng:
Nếp giầu quen thói kình cơi, con cháu nương nhờ vì ấm
Việc nước ra tay chuyên bát, Bắc Nam đâu đấy lại hàng
Câu đối trên miêu tả một quán bán trầu nước mà ta thường gặp, có đủ giầu (cau), cơi (trầu), ấm, nước, bát, hàng… nhưng lại mang khẩu khí của bậc đế vương: “Việc nước ra tay chuyên bát, Bắc Nam đâu đấy lại hàng”

Đối đáp trong đời thường

  • Đối đáp với Trường Lạc Hoàng Hậu Nguyễn Thị Ngọc Hằng:

Một lần, hoàng tử Lê Tư Thành dạo chơi trên sông đào vùng Tống Sơn (thuộc Thanh Hóa) tình cờ gặp một cô gái đang vo gạo bên bến nước. Vốn hay chữ, hoàng tử buột miệng đọc: Gạo trắng nước trong, mến cảnh lại càng thêm mến cả

Không ngờ gặp cao thủ, cô gái nghe được liền đối lại: Cát lầm gió bụi, lo đời đâu đấy hãy lo cho
Cả hai đều sử dụng nghệ thuật tàng tự, chữ ẩn không nói ra nhưng ai cũng hiểu. Cô gái ấy là Ngọc Hằng, con gái một vị quốc công, mẹ bị tình phụ nên phiêu dạt đến xứ Thanh. Sau này Lê Thánh Tông lên ngôi và nàng Ngọc Hằng trở thành hoàng hậu
  • Đối đáp với Trạng Lường Lương Thế Vinh (1441 - 1496):

Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên khoa Quý Mùi. Cuộc đời 32 năm làm quan, đều ở Viện hàn lâm, trải thăng đến chức Hàn lâm Thị thư chưởng Hàn lâm viện sự. Một lần, vua Lê Thánh Tông đi kinh lý vùng Sơn Nam hạ, ghé thăm quê hương của Lương Thế Vinh, lúc bấy giờ Trạng Lường cũng đang theo hầu nhà vua. Hôm sau vua đến thăm chùa làng, khi ấy, sư cụ đang bận tụng kinh. Bỗng sư cụ đánh rơi chiếc quạt xuống đất. Vẫn tiếp tục tụng, sư cụ lấy tay ra hiệu cho chú tiểu cúi xuống nhặt, nhưng một vị quan tùy tòng của Lê Thánh Tông đã nhanh tay nhặt cho sư cụ. Vua Lê Thánh Tông trông thấy vậy, liền nghĩ ra một vế đối, trong bữa tiệc hôm đó đã thách các quan đối:

塘上誦仱師使使 Đường thượng tụng kinh sư sử sứ (Trên bục tụng kinh sư khiến sứ, tức là nhà sư sai khiến được quan. Nội dung câu đối ra không khó, nhưng oái ăm ở ba chữ đồng âm liên tiếp nhau là sư, sử, sứ)
Trạng nguyên Lương Thế Vinh cứ để cho các quan viên khác suy nghĩ chán chê, ông ung dung ngồi uống rượu chẳng nói năng gì. Vua Lê Thánh Tông quay lại bảo đích danh ông phải đối, với hy vọng đưa ông đến chỗ chịu bí, nhưng ông chỉ cười trừ. Một lúc ông cho lính hầu chạy ngay về nhà mời vợ đến. Bà trạng đến, ông lấy cớ quá say xin phép vua cho vợ dìu mình về. Thấy Vinh là một tay có tài ứng đối mà hôm nay cũng đành phải đánh bài chuồn, nhà vua lấy làm đắc ý lắm, liền giục: "Thế nào? Đối được hay không thì phải nói đã rồi hẵng về chứ?" Vinh gãi đầu gãi tai rồi chắp tay ngập ngừng: "Dạ... muôn tâu, Thần đối rồi đấy ạ!" Vua và các quan lấy làm lạ bảo Vinh thử đọc xem.
Lương Thế Vinh liền chỉ tay vào người vợ đang dìu mình, mà đọc rằng: 前庭醉酒婦扶夫 Đình tiền túy tửu phụ phù phu (Trước sân say rượu, vợ dìu chồng. Trong vế đối cũng có ba chữ cuối đồng âm là phụ, phù, phu)
  • Giai thoại liên quan khác:

Đời Vua Lê Thánh Tông có 3 người cùng đỗ tiến sĩ một khoa là Thế Lịch, Thế Hiển và Thế Vinh. Tương truyền trước hôm truyền loa, vua nằm mộng thấy ba ông Phật thế tôn. Hôm sau, ba ông tân khoa vào lĩnh mũ áo, vua cho là ứng với mộng của mình, sai đặt tiệc thết đãi và đọc một câu rằng: Thế Lịch, Thế Hiển, Thế Vinh, tam thế đồng khoa vinh hiển lịch (Thế Lịch, Thế Hiển, Thế Vinh, ba ông Thế đỗ một khoa cùng vẻ vang, rạng rỡ)

vế đối: Quốc Quang, Quốc Đỉnh, Quốc Bảo, tam quốc đề danh bảo đỉnh quang (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nguyễn Quốc Quang, Đặng Quốc Đỉnh, Nguyễn Quốc Bảo là 3 trong 19 vị đỗ tiến sĩ khoa Canh Thìn (1700). Nguyễn Quốc Bảo (1680-?) người xã Chi Nê huyện Chương Đức (nay thuộc xã Trung Hòa huyện Chương Mỹ tỉnh Hà Tây), Ông làm quan Hàn lâm Hiệu thảo. Đặng Quốc Đỉnh (1669-?) người xã Cát Xuyên huyện Hoằng Hóa (nay thuộc xã Hoằng Cát huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa), Ông làm quan Hiến sát sứ. Nguyễn Quốc Quang (1676-?) người xã Kim Đôi huyện Võ Giàng (nay thuộc xã Kim Chân huyện Quế Võ tỉnh Bắc Ninh), Ông làm quan Tự khanh, Thự Tham chính Nghệ An)
  • Câu đối khắc tại Thạch Bi sơn ca ngợi công đức của vua Lê Thánh Tông:

Thạch Bi Sơn còn gọi là Đá Bia, dân gian tương truyền là Núi Ông, thuộc dãy Đại Lãnh, cao 706m, nay thuộc địa phận xã Hòa Xuân Nam, huyện Đông Hòa tỉnh Phú Yên. Sự kiện lịch sử đầu tiên là cuộc Nam tiến của vua Lê Thánh Tông vào năm 1470, tiến quân đến tận chân núi Đèo Cả (Phú Yên) và sai lính khắc bia để làm ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Để tưởng nhớ công ơn của vị thánh quân này, nhân dân Phú Yên đã lập đền thờ tại thôn Long Uyên (Tuy An) với hai câu đối:

Giang sơn khai tác hà niên, phụ lão tương truyền Hồng Đức sự
Trở đậu hinh hương thử địa, thanh linh trường đối Thạch Bi cao

Nghĩa:

Giang sơn khai thác năm nào, phụ lão còn truyền công Hồng Đức
Lễ kính hương thơm đất ấy, danh thiêng muôn thuở ngọn Đá Bia

Dương Nghiêu Trư

Họ Dương ở làng Dừa thuộc tỉnh Hà Nam (Bắc Việt) là một gia tộc có nhiều người làm quan to. Đến đời ông Dương Đình Lương thì xa xút, phải làm nghề bán thịt. Một hôm, Lương ông đi lễ ở cái miếu đầu làng về thì gặp một ông cụ già vai đeo khăn gói, tay chống gậy, hỏi thăm nhà trọ. Lương ông mời khách về nhà, tiếp đãi chân thành. Chủ lưu khách lại vài hôm, không ngờ ông khách ở lại luôn ba tháng, ngày nào cũng chống gậy đi chơi hết gò này sang đống nọ, hết ruộng nọ lại đến ao kia. Hóa ra ông đi xem địa lý, ông chính là Tả Ao. Thấy Lương ông phúc hậu, Tả Ao muốn đáp ơn, quyết định ở lại để tìm cho Lương ông một ngôi đất quý. Lương ông đặt ngôi mộ của thân phụ ông ở đó, được một năm thì Lương bà có thai, đứa con ấy là Trạng Lợn Dương Nghiêu Trư sau này.

  • Trạng Lợn và ông khách:

Tương truyền lúc nhỏ theo cha làm nghề thịt lợn, lại đẻ vào tháng 10 tức tháng Hợi nên đặt tên là Dương Nghiêu Trư và thường gọi là cậu Lợn (chữ Hán “Trư” nghĩa là lợn). Ông bản tính nhanh nhẹn, thông minh, lúc nhỏ có lần cùng bố đi bắt lợn, gặp kiệu ông Nghè vinh quy, Trư hỏi: "Ông gì thế bố". Người cha đáp: "Ông Trạng!" Trư nói: "Lớn lên con cũng làm ông Trạng!" Từ đó đi chơi với trẻ trong làng, ông đều khoe: "Ta là quan Trạng!"

Một lần có người khách thấy vậy liền lỡm: Trạng dở hay trạng nguyên
Trạng Lợn trả lời: Khách quen hóa khách lạ
  • Trạng Lợn và Phấn Khanh:
cô gái tên là Phấn Khanh ra vế trước: 八刀分米粉 Bát đao phân mễ phấn (nghĩa là "tám đao chia hột gạo", nhưng vấn đề ở chỗ trên chữ "bát" dưới chữ "đao" bên trái chữ "phân" là chữ Phấn chính lại là chữ đầu tên của cô gái)
Trạng Lợn đối lại: 千里重金鍾 Thiên lý trọng kim chung (nghĩa là "nghìn dặm nặng chuông vàng", cũng ý rằng trên chữ "thiên" dưới chữ "lý" bên trái chữ "kim" là chữ Chung là tên tự của Trạng Lợn là Chung Nhi)
Giai thoại này như sau: Trạng Lợn đi hỏi vợ gặp phải cô gái tên Phấn Khanh hay chữ liền đem tên của mình ra vế đối, vì chưa nghĩ ra được nên ông khất khi nào lên kinh ứng thí về sẽ đối. Khi lên đến kinh, vua Lê Thánh Tông thấy anh này tên là Chung Nhi mới chiết tự chữ Chung để ra câu đối, Trạng Lợn nhớ đến câu đối của cô gái liền đem ra trả lời được vua ban thưởng. Về đến làng, anh ta lại đem câu của vua Lê Thánh Tông đối lại câu của nàng Phấn Khanh, thế là vẹn cả đôi đường vừa được quan chức bổng lộc lại vừa được vợ mà không phải đối đáp gì cả.
  • Trạng Lợn và Tú Cát:

Trong làng cậu bé Chung Nhi có một người hay chữ nhưng tính tình kiêu ngạo, đi đâu cũng khoe khoang, tên gọi là ông Cứt. Sau này ông đỗ Tú Tài, vì thấy tên xấu nên đổi gọi là Cát, thiên hạ vẫn gọi là Tú Cát. Tất nhiên, từ nhỏ Chung Nhi đã ghét những người có bản tính như vậy. Một hôm, Chung Nhi đang đứng xem đàn lợn ăn cám thì Tú Cát đi qua. Đã được nghe người ta đồn đãi về thần đồng này, Tú Cát không ưa gì nên ông ta ra vẻ kẻ cả gọi đến bảo: "Ta nghe thiên hạ đồn mày là đứa thông minh, ứng đáp rất giỏi. Bây giờ ta ra cho mày một vế đối, nếu mà không đối được thì sẽ biết tay. Nhất định ta sẽ đánh đòn cho chừa các tật láo, nghe chưa!"

Nói xong, Tú Cát liền gật gù đọc: Lợn cấn ăn cám tốn
Đây là một câu đối rất hắc búa bởi "Cấn" và "Cám" vừa chỉ lợn và thức ăn của lợn, lại vừa là hai quẻ trong kinh Dịch, người có học nhiều còn thấy khó.
Chung Nhi đối ngay: Chó khôn chớ cắn càn
Quả là một vế đối vừa chỉnh vừa có ý xỏ xiên. "Khôn" và "Càn" cũng là hai quẻ trong kinh Dịch, Quỳnh lại còn ngầm ý chưởi Tú Cát là đừng có mà rắc rối. Bị thằng nhỏ hơn mình chơi lại một đòn đau, Tú Cát tức lắm, hầm hầm bảo: "Được để coi mầy còn thông minh đến cỡ nào. Tao còn một vế nữa, phải đối ngay thì tao phục!"
Nói xong Tú Cát đọc ngay: Trời sinh ông Tú Cát!
Vế vừa ra mang tính cách ngạo nghễ, phách lối.
Nào ngờ, Chung Nhi chỉ ngay xuống đất, dưới lớp phân heo đùn lên những ụ nhỏ mà đáp: Đất nứt con bọ hung!
Đến nước này thì dù tức đến hộc máu mồm, Tú Cát cũng đành cút thẳng. Những vế đối trên người sau thường gán ghép cho Trạng Quỳnh.

Giai thoại và câu đối liên quan đến Trạng Vít Vũ Kiệt

Vũ Kiệt quê ở làng Cửu Yên, xã Yên Việt, huyện Siêu Loại, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc (nay là thôn Cửu Yên thuộc xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh), đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Thìn (1472) đời Lê Thánh Tông. Do ngôi làng quê ông có tên Nôm là làng Vít nên dân gian quen gọi Vũ Kiệt là Trạng Vít (Trạng làng Vít). Sau khi làm quan một thời gian, Vũ Kiệt vì buồn chán đã treo ấn từ quan về quê xuất gia tu hành tại chùa Kênh (nay thuộc xã Cao Đức, huyện Gia Bình, Bắc Ninh). Ý định xuất gia đầu Phật, xa lánh việc thị phi ở chốn quan trường cùng những ganh đua danh lợi của người đời tưởng chừng đã đạt được, thế nhưng, thực tế trong tâm trí của Vũ Kiệt vẫn không dứt hẳn được những trăn trở, mong muốn cống hiến cho dân, cho nước của mình.

Ở làng Mèn (nay là làng Mãn Xá, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh) có một cô gái xinh đẹp, giỏi giang biết được tâm sự ấy đã tìm cách tiếp cận nhà sư Vũ Kiệt. Một hôm nhân lúc vắng vẻ cô gái đọc vế đối thăm dò:

“Con công đi qua chùa Kênh, nó nghe tiếng cồng nó kềnh cổ lại”.

Biết ý cô gái khuyên mình đừng nên xa lánh cuộc đời, nhưng Vũ Kiệt từ chối, tỏ vẻ không còn tha thiết với cuộc đời trần tục:

“Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi xuống cọc, nó cạch đến già”.

Mặc dù bị khước từ, nhưng cô gái vẫn không chịu bỏ cuộc, vào một hôm rằm cô mang lễ lên chùa cúng Phật sau đó nhìn nhà sư rồi đọc mấy vần thơ:

Tội gì ở chốn dưa rau,
Về nhà trên trướng dưới lầu thảnh thơi.
Đêm nằm có thiếp sánh đôi,
Chồng loan, vợ phượng hơn đời Hán gia.
Tu hành chi đến cõi già,
Đường sang Tây Trúc biết là có không?

Người ta thường có câu “Anh hùng khó qua ải mỹ nhân”, trước tình cảm của cô gái làng Mèn, trái tim của Vũ Kiệt đã rung động, sau đó ông từ giã đường tu tiếp tục dấn thân, góp sức vào việc dân, việc nước và làm lễ hỏi cưới cô gái kia, sống đời hạnh phúc bên người vợ yêu của mình:

Nghe lời nàng nói vừa lòng,
Trời xuân thắt chặt chữ đồng cả hai.
Đẹp đôi gái sắc, trai tài,
Gương soi in bóng, phấn trời điểm trang.
Xuân hè khéo nở một hàng,
Gái trai đầy đủ rộn ràng đình vi.

Sau khi hoàn tục, Vũ Kiệt làm quan trải nhiều chức vụ dần dần được thăng tới chức Hàn lâm viện thị thư, Tả thị lang kiêm Đông các hiệu thư.

Đỗ Nhuận

Đỗ Nhuận người thôn Bạch Đa, xã Kim Hoa, phủ Bắc Hà thuộc phủ Kinh Bắc. Nay là xã Kim Hoa, huyện Mê Linh, Hà Nội. Năm Bính Tuất (1466) đời vua Lê Thánh Tông, Đỗ Nhuận đỗ đệ Tam giáp đồng tiến sĩ, khi đó ông 20 tuổi. Đỗ Nhuận được vua Lê Thánh Tông yêu quý, thường đàm đạo chuyện thơ phú, chuyện sách vở, chuyện đời, chuyện người mỗi khi rảnh rỗi (lúc đó Đỗ Nhuận đã giữ chức Đông các Đại sĩ Nhập nội phụ chính). Tháng 11 năm Ất Mão (1495), vua Lê Thánh Tông lập Hội Tao Đàn gồm có 28 người ứng với 28 vì sao trên trời gọi là Tao Đàn nhị thập bát tú. Lê Thánh Tông làm Nguyên Suý, Đỗ Nhuận cùng tiến sĩ Thân Nhân Trung được cử làm Phó Nguyên Suý, Trạng nguyên Lương Thế Vinh làm Sái Phu Tao Đàn.

  • Bữa đó, Đỗ Nhuận trọ học ngoài tỉnh, một lần dạo phố thấy một cô gái đẹp liền lẽo đẽo theo sau đến tận cổng. Cô gái vào nhà rồi, Hòe lân la hỏi xung quanh mới biết đó là nhà của một vị quan về hưu. Hòe hôm sau đến gõ cửa nhà nọ, nói là học trò dọc đường khát quá, nên mạo vào xin nước. Chủ nhà vốn xuất thân nho học, nên rất yêu mến học trò, liền dẫn Nhuận vào mời cùng uống trà. Thấy Nhuận đối đáp nhõ nhã, ông rất thích. Nhân hai người ngồi đối diện với bức tranh sơn thủy treo trên vách, ông bèn đọc một câu đối, ý cũng muốn thử tài:
Quải thư bích thượng, tận thu tứ hải sơn hà (Treo tranh trên vách, thu hết non sông bốn bể)
Nhuận nghĩ mãi không đối được, bí quá vờ đánh đổ trà lên chân, rồi xin phép ra rửa chân, tính bài từ đó... chuồn ra cổng. Ra đến ao, khuya chân xuống nước, bóng nước lay động làm hình ảnh rung rinh, lóng lánh, Hòe chợt nảy ý hay, bèn quay lại đối:
Tẩy túc trì trung, dao động cửu thiên tinh đẩu (Rửa chân trong ao, lay động trăng sao chín trời)
Có thuyết khác nói rằng vế đối trên là của Nguyễn Hoè cũng người thời Hậu Lê.
  • Lần khác, có khách đến nhà Đỗ Nhuận chơi, gặp lúc cha Đỗ Nhuận đi vắng. Thấy cậu bé nhanh trí đối đáp nhanh nhảu, sáng ý hơn người, khách thấy lạ. Để đánh quỵ thằng bé về chữ nghĩa, nhân khi người nhà Đỗ Nhuận mang bắp ngô luộc lên mời ông khách, ông liền ra câu đối:
vế ra: Ngô là ta, ta ăn bắp ngô với trẻ
Đỗ Nhuận không cần nghĩ ngợi đối luôn: Phụ là bố, bố nhường đậu phụ cho con
Có thuyết khác nói vế đối này là của cử nhân Trương Khắc Nhượng ở làng Thanh Nê (nay là xã Tán Thuật tỉnh Thái Bình) đối đáp với cha

Đàm Thận Huy và học trò

Đàm Thận Huy hiệu là Mặc Trai, tự là Mặc Hiên Tứ, thụy là Trung Hiến, người làng Hương Mạc (còn gọi là làng Me), huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm 28 tuổi ông thi đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân năm 1490 đời vua Lê Thánh Tông. Ông làm quan đến chức Tán trị công thần Lễ bộ Thượng thư, Tú Lâm Cục kiêm Hàn Lâm Viện Thị Độc trưởng Hàn Lâm Viện Sư, Thiếu bảo Nhập Thị Kinh Diên tước Lâm Xuyên Bá. Đàm Thận Huy trong số các tướng tập hợp được 6.000 nghĩa binh ở vùng Bắc Giang chống lại Mạc Đăng Dung để giúp Chiêu Tông. Năm 1525, vua Chiêu Tông bị Đăng Dung bắt. Đàm Thận Huy đã tuẫn tiết ở vùng Yên Thế, Thương Hạ (Bắc Giang). Năm đó Đàm Thận Huy 64 tuổi.

  • Một hôm, trời mưa to nên đã đến giờ tan học mà các học trò vẫn phải nán lại chưa thể về được, nhân đó Đàm Thận Huy ra vế đối cho các học trò.
Vế ra: 雨無鈐鎖能留客 Vũ vô kiềm tỏa, năng lưu khách (Mưa, dù không xích không khóa, cũng có thể giữ chân khách ở lại)
Nguyễn Giản Thanh đối: 色不波濤易溺人 Sắc bất ba đào, dị nịch nhân (Sắc đẹp, dù chẳng phải sóng gió, cũng dễ làm cho người ta chìm đắm. Câu đối lấy ý từ điển cố Trung Hoa: đời vua Minh Huệ Đế, Trần Hoá Chiêu ở huyện Tế Hàng, tỉnh Sơn Đông có người vợ là Lương Tiểu Nga rất xinh đẹp. Ở cùng huyện có nhà phú hộ tên là Trát Hiếu Sắc. Hiếu Sắc thấy Tiểu Nga đẹp, tìm cách kết bạn với Hoá Chiêu. Lập tâm chiếm cho được vợ bạn, Hiếu Sắc bỏ ra rất nhiều tiền để giúp bạn trong việc làm ăn hoặc lúc nguy khốn. Qua hai năm, sau khi chiếm được cảm tình của nhà bạn, Háo Sắc rủ Hoá Chiêu ngồi thuyền đi buôn, mọi vốn liếng đều do mình chịu cả. Thuyền đi một tháng đến Hàng Châu, Hiếu Sắc phục rượu cho Hoá Chiêu say rồi xô xuống biển. Mấy lần Hoá Chiêu trồi lên đều bị tên phản bạn nhấn xuống cho chìm, cuối cùng chàng phải vùi thây dưới đáy biển. Chừng ấy, Hiếu Sắc mới tri hô lên cho bè bạn hay và mượn thuyền đến vớt bạn nhưng không được. Hiếu Sắc cho thuyền trở về, khóc lóc báo tin dữ cho mẹ và vợ Hoá Chiêu, bỏ tiền cúng bái và cùng Tiểu Nga để tang. Từ đó, Hiếu Sắc càng tỏ ra hết lòng lo lắng mọi việc nhà cho vợ bạn khiến mẹ Hoá Chiêu cảm động và ép dâu là Tiểu Nga ưng Háo Sắc làm chồng đền công ơn giúp đỡ. Hai người ăn ở với nhau ít lâu, nhân vô ý, Hiêú Sắc để lộ việc mình âm mưu hại bạn. Tiểu Nga đến huyện đường đầu cáo và trả được thù cho chồng cũ. Nhưng nàng nhận thấy vì nhan sắc của mình mà cả hai người chồng đều bị chết, Tiểu Nga thắt cổ tự tử)
Đàm Thận Huy nhận xét: "Câu đối này thật hay và thật chỉnh, văn khí này có thể đậu Trạng nguyên, nhưng về sau coi chừng việc sắc dục làm hại sự nghiệp". Quả nhiên, Nguyễn Giản Thanh làm quan đến Lễ Bộ Thượng Thư kiêm Hàn lâm viện Thị độc, Chưởng viện sự, tước Trung Phụ bá, nhưng vì say đắm cô gái đẹp ở kinh thành mà đến ô danh bại giá.
Nguyễn Chiêu Huấn đối: 月有彎弓不射人 Nguyệt hữu loan cung bất xạ nhân (Trăng có cung loan mà không bắn người)
Đàm Thận Huy đánh giá: "Câu này kém sắc sảo, không hay bằng câu kia, nhưng tỏ ra khí chất hiền hoà, sau này sẽ làm nên, cuộc sống sẽ chu toàn! Người này làm quan thanh liêm, bản chất lương thiện rất được lòng dân". Đàm Thận Huy thích câu của Nguyễn Chiêu Huấn có ý trung hậu, ông bèn gả con gái lớn là Thúy cho ông học trò hiền lành này. Đến khoa thi, nghe tin Nguyễn Giản Thanh đỗ trạng nguyên, ăn khao hơn một tháng trời. Thấy vợ hối tiếc mãi, Đàm Thận Huy bảo rằng “Anh này đỗ trạng nguyên thì anh kia rồi cũng phải đỗ bảng nhãn. Tuy kém hơn, nhưng bụng nó trung hậu, con cháu chắc sẽ khá hơn nhiều.” Sau khoa thi kế tiếp, lúc Đàm Thận Huy đang tắm ngoài ao thì nghe tin con rể Huấn vừa đỗ tiến sĩ. Ông không kịp mặc quần áo, cứ thế chạy về nhà hô to với cụ bà rằng “Huấn cũng đỗ ông nghè rồi đấy!” Đến khi xướng danh, quả nhiên ông Huấn đỗ bảng nhãn.
Lại một trò nữa (khuyết danh) lên tiếng: Phân bất uy quyền dị khủng nhân (Cục cứt chẳng có uy quyền gì mà khiến người ta phải sợ)
Đàm Thận Huy cho rằng người đối câu này về sau tuy rất giàu có nhưng lại keo kiệt bủn xỉn, kết quả người học trò kia sau cũng vào bậc hào phú trong vùng, nhưng ai cũng chê là hạng thô lỗ, bỉ ổi.
vế đối khác: Phước hữu diên trường tự thiện căn (Nguyễn Sư Giao).
Vế đối khác: Phong bất cử sừ nại khiết sơn (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Ý vế đối là gió không phải cuốc bừa mà làm mòn cả núi. Vế đối lấy ý từ bài hát "Biển nỗi nhớ và em" lời thơ Hữu Thỉnh nhạc Phú Quang.
  • Lần khác, Đàm Thận Huy lại ra vế đối với một lớp học trò khác:
Vế ra: Thư là sách, sách để trên án thư
Một học sinh đối: Kiếm là gươm, gươm treo vào giá kiếm
Người nữa đối: Phạn là cơm, cơm đựng trong bình phạn
Đàm Thận Huy phân tích: "Một người sẽ làm tướng quân lập nhiều chiến tích lớn nơi sa trường, còn gã kia có của nhưng chỉ là hạng tham ăn tục uống mà thôi".

Hứa Tam Tỉnh

Hứa Tam Tỉnh người xã Như Nguyệt, huyện Yên Phong (nay thuộc xã Tam Giang huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh), đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh khoa Mậu Thìn niên hiệu Đoan Khánh năm thứ 4 (1508) đời vua Lê Uy Mục, từng được cử đi sứ (năm 1516) sang nhà Minh (Trung Quốc). Sau, ông ra làm quan với nhà Mạc, lại được cử đi sứ sang nhà Minh. Khi trở về, ông được thăng Thượng thư Bộ Lại, hàm Thiếu bảo, tước Đôn Giáo bá, về trí sĩ. Tương truyền Hứa Tam Tỉnh lúc còn trẻ tương tư con gái của một Vị Quan Thượng Thư, bà mẹ vì thương Trạng nên đánh liều đến năn nỉ Quan Thượng, Quan Thượng cho gọi vào. Thoạt thấy Trạng, Quan Thượng không hài lòng vì Trạng vừa lùn vừa ốm, da thâm như chì chỉ có đôi mắt là tinh anh và đối đáp về sách vở rất lưu loát. Quan cho mời Thầy về dạy thêm và chẳng bao lâu Trạng đỗ thủ khoa kì thi hương được Quan cho phép thành thân cùng con gái mình. Tối hôm động phòng, sắp bước vào buồng bị tiểu thư chơi ngặt đưa tay không cho vào, ra câu đối bảo đối được mới cho vô:

vế ra: Ốc lậu nguyệt xuyên hình như kê noãn tam tam tứ tứ (Nhà thủng bóng Trăng soi xuống trông hình như ba bốn trứng gà)
Thình lình bị chận nên "quê" tâm thần bị chi phối nên Ông không đối ngay được. Xấu hổ, bèn lững thững dạo bờ Sông. Gió mát trăng thanh nước như vui mừng lăn tăn gợn sóng..Tức cảnh sinh tình hốt nhiên Ông nảy ra ý đối bèn bươn bả vào nhà gỏ cửa phòng xin đối:
vế đối: Giang trường phong lộng, thế tự long lân điệp điệp trùng trùng (Sông dài gió thổi trông sóng lớp lớp như vẩy Rồng)
Tiểu thư nghe vế đối rất chỉnh và hay hơn cái vế "tam tam tứ tứ" của nàng nhiều, nên cười khúc khích, ngoắt tay cho Trạng vào. Hôm sau, nàng đem chuyện này kể lại cho cha nghe, Quan Thượng nghe xong vế đối liền bảo: "Cứ câu này thì sau này ắt hẳn nó sẽ đổ Trạng" và quả đúng như lời Quan Thượng đoán.

Sứ thần Đại Việt và Hoàng Đế nhà Minh

  • Sứ Thần Ngô Kính Thần và vua Minh Hiếu Tông:

Năm 1493, Ngô Kính Thần được Lê Thánh Tông cử đi sứ Trung Quốc. Tại Cung Đình vua Minh ra câu đối:

Nhật hỏa, Vân yên, bạch trú thiêu tàn Ngọc Thỏ. Nghĩa là: Mặt trời là lửa, mây là khói, ban ngày đốt cháy vầng trăng.

Ngô Kính Thần hiểu rõ dụng ý và mục đích đe dọa của vua Minh, ý bóng gió của câu này là kẻ mạnh sẽ thắng kẻ yếu, tức là Đại Việt phải thuần phục Thiên triều, cần phải khẳng định ý chí và sức mạnh quật cường của Đại Việt.

ông đọc: Nguyệt cung, Tinh đạn, hoàng hôn xạ lạc Kim Ô. Nghĩa là: Trăng là cung, sao là đạn, chiều tối bắn rơi mặt trời.
Vế đối lại thật giỏi về nghĩa về chữ. Lại thấy trăng lưỡi kiềm như cánh cung, những vì sao tròn như viên đạn, đây là sự hình dung thật tuyệt. Song, hay hơn cả là vế đối tỏ rõ sức cứng rắn của người nước Việt, không lời đe dọa nào làm cho run sợ, sẵn sàng đối phó với kẻ thù. Vế đối lại hình tượng sắc sảo, khí phách quật cường. Nếu người Minh dùng “lửa mặt trời” (NHẬT HỎA) để đốt cháy “trăng Đại Việt” (THIÊU TÀN NGỌC THỎ) thì dân Đại Việt lại dùng cái “cung mặt trăng” (NGUYỆT CUNG) để bắn rụng “mặt trời phương Bắc” (XẠ LẠC KIM Ô). Nghe xong vế đối, vua Minh nổi giận, ra lệnh bắt Ngô Kính Thần tống giam vào ngục. Trước đây, người ta vẫn gán vế đối này cho Mạc Đĩnh Chi đời nhà Trần.
  • Sứ Thần Giang Văn Minh (1573 - 1638) và vua Minh Tư Tông:

Thám hoa Giang Văn Minh sinh tại làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội). Năm 1637, vua Lê Thần Tông cử Giang Văn Minh làm chánh sứ sang Trung Quốc. Vào ngày khánh thọ của vua Minh, sứ giả các nước đến cống lễ thiên triều, chỉ mỗi sứ thần An Nam không thấy đâu. Vua Minh cho thị vệ đòi sứ giả đến hỏi, bọn lính đến nơi thấy sứ thần An Nam đang nằm trên giường, ôm mặt khóc. Đem lệnh tuyên triệu ra, ông mới gắng gượng đi vào triều kiến nhà vua. Sứ thần Đại Việt quỳ xuống tâu trình: "Chúng tôi tự biết việc dự lễ khánh thọ là hệ trọng, kính xin thánh hoàng lượng thứ cho. Nguyên do chỉ vì hôm nay lại đúng vào ngày giỗ tổ của thần. Thần được nhận trọng trách đi sứ xa quê hương lâu ngày, đến ngày giỗ tổ mà không thắp được cây hương tưởng niệm thì thấy xót xa trong dạ, vì vậy mà không thể nào tham dự được cuộc vui". Vua Minh liền ra một vế đối bảo đối được thì sẽ tha tội:

Vế ra là: Đồng trụ chí kim đài dĩ lục (Cột đồng đến nay rêu đã xanh)
Vế ra của vua Minh nhằm nhắc lại một sự kiện lịch sử của dân Đại Việt. Mã Viện là một viên tướng tài ba của vua Hán, đem quân sang đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng khiến 2 bà thất trận phải tự vẫn. Tục truyền sau khi thắng lợi, Mã Viện đã dựng: “Cột đồng Đông Hán” làm phân giới với lời tuyên bố: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”. Khi Minh Thành Tổ đánh bại nhà Hồ đã sai quân chặt gẫy cột đồng này, ở đây Minh Tư Tông gợi ra có ý muốn hỏi rằng cột đồng đó đâu mà rêu nay đã xanh, nghĩa là cột đồng đã gẫy mà sao Giao Chỉ chưa bị diệt
Giang Văn Minh đối: Đằng giang tự cổ huyết do hồng (Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ)
Giang Văn Minh không chịu kém nhắc cho vua Minh biết rằng nhiều sương máu của người phương Bắc vẫn còn đỏ cả sông Đằng vậy, tại sao dân Giao Chỉ vẫn chưa bị diệt đều do nguyên nhân ở đây cả. Máu vẫn đỏ là vì máu loang ra từ những trận Ngô Quyền diệt Hoằng Thao, Lê Hoàn diệt Hầu Nhân Bảo, Trần Hưng Đạo diệt Thoát Hoan. Không thể bắt bẻ gì về ngôn từ, vì nó quá chỉnh, còn nội dung quá sâu sắc bởi ba lần chiến thắng ở sông Bạch Đằng khiến cho kẻ thù phương Bắc phải kinh hồn bạt vía. Có thuyết nói rằng câu đối trên là của Phùng Khắc Khoan.

Vua Minh bừng bừng lửa giận, sai người mổ bụng xem “sứ thần An Nam to gan lớn mật đến đâu”. Sự việc này xảy ra vào ngày mồng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Minh Tư Tông cho ướp xác ông bằng bột thủy ngân và đưa thi hài ông về nước và được chôn cất tại Đồng Dưa, thuộc xứ Gò Đông, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm. Khi thi hài về đến Kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng bái kiến linh cữu ông và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang, tước Vinh quận công, ban tặng câu “Sứ bất nhục quân mệnh, khả vi thiên cổ anh hùng” (tức là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng thiên cổ). Dưới đây là đôi câu đối khắc trong nhà thờ ông:

Lễ nghĩa bách niên Mông Phụ ấp
Phong thanh thiên cổ Thám hoa môn”

Tạm dịch là:

Lễ nghĩa trăm năm làng Mông Phụ
Tiếng thơm nghìn thuở cửa Thám hoa

Sự tích và câu đối của “Trạng Tỏi” Nguyễn Đăng (1576 - 1657)

“Tứ Nguyên Nguyễn Đăng” sinh trong một gia đình nghèo khó ở một làng quê chuyên sống bằng nghề trồng hành, tỏi nên gọi là làng Tỏi xã Đại Toán, huyện Quế Dương (nay thuộc xã Chi Lăng, huyện Quế Võ), tỉnh Bắc Ninh. Khi còn nhỏ, nghe nói cụ nghè Nguyễn Đình Tuân, quê ở làng Võ, xã Quảng Bố, huyện Lang Tài là người hay chữ, dạy giỏi trong vùng, Nguyễn Đăng được gia đình đưa đến tận nhà xin theo học. Cụ nghè ra một câu đối, đối hay mới nhận làm môn sinh:

vế ra: Vó vé, te te, võng tiến sĩ
Vế này đặt ra ba yêu cầu hóc búa về nội dung: một là vó, te, võng là những đồ dùng sinh hoạt, làm ăn của nhà nông; hai là làng Vó, làng Te đồng thời là những nơi cụ nghè ở; ba là trong hoàn cảnh nơi thôn dã nghèo khó như vậy mà đã có ông nghè như thế đã chứng tỏ là nơi có truyền thống hiếu học
Nguyễn Đăng nghe xong đối ngay: Hành hành, tỏi tỏi, kiệu trạng nguyên
Vế đối của ông thật là lời hay ý đẹp, đáp ứng được cả 3 yêu cầu của vế ra: hành, tỏi, kiệu vừa là tên của rau, của các loại gia vị vừa là địa danh của quê ông. Trong điều kiện một làng quê chỉ có nghề trồng hành, tỏi, rau màu lặt vặt như vậy mà sanh ra một “quan trạng” thì thật hiếm thấy!

Nghe xong, cụ nghè khen hay và chấp nhận cho ông theo học. Về sau, Nguyễn Đăng thi đỗ giải nguyên qua các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình (khoa thi năm Nhâm Dần – 1602) lúc mới 26 tuổi và thủ khoa kỳ thi ứng chế (kỳ thi đặc cách do vua Lê Kính Tông mở). Ông được nhà vua tặng danh hiệu là “Tứ Nguyên”. Danh hiệu này có lẽ độc nhất vô nhị trong nước. Tuy nhiên, nhân dân địa phương quen gọi ông là “Trạng Tỏi”. Cụ nghè làng Vó mến tài ông ngay từ ngày đầu nhập học nên đã gả con gái của mình cho ông.

Lê Công Hành (1606 - 1661)

Lê Công Hành người làng Quất Động, huyện Thường Tín (Hà Tây), tên thật là Trần Quốc Khái, sau này được nhà Lê ban quốc tính họ Lê đổi thành Lê Công Hành. Thời vua Lê Chân Tông (1643 – 1649), ông đỗ Tiến sĩ và được cử đi sứ Trung Quốc. Do có công lao phổ biến, truyền nghề thêu, nghề lọng, nên sau ngày ông mất (12 tháng 6 năm Tân Sửu – 1661), nhân dân nhiều nơi đã làm đền thờ ông. Tương truyền, ngay từ khi còn niên thiếu, ông đã nổi tiếng thông minh. Có lần đi đắp đê, vì sức yếu, không vác được hòn đất to, ông bị chôn chân ở đê. Một viên quan thị đi qua, thấy vậy hỏi duyên cớ, ông khai là học trò sức yếu. Viên quan thị liền nói: "Nếu là học trò, ta ra cho một vế câu đối, đối được, ta tha cho về".

Viên quan thị đọc: Ông quan thị, cắm đường cái tiêu, trị hồng thủy, cho dân được cậy.
Lê Công Hành liền đối lại: Trai Quất Động, thi đỗ bảng nhãn, phù quân vương, phỉ chí mới cam.
Vế trên có bốn thứ quả: thị, (chuối) tiêu, hồng, cậy. Vế dưới cũng có bốn tên quả: quất, nhãn, (bồ) quân, cam. Quan thị vỗ ngực kể công thì cậu học trò cũng hiên ngang tỏ bày chí khí.
  • Câu đối được viết từ gia phả đã gợi lại hành trang của cụ:
Khoa bảng phương liên tiền đại Lý
Công hầu phong tặng cố triều Lê

Nguyễn Quốc Trinh (1624 - 1674)

Nguyễn Quốc Trinh người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, Trấn Sơn Nam Thượng (nay là xã Đại Áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội). Đỗ Trạng nguyên khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2 (1659), đời Lê Thần Tông. Làm quan đến Bồi tụng. Đi sứ Thanh bị giết hại, sau được truy tặng Binh bộ Thượng thư, Trì Quận Công. Vua cho tên thụy là Cường Trung và phong cho làm Thượng đẳng Phúc thần.

Tương truyền, Ông nội Nguyễn Quốc Trinh nhặt được túi vàng của một thầy địa lý người Tàu đánh rơi. Ông đem trả lại, thầy Tàu cảm ơn và tìm một mảnh đất gần đó bảo ông đem hài cốt của tổ tiên táng vào đó, và trồng bên cạnh mộ một cây hoa. Bao giờ thấy bên mộ cây hoa đơm hoa thì thắp hương khấn cầu khắc được. Nghe lời thầy Tàu, ông bố Nguyễn Quốc Trinh làm y như lời dặn. Vài năm sau vợ ông sinh được hai con trai, rồi ông qua đời. Hai anh em phải làm thuê làm mướn để lấy tiền đi học một thầy đồ nổi tiếng trong tổng. Một hôm người chị gái lấy chồng xã bên mang gạo tiền chu cấp thêm cho hai em thấy cả hai đứa đang mải mê gọt sáo diều bèn mách với thầy. Thầy đồ tức giận gọi vào cất tiếng: "Hai trò học bài xong chưa mà đã đi chơi vậy?" Nguyễn Quốc Trinh thưa: "Dạ, thưa thầy... anh em đâu có chơi mà ngồi ngẫm cho chữ nó chui xuống bụng ạ." Thầy giận dữ: "Ngươi chỉ giỏi biến báo, học mà tay không cầm sách...? Ta ra câu đối, nếu anh em ngươi không đối được thì ta sẽ phạt roi." Thầy chỉ vào người chị gái của Nguyễn Quốc Trinh vuốt râu cất tiếng:

Bất học hiếu du, vi tỉ giáo (Không học thích chơi, trái lời chị)

Nguyễn Quốc Trinh nhoẻn cười rồi lễ phép đối lại:

Đăng khoa cấp đệ, trọng sư danh (Đỗ khoa cấp đệ nổi danh thầy)

Thầy đồ tròn mắt nhìn Nguyễn Quốc Trinh: "Xưa nay ta vẫn nghĩ con nhà nông phu đi học chỉ may ra lấy được cái bằng Tú tài cho oai với làng xóm nào ngờ người lại hay chữ như vậy. Nếu hai trò chăm chỉ ta tin rằng cả hai anh em đều sẽ đỗ cao. Thôi từ nay ta nuôi cho cả hai anh em ăn học và không phải đi làm thuê làm mướn nữa."

Câu đối và giai thoại về bảng nhãn Hà Tông Huân (1697 - 1766)

Hà Tông Huân (1697-1766) quê ở Núi Vàng, làng Kim Vực (xã Yên Thịnh, huyện Thiệu Yên, Thanh Hóa ngày nay). Từ nhỏ đã được mọi người mệnh danh là "Thần dồng Kim Vực" vì thán phục trí nhớ siêu việt của ông. Đến tuổi niên thiếu, sau khi đã hấp thụ hết kiến thức của vị thầy đồ trong làng, Huân tìm đến thầy Trần Ân Chiêm, tục gọi quan Nghè Bón (vì ở làng Châu Bội hay làng Bón), sống tai xã Vĩnh Tường xin thụ giáo. Khoa thi năm Mậu Tuất (1718), Hà Tông Huân đỗ đầu kỳ sĩ Vọng Khoa thi Đình năm Giáp Thìn (1724) niên hiệu Bảo Thái thứ 5 đời vua Lê Dụ Tông, ông đỗ Bảng Nhãn. Vì khoa đó không chấm ai Trạng Nguyên, Thám Hoa cũng không, nên mình ông đỗ cao nhất nước. Đỉnh cao sự nghiệp đến khi ông đương nhiệm chức Thượng Thư rồi Tể Tướng đầu triều. Sau khi ông mất, nhân dân lập đền thờ, tài đức ông được ca tụng qua hai câu đối:

"Sự nghiệp Tam Khôi trưng thần mộng
Nhất đẳng văn chương kết chủ tri"

Nghĩa là:

"Sự nghiệp Tam Khôi thần báo trước
Văn chương bậc nhất được vua khen"

Giai thoại 1: Tả cây cau

Bản tánh năng động, tò mò thích tìm hiểu, ko chịu gò mình theo lề lối khuôn phép giáo dục xưa (dạy gì biết nấy, không được phản bác, phải tuân theo mẫu mực giáo huấn) khiến cậu thường bị khiển trách . Một lần bố phạt, trói vào gốc cau trong vườn cả buổi không cho chạy nhảy chơi đùa cùng chúng bạn . Cậu khổ sở cảnh bó buộc, xin bố tha cho ...Bố chỉ cây cau, ra điều kiện nếu cậu đặt được câu đối hay mới cởi trói cho . Huân ứng khẩu đọc ngay:

"Lưng đeo đai bạc bao trăm nén,
Đầu đội tàn xanh biết mấy tầng".
Câu đối đã tả thực hình dáng cây cau, giữa thân xòe ra một mo ôm lấy buồng cau hàng trăm trái, trên là những tàu lá xòe tròn như cái lọng. Nghĩa bóng còn hay hơn, khẩu khí chứng tỏ cậu nuôi chí lớn, mộng thi đỗ Trạng Nguyên, Bảng Nhãn mới được vua ban cho "Đai bạc", Lọng xanh. Bố thấy cậu có chí khí, giỏi văn chương, lòng mừng thầm nên mới tha cho.

Giai thoại 2: Đối đáp với Thầy nghè

Thủa Hà Tông Huân cùng Trịnh Đồng Giai và Đỗ Huy Kỳ tìm sang làng Bón xin thụ giáo quan Nghè, đến đầu làng, thấy có người ngồi nghỉ dưới gốc đa, bèn vái chào mà hỏi thăm nhà quan Nghè . Người nọ đáp: "Tôi ra vế đối, nếu các cậu đối được, tôi dẫn tận nhà quan, khỏi chỉ đường lôi thôi, đoạn đọc:

"Đi đường đất thịt trơn như mỡ".
Quả thật, trời vừa mưa xong, đường làng trơn ướt, là cảnh tượng ngay trước mắt... Giai, Kỳ còn đang suy nghĩ thì Huân đã đối:
"Ngồi tựa gốc đa mát thấu xương".
Câu đối chọi chữ chọi ý tài tình : Da (cây đa cũng là cây da) với xương chọi lại thịt với mỡ. Lại dùng thành ngữ "Mát thấu xương" đối với thành ngữ "Trơn như mỡ" tưởng không còn vế đối nào hay hơn được.

Người kia vụt đứng bật dậy, khen mãi: "Giỏi ! Giỏi ! ..." RỒi cười ha hả nhận dẫn đường cho ba cậu học trò. Đến nơi Huân, Giai, Kỳ mới biết: Quan Nghè Bón chính là ông ta chứ chẳng ai khác!

Lần nọ, thầy trò cùng nhau ra sông tắm mát, thầy mắc áo dài trên cành cổ thụ mọc bờ sông, tức cảnh sinh vế đối :

"Bách niên cổ thụ vi ý giá" (nghĩa là cây cổ thụ trăm năm dùng làm giá treo áo)
Huân đối: "Vạn lý trường giang tác dục bồn" (con sông dài muôn dặm làm cái chậu tắm)
Thầy lấy làm hài lòng lẫn khâm phục, vì câu đáp của cậu luôn ẩn chứa chí lớn hơn hẳn vế đối ra

Giai thoại 3: đối đáp với Nhạc phụ đại nhân

Một hôm, bố vợ ông sai người đi tìm, khi về ngang qua ruộng nhà thì thấy bố vợ và mấy người con trai đang làm lụng rất vất vả. Bố vợ giơ đòn lên, toan nện cho ông một trận, nhưng rồi lại không nỡ, bèn ra cho một vế đối, bảo phải lấy việc trước mắt mà đối, đối được mới tha cho. Bố vợ ông ra vế đối như sau:

Học bác tài xa dự nhập tứ môn chi tuyển (Học rộng tài cao, dự cả bốn kỳ thi tuyển)
Vế đối này rất hiểm hóc. Hiểu theo âm Nôm thì lại có nghĩa là học đòi cờ bạc, phung phí tiền tài, gồm đủ bốn nết xấu: rượu chè, cờ bạc, trai gái và hút xách, người đời cũng gọi đó là tứ đổ tường. Nhưng nếu hiểu theo âm Hán Việt thì lại có nghĩa là đỗ đạt, bởi vì các khoa thi xưa gồm bốn kỳ làm bài. Dự đủ bốn kỳ thì không đỗ cao cũng đỗ thấp.
Ông đối lại rằng: Phụ canh tử nậu, kỳ thu bách mẫu chi công (Cha cày con bừa nên thu công cả trăm mẫu)
Lời đối tuy không sắc sảo nhưng bố vợ nghe thế cũng yên lòng. Về sau, đến khoa Giáp Thìn, ông đỗ Bảng nhãn. Vốn dĩ bố vợ ông cũng từng đi dạy học ở nhiều nơi nên thường khoe rằng, học trò của mình có nhiều người tài. Ông nghe thế liền làm một câu đối, đợi đến đêm thì lén viết vào cánh cổng nhà bố vợ để bỡn cợt.

Câu đối ấy như sau:

Lễ bất văn vãng giáo, Dương khai thiết giáo chi trường
Sĩ hữu thời vi bần, Liêu tác cứu bần chi kế

Nghĩa đại để là:

Chưa từng nghe kinh Lễ bảo phải đến nơi mà dạy, Sao đành mở trường ở nơi xa
Kẻ sĩ có lúc phải nghèo, Đành tìm kế cứu cái nghèo đã
Bố vợ xem thấy hai câu có vẻ chế giễu, đoán biết là của chàng rể quý nên bỏ qua, không hỏi tới nữa”. Đã nghèo, phải nương cậy ở gia đình bên vợ, vậy mà còn nỡ ham mê cờ bạc, bỏ nhà đi những mấy ngày, bỏ việc mặc cho bố vợ và gia đình vợ toan tính... thế thì chẳng còn cách gọi nào khác hơn mấy chữ: đại hư, chí hư, thậm hư! Bố vợ vừa giơ đòn lên lại vội hạ ngay đòn xuống, dừng tay để ra vế đối cho mà đối... thế thì phải gọi ngay rằng cụ là bậc chí nhân. Vế đối của bố vợ hay và hiểm bao nhiêu thì lời đối của con rể tầm thường bấy nhiêu. Tuy nhiên, cũng có thể bỏ qua sự kém cỏi này, bởi vì lúc suýt bị đòn mà phải làm câu đối, dễ gì! Còn như việc chế giễu bố vợ thì thật khó mà tha thứ được. Đức thì mỏng, lễ thì kém, văn chương viết chưa ra hồn... thương hại thay! Bố vợ biết mà vẫn bỏ qua không hỏi, bởi vì ở đời, chỉ có người tầm thường mới chấp nhặt sự tầm thường thôi. Có phải là bất cứ lúc nào, không nói cũng vì không biết đâu. Hình như ai cũng có một thời dại dột, thậm chí còn làm cả những việc điên rồ. Thời trai trẻ, Bảng nhãn Hà Tông Huân cũng không có gì khác với sự thường thấy này. Tuy nhiên, điều đáng nói là sau đó, Hà Tông Huân đã vượt lên, trở thành một bậc anh tài xuất chúng, thành nhà đạo đức đáng kính, thành đấng giúp vua trị nước có nhiều công lao. Điều quan trọng của mỗi cuộc đời không phải là quá khứ của họ như thế nào mà là ở chỗ cuối cùng họ là người ra sao. Nhớ lỗi nhỏ của một bậc đại đức, ấy cũng có nghĩa là ta đang tự bào chữa vụng về cho sự kém cõi hiện thời của ta, vực thẳm của sự thảm hại đang chờ ta trước mặt. Suy ngẫm để noi theo dẫu là một chi tiết cỏn con trong muôn vàn sự tốt đẹp của các thế hệ tiền bối, ấy có nghĩa là ta có thể yên tâm về ta, sự yên lành đang chờ ta phía trước. Hà Tông Huân sở dĩ là Hà Tông Huân, bởi vì ông may mắn có một vị bố vợ như trong chuyện. Hóa ra, mọi khúc gỗ đều có thể thành bức tượng đẹp, nếu chịu sự đẽo gọt của nhà điêu khắc lành nghề.

Và lại một lần, ông bố vợ đến thăm phòng ở của hai vợ chồng Hà Tông Huân thấy Huân đang nằm trên giường bên cạnh người vợ đang khâu vá, ông đọc câu đối nôm có ý trách:

Giường ngọc sao nương mình đức Khổng?
Câu ra là lấy ý ở sách Luận ngữ. Tại sao bậc thánh nhân như Khổng Tử lại quên việc học thuật mà đam mê nữ sắc?
Hà Tông Huân đối lại: Gối ngà đang giở mộng ông Chu
Câu đối cũng lấy ý của Khổng Tử đã có lần tự nói rằng ông nằm mơ đến Chu Công là người có tài kinh bang tế thế đời xưa. Ý Hà Tông Huân tự ví mình với người trước, vẫn ôm ấp hoài bão lớn.

Nguyễn Đăng Cảo

Nguyễn Đăng Cảo vốn người làng Hoài Bão, huyện Tiên Du, ưa phóng đãng, ít chịu kiềm chế, ngoài món rượu ngon và thịt cầy, ông chẳng còn thích gì nữa. Tính ông hay ngạo mạn, thường chẳng coi ai ra gì. Lúc vào thi đình, lẽ ông phải đỗ đầu, nhưng triều đình cố ý để ông xuống hàng thứ ba nên ông chỉ đỗ Thám Hoa. Khi làm quan trong triều, do nói năng không kiêng giữ nên mấy lần bị biếm chức.

  • Đối đáp với chủ thuyền buôn:

Từ nhỏ Nguyễn Đăng Cảo đã rất thông minh học giỏi, 13 tuổi đọc sách một lượt là thuộc hết, mọi người suy tôn là thần đồng. Vốn là người ưa tự do phóng khoáng, ông thường đi du ngoạn và giao thiệp rộng rãi với mọi người, sớm thể hiện tính cách sắc sảo. Năm 16 tuổi một hôm đi chơi, gặp một thuyền buôn, ông hỏi người chủ cho xem tấm vải gấm và hỏi giá bán.

Ông chủ thuyền vốn là người hay chữ nên ra một vế đối thử tài Đăng Cảo, như sau: Hữu nhất thuần cẩm, thượng cầm hạ thú, sắc nhiều toàn thuyền, khang ninh phúc thọ (có một tấm gấm quý, trên con cầm, dưới con thú, màu huyền sắc đẹp, mạnh khoẻ giàu sang sống lâu)
Đăng Cảo có đồng tiền đúc mang theo, nghĩ ngay ra vế đối lại: Hữu nhất văn tiền, nội phương ngoại viên, diện đế tứ tự, thông bảo khai nguyên (Có một đồng tiền, trong thì vuông, ngoài thì tròn, mặt đề bốn chữ, thông bảo khai nguyên)
Người chủ hàng nghe xong rất cảm phục liền biếu tặng Đăng Cảo tấm vải gấm quý đó
  • Đối đáp với sứ thần Mãn Thanh:

Trong khoảng 10 năm 1688 đến 1697, nhiều vụ lấn chiếm biên giới nước ta của quan lại nhà Thanh đã xảy ra. Một lần, Đăng Cảo nhận mệnh nhà vua mang lễ vật lên biên giới gặp sứ nhà Thanh để tìm cách sao cho quân Thanh không kéo về Thăng Long.

Đến Lạng Sơn, sứ thần nhà Thanh ra câu đối rằng: Điểu nhập phong, thực tận trùng nhi hoá phượng? (Chim vào gió ăn sâu mà hoá phượng) - chữ “phượng” do chữ “Điểu” viết trong lòng chữ “phong” mà thành.
Đăng Cảo liền đối rằng: Nhân cư nham, đả thi thạch chĩ thành tiên (Người ở cạnh núi, đẽo đá để thành tiên) - Chữ “nhân” đứng bên cạnh chữ “nham”, bỏ chữ “thạch” thành chữ “tiên”.
  • Đối đáp với vua Khang Hy:

Vua Khang Hy nhà Thanh dùng áp lực để ép các nước nhỏ láng giềng phải cắt tóc kiểu đuôi sam của dân tộc Mãn, điều này khiến vua Lê Hy Tông lúng túng không biết ra sao bèn sai sứ thần là Thám Hoa Nguyễn Đăng Cảo sang thương lượng. Nguyễn Đăng Cảo lập luận sắc bén khiến các quan lại Trung Hoa đuối lý đều đổ cho thiên tử Khang Hy, Nguyễn Đăng Cao bèn lập tờ trình dâng lên Hoàng Đế nhà Thanh và được gọi vào kiến giá. Tại sân rồng, vua Khang Hy đưa ra vế đối nói rằng nếu đối được sẽ bãi bỏ lệnh ấy.

vế ra là: Lão khuyển lạc mao, do hướng đình tiền thệ nguyệt (con chó già rụng hết lông còn hướng ra sân cắn bóng trăng)
Nguyễn Đăng Cảo đối: Tiểu oa đoản cảnh, mạn cư tỉnh đề khuy thiên (chú ếch nhỏ cổ ngắn, ngồi dưới đáy giếng dòm trời)
Vua Khang Hy biết sứ thần An Nam xỏ lá nói mình là ếch ngồi đáy giếng, nhưng vế đối liêm luật chặt chẽ không thể bắt bẻ được đành phải hạ lệnh bãi bỏ việc cắt tóc đuôi sam cho người Việt.

Nguyễn Quý Đức

Nguyễn Quý Đức húy là Tộ, tự Thể Nhân hiệu Đường Hiên, ông sinh tại làng Thiên Mỗ, thuộc Thăng Long (tức làng Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, Hà Nội ngày nay). Xuất thân trong một gia đình nho nghèo, cha ông là người khai khoa của họ Nguyễn Quý làng Thiên Mỗ. Trước khi về quê dưỡng lão, ông được gia phong Thái phó Quốc lão, vẫn được tham dự chính sự, được chúa ban 2 bài thơ tiễn, lại cấp cho xe ngựa và ruộng lộc (lộc điền). Thường ngày, ông dạo chơi quanh vùng, dựng đình Lạc Thọ để có chỗ họp bạn xướng họa thơ văn. Cuối năm Kỷ Hợi (1719), chúa Trịnh Giang nhân lên chơi Sài Sơn, có ghé ông thăm và mời ông cùng đi, sau khi mất ông được truy tặng là Thái tể, ban tên thụy là Trịnh Mục. Sau lại truy tặng ông là Đại tư không, sắc phong làm Cung thần tuấn đạt định sách Đại vương, và được dân làng thờ làm Phúc thần thưởng đẳng. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Quý Đức đã nổi tiếng là người thông minh, hay chữ, có tài ứng khẩu linh hoạt hơn người. Chuyện rằng một hôm sau buổi học sáng, lúc trở về qua một quán nước, Đức ghé vào chơi. Chợt có ông quan huyện đi qua cũng vào nghỉ. Ông huyện thấy Đức mặt mũi sáng sủa, bèn hỏi: "Cậu đã học sách gì rồi?" Đức đáp đã đọc hết sách Luận ngữ.

Ông huyện liền ra một vế đối, dùng toàn chữ của Luận ngữ: Thực vô cầu bão, cư vô cầu an, quân tử chí (Ăn không cần no, ở không cầu yên, say đạo học, đúng chí quân tử)
Cậu bé Đức lập tức ứng khẩu đối ngay cũng bằng các chữ trong sách ấy: Chiêu nhi bất lai, huy nhi bất khứ, xã tắc thần (Vẫy không chịu lại, xua không chịu đi, phò xã tắc, đáng mặt bầy tôi)
  • Lại một hôm trâu của Đức bị lính quan phủ bắt giữ bởi cậu bé mải chơi để trâu xổng xuống phá một khu ruộng trồng khoai của làng Cầu Đơ.
Thấy cậu bé láu lỉnh, quan phủ ra vế đối: Khoai Đơ xanh tốt nhờ về Phủ
Đức nghe xong đối luôn: Lĩnh Mỗ vàng trơn bởi có Nghè
Ông phủ thấy đối nhanh, lại có khẩu khí hơn người, bèn trao trả trâu cho Đức

Nguyễn Quỳnh và Đoàn thị Điểm

Trạng Quỳnh đối đáp với những nhân vật khác

Nguyễn Quỳnh là một danh sĩ thời vua Lê Hiển Tông, từng đỗ Hương cống nên còn gọi là Cống Quỳnh. Ông nổi tiếng với sự trào lộng, hài hước tạo nên nhiều giai thoại nên trong dân gian vẫn thường gọi ông là Trạng Quỳnh dù ông không đỗ Trạng nguyên. Ông còn có tên Thưởng, hiệu Ôn Như, thụy Điệp Hiên, quê tại làng Bột Thượng, xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1696, Quỳnh thi đỗ Giải nguyên. Về sau, triều đình bổ nhậm ông làm giáo thụ các huyện Thạch Thất, Phúc Lộc (Sơn Tây), tiếp đến làm huấn đạo phủ Phụng Thiên ở kinh thành Thăng Long. Năm 1718, đỗ khoa Sỹ vọng được bổ làm tri phủ Thái Bình, rồi về làm Viên ngoại lang ở Bộ Lễ; sau bị giáng xuống chức Tu soạn ở Viện Hàn lâm. Đương thời đã có câu: "Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nham, thiên hạ vô tam" (nghĩa là thiên hạ không có người thứ ba giỏi như hai ông).

  • Nhà ông Bảng Nhãn Đoàn Doãn Nghi - cha Đoàn Thị Điểm - dạy học trò đông lắm. Trạng Quỳnh ngày ngày giả vờ đến xem bình văn, để ngấp nghé cô Điểm. Học trò biết ý, vào thưa với quan Bảng, ngài bắt vào hỏi. Quỳnh thưa: "Tôi là học trò, thấy trường quan lớn bình văn, tôi đến nghe trộm". Quan Bảng nói: "Ta biết hết rồi, anh đừng giả danh học trò mà bắt chước tuồng chim chuột. Có phải học trò thì ta ra cho một câu đối, không đối được thì đánh đòn!"
vế ra: Thằng Quỷ ôm cái Đấu, đứng của Khôi nguyên
vế đối: Con Mộc tựa cây Bàng, dòm nhà Bảng nhãn
vế trên: chữ Quỷ (鬼) ghép với chữ Đấu (斗) thành chữ Khôi (魁), vế dưới chữ Mộc (木) bên cạnh chữ Bàng (旁) là chữ Bảng (榜). Quan Bảng thấy Quỳnh xuất khẩu thành chương có bụng yêu, giữ Quỳnh lại nuôi ăn học. Có thuyết khác cho rằng vế ra là của Bảng Nhãn Phạm Quang Trạch (1653 - 1716) người xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội (ông Trạch đỗ Bảng nhãn năm 1684, đời Lê Hi Tông) chớ không phải của Đoàn Doãn Nghi.
  • Trạng Quỳnh biết bọn quan thị và quan võ trước giờ không ưa nhau, bèn nghĩ cách cho chúng tỉ võ với nhau một bữa, đồng thời để xem cái dốt nát của chúng đến mức nào. Một hôm, Quỳnh đến nhà viên quan hoạn giữ chức giám ban, đọc cho nghe một câu đối như sau: Thị vào chầu, thị đứng, thị trông, thị muốn ấy, thị không có gậy. Trạng giải thích cho hắn hiểu chữ “thị” đây có nhiều nghĩa, gồm cả: chầu, đứng, trông, ấy, gậy…rồi nói kháy rằng mình đọc thấy ở bên dinh quan đề đốc.
Quỳnh nói xong thì kiếu ra về rồi đi ngay đến nhà quan đề đốc. Gặp quan, Quỳnh khoe rằng vừa đọc được một câu đối hay ở dinh quan giám ban như sau: Vũ ỷ mạnh, vũ ra vũ má, vũ bị mưa, vũ bện xoắn lông! Đọc xong, Quỳnh lại còn ra vẻ xuýt xoa thán phục: "Chữ vũ tai ác thật. Một từ mà đồng âm, diễn được bốn, năm nghĩa: mạnh, ra, múa, mưa, lông… Thế thì có thánh hoá mới đối lại được!"
Từ hôm đó trở đi, quan đề đốc và quan giám ban kình nhau ra mặt. Cho đến một hôm, Quỳnh nghe đám gia nhân kháo nhau: hai nhà quan kia kéo “quân” hỗn chiến một trận kịch liệt. Xong trận, cả hai đều tơi tả.
vế đối khác: Đình không dừng, đình thế thì thôi, đình gặp sét, đình tung cả nóc
  • Một ông quan huyện vào quán ngồi bệ vệ lắm, Quỳnh giả làm học trò xác, mon men đến đứng bên, hễ thấy quan ăn miếng trầu nào nhả bã ra thì lại cúi xuống nhặt. Quan hỏi: "Mày là ai". Quỳnh đáp: "Bẩm, tôi là học trò". Quan lại hỏi: "Học trò sao lại lẩn thẩn thế?". Quỳnh thưa: "Bẩm, chúng tôi thấy phương ngôn thường nói: Miệng kẻ sang có gang có thép!, chúng tôi nhặt xem gang thép như thế nào.
Quan thấy Quỳnh có ý xược, ra oai thét: "Đã xưng là học trò, thì phải đối ngay câu phương ngôn ấy đi, đối được thì tha cho, không sẽ đánh đòn!" Quỳnh chỉ chờ có vậy đọc luôn: Đồ nhà khó vừa nhọ vừa thâm.
Gần đây có một nhân vật (khuyết danh) đối thêm 1 câu như sauLời thiên hạ là bạc là vàng
  • Câu đối vịnh Đồng Cô:
Cô lô cô lốc, ốc…
Nhẩy lên nhẩy xuống, ong
  • Trong phủ Chúa có bà Quận, tính hay làm duyên lại thích tò mò. Đi đâu cũng muốn mọi người chú ý đến mình. Nghe gì, thấy gì bà cũng hỏi tường tận cho rõ ngọn ngành… Từ lâu Quỳnh đã định cho bà một vố cho chừa. Một trưa hè, biết bà Quận sắp sang nhà mình, Quỳnh về trước ra bờ ao, một chân đứng trên bờ đá, còn chân kia cứ đu đưa, đá đá vào bèo… Bà Quận đến thấy lạ – sẵn tính lắm chuyện – liền hỏi: "Trạng làm gì thế". Trạng chỉ chờ có vậy liền đáp: Rảnh rỗi, nắng cực ra đá bèo chơi, bà chúa thẹn bỏ mặt bỏ đi thẳng.
vế đối: Rộn ràng, mưa rũ vào lộng eo đã! (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • Năm đó, nhà chúa mừng sinh được con trai, các quan trường bèn nảy ra ý nịnh hót chúa, bàn nhau ra đề thì nói về điềm lành của đất nước. Đoán được ý ấy, Trạng Quỳnh nghĩ ra cách làm đôi câu đối phải hàm được hai nghĩa: bề ngoài, đọc lên nghe như lời ca ngợi công đức của Chúa và sự an vui của mọi người, nhưng ẩn ý của nó lại là một sự phủ định. Nội dung câu đối như sau:
Quan tắc cổ, dân tắc cổ, đái hàm quan Nghiêu Thuấn chi dân (Nghĩa là: Quan cũng theo phép xưa, dân cũng theo phép xưa, đội ơn quan, dân được sống đời Nghiêu Thuấn)
Thượng ung tai, hạ ung tai, ỷ đầu lai Đường Ngu chi đức (nghĩa là: Trên cũng vui thay, dưới cũng vui thay, dựa vào đám đầu lại có đức độ thời Đường Ngu)
Mới nghe đọc lần đầu, chúa Trịnh đã khen: "Hay quá! Xứng đáng cho giải nhất!" Quan chủ khảo liền đứng lên tâu với Chúa: "Khải chúa! Trong hai câu ấy, thần thấy có cái ẩn ý không thuận". Chúa Trịnh nói: "Quan thật đa nghi quá. Ca tụng công đức của chúa như vậy mà còn gì không thuận?" Viên quan thưa: "Khải chúa, cứ theo cái nghĩa chữ Hán thì hai câu ấy đúng là hay thật, nhưng Quỳnh là loại thâm nho, từng đã dùng chữ nghĩa chơi khâm nhiều người, và chắc hắn không bao giờ bằng lòng thứ văn chương một nghĩa. Theo sự hiểu biết cạn hẹp của thần, thì hai câu ấy xướng theo nghĩa đồng âm trực tiếp nghe ra ngại lắm, không dám đọc lên để chúa thưởng lãm". Chúa nói: "Ta cho phép, quan cứ nói". Quan phân tích: "Quan tắc cổ, dân tắc cổ" có nghĩa là "trên cũng câm, dưới cũng câm," thưa tắc cổ là câm không dám nói đấy ạ! Còn "đái hàm quan Ngiêu Thuấn chi dân" tức là "đái vào hàm bọn quan dám bảo rằng dân chúng đang sống dưới thời Nghiêu Thuấn". Vế dưới: "Thượng ung tai, hạ ung tai" có nghĩa là "đứa trên thối tai, đứa dưới cũng thối tai", là cả trên dưới, ai ai cũng là một lũ điếc đấy ạ. Vì điếc hết nên không biết rằng "ỷ đâu lai Đường ngu chi sĩ" nghĩa là "ỉa vào đầu lũ nha dám bảo rằng kẻ sĩ đang mở mặt giữa đời Đường Ngu". Nhà Chúa tức lắm nhưng không có cớ gì để trừng trị Quỳnh ngay được, tuy lần ấy Quỳnh bị đánh hỏng nhưng lại có cơ hội đả kích vào thói xu nịnh của đám quan trường và "chọc" nhà chúa một trận nên thân, còn mình thì vẫn giữ tròn khí tiết.

Đoàn Thị Điểm và nhân vật khác

Đoàn Thị Điểm có biệt hiệu là Ban Tang, quê quán ở làng Hiến Phạm (còn gọi là Giai Phạm, tên nôm là làng Giữa), huyện Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh, nay là huyện Châu Giang tỉnh Hải Hưng. Nguyên vào một buổi tối rằm Trung Thu, Ông Hương Cống họ Đoàn đi xem bày cỗ triển lãm ở kinh thành, thấy nơi đây có một cô gái xinh đẹp, liền cậy người mối lái đến hỏi cưới. Năm 1703, người vợ họ Vũ nầy sanh được một con trai đầu lòng, đặt tên là Đoàn Doãn Luân; qua 2 năm sau, năm 1705, sanh thêm một đứa con gái đặt tên là Đoàn Thị Điểm. Cô Điểm, mặc dầu là gái nhưng ngay từ thuở nhỏ được học chữ nghĩa giống hệt như anh Luân, học đủ Ngũ Kinh và Tứ Thư. Năm cô 35 tuổi, cha và anh đã mất, cô Điểm cùng mẹ, chị dâu và 2 cháu bỏ làng Vô Ngại, tản cư đến làng Chương Dương bên bờ sông Nhị Hà, gần Hà Nội. Trong thời gian Cô Điểm dạy học, Nguyễn Kiều đến xin cầu hôn và cô đã mủi lòng...Nguyễn Kiều, hiệu là Hạo Hiên, tại làng Phú Xã huyện Hoài Đức. Năm 1717, Nguyễn Kiều được bổ làm quan Đốc Đồng ở Nghệ An, và năm 1736 được thăng chức Thị Lang. Cô Điểm về nhà chồng, sống với chồng rất tâm đầu ý hợp, khi rảnh thường hay xướng họa thơ văn. Nhưng ở với nhau chỉ được 7 năm thì cô Điểm mắc bạo bệnh qua đời, dưới đây là những giai thoại đối đáp của Đoàn Thị Điểm và những nhân vật đương thời:

1 - Với anh trai Đoàn Doãn Luân (1703 - 1735):

  • Đoàn Doãn Luân là con trưởng của vợ kế ông Đoàn Doãn Nghi, Đoàn Doãn Luân được thân phụ dạy cho chữ Hán ngay từ lúc 3 tuổi, đến tuổi trưởng thành thì thi đậu Hương cống. Đoàn Doãn Nghi hỏi cưới con gái của bạn học cho con trai của mình. Sau lễ Hỏi ít lâu, cô dâu bị bệnh đậu mùa, cứu sống được nhưng mặt bị rỗ hoa và chân tay lóng cóng. Bên nhà gái thấy vậy cho người sang xin hủy bỏ cuộc hôn nhân nầy vì e rằng không đảm bảo hạnh phúc vợ chồng. Nhưng Đoàn Doãn Luân nhứt quyết giữ hạnh người quân tử, một dạ thủy chung. Năm 1726, vợ Doãn Luân sanh con gái đầu lòng, đặt tên là Đoàn Lệnh Khương, 3 năm sau sanh thêm một trai đặt tên là Đoàn Doãn Y. Ngay từ khi lọt lòng, 2 cháu Khương và Y đều được Cô ruột là Điểm chăm sóc tận tình. Sau khi cha mất, Đoàn Doãn Luân đưa vợ con về ở luôn quê nhà là làng Hiến Phạm, sau đó lại chuyển qua ở làng Vô Ngại. Tại đây, Đoàn Doãn Luân mở trường dạy học, bởi chị dâu vì bịnh đậu mùa tay như có tật, nên Cô Điểm đứng ra thay thế lo việc tề gia nội trợ. Mỗi khi anh Luân đau ốm, Cô thường thay thế anh giảng sách cho học trò. Gia đình họ Đoàn đang sống an vui thì Đoàn Doãn Luân đột ngột từ trần, để lại 2 đứa con thơ với một người vợ gần như tật nguyền, và một mẹ già tóc bạc. Tương truyền cô Điểm, khi lên 6 tuổi, đang học Sử Ký Tư Mã Thiên, anh là Đoàn Doãn Luân lấy một câu trong Sử Ký ra câu đối:
白蛇當道貴拔劍而斬之 Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi (Rắn trắng giữa đường, ông Quý tuốt gươm mà chém) ông Quý ở đây là tên huý của Hán Cao Tổ Lưu Bang
Cô Điểm liền lấy một câu cũng trong Sử Ký đối lại: 黄龍傅舟禹仰天而歎曰 Hoàng long phụ chu, Vũ ngưỡng Thiên nhi thán viết (Rồng vàng đội thuyền, Ông Vũ ngửa mặt lên Trời mà than) ông Vũ ở đây là vua Đại Vũ nhà Hạ
  • Một hôm, anh trai Đoàn Thị Điểm là Đoàn Doãn Luân xuống ao rửa chân, thấy em đang trang điểm trước gương, bèn ra câu đối: 對鏡畫眉一點番成兩點 Đối kính hoạ mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm (Soi gương kẽ lông mày, một nét hoá ra hai nét). Trong đây có chữ Điểm là tên của bà
Đoàn Thị Điểm đối lại: 臨池玩月隻輪轉作雙輪 Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân (Tới ao ngắm trăng, một vầng hoá ra hai vầng). Trong đó có chữ Luân là tên của anh bà.
  • Có lần Đoàn Doãn Luân từ ngoài đi vào nhà, thấy em gái đang ngồi bên rổ kim chỉ, liền đọc:
Huynh lai đường thượng tầm song nguyệt (Anh trai đến nhà trên tìm 2 mặt trăng)
Song nguyệt là 2 mặt trăng, mà theo chữ Hán, 2 chữ Nguyệt ghép lại là chữ Bằng: Bè bạn, bằng hữu, nên câu trên còn có nghĩa là: Anh trai đến nhà trên tìm bạn.
Cô Điểm liền đối lại: Muội đáo song tiền tróc bán phong (Em gái đến trước cửa sổ bắt nửa làn gió)
Bán phong là nửa làn gió, mà cũng có nghĩa là phân nửa chữ Phong tức là chữ Sắt nghĩa là con rận. Nên câu đối trên có nghĩa là : Em gái đến trước cửa sổ bắt con rận.
  • Khi hay tin chị dâu sanh được con gái đầu lòng là Đoàn Lệnh Khương, trong đêm rộn rịp vui mừng, Cô Điểm đùa với anh Luân, đọc rằng: Bán dạ sinh hài, Hợi Tý nhị thời vị định (Nửa đêm sanh con, Hợi Tý 2 giờ chưa định)
Đoàn Doãn Luân liền đối lại: Lưỡng tình tương phối, Kỷ Dậu song hợp nãi thành (Hai tình phối hợp, Kỷ Dậu 2 hợp mà thành)
Hai vế đối đều có lối chơi chữ rất độc đáo, 2 chữ Hợi và Tý ghép lại thành chữ Hài; chữ Kỷ và chữ Dậu ghép lại thành chữ Phối.

2 - với quan Tham Tụng và quan Thượng Thư:

  • Có một lần quan Tham Tụng Nguyễn Công Hãn sang chơi bên dinh của Thượng Thư Lê Anh Tuấn, thấy Cô Điểm đang đi một mình bên bờ dậu, ông dừng lại, bảo Cô Điểm làm câu đối lấy đề tài là đi một mình. Chỉ giây lát, Cô Điểm đọc:
Đàm luận cổ kim tâm phúc hữu (Bàn chuyện xưa nay, tim bụng là bạn)
Truy tùy tả hữu cổ quăng thần (Đi theo trái phải, tay chân là bờ tôi)
  • Thượng thư Lê Anh Tuấn nhân không có con muốn đưa bà về làm con nuôi, để dâng cho chúa Trịnh Giang. Ông bèn ra đầu đề khác: "Một ngày không thấy như là ba thu" và bảo ccô Điểm vịnh thơ quốc âm. Cô Điểm liền ngâm rằng:
Những màng mây khắc giang cầm hạc
Ngỡ đã và phen đổi lá ngô
Lê Anh Tuấn khen ngợi không ngớt rồi ngỏ ý muốn tiến bà vào cung chúa Trịnh. Nhưng bà không bằng lòng, bèn lại cùng anh là Doãn Luân dời nhà ở tới chỗ người cha đang dạy học ở làng Lạc Viên, huyện Yên Dương, tỉnh Kiến An để tránh trước những sự không hay có thể xảy ra vì việc từ hôn ấy.

3 - Với Tràng An tứ hổ:

  • Bấy giờ, ở kinh đô Thăng Long có bốn danh sĩ được gọi là: "Tràng An Tứ Hổ" gồm Nhữ Đình Hiền, Nguyễn Công Thái, Nguyễn Bá Lân và Vũ Diệm cùng rủ nhau đến nhà bà Đoàn Thị Điểm để thử tài. Bà ra câu đối: Đình tiền, thiếu nữ khuyến tân lang (Trước sân, thiếu nữ mời ăn trầu). Tân lang là trầu cau, lại đồng âm (Hán) với tân lang là chàng rể mới. Tràng An Tứ Hổ đều chịu phục không nghĩ ra câu đối lại, trên đường về có người hỏi chuyện thì Tràng An Tứ Hổ giải thích rằng: "câu thách đố của Hồng Hà nữ sĩ tài tình mà lắt léo ở chỗ cô ta dùng từ ngữ đồng âm khác nghĩa. Thiếu nữ là cô gái trẻ và cũng là làn gió nhẹ. Tân lang là chàng rể mới, nhưng cũng là cây cau. Thành ra câu văn muốn hiểu "gió nhẹ vờn cây cau" hay "cô gái mừng chàng rể mới" hoặc "cô gái mời trầu cau" cũng đều đúng cả. Nếu hấp tấp đối theo một nghĩa thì chẳng bõ mua cười, bọn chúng tôi đành thoái là vì như vậy đó".
Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối: Các hậu, trưởng nam hoài cựu ước (Có nghĩa là: 1. "Sau lầu, người con trai lớn nhớ lời nguyện ước cũ". 2. "Sau lầu, người con trai lớn giấu kín lời nguyện ước cũ". 3."Sau lầu, người con trai lớn mang theo kinh Cựu ước" (như "hoài thai" là "mang thai". 4. " Sau lầu, tiếng sấm mang theo (hoặc ẩn giấu) lời truyền của kinh Cựu Ước". Vì:
Theo kinh Dịch, hướng Đông thuộc Chấn trong Bát Quái trực đối với hướng Tây là Đoài; xét về Người trong gia đình thì hướng Tây tượng trưng cho con gái út, hướng Đông tượng trưng cho con trai đầu; xét về Tự nhiên thì hướng Tây tượng trưng cho Đầm, hướng Đông tượng trưng cho Sấm; xét về Tính chất thì hướng Tây tượng trưng cho vui vẻ, hướng Đông tượng trưng cho linh động).
"Cựu ước" là lời "ước nguyện cũ", cũng có nghĩa là Kinh Cựu Ước trong đạo Thiên Chúa. Kinh Cựu Ước là phần đầu của toàn bộ Kinh Thánh Kitô giáo được tuyển chọn từ phần lớn kinh Tanakh của Do Thái giáo. Trong Cựu Ước ngoài Luật pháp, Lịch sử, Thi ca còn có phần Tiên tri. Tất cả các sách này đều được viết trước thời điểm sinh ra của Chúa Giêsu người Nazareth, người mà cuộc đời và tư tưởng là trọng tâm của Tân Ước. Từ "Cựu Ước", dịch từ tiếng La tinh Vetus Testamentum, có nguyên ngữ Hi văn hệ Palaia Diathêkê nghĩa là "Giao ước (hoặc lời chứng) cũ". Kitô Hữu gọi là Cựu Ước vì họ tin rằng đã có một giao ước được thiết lập giữa Thiên Chúa và loài người, tức là có một truyền thuyết về mối quan hệ giữa Đấng Siêu Nhiên và Loài Người.
Theo Từ điển Hán Việt của học giả Đào Duy Anh, "Hoài" ngoài nghĩa "nhớ" thường dùng, còn có nghĩa là "ôm lấy","mang" hoặc "giấu kín". Các >< Đình, Hậu><Tiền, Trưởng><Thiếu, Nam><Nữ, Hoài><Khuyến, Cựu><Tân, Ước><Lang)
Vế đối khác 1 : Sơn thượng, đại gia luyện kim đan (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh) ( Xét nghĩa từ "đại gia" trong từ điển Hán Việt có hai nghĩa danh từ : là "người có thế lực" và "bác ruột". "kim đan" là dược phẩm hay phép thuật giúp kéo dài tuổi thọ, nghĩa khác là cây kim dài, que dài nhọn đầu dùng để đan len sợi. Vậy vế đối có thể xét theo bốn nghĩa là "ông đại gia chế luyện thuốc trường sinh kim đan" hoặc "bà bác ruột luyện tập đan áo bằng cây kim đan" hoặc " ông đại gia có nghề làm kim đan áo" hoặc "bác ruột đang chế luyện thuốc trường sinh kim đan" đều rõ nghĩa cả (bà bác ruột là cô ruột, dì ruột ở hàng lớn hơn cha mẹ). Ngoài ra, chữ "đại" đối chữ "thiếu", chữ "kim" (nay) đối chữ "tân" (mới).
Vế đối khác 2: Thư nội, tiểu sinh tầm hậu nghệ (Huỳnh Hữu Đức) (Từ trong sách cậu học trò tìm học nghề cho mai sau. Hậu nghệ ngoài nghĩa nghề nghiệp mai sau còn là tên của chồng Hằng Nga: Hậu Nghệ)
Vế đối khác 3: Lộ tuyệt vô nhai sầu tận thế (Dương Hồng Kỳ)
Vế đối khác 4 : MÔN HẬU TRƯỢNG NAM TẾ CỔ PHỤ (Giải ý : Từ môn hậu có hai nghĩa: "Ứng với đình tiền là trước đền vua, thì môn hậu 門后 là nơi cửa cung hoàng hậu. Ứng với đình tiền là sân trước, thì môn hậu 門後 là cửa sau (sau hè). Từ trượng nam cũng có hai nghĩa: "Ứng với thiếu nữ 少女 người con gái nhỏ, thì trượng nam 丈男 Người đàn ông đứng tuổi. Ứng với thiếu nữ là cỏ mắc cỡ thì trượng nam 丈柟 Cây nam (cây chò) cao lớn. Những từ tế cổ phụ cũng có hai ý nghĩa: "Ứng với nghĩa khuyến là khuyến dẫn thì tế 弊 Xử đoán. Ứng với nghĩa khuyến là khuyến dụ (Cỏ mắc cỡ vê bám gốc cau), thì tế 蔽 Che lấp. Ứng với nghĩa tân lang 新郎 Chồng mới, thì cổ phụ 古婦 Vợ cũ. Ứng với nghĩa tân lang 檳桹 Cây cau, thì cổ phụ Gò muối (Cổ 盬 Hạt muối, ruộng muối, phụ 阜 Gò đất). Về nội dung chung :

1)- Ứng với nghĩa: Vợ trẻ khuyến dẫn chồng trước chỗ đông người (có ý khoa trương)

Câu đối lại: Người đàn ông xử đoán việc vợ chồng nơi cửa sau (Đóng cửa dạy nhau), là cao kiến hơn.

2)- Ứng với nghĩa :

Trước sân cỏ mắc cỡ vê bám gốc cau

Câu đối lại:

Sau hè cây nam che khuất đống muối đang phơi (Tả cảnh nhà u tối, việc làm ăn bê bối)
  • vế ra: Hổ thật thành hổ giấy (Đoàn thị Điểm) ("Tràng An tứ hổ" định thử tài bà Điểm bị bà ra câu đối mà chịu bó tay, nhân đó bà ra tiếp vế đối này với ý rằng Hổ này chỉ là hổ danh là xấu hổ hay hổ giả mà thôi. Từ đó trong dân gian xuất hiện câu thành ngữ "Tràng An tứ hổ, nghểnh cổ nhìn nhau" còn lưu truyền cho tới tận ngày nay)
vế đối: Sư giả hóa sư già (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ý nói: 4 danh sĩ Tràng An khâm phục Bà, ngỡ Bà là thầy (sư) "giả", nhưng không ngờ là bậc thầy "già" dặn nên chẳng có gì phải xấu hổ khi thua một bậc nữ nhi văn chương tài hoa xuất chúng. Nhưng ngầm ý ăn miếng trả miếng (vì bị chê là hổ giấy) nên chê khéo Bà dữ như Sư tử, và đã...già! Chữ Sư ở đây ngoài nghĩa là bậc thầy, còn có nghĩa là sư tử (Lân Sư Rồng) để đối với chữ Hổ)

4 - Những câu đối của Đô Ngự Sử Nguyễn Kiều (1695 - 1752) với Đoàn Thị Điểm:

  • Nguyễn Kiều hiệu là Hạo Hiên, sinh tại làng Phú Xá, huyện Từ Liêm, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Thuở trẻ, ông nổi tiếng hay chữ, có tài văn chương. Khoa Ất Mùi (1715) đời vua Lê Dụ Tông, ông đỗ Tiến sĩ, được bổ làm quan, dần lên đến chức Đô ngự sử, tước bá. Sau khi góa vợ, khoảng năm 1742, ông lấy nữ sĩ Đoàn Thị Điểm làm vợ kế. Cũng trong năm ấy, ông được cử làm Chánh sứ cùng Nguyễn Tông Quai làm Phó sứ, dẫn đoàn sang nhà Thanh (Trung Quốc). Bấy giờ đoàn sứ bộ nước ta sang Trung Quốc về tới Quảng Tây bị nghẽn đường bởi dân chúng vùng này nổi dậy khởi nghĩa vũ trang chống lại nhà Thanh nên buộc phải nán lại để lánh nạn mà không kịp về An Nam ăn tết, Nguyễn Kiều liền ứng tác ra đôi câu đối trong bối cảnh xa xứ nhớ vợ:
Tứ thơ niềm khách bên đèn mộng
Tiếng pháo hò xe rộn ngõ ngoài
  • Năm Mậu Dần, tháng hạ bà Điểm đang ngồi với ông chồng ở tư thất bình văn, tập hợp các bài văn cũ để làm thi tập cho cả nhà. Đột nhiên bức màn đỏ che trước cửa, kế bên ông bà ngồi, bị gió cuốn lên làm bụi bay tứ tung. Bà Điểm bấm đốt ngón tay rồi đọc câu thơ rằng:
Bắc khuyết vân trình chiêu thiếp thụy (Cửa Bắc xe mây điềm thiếp rõ)
Nam thùy xuân vũ trước quân ân (Bờ Nam mưa ấm tỏ ơn vua)
Nghe qua, Nguyễn Kiều bồn chồn hỏi ý nghĩa câu thơ nhưng bà chỉ mỉm cười không nói. Nhưng bà biết điềm xấu sắp xảy ra với mình, còn chồng sẽ được thăng quan”. Quả đúng như vậy, ít lâu sau do có công trong chuyến đi sứ, Nguyễn Kiều được bổ làm Đốc đồng trấn Nghệ An. Lúc đó, Đoàn Thị Điểm không muốn theo chồng đi, vì ở nhà còn mẹ già và các cháu thiếu người chăm sóc, cũng như linh tính báo sẽ có điều không lành trong chuyến đi xảy đến với bà. Nhưng Nguyễn Kiều hết lời nài nỉ, cuối cùng bà phải chiều chồng, làm bổn phận người vợ, xuống thuyền cùng ông đi vào Nghệ An. Lúc thuyền đến bến Đền Sòng, nơi thờ công chúa Liễu Hạnh, bà bị cảm rất nặng. Biết mình không thể qua khỏi, bà trăng trối với chồng: "Chàng nên cố gắng lo tròn việc nước để trở về kinh sớm ngày nào tốt ngày đó, chớ nên ở lâu chốn biên thùy này mà dấn thân vào nơi gió bụi hiểm nguy". Trối xong, bà từ trần, lúc đó là ngày 11 tháng 9 năm Đinh Mão (1748), hưởng được 44 tuổi.
  • Theo gia phả họ Đoàn, tổ tiên Đoàn Thị Điểm trước họ Lê và theo con đường võ nghiệp. Nguyên tằng tổ là Lê Công Nẫm, làm quan võ tới chức Thái Thường tự Thiếu Khanh, được phong tước Thiêm hào tử. Đến đời cụ thân sinh Lê Doãn Nghi vì nằm mộng thấy một vị thần bảo ông đổi sang họ Đoàn thì mới hiển đạt. Về sau con cái hiển đạt, ông đã xây miếu thờ vị thần báo mộng cho mình tại bản thôn. Hiện nay, miếu thờ đó vẫn được con cháu họ Đoàn ở thôn Giai Phạm hương khói. Về việc này trong nhà thờ họ còn lưu đôi câu đối như sau:
Vũ liệt văn khôi quang thế phả (Võ giỏi văn tài ngời phả họ)
Lê tiền Đoàn hậu ký Thần ngôn (Lê xưa Đoàn mới nhớ lời Thần)
  • Tương truyền Hồng Hà Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm có 1 vế xuất khó nữa:
Vế ra: Rửa qua quả dưa (vế xuất này có 2 điểm khó: thứ nhất Rửa qua nói lái thành quả dưa, thứ 2 chữ Qua trong Hán tự có nghĩa là Quả dưa)
vế đáp: Lòe hoài loài hòe (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (theo từ điển hán việt hoài là loài cây thuộc loài cây hòe)

Trạng Quỳnh và Đoàn Thị Điểm

Những câu Trạng Quỳnh đã đối được

Trạng Quỳnh sau nhiều keo thất bại trước Đoàn Thị Điểm trở lên liều lĩnh, một hôm ông đột nhập vào phòng riêng của bà nằm sẵn trong giường. Khi Đoàn Thị Điểm tắt đèn đi ngủ vào trong màn quờ quạng vô tình chạm tay phải của ấy của Quỳnh, bà lập tức ra thắp đèn lên rồi ra vế đối bảo rằng lần này mà không đối được sẽ mách cha đuổi Quỳnh đi:

vế ra: Trướng nội vô phong phàm tự lập (Trong trướng không có gió mà sao cột buồm dựng lên)
may thay hôm đó Trạng Quỳnh lại nghĩ ra ngay đối lại: Hung trung bất vũ thuỷ trường lưu (Trong bụng không có mưa mà nước vẫn chảy)
  • Một ngày xuân đi hội cùng nhau, Đoàn Thị Điểm nhìn thấy cây xương rồng, ra vế đối muốn thách Trạng Quỳnh: Cây xương rồng trồng đất rắn, long vẫn hoàn long
Long, chữ Hán là rồng, mà tiếng nôm nghĩa là không chặt.

Trạng Quỳnh liền đối lại là: Quả dưa chuột tuột thẳng gang, thử chơi thì thử

Thử là con chuột, nhưng tiếng nôm nghĩa là làm thử, chưa phải làm thiệt. Chữ nghĩa rất chỉnh mà nội dung lại thể hiện được khả năng “đĩ mồm” của Quỳnh, cũng từ đó Trạng Quỳnh và Đoàn Thị Điểm cũng cắt tình đoạn nghĩa không quan hệ với nhau nữa. Theo các học giả ngày nay thì vế đối này là của Nguyễn Đức Tâm đối đáp với một ông khác lạ là bạn của thầy đồ Mỹ Lý.
Những vế ra Trạng Quỳnh không đối được, hậu thế đã giải mã giúp
  • Có một lần, Trạng Quỳnh và Thị Điểm nhìn thấy nhau từ hai cửa sổ đối diện nhau, Đoàn Thị Điểm ngẫu hứng bèn ra một vế đối:
Song song là hai cửa sổ, hai người ngồi trong cửa sổ song song

Vế ra rất oái oăm, “song song” 12 ”hai cửa sổ”. Nhiều nghĩa: “song song” 2 vừa có nghĩa sóng đôi, ngang bằng nhau, vừa có nghĩa được thông suốt (nghĩa “sóng đôi, ngang bằng nhau” đã được Việt hoá). Cùng âm: “song song” 1 – “song song” 2. Cũng lưu ý rằng, nếu ngắt nhịp giữa “ngồi” và “trong”, thì “cửa sổ song song” lại có thể hiểu theo một cách khác, là hai lần cửa, hoặc hai cửa sổ cùng nằm trên hướng nhìn (hai người không ngồi gần nhau). Bên cạnh đó, hiện tượng trùng điệp (âm hay từ) cũng được sử dụng, chỉ có 8 âm tiết được dùng để lắp đầy cho 14 âm tiết của vế đối, hai-song song-hai, song là hai và song cũng có nghĩa là song cửa. Lại gặp một vế đối quá hóc búa, Trạng Quỳnh bí quá không đối được đành giả bộ tảng lờ, đi ra chỗ khác.

Hậu bối Trường Văn Nguyễn Phước Thắng xin phép được đối 2 câu:
Không không tức không trống rỗng, không sắc gì ngoài trống rỗng không không!
Tam tam tức ba chữ tam, ba trò gàn tán ba chữ tam tam!
Song là số từ, không và tam cũng là số từ. Song song là tính từ dạng từ láy toàn bộ, không không và tam tam cũng là tính từ dạng từ láy toàn bộ. Khi chữ song thứ nhất là số từ (hai) và chữ song thứ hai là danh từ (cửa sổ), thì tương ứng, chữ không (hoặc tam) thứ nhất là số từ (không hoặc ba) và chữ không (hoặc tam) thứ hai cũng là danh từ (không là sự trống rỗng, tam ở đây là chữ ba)).
Ông Nguyễn Hữu Quyên ở "Hanoi-Amsterdam" cũng có câu đối như sau: Loáng loáng cùng một con ngòi, một nhịp vắt chéo con ngòi loáng loáng
Ông Hoàng Kim Long ở Biên Hòa - Đồng Nai cũng tham gia đối 1 câu: Trùng trùng dáng nước non cao, nước trong cá lội non cao trùng trùng
Một nhân vật khuyết danh ở Rạch Giá - Kiên Giang cũng có 2 câu đối:
Thon thon đối bóng hai người, hai người e ngại dáng cười thon thon
Minh minh bầu quyển thái dương, cỏ cây chào đón gọi đường minh minh
vế đối khác 1: Đại đại tức tất cả đời, Tất Đạt ngự trị tất cả đời đại đại (khuyết danh)
vế đối khác 2: Khuyết khuyết ấy nửa vành trăng, nửa Cuội đứng cuối nửa vành trăng khuyết khuyết (Nguyễn Sư Giao)
vế đối khác 3: Lộ lộ rõ cặp Cò bay, cặp Sáo lượn dưới cặp cò bay lộ lộ (Nguyễn Sư Giao)
vế đối khác 4: Xa xa có 1 cánh buồm đỏ thắm, 1 nàng Tô thị đứng nhìn 1 cánh buồm đỏ thắm xa xa (khuyết danh)
vế đối khác 5: Thiên thiên tức ngàn ông Trời, ngàn mây khoe sắc ông Trời Thiên Thiên (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
Câu đối trên có 1 dị bản, vế trước của đối đối bị cắt xén: "Hai người ngồi trong hai cửa sổ song song"
vế đối : Một đứa đứng cách một mương nước độc độc (khuyết danh)
Có hai chữ song: Song 窓 là hai. Và chữ song 窗 là cửa sổ. Độc cũng có hai chữ : Độc 獨 là một mình. Và chữ Độc 凟 là mương nước.
vế đối khác: Một gạch viết nhất nhất một đường đơn (Dương Hồng Kỳ)
  • Một lần Trạng Quỳnh đến nhà Đoàn Thị Điểm chơi bị chó đuổi chạy rồi phải nhảy tót lên cây hồng. Đoàn Thị Điểm ra nhìn thấy rồi ra vế đối: Thằng Quỳnh ngồi trên cây cậy, dái đỏ hồng hồng và nói rằng nếu Trạng Quỳnh đối được mới đuổi chó đi mà mời vào nhà chơi. Hồng là cây hồng, quả hồng… Nhưng cây hồng cùng giống với cây cậy, Trạng Quỳnh nghĩ nát óc không ra nên phải ngồi mãi trên cây
Hậu bối Trường Văn Nguyễn Phước Thắng xin phép được đối: Cái Điểm đứng dưới nhánh bòng vú vàng cam cam (Chữ Quỳnh trong Hán tự có nghĩa là thứ Ngọc đỏ, Ngọc có thể liên tưởng đến Ngọc Hành nghĩa là dái. Chữ "bòng" có nghĩa đèo bòng khi đối với chữ cậy có nghĩa là ỷ lại, cậy nhờ. Chữ "bòng" đọc trại thành "bồng" để đối với chữ "cạy" (khi chữ "cậy" đọc trại thành "cạy"). Chữ Điểm trong Hán tự có nghĩa là cái chấm. Chấm lớn thì tròn, cho phép liên tưởng đến núm vú và vú. Cam và bòng là 2 cây cùng giống. Hồng hồng và cam cam cùng là từ láy toàn bộ đều chỉ về màu sắc. Thiết nghĩ vế ra không có dấu phảy thì độ khó cao hơn.)
Vế đối khác của Vũ Trình Tường: Mụ Điểm đái dưới gốc sung, ghe chua ngái ngái (Cây sung và cây ngái cùng họ với nhau và cùng có quả ăn được. “sung - ngái” đối với “cậy - hồng”, lấy mùi vị (ngái ngái) để đối với màu sắc (hồng hồng).
Vế đối khác 1: Con Điểm đứng dưới tán mơ mép xanh lục lục (khuyết danh)
Cậy: Cậy là một loại cây – cũng có nghĩa là nhờ. Hồng 紅 là màu đỏ lợt cũng có nghĩa là một loại cây. Mơ : Một loại cây ăn quả – Một loại cỏ ăn được – Cũng có nghĩa là ước muốn. Lục 綠 là màu xanh và cũng có nghĩa là một loại cỏ.
Vế đối khác 2: Cái Điểm lội dưới ao bèo, lồn ngứa ráy ráy (khuyết danh)
Vế đối khác 3:Con Liễu ngồi dưới gốc trai, mu dày trúc trúc (Nguyễn Sư Giao)
Vế đối khác 4:Lão Lý dựa sát cội đào, cu gào cúc cúc (Nguyễn Sư Giao)
  • Một lần giáp tết Nguyên Đán trời mưa rả rích, Đoàn Thị Điểm ngồi gói nem. Trông thấy Trạng Quỳnh đội mưa đi mua rượu về, cô bảo muốn nhắm nem thì ngồi xuống cùng gói với cô. Quỳnh trả lời: Chả thích nem, chỉ thích giò. Thị Điểm liền ra một vế đối: Trời mưa đất Thịt trơn như Mỡ, Dò đến hàng Nem, Chả muốn ănCâu đối cũng rất lắt léo dùng toàn chữ: Thịt, Mỡ, Dò, Nem, Chả khiến Trạng Quỳnh lại một lần nữa bị bế tắc.
Trường Văn Nguyễn Phước Thắng có đối 3 câu:
Vua giận rời Cung lẹ tựa Tên, Thương nàng lễ Giáo, Nỏ thèm trách (Nỏ là tiếng địa phương ở vùng Hà Tĩnh, Bình Trị Thiên... có nghĩa như chẳng, không)
Trăng đổ hoàng Cung đẹp tựa Tiên, Thương về gốc Việt, Nỏ thèm ngủ
Trăng xuống xứ Việt đẹp tựa Tiên, Câu lẫn ánh Liềm, Nỏ thèm ngủ
Cung, Tên, Tiên (roi), Việt, Thương, Giáo, Câu, Liềm, Nỏ là các loại khí giới trong bộ 18 ban binh khí
Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đối 2 câu:
Quỹ thu chục Hào phí qua Ải, Lũy tiến triệu Quan, Thành bội thu
Dừa già củ Hũ to hơn Chĩnh, Kiệu ngang lò Vại, Lọ cần nghỉ (Lọ cũng có nghĩa là không cần đến)
vế đối khác 1: Gió ẩm bánh Mì mốc bởi Men, Cuốn lên ngọn Lá, Cam lòng chịu (Cao Nghiêm)

vế đối khác 2: Biển động trời Đen, tối tựa Đêm, Rớ vào gọng Nhá, Chài chân té (khuyết danh)

vế đối khác 3: Đất tốt Dâu Tơ mượt tựa Nhung, Sa vào chợ Vải, Len cũng mặc (Vũ Trình Tường)

vế đối khác 4: Trăng xuống đá Bi tròn giống Đĩa, Líp tới hang Sên, Cóc thèm nhảy (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Bi, Đĩa, Líp, Sên, Cóc là phụ tùng xe đạp)

vế đối khác 5: Đường tối ổ Gà đen tựa Mực, Bò tới quán Lươn, Cóc thèm vô (Vanlu)

vế đối khác 6: Thằng bạn nghe Cọp nhại như Két, Chim gặp tổ Ngỗng, Hổ thẹn lui (khuyết danh)

vế đối khác 7: Ngõ sáng nhà Qué rực như Đèn, Trâu húc cửa Trạch, Ếch nhảy ra (khuyết danh)

vế đối khác 8: Lửa xém cơm da thơm hơn hèm, men sang quán rượu do thèm uống (khuyết danh)

vế đối khác 9: Gió tạt phòng trên lạnh hơn bếp, men xuống phòng sau để được nhấm (khuyết danh)
Giò là một loại chả, mà còn có nghĩa là mò đến. Da là cơm nấu bằng nếp để ủ rượu. Men là men làm rượu, mà còn có nghĩa lần đến

vế đối khác 10:Hạn nắng nhà nho khát rỉ vang, Quất vào cây bưởi cam thôi nhịn (Dương Hồng Kỳ)

  • Lần khác, cô Điểm đi lên phố Mía ở Sơn Tây gặp ngay Trạng Quỳnh ở trên đó, cô lại ra vế đối: Lên phố Mía, gặp cô hàng Mật, cầm tay Kẹo lại hỏi thăm ĐườngTrong câu này có 4 từ: Mía, Mật, Kẹo, Đường đều chỉ những đồ ngọt khiến Trạng Quỳnh một lần nữa lại bó tay. Ngoài ra, vế ra còn khó ở chỗ: từ Mía mới sinh ra Mật, Kẹo, Đường.
vế đối do ông Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đối: Đến hàng Thịt ghé anh quầy Giò, lựa chân Dồi tới đựng mấy Bì
vế đối khác 1: Bà đồ Nứa, đi cáng võng Tre, đến bụi Trúc thở dài hí Hóp (khuyết danh, (Hóp là tiếng địa phương dùng để chỉ một loại cây cùng họ với tre trúc)
vế đối khác 2: Ông lái Trâu ngồi xe chở Ngựa, qua đàn Dê than vắn bệt Bò (khuyết danh)
vế đối khác 3: Xuống làng Sen thấy chị tiệm Gương, đưa mắt Ngó sang vương bộ Cánh (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối khác 4: CÔ TÚ LAN CẦM BÔNG HOA CÚC, MẶC YẾM ĐÀO NGỒI LƠ MA LƠ MƠ (khuyết danh)
vế đối khác 5: Xuống chợ Chanh thấy anh hiệu giấm bước chân tắt qua gạ bán mẻ (khuyết danh)
Mía, mật, kẹo, đường là các vị ngọt. Mà kẹo còn có nghĩa là kéo lôi – Đường còn có nghĩa đường đi. Chanh, giấm, tắt, mẻ là các vị chua. Mà tắt còn có nghĩa đi đường thẳng, không đi vòng. Mẻ còn có nghĩa cái chum để đựng “giấm”.
vế đối khác 6: Xuống thôn Tằm đụng chị bán thao, nắm nén tơ mà nhờ chỉ kén (Nguyễn Sư Giao)
vế đối khác 7: XUỐNG QUÊ LÚA, THẤY CHỊ QUÁN CƠM, VÒ LƯNG XÔI HÒNG TÌM KIẾM TẤM (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Ở vế đối cũng từ lúa sinh ra CƠM,XÔI,TẤM và đặc biệt TẤM vừa là tấm ăn vừa là tấm gì đó ví dụ như tấm lòng hoặc tấm thân vv...)
vế đối khác 8: Ghé trường Đời tìm chú họ Dương, rủ bác Trần qua bàn luận Thế (Dương Hồng Kỳ)
Giai thoại Da Trắng Vỗ Bì Bạch
  • Trạng Quỳnh một hôm bắt gặp nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đang tắm, vừa tắm vừa ngâm thơ ca hát. Trạng ta hình như mê mệt nữ sĩ đã lâu nên lên tiếng xin tắm chung, hay ít nhất cũng xin nữ sĩ cho chiêm ngưỡng thân hình kiều diễm để có hứng nay mai lên đường đi sứ sang Tàu. Nữ sĩ không chút gì hờn giận lại đọc lên câu đối:
Da trắng vỗ bì bạch (ngụ ý bảo ông Trạng Quỳnh nếu đối được câu đối kể trên, nàng sẽ hết sức chiều theo ý của Trạng)
Câu đối này thật hay, xem dễ nhưng thật ra rất khó, bởi nó vừa tả 'trạng thái' đang tắm của nữ sĩ, vừa đối chữ nôm DA TRẮNG với chữ Nho BÌ BẠCH, liên kết với nhau bằng động từ Vỗ. Bì nghĩa là da (như bì cuốn, bánh tầm bì), Bạch tức trắng (như bạch diện thư sinh, Bạch Mi đạo nhân). Bì-bạch gọi chung nhau lại biến thành một phó từ hỗ trợ cho động từ vỗ. Vỗ vào da trắng lúc đang tắm gây ra tiếng kêu bì-bạch. Câu đối đó chỉ có 5 từ thôi nhưng rất súc tích rất ý nhị, dễ thương và dư sức vượt không gian và thời gian, nó có thể xảy ra vào bất cứ thời đại nào hoặc bất cứ nơi nào trên thế giới với chi tiết thay đổi chút ít. Lối đối đáp biền ngẫu này thật ra rất thịnh hành trong tiếng Việt. Bởi ở chỗ tiếng Hán hoặc chữ Nho trong dạng đơn thuần chỉ có một ngôn ngữ mà thôi. Trong khi đó tiếng Việt được lợi thế ở chỗ chứa chấp cả tiếng Nôm lẫn tiếng Hán. Hầu hết những từ ngữ tiếng Nôm đều có tương đương tiếng Hán, và đa số dân chúng dù chỉ có học chữ nghĩa đôi chút đều có thể nhận diện ra. Thành ra ngoài mặt mang tiếng chỉ một ngôn ngữ Việt - nhưng thật ra người ta có đến hai thứ ngữ ngôn, tiếng Hán và tiếng Nôm pha trộn lẫn nhau. Da trắng như nhìn qua gương thấy mình chính là bì bạch. Da trắng chỉ là phiên dịch tiếng Nôm của Bạch Bì dùng thoát một chút thành ra bì bạch. Cũng ở chỗ câu đối được thịnh hành trong dân gian từ ngàn xưa nên người Việt rất quen việc đối đáp chơi chữ.

Tục truyền ông Trạng nhà ta trước câu đối thách thức của Đoàn nữ sĩ đã lúng túng không ít để rồi ông đành tạm ngâm ngay một câu đáp, chứ lâu quá không khéo bà Đoàn tắm xong thì hết chuyện.

Trạng đáp: Trời xanh màu thiên thanh
Những việc gì xảy ra sau đó không ai có thể biết được. Nữ sĩ họ Đoàn có thực chiều theo ý muốn của Trạng hay không, sau câu đáp có vẻ rất đúng 'tông' của ông Quỳnh, việc đó không hề thấy ghi lại trong văn học. Trời tiếng Hán gọi Thiên, xanh tiếng Hán là thanh. Trời xanh màu thiên thanh, nghe ra khá thơ mộng và đối đáp có vẻ chỉnh. Trong các sách vở về văn chương hoặc giai thoại làng Nho, người ta thường thấy chỉ có một câu đáp 'Trời xanh màu thiên thanh' dành cho câu đối 'Da trắng vỗ bì bạch'. Giai thoại Đoàn Thị Điểm với Trạng Quỳnh có vẻ kết thúc lửng lơ ở chỗ đó, không ai để ý khám phá gì thêm.

Theo nghiên cứu của các học giả hiện đại thì câu đáp Trạng Quỳnh là: Bẩy Xanh la thất thanh.

Bẩy tức thứ bẩy, Trạng Quỳnh là người con thứ 7 trong nhà. Bẩy là Thất trong chữ Nho, Xanh là tên gọi thân mật của Trạng ở trong làng lúc còn niên thiếu, cũng mang nghĩa màu xanh. Tức Thanh theo tiếng Hán Việt. Bẩy Xanh viết theo chữ Nho là Thất thanh, đồng thời cũng một phó từ hỗ trợ cho động từ kêu hoặc la. "Bẩy xanh la thất thanh" còn mang hàm ý anh 7 bị xanh mặt rồi hoảng hốt la thất thanh. Câu đáp này có vẻ chỉnh nhất và có vẻ 'Trạng Quỳnh' nhất bởi không những nó thích hợp với những đòi hỏi căn bản của chơi chữ mà lại còn thích hợp với hoàn cảnh, với...sự cố của những gì xảy ra ngày ấy. Thì ra thói quen của Hồng Hà nữ sĩ lúc tắm vẫn mặc nguyên quần áo, Trạng biết dư thói quen của nữ sĩ khi tắm vẫn mặc nguyên quần áo! Do đó dù nữ sĩ có cho phép ông Bẩy Xanh dòm trong lúc tắm, ông cũng sẽ kêu thất thanh vì quá sức thất vọng. Tức câu đáp này được thốt lên lúc bà Đoàn chưa chịu thua.
Gần đây có một số người đối thêm vài câu nữa nhưng có câu tương đối được cũng có câu chưa chuẩn về ngữ nghĩa cho lắm, vậy đưa cả vào đây để tham khảo:
vế đối 1: Rừng sâu mưa lâm thâm (Nguyễn Tài Cẩn - Từ Hán Việt chỉ Rừng là lâm, sâu là thâm. Lâm thâm hợp lại tạo nên một phó từ mô tả thêm trạng thái của trận mưa. Mưa thế nào, mưa lâm thâm)
vế đối 2: Biển Tây có hải âu (Biển Tây viết theo tiếng Hán là Hải Âu cũng dùng để chỉ chim hải âu)
vế đối 3: Lên núi gặp Thượng Sơn ('Lên núi' theo chữ Nho: thượng sơn, cũng có thể tên một người, Lê Hoàng Thượng Sơn)
vế đối 4: Bắp vàng đợi Ngô Huỳnh (Gợi nên ý ai đó đã luộc hoặc nướng xong vài trái bắp vàng để dành chờ ông Ngô Huỳnh (bắp= ngô/vàng= huỳnh)
vế đối 5: Mực đen dính Mặc Huyền (Mực theo tiếng Hán là Mặc/Đen gọi theo chữ Nho là Huyền/Mặc Huyền là tên người)
vế đối 6: Gấu vàng hụt Hoàng Hùng (Gấu chữ Nho là Hùng/Vàng tức Hoàng)
vế đối 7: Lụa đỏ phủ hồng nhung (Lụa chữ Nho là Nhung/Đỏ tức Hồng)
Việc truy tìm giải đáp cho câu đối Da trắng vỗ bì bạch tự nhiên trở thành một trò chơi chữ, được nhiều người tham gia. Nếu dùng tên người vào câu đáp, việc đối đáp chơi chữ sẽ dễ dàng thêm ra. Như hai thí dụ dùng tên người, ông Sơn và ông Huỳnh kể trên. Tuy nhiên nếu quan sát kỹ câu đối của bà Đoàn đưa ra, người ta có thể sẽ rất thất vọng - và cũng có thể tiếc nuối cho Trạng Quỳnh là đằng khác, nếu chính Trạng đã đáp: "Trời xanh màu thiên thanh". Bởi câu đối đơn giản của bà Đoàn thật ra hàm chứa một số yếu tố cơ bản và đòi hỏi thiết yếu như sau. Thứ nhất, nó phải mang màu sắc, Da Trắng, Da phải có màu, màu trắng. Thành ra các câu như: 'Rừng sâu mưa lâm thâm; Biển Tây có hải âu; Lên núi gặp Thượng Sơn', v.v. bắt buộc phải bị loại ra ngoài vòng chiến. Ta chỉ còn lại 'Bắp vàng đợi Ngô Huỳnh'; 'Mực đen dính Mặc Huyền', và 'Gấu vàng hụt Hoàng Hùng', hoặc hơi lỏng lẻo một chút: 'Lụa đỏ phủ Hồng Nhung', là những câu đáp dùng đến màu sắc - như Da trắng vỗ bì bạch. Thứ hai, bên chữ nôm như DA TRẮNG phải được nối kết với bên chữ Hán BÌ BẠCH bằng một động từ 'chỉ động tác' Vỗ. Đây có lẽ là yếu tố đã khiến Trạng lúng túng không ít bởi MàU thiên thanh hoàn toàn không phải một thứ động từ chỉ động tác. Cùng lắm 'màu' chỉ có thể viết tắt cho 'có màu' hay 'là màu'. Một thứ động từ TO BE ở tiếng Anh dùng để chỉ sắc thái: "Trời xanh có màu thiên thanh". Đoàn Nữ sĩ rất dễ dàng từ chối ước muốn nghịch ngợm, mang đầy tính cách lều...chổng của Trạng, mà không sợ...mất lòng! Những câu đáp tân thời như: Bắp vàng/Mực đen/Gấu vàng/Lụa đỏ/vẫn còn có chỗ đứng ở vòng thứ hai này, bởi cả 7 câu đáp đều sử dụng động từ để liên kết phần Nôm với phần Hán. Thứ ba, 'cụm từ' bì bạch thật ra là một phó từ - tức trạng từ (adverb) theo lối gọi ngày trước. Nó hỗ trợ cho động từ VỖ. Nhìn kỹ nó mô tả một trạng thái quá độ của động tác vỗ. Vỗ trong khi tắm, hoặc vỗ vào chỗ nào đó trên thân thể đến nỗi có tiếng kêu bì bạch.
  • Dưới đây là bảng kê một loạt những vế đối khác về chữ thì chuẩn còn ngữ nghĩa có cái đạt cái chưa để tham khảo:
vế đối 1: Tóc đen xông phát hắc (khuyết danh)
vế đối 2: Quạ vàng đội kim ô (khuyết danh)
vế đối 3: Tay tơ sờ tí ti (khuyết danh)
vế đối 4: Nhà vàng ngồi đường hoàng (khuyết danh)
vế đối 5: Áo vàng mặc trang hoàng (khuyết danh)
vế đối 6: Đêm đen sờ dạ thâm (khuyết danh)
vế đối 7: Đêm đen nhìn tối thui (khuyết danh)
vế đối 8: Mây đen quyện ô vân (Phạm Tuyên)
vế đối 9: Tóc xanh thấy phát thương (khuyết danh)
vế đối 10: Béo phù thở phì phò (Lê Anh Chí)
vế đối 11: Áo xanh lay lục phục (Lê Anh Chí)
vế đối 12: Quần áo vung phùng phục (Lê Anh Chí)
vế đối 13: Đá chàm sờ lam nham (Lê Anh Chí)
vế đối 14: Suối đỏ khoan thông hồng (khuyết danh)
vế đối 15: Giấy đổ viết chu da (khuyết danh)
vế đối 16: Sen xấu mọc liên tục (khuyết danh)
vế đối 17: Lưỡi đỏ ngó thiệt hồng (khuyết danh)
vế đối 18: Ra vào đòi giao hợp (khuyết danh)
vế đối 19: Mũi thấp hun tị ti (khuyết danh)
vế đối 20: Giếng nhỏ bé tỉnh tinh (khuyết danh)
vế đối 21: Con thầy múa Sư Tử (khuyết danh)
vế đối 22: Ngựa ông ăn mã tổ (khuyết danh)
vế đối 23: Con rể ở tử tế (khuyết danh)
vế đối 24: Đá đen chèn hắc thạch (Ngọc Châu)
vế đối 25: Ngỗng bạc réo ngân nga (Dương Hồng Kỳ)
vế đối 26: Áo đen hát y… ô... (Dương Hồng Kỳ)
vế đối 27: Đại gia ở nhà to (khuyết danh)
vế đối 28: Xương liền cọ cốt kết (khuyết danh)
vế đối 29: Rùa vàng lồng Quy Hoàng (khuyết danh)
vế đối 30: Rùa đen lèn Quy Hắc (khuyết danh)
Ghi chú 2 câu 29 và 30: Hình tượng con “Rùa- mu Rùa” nhân gian VN thường liên hệ và dùng ví biểu tượng “mu… bộ phận sinh dục nữ”; còn hình tượng “đầu Quy” nhân gian thường dùng gọi “đầu dương vật nam= đầu quy”. Người xưa còn có lệ “cắt bao Quy- phần da bọc đầu dương vật bé trai”. Theo Hán Nôm thì Quy nghĩa là Rùa. Khi giao hợp thì Rùa cái cõng Rùa đực trên lưng- hai lồng làm một…
vế đối 31: Mấn đen chùm váy thâm (Đuyên Hồng)
vế đối 32: Bạn trẻ khóc nỉ non (Đuyên Hồng)
vế đối 33: Chị kia khóc tỉ tê (Đuyên Hồng)
vế đối 34: Đàn nhỉ kêu tí ti (Đuyên Hồng)
vế đối 35: Vợ hiền buồn thê lương (khuyết danh - mặc dù chỉnh phần Vợ Hiền và Thê Lương nhưng chữ Thê Lương lại không đối được với chữ Bì Bạch vì không là tứ láy, điệp ngữ)
vế đối 36: Xương trắng đóng cốt bạc (khuyết danh)
vế đối 37:Lưỡi dữ nói thiệt uy. (khuyết danh)
vế đối 38:Người sau vô nhân hậu. (khuyết danh)
vế đối 39:Bảy đời đều thất thế. (khuyết danh)
vế đối 40:Quốc sống tự nguyên sinh. (khuyết danh)
vế đối 41:Rùa lạy xin qui phục. (khuyết danh)
vế đối 42:Mắt xanh xem mục lục. (khuyết danh)
vế đối 43:Cờ lông bay kỳ khôi. (khuyết danh)
vế đối 44:Lưỡi nói nhiều thiệt ngôn. (khuyết danh)
vế đối 45:Mèo mốc kêu miêu meo. (khuyết danh)
vế đối 46:Tiếng trong giọng thanh thanh. (khuyết danh)
vế đối 47:Chân đủ gà túc túc. (khuyết danh)
vế đối 48:Bồ bao thổ bịch bịch. (khuyết danh)
vế đối 49:Rắn ngỗng chạy xà ngang. (khuyết danh)
vế đối 50:Rùa ngàn đã qui thiên. (khuyết danh)
vế đối 51:Mỏ cụt gõ cồng cộc. (khuyết danh)
vế đối 52:Tóc trắng đã phát bạc. (khuyết danh)
vế đối 53:Tóc xanh đứng phát thanh. (khuyết danh)
vế đối 54:Môi son uống thần châu. (khuyết danh)
vế đối 55: Môi xanh ngậm thần lục. (khuyết danh)
vế đối 56: Trăng thu hướng nguyệt thu. (khuyết danh)
  • Một số vế đối khác đã được nghiên cứu chỉnh lý và hoàn thiện:
vế đối 1: TIM ĐỎ KẾT TÂM HỒNG

Đỏ hồng là nhiệt huyết và tình yêu, tình yêu có tâm huyết! Trắng với đỏ là hai màu duy nhất ứng đối để diễn đạt cho sức sống, tình yêu và tấm lòng với nhau. Còn Bì và Tâm mang ý nghĩa Ngoại thể – Nội tâm, ứng đối nhau nó gắn liền sát sao được điều cần đáp lại của câu gieo. Đối với hàng sĩ sự hiện diện của tim đỏ trong trường hợp này đủ nói lên những gì tốt đẹp nhất với nhau, xua tan bao trăn trở, xóa được mọi gián cách giữa hai người. Với ý nghĩa ấy nhưng để đi sâu hơn vào nội dung câu đáp về động cơ của khách và ứng đối cả sự tượng thanh của câu gieo.

vế đối 2:TIM ĐỎ NHỊP TÂM TUYNH

Theo Hán Việt từ điển của Nguyễn Văn Khôn, Thiều Chửu : Tuynh là màu đỏ. (Tuynh 騂 Màu đỏ đậm. Đỏ màu cam) Trọn câu có nghĩa: “Tim đỏ nhịp tim đỏ”. Nếu trong “Da trắng vỗ bì bạch” từ vỗ chỉ là vay mượn làm chiếc cầu nối cho hai cách gọi của một vấn đề, sự tượng thanh của nó chỉ là tượng thanh. (về nghĩa đen thì da không tự vỗ được), còn “tim đỏ nhịp tâm huynh” thì nhịp là hoạt động thực tế của tim, sự tượng thanh của nó gần như một diễn tả sinh động cái rộn ràng của tim. Trong y học tâm đồ là đồ hình biểu diễn hoạt động sinh học của tim. Còn về văn học ta có thể hình dung tâm tuynh là âm thanh biểu hiện ra về mặt hoạt động tâm lý của nó. Ngoài ra cặp đối còn có cái khó là: Hai câu không thể giao hòa trực tiếp với nhau được. Bởi lẽ: Về nguyên tắc đối đáp câu gieo là gốc nó đóng vai trò chủ thể chi phối nội dung cặp đối, gán ghép hai câu vào nhau một cách hời hợt cái hạ tầng tượng thanh tượng hình trần trụi của “da trắng vỗ bì bạch” sẽ biến “nhịp tâm tuynh” thành ra vì nhục dục, hạ thấp ý nghĩa của tình yêu, phản văn hóa.

vế đối 3:MI ĐỎ TRÉT TÝ TUYNH

Cũng theo Hán Việt từ điển của Nguyễn Văn Khôn và Thiều Chửu: Tý là vành mắt (tý 眥 Vành mắt. Bâu áo) Trọn câu có nghĩa: “Mi đỏ trét mi đỏ”. Về sự tượng thanh thì phối hợp với cặp đối chỉnh trên ta có: BÌ BẠCH là thanh trầm, TÝ TUYNH là thanh bổng, TÂM TUYNH là thanh trung. Hai câu tương phản có chuyển nghĩa khá trào phúng là: Người nước da trắng có thể ung dung “vỗ bì bạch” mà khoe da của mình trắng. Còn người ăn diện mi đỏ phải trét. Khi thi thố với nhau: Người khoe da trắng càng vỗ “bì bạch” thì người diện mi đỏ càng phải trét ! Trét “tý tuynh” : trét lia lịa…Hai câu còn có nghĩa bóng là: cái gì bản thân mình tự có tốt hơn là cái vay mượn và sự tô vẽ: nó phù hợp với nội dung câu nói đầy chân lý của người xưa: “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.

vế đối 4:TIM ĐEN ÁM TÂM HUYỀN

Huyền 玄 Màu đen. Sâu xa; màu nhiệm). Tình yêu không trong sáng sẽ ám ảnh tâm hồn mình – khắc chế lẫn nhau – làm đen tối cuộc tình. Cuộc tình này cũng như những ai tâm hồn không trong sáng trong lĩnh vực tình yêu thì: "Sự tương phản hai màu cho ta hình ảnh; đối tượng da càng trắng, thể hình càng tươi thì tim của họ sẽ càng đen." Sự khêu gợi xác thịt càng mạnh, dục tình lên cao ám cái tâm càng mạnh, cái huyền bị ức chế mất hết sự sâu xa mầu nhiệm, làm cho tâm chỉ còn lại một màu đen thăm thẳm: con người trở nên u tối không còn khôn ngoan nhạy bén: Ông Quỳnh đã từng ăn rau “vô tâm” nhìn được mặt vua, nhưng lối sống vô tâm buông thả không đưa ông đến được với ý nghĩa đích thực của cuộc nhân sinh: Ông phải sụp đổ cả Đức lẫn Trí trước cái “ da trắng … bì bạch” của bà Điểm./.

vế đối 5: THUYỀN NHỎ GIÓ PHẢNG PHẤT

Phảng 舫 Thuyền (Phất 芾 Nhỏ lá nhỏ) Trọn câu có nghĩ: Thuyền nhỏ gió thuyền nhỏ. Phảng phất 彷彿 Hơi giống, thấy không rõ ràng. Gió phảng phất: Gió thoảng qua một cách nhẹ nhàng (gió nhỏ).

  • 12 câu đối của Lu Hà:
Vế đối 1: “ Lông đen điểm mao hồng “

Vì mao cũng là lông như bì và da. Lông đen đối với da trắng, điểm đối với vỗ, mao hồng đối với bì bạch. Đặc biệt tôi dùng ngay chính tên cô Điểm làm động từ điểm để ghẹo cô. Giá như cô ấy còn sống thì cũng đến chết thôi với Hà mỗ này. hay là: “ Lông đen điểm mao tuyền “ Mao tuyền còn có nghĩa là suối lông, suối lông đối với sóng nước vỗ bì bạch làn da trắng muốt hồng hào của cô Điểm là chết tươi ông cụ nhà tôi rồi, hay là : “ Lông đen điểm mao hắc “? Mao hắc đối với bì bạch thì đối được ý chỉ hiềm nỗi hắc và bạch đều vần trắc cả. Trong câu đối nhiều khi người ta bỏ qua yếu tố trắc bằng nếu ý đối được hay. Nhưng nếu ta gọi: “ Lông đen điểm hắc mao “ ? Liệu cô Điểm đã chịu ngả bàn đèn chưa? Mao đối với bạch chữ cuối thành ra là bạch mao. Cô Điểm thành ra là Bạch Mao Nữ rồi, không khéo bị cô ta cho mấy cái guốc vào mặt. Vì dám tỉa cô ấy là lão bà bà, trên rừng xanh núi đỏ. Bạch Mao Nữ là một nhân vật trong truyện cổ dân gian của Tàu

Vế đối 2: “Bướm vàng xuyên điệp hồ “

Vì bướm cũng là điệp từ Hán, hồ - vàng chỉ màu sắc. hồ còn nghĩa là bột hồ màu trắng. Bướm vàng đối với da trắng, động từ xuyên đối với động từ vỗ, điệp hồ đối với bì bạch

Vế đối 3: “ Suối vàng ngập hoàng tuyền “

Suối vàng cũng có nghĩa là hoàng tuyền, màu vàng cũng gọi là hoàng tiếng Hán, suối và tuyền cũng là hai danh từ chỉ khác tiếng Hán đọc ngược lại mà thôi. Suối vàng đối với da trắng, ngập đối với vỗ, hoàng tuyền đối với bì bạch.

Vế đối 4: “ Tơ hồng mọc sợi non “

Tơ là sợi, hồng là non. Tơ hồng đối với da trắng, mọc đối với vỗ, sợi non đối với bì bạch.

Vế đối 5 : “ Bướm hồng động chi lan

Bướm hồng chữ hán gọi là hồ điệp, còn chi lan hồ điệp là loại hoa lan hình con bướm hồng. Bướm hồng mà nhuốm động mùi thơm của hoa chi lan hay hoa lan thì làm gì mà chả ngây ngất lòng người quân tử kia chứ?

Vế đối 6 : “ Mây rồng rung vân long “

Vì mây rồng nghĩa la vân long. Mây rồng đối với da trắng. Nếu ta nhìn lên trời sẽ thấy nhiều khi những đám mây hình con rồng trắng như bông, đã làm rung chuyển cả hoàng cung của cô Điểm. Động từ rung đối với động từ vổ, Con vân long cũng có nghĩa con rồng mây trắng đang ngọ nguậy vờn lên cơ thể trắng muốt của nàng Hằng Nga Đoàn Thị Điểm. Vân long đối với bì bạch.

Vế đối 7: “ Lông rồng chen mao long “ hay: Lông rồng điểm mao long

Lông rồng tiếng Hán là mao long tương tự như da trắng nghĩa là bì bạch. Lông rồng có thể đen hay trắng đối với da trắng. Chen đối với vỗ. Mao long có thể nâu, đen, trắng, hồng v. v…tùy ý đối bới bì bạch. Lông rồng mọc xồm xoàm tua tủa rất dài tiếng hán gọi là mao long. Lông rồng là thứ của qúy hiếm chỉ những bộ râu của các hoàng đế vua chúa ngày xưa. Nghe nói nếu được một nhúm lông hay râu vua có thể giải độc cho các hoàng hậu vốn được gọi là chim phụng, chim mái bên cạnh phượng hoàng là con đực chỉ nhà vua. Vì vua hay ăn các thứ sâm nhung tổ yến, những chất béo bổ nên râu vua cũng là thứ rất qúy giá để đốt thành tro than làm một phương thuốc giải độc cho các hoàng hậu? Vấn đề vế đối của cô Đoàn Thị Điểm trở nên rắc rối bởi chữ “ bì bạch “. Chữ bì bạch hiểu theo tiếng Hán cũng đúng là da trắng thật. Nhưng nếu ta bỏ qua phần Hán tự đi thì bì bạch trở nên thuần Việt như phì phạch, phò phạch, bì bõm, lạch bạch, bành bạch v. v…

Vế đối 8: “ Hồng Hà tràn Cống Quỳnh

Hồng Hà nghĩa là sông Hồng Hà hay chính là biệt danh nàng Đoàn Thị Điểm. Cống Quỳnh là một cái cống ở Quỳnh Lôi hay cũng là biệt danh Trạng Quỳnh. Hồng Hà và Cống Quỳnh hiểu là danh từ chung hay danh từ riêng cũng được. Hiềm nỗi không phải là tính từ hay trạng từ, phó từ gì cả. Nhưng nếu lấy ý để trêu ghẹo đối với da trắng vỗ bì bạch cũng có thể chấp nhận được. Vì đây là câu tiểu đối chứ không phải hoàn toàn là đối thơ.

Vế đối 9: “ Suối tiên tuôn cam lồ “ hay là: Đào nguyên tứa cam lồ

Suối tiên đối với làn da trắng lạch đào nguyên của cô Điểm, cam lồ tự ưá ra mà thôi từ nguồn suối vô tận cũng phải nhờ vào khả năng của ông Cống Quỳnh nữa. Nguồn suối tiên cũng có nghĩa nước cam lồ chảy ra nhờ Phật Bà Quan Thế Âm dùng cành dương liễu vảy ra từ một cái hồ lô

Vế đối 10: “ Nón da loe chóp hồng “

Nón da chỉ cái mũ các anh lính thú ngày xưa đôi trên đầu có cái chóp hồng hay đỏ tiá, lưng phải đeo bị đạn nặng rất là khổ sở, không kém ông Cống Quỳnh chầu trực trước cửa buồng tắm nhà cô Điểm

Vế đối 11: “ Điểm hoa thách quỳnh chơi “

Hoa quỳnh có những điểm để mà lôi kéo hấp dẫn. Điểm còn nghĩa là tên cô Điểm. Quỳnh còn nghĩa tên Trạng Quỳnh. Bông hoa quỳnh có thời kỳ nở nhụy điểm hương lôi kéo quyến rũ, phải nhờ vào sự nhanh trí lanh lợi của anh chàng Cống Quỳnh mới có thể nhận ra được. Điểm hoa đối da trắng, vì trên hoa quỳnh có những điểm nhụy hương lấm tấm. Thách đối với vỗ còn quỳnh chơi tức là hoa quỳnh được lôi kéo vào giấc mộng thiên thai, ái ân, giao hoà, hoan phối, vui chơi… Còn có nghĩa là thách đối. Đối được thiếp mời chàng vào cùng tắm cho vui. Bây giờ ta lại quay trở lại vế đối nửa Việt nửa Hán có động từ ở giữa.

Vế đối 12: “ Sen hồng điểm bạch liên

Sen hồng tiếng hán cũng có nghĩa bạch liên hay sen trắng. Sen hồng đối với da trắng, động từ điểm đối với động từ vỗ, bạch liên đối với bì bạch. Vẫn lấy tên cô Điểm làm động từ điểm để ghẹo cô. Câu này ý bông sen hồng thơm còn có mùi vị của hoa sen trắng

  • 5 vế đối của Trường Văn Nguyễn Phước Thắng:
vế đối chính: Thịt đen khoe bô lô (Theo Từ điển Hán Việt (Google) "bô" có nghĩa là thịt khô, "lô" là màu đen. Ý vế đối: Thịt màu đen (có thể do thịt đã khô, cũ hay va chạm mà bầm đen) mà người rao hàng (người bán hàng, giới thiệu hàng) cứ khoe (quảng cáo) bô lô ba la rằng thịt tốt (đạt chất lượng). Danh từ: Da >< Thịt, Tính từ: Trắng >< Đen, Động từ: vỗ >< khoe, Phó từ: bì bạch >< bô lô, cả hai đều là từ láy tượng thanh. Cũng như da, thịt cũng không tự vỗ hay khoe được).

Có thể đặt vế đối tương ứng vào ngữ cảnh ra đời của vế ra: Mặc dù chết mê chết mệt trước nữ sĩ tài sắc vẹn toàn lại là con nhà danh gia vọng tộc; nhưng nhiều lần thất thủ trước những tuyệt chiêu câu đối thượng thừa của nữ sĩ nên tình yêu của Trạng ta ngày càng cháy bỏng. Tuy nhiên gặp cơ hội ngàn vàng này, Trạng ta còn giả vờ làm cao, khích rằng người đẹp tuy da trắng nhưng có thể... thịt đen mà cứ kiêu kỳ, gây khó cho Trạng làm gì?! Thôi thì xin hãy chiều theo ý Trạng...)

và 4 vế đối phụ để tham khảo:
vế đối phụ 1: Là đen bày la lê (Lụa là màu đen bày la lê la liệt) (Đối với bên da trắng đang vỗ bì bạch có quần áo bằng là bày la liệt)
vế đối phụ 2: Cỏ đen mọc lang lê (Đối với bên da trắng đang vỗ bì bạch có đám cỏ màu đen bò mọc dài lan man)
vế đối phụ 3: Cá đen giãy lý lô hoặc Chép đen giãy lý lô (Đối với bên da trắng đang vỗ bì bạch có con cá chép màu đen đang giãy (nhảy, nảy) lý la lý lắc nghe lý lô lý la)
vế đối phụ 4: Chim đen hót liêu lô (Đối với bên da trắng đang vỗ bì bạch có con chim nhỏ màu đen đang hót liêu lô như trêu chọc người)

(Theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh: "la" có nghĩa là một thứ lụa sưa, ta gọi là "là", "lang" có nghĩa là loài cỏ mọc nơi đất thấp có thể cho trâu ngựa ăn được, "lý" có nghĩa là cá chép, "liêu" có nghĩa là chim sâu; "lê" và "lô" đều có nghĩa là sắc màu đen. "la lê la liệt", "lý lô lý la" là từ láy bốn, như: áo quần bày la lê la liệt, trẻ nói lý lô lý la. Trong Từ điển Tiếng Việt NXB Thanh Niên năm 2000: "lang" như trong lang thang, ngủ lang, "lê" kéo dài, như lê bước, lê chân.)

  • Vế đối của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh và Thi Sĩ Dương Hồng Kỳ: " Quạ đen kêu ô ô " (2 nhân vật này ở cách xa nhau về địa lý nhưng cùng đưa ra 1 vế đối vào những thời điểm khác nhau)
Phân tích độ khó vế ra: Nghĩa từ hán việt: da = bì (danh từ ); trắng = bạch (tính từ). Từ láy âm vừa là từ tượng thanh : bì bạch."Vỗ" là động từ.

Phân tích vế đối: Nghĩa từ hán việt : Quạ = ô (danh từ ); đen = ô (tính từ). Từ láy âm vừa là từ tượng thanh : ô ô. "Kêu" là động từ. Trên thực tế tiếng kêu của quạ có biên độ âm từ " ô.... ô.... " đến "ơ.... ơ....',tùy người nghe cảm nhận.

  • Vế đáp của Hoài Anh võ Quang Thạch: Ngỗng Hồng thở hộc Hà ("Hộc hà" là từ láy tượng thanh phát ra từ động từ 'thở', thở hộc hà hộc hệch âm sắc nhỏ nhưng lại thoải mái chân thành. "Hộc hà" là phó từ bổ trợ cho động từ thở. Trong hán tự 'Hộc' là Ngỗng trời hay còn gọi là "thiên nga" hoặc là chim Hồng hộc hay hồng hạc, "hà" là màu hồng đỏ. Chim Hộc lúc cao hứng thì tiếng thở nghe hộc hà hộc hệch) Ngỗng còn là danh từ chỉ cái ngỗng, cái cổ ngỗng. Trong vế đối có biệt hiệu của tác giả vế xuất,"Hồng Hà nữ sĩ"
Vế đối khác: Chị đen khóc tỉ ti (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Tỉ là chị, "ti" theo hán tự là chỉ màu đen, "tỉ ti" là từ láy tượng thanh mô phỏng tiếng khóc nho nhỏ kéo dài. trở lại hoàn cảnh của vế xuất, thì nghĩa của vế đối là "chị đen" vì ấm ức mình bị mạo phạm nên khóc tỉ ti.

Đoàn Thị Điểm và Trạng Quỳnh với nhà Thanh

Lôi động Nam bang (nghĩa là: Sấm động cả nước Nam) - sứ nhà Thanh
Vũ qua Bắc hải (nghĩa là: Mưa qua cả biển Bắc) - Trạng Quỳnh
Bấy giờ vua Càn Long nhà Thanh phái Hàng Địch Lộc và Nhiệm Lan Chi sang An Nam, Trạng Quỳnh được cử đóng giả làm anh lái đò đi đón sứ thần, ngồi trên thuyền bất ngờ sứ thần đánh rắm, vì chữa thẹn nên mới đọc câu đối như thế nhưng không ngờ Trạng Quỳnh vạch quần tè ngay xuống sông để đối lại.
安南一寸土不知幾人耕 An Nam nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh (An Nam có một tấc đất, không biết bao nhiêu người cày) - Sứ nhà Thanh
北國大丈夫皆由此途出 Bắc quốc chư đại phu, giai do thử đồ xuất (Các đại phu nước phương Bắc, đều do từ chỗ ấy mà ra) - Đoàn thị Điểm
Sau khi lên bờ, Đoàn Thị Điểm đã được bố trí sẵn đóng giả sẵn làm bà bán nước ngồi ở ven đường. Khi sứ nhà Thanh đi ngang qua bà cố tình vén váy hở ra để sứ thần nhìn thấy, sứ liền đọc như vậy có ý chê phụ nữ nước Nam lẳng lơ đĩ thõa, không ngờ bị bà Điểm đối lại thành ra lại bẽ mặt.

Phạm Đình Trọng và Nguyễn Hữu Cầu

Phạm Đình Trọng là danh tướng đời Lê - Trịnh. Quê: Khinh Dao, huyện Giáp Sơn, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay là huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương). Đỗ Tiến sĩ 1739, làm phó đô ngự sử, vào Phủ chúa làm Bồi tụng, sau chuyển làm Thống lĩnh quân, đánh dẹp cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu ở Hải Dương, Kinh Bắc và Nghệ An. Đầu 1751, bắt được Nguyễn Hữu Cầu đưa ra Thăng Long, được thăng làm thượng thư Bộ Binh, tước Hải quận công. Sau làm trấn thủ Nghệ An. Ông mất tại trấn sở. Triều đình truy tặng tước Đại vương.

  • Thuở nhỏ Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Đình Trọng cùng học với nhau một trường. Trọng thường được thầy khen nhưng riêng Cầu thì vẫn không phục Trọng. Một hôm thầy đi đám, cho Cầu và Trọng cùng theo. Lúc về, nhà đám biếu thầy một cái thủ lợn, Cầu và Trọng tị nạnh nhau mãi không ai chịu xách. Thầy thấy vậy, ra một câu đối bảo hễ ai đối hay thì miễn xách.
Thầy đọc: Huề trư thủ (nghĩa là "Xách đầu lợn")
Trọng đối lại: Phan long lân (nghĩa là "Vin vẩy rồng")
Còn Cầu thì đối: Phá Tần diệt Sở
Thầy gõ vào đầu Nguyễn Hữu Cầu một giáo quạt, chê câu ấy chẳng đâu vào đâu cả, mà lại thừa chữ. Rồi thầy bắt Cầu phải xách thủ lợn. Nhưng Cầu vẫn gân cổ cãi: "Tôi đối sai thật, nhưng ý tôi là muốn bóc vẩy rồng kia, chứ không thèm vin vẩy rồng như thằng Trọng".
  • Một hôm khác, thầy lại ra một câu đối: Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo
Trọng đối rằng: Tháng giêng rét dài, tháng hai rét lộc
Còn Cầu thì đối là: Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động
Thầy nghe xong bảo: "Thằng Trọng có khẩu khí làm quan to, còn thằng Cầu thì chỉ làm giặc!". Rồi sau đó, ông thầy sợ không nhận dạy Cầu nữa. Trước lúc ra về, Trọng bảo Cầu: "Tao sẽ cầm quân tiêu diệt mày!" Cầu đáp: "Nếu tao làm giặc thì tao sẽ đánh tan những đứa ra luồn vào cúi!"
  • Khi Cầu đã theo học ông thầy khác, một hôm nhà có việc phải mổ bò thết khách, nhân đó ra cho học trò câu đối rằng: Tề hoàng ngưu (nghĩa là "Giết bò vàng")
Cầu nhanh nhẩu đối ngay: Trảm bạch xà (nghĩa là "Chém rắn trắng")
Thầy lắc đầu bảo đối sai luật. Cầu đáp: "Tôi chỉ cốt lấy ý chứ không cần luật. Vả lại "giết bò vàng" đối với "chém rắn trắng" mà không đúng luật à?" Thầy khen: "Thế thì mày có chí lớn đấy! Cố lên con ạ!" Sau đó, Cầu bỏ văn theo học nghề võ. Khoảng năm 1731, Cầu tham gia phong trào nông dân khởi nghĩa do Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ lãnh đạo, được Cừ hết sức yêu mến và gả con gái cho.
  • Nguyễn Hữu Cầu là người xã Lôi Động, huyện Thanh Hà, Hải Dương, Việt Nam. Nguyễn Hữu Cầu bơi lội rất giỏi nên được gọi là quận He, từ tên một loài cá ở biển Đông. Hữu Cầu vì nhà nghèo nên đi làm cướp, sau theo Nguyễn Cừ khởi nghĩa, được Cừ yêu quý gả con gái cho. Chẳng bao lâu ông nổi tiếng là một viên tướng giỏi võ nghệ, dũng cảm gan dạ và nhiều mưu lược làm cho triều đình ở Thăng Long kinh hoàng, lo lắng. Chúa Trịnh Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc, Phạm Đình Trọng đánh. Phạm Đình Trọng là bạn học với Nguyễn Hữu Cầu nhưng hai người có thù với nhau. Khi ra trận, Trọng đưa vế đối:
Thổ triệt bán hoành, thuận giả thượng, nghịch giả hạ (Chữ “thổ 土” bỏ nửa nét ngang, để xuôi là chữ “thượng 上”, để ngược là chữ “hạ 下”) Ý Phạm Đình Trọng nói rằng: anh chỉ là đất, nếu hàng thì sẽ được thăng quan tước, mà chống lại thì sẽ bị hạ ngục.
Nguyễn Hữu Cầu đối: Ngọc tàng nhất điểm, xuất vi chúa, nhập vi vương (Chữ “ngọc 玉” có một dấu chấm, đưa ra thì thành chữ “chúa 主”, dấu đi thì thành chữ “vương 王”) Ý Nguyễn Hữu Cầu nói: tôi là ngọc chứ không phải là đất như anh, tôi chỉ hoặc làm chúa, hoặc làm vua thôi chứ đâu thèm làm quan.
Trọng dọa Cầu, thuận thì sống, nghịch thì chết. Cầu chẳng sợ, tỏ cái chí muốn làm vua làm chúa của mình. Năm 1751, Phạm Đình Trọng đem quân vào đánh phá trại. Hữu Cầu chạy đến làng Hoàng Mai thì bị bắt, đóng cũi đem về nộp chúa Trịnh. Trịnh Doanh , cùng lúc đó dẹp được Nguyễn Danh Phương, bắt mang về Kinh đô, đi đến làng Xuân Hy , huyện Kim Anh, gặp người của Phạm Đình Trọng giải Nguyễn Hữu Cầu đến. Trịnh Doanh bèn mở tiệc khao quân, bắt Danh Phương dâng rượu, Hữu Cầu thổi kèn. Hữu Cầu nuốt nhục hầu chúa, khi về kinh thành định vượt ngục nhưng không thành. Tháng 3 năm 1751, ông bị hành hình. Phạm Đình Trọng mang quân về quê ông, quật mộ bố Nguyễn Hữu Cầu, giết 3 họ gia quyến ông.

Trần Văn Trứ

Trần văn Trứ người làng Từ Ô, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương là người nổi tiếng thanh liêm và nhân hậu. Ông đỗ Hoàng giáp năm Quí Hợi (1743), nổi tiếng là con người công bằng chính trực, không hề thiên vị gì ai. Cuối cùng thấy chính sự trong triều quá đỗi mục nát, liền cáo lão về trí sĩ, ai nấy đều tiếc. Thời gian về nhà, ông biết viên tri huyện huyện mình (Thanh Miện) là kẻ rất hách dịch, hễ ai qua dinh mà không xuống ngựa, xuống cáng đều bị hắn đánh đòn. Một hôm, nhân đi chơi qua huyện, ông mượn một con bò cỡi đi, nghênh ngang không chịu xuống. Lính huyện lôi ông vào quan. Ông kêu là thầy đồ già đi dạy học ở tỉnh xa mới về nên không hay biết lệ này, vả lại lệ quan buộc phải xuống ngựa chứ không buộc xuống bò. Lão huyện thét lác một hồi, truy hỏi sách nọ, vặn sách kia để thử thách thầy đồ. Sau chừng như thấy ông đối đáp trôi chảy, ung dung, lại có tuổi tác, nên cũng có ý nể, lão huyện liền bảo ông: "Lý ra tội nhà thầy phải đánh đòn, nhưng ta nể cái bộ râu của thầy nên tha đòn cho. Vậy thầy phải đối câu đối ta ra để tạ ơn nghe!"

Rồi lão huyện ra vế đối rằng: Huyện quan Thanh Miện kiến vô lễ nhi dục công (Quan huyện Thanh Miện thấy kẻ vô lễ nên muốn đánh)
Ông nghè Từ Ô thấy nói "nể cái bộ râu" bèn cười khẩy và đọc: Tiến sĩ Từ Ô hạnh hữu tu nhi đắc thoát (Tiến sĩ Từ Ô may nhờ có râu mà thoát đòn)
Lão huyện nghe xong, biết ngay đó là tướng công họ Trần, sợ toát mồ hôi, vội sụp xuống lạy lục van xin rối rít. Ông nghiêm sắc mặt, chỉnh cho một hồi về đạo đức khiêm tốn, chăn dân ... rồi bỏ đi. Thế là cái lệ "hạ mã" hống hách, vô lý kia cũng bị hạ luôn từ đó.

Một năm kia, ông phụ trách khoa thi hương thuộc trấn quê nhà. Bà vợ nói riêng với ông: “năm nay có thằng cháu đi thi, mong được ông rộng tay cho nó đặng mở mày mở mặt. Tên nó là Hi...” Ông gật đầu biết vậy. Bà vợ lại dặn riêng người theo hầu để ý, khi nào ông duyệt đến quyển văn của người cháu thì làm hiệu: hi hi, nhắc cho ông nhớ. Đúng vào buổi ông chấm văn, người hầu nhận ra dấu hiệu đã dặn, liền đứng cạnh vờ đằng hắng: "hi hi". Ông sực nhớ lại lời vợ, liếc qua lời văn dưới mắt mình thì thấy lời lẽ bất thông. Ông cầm ngay bút son sổ dài lên mặt quyển mà nói: "Này hi hi! Này hi hi!" Người hầu tái mặt, vội vàng trốn ra ngoài. Khi Trần Văn Trứ mất, các bạn đồng liêu và khoa mục có câu đối viếng:

Tọa học sĩ ư xuân phong, diện mệnh nhi đề huấn, hối nhược gia nhân phụ tử.
Lập lại tư ư băng tuyết, từ trực khí tráng, lẫm liệt như lôi điện quỉ thần.

Nghĩa là:

Dạy học như gió xuân, thước ngọc khuôn vàng, răn bảo tựa cha con ruột thịt.
Làm quan như băng tuyết, lời ngay khí mạnh, trang nghiêm như sấm sét quỉ thần.

Lê Quý Đôn

Thuở thiếu thời

Lê Quý Đôn thuở nhỏ tên là Lê Danh Phương, quê ở làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ (nay là thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Một lần, Lê Danh Phương cùng các bạn thiếu niên thường ra cái ao rộng trước cổng làng để tắm. Bỗng có một vị quan lớn đi qua; có ý hỏi đường đến thăm nhà quan Thượng Thư Lê Phú Thứ. Cậu bé Lê Danh Phương thản nhiên đứng dạng hai chân, dang hai tay ra để cản đường. Rồi cậu nói: “Đố ông biết chữ gì đây? Nếu biết, cháu sẽ đưa ông về nhà, còn nếu không thì đợi đấy!” Vị quan lớn rất khó chịu và không muốn trả lời… Lê Danh Phương liền giải thích: “Chữ Thái (太), thế mà cũng không biết!”… Cuối cùng, vị quan lớn cũng tìm đến được nhà bạn. Ông rất ngạc nhiên khi thấy cậu bé trần truồng hồi nãy, bây giờ lại đang ngồi im trên cái ghế đẩu ở trong vườn nhà quan Thượng. Khi nghe vị quan bạn thuật lại chuyện với một thái độ bực dọc, quan Thượng thư Lê Phú Thứ cảm thấy rất ngượng ngùng, xấu hổ với bạn; lập tức gọi Lê Danh Phương vào nhà để mắng, rồi ra điều kiện: cậu phải làm ngay một bài thơ với đầu đề "Rắn đầu biếng học" để xin lỗi cha và bác; nếu không làm được thì sẽ bị đánh đòn. Chỉ một lát sau, Lê Danh Phương đã viết xong bài thơ và thoát được đòn roi của cha.

Nội dung bài thơ như sau: Chẳng phải Liu Điu vẫn giống nhà, Rắn đầu biếng học lẽ không tha, thẹn đèn Hổ Lửa đau lòng mẹ, nay thét Mai Gầm rát cổ cha, Ráo mép chỉ quen lời lếu láo, Lằn lưng chẳng khỏi vệt năm ba, từ nay Trâu Lỗ xin siêng học, kẻo Hổ Mang danh tiếng thế gia (Để thể hiện lời tự thú, tự trách, tự hứa của bản thân trước người cha và người bạn của cha mình, ngoài việc sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật nghiêm trang, ngắn gọn, chặt chẽ; ngoài việc sử dụng những yếu tố ngôn từ trong một số câu tục ngữ và đơn vị thành ngữ tiếng Việt rất tế nhị; ngoài việc sử dụng kết hợp từ thuần Nôm với một vài từ Hán - Việt và điển cố văn học khá hợp lý, Lê Danh Phương còn chú ý sử dụng nhiều danh từ tiếng Việt chỉ một số loài bò sát, nhất là một số loài rắn độc. Từ rắn là một danh từ chỉ động vật thuộc loài bò sát, thân dài có vảy, không chân, di chuyển bằng cách uốn thân. Trong bài thơ Rắn đầu biếng học của Lê Danh Phương, từ rắn đầu là danh từ đã được chuyển hóa thành tính từ để chỉ từ rắn trong rắn mặt - một khẩu ngữ; nói về hạng trẻ con không chịu nghe theo những lời dạy dỗ của cha mẹ, bất chấp cả sự răn đe của người trên và trở nên rất bướng bỉnh, khó bảo. Tương tự, từ liu điu là một danh từ chỉ loài rắn nhỏ, có nọc độc ở hàm trên, đẻ con, sống ở ao hồ, ăn ếch nhái đã được tác giả sử dụng trong câu phá đề theo biện pháp tu từ ẩn dụ để chỉ hạng người không được học hành, bình thường. Từ hổ lửa là một danh từ chỉ loài rắn độc có khoang, màu đỏ như màu lửa được tác giả dùng trong câu thực thứ nhất theo phép chuyển nghĩa thành tính từ thể hiện một phản ứng tâm lý hổ thẹn của con người; ở đây là người mẹ. Từ mai gầm là danh từ chỉ chung loài rắn độc còn có tên là cạp nong, cạp nia. Rắn cạp nong thân có nhiều khoang đen - vàng xen kẽ. Rắn cạp nia thân có nhiều khoang đen - trắng xen kẽ, cỡ nhỏ hơn cạp nong. Từ mai gầm là danh từ được tác giả sử dụng trong câu thực thứ hai theo phép chuyển nghĩa thành động từ thể hiện thái độ giận dữ, bực tức của con người; ở đây là người cha. Từ ráo trong rắn ráo là danh từ chỉ loài rắn lành, cỡ trung bình, lưng màu nâu, bụng màu vàng, ăn ếch nhái được tác giả sử dụng trong câu luận thứ nhất theo phép chuyển nghĩa thành động từ ráo mép chỉ thói quen nói dối rất xấu của người con trước cha mẹ. Từ lằn trong thằn lằn là danh từ chỉ loài động vật thuộc nhóm bò sát, thân và đuôi dài phủ vảy, bốn chi khỏe, sống ở bờ bụi, ăn sâu bọ được tác giả dùng trong câu luận thứ hai theo phép chuyển nghĩa thành tính từ để chỉ hậu quả ở việc xử phạt của người cha đối với con mình về chuyện biếng học. Từ trâu là danh từ chỉ rắn hổ trâu - một loài rắn hổ mang rất lớn, rất khoẻ, rất độc, da màu đen được tác giả dùng trong câu kết thứ nhất theo phép chuyển nghĩa thành địa danh chỉ ấp Trâu; quê hương Mạnh Tử (Trung Quốc). Tương tự, từ lỗ là danh từ liên quan đến nơi ở của rắn, được tác giả dùng trong câu kết thứ nhất cũng theo phép chuyển nghĩa thành địa danh chỉ nước Lỗ; quê hương Khổng Tử (Trung Quốc). Từ hổ mang là danh từ chỉ loài rắn độc có tập tính ngẩng đầu, bạnh mang để đe dọa kẻ địch được tác giả dùng trong câu kết thứ hai theo phép chuyển nghĩa thành tính từ chỉ một trạng thái tâm lý của con người (xấu hổ mang danh). Bên cạnh việc dùng hai từ địa danh (Trâu, Lỗ) chỉ quê hương của Mạnh Tử, Khổng Tử; tượng trưng cho Nho học, khi viết bài thơ Rắn đầu biếng học, Lê Danh Phương còn lựa chọn những từ trong một số câu tục ngữ Việt và trong một số đơn vị thành ngữ tiếng Việt để đặt vào những vị trí cần thiết ở đầu đề và cả trong tám câu thơ của bài thơ: từ Rắn đầu trong đầu đề và trong câu thừa đề có trong thành ngữ "Rắn đầu rắn mặt"; từ liu điu trong câu phá đề có ở tục ngữ: "Trứng rồng lại nở ra rồng, liu điu lại nở ra dòng liu điu"; từ giống trong câu phá đề có trong thành ngữ "Giống nào ra giống ấy"; từ đau lòng trong câu thực thứ nhất có trong thành ngữ "Đau lòng xót ruột"; cụm từ nay thét mai gầm trong câu thực thứ hai xuất phát từ thành ngữ "Nay thét mai gào"; từ ráo mép trong câu luận thứ nhất có trong thành ngữ "Ráo mồm ráo mép"; cụm từ năm ba trong câu luận thứ hai bắt nguồn từ câu tục ngữ "Năm bà ba chuyện"; cụm từ siêng học trong câu kết thứ nhất bắt nguồn từ câu tục ngữ "Siêng làm thì có, siêng học thì hay"; cụm từ hổ mang danh trong câu kết thứ hai có trong thành ngữ "Xấu hổ mang danh"; và từ thế gia trong câu kết thứ hai có trong thành ngữ "Thế gia vọng tộc". Nhờ phối hợp sử dụng ngôn từ và thể loại hết sức nhuần nhuyễn, tinh tế, Lê Danh Phương qua bài thơ Rắn đầu biếng học đã nói lên đầy đủ những khía cạnh trong nội dung lời tự thú, tự trách, tự hứa của mình: tuy bản thân vốn sinh ra từ một gia đình có học, nhưng cậu lại ương bướng, ngang ngạnh, khó dạy bảo, không chăm lo học hành; và tự nhận thấy với những lỗi ấy chắc chắn cậu sẽ bị cha xử phạt nặng. Những lỗi của cậu đã làm cho mẹ rất đau lòng, xót ruột mỗi khi thắp đèn cho cậu học, mỗi lần nhóm lửa nấu cơm cho cậu ăn. Những lỗi của cậu không chỉ gợi niềm đau xót, hổ thẹn âm thầm, thường xuyên ở mẹ, mà còn dẫn đến thái độ bực tức, lo lắng, giận dữ ở cha. Dù mẹ có buồn, dù cha có giận và thậm chí nhiều lần đã bị cha xử phạt nghiêm khắc, nhưng cậu vẫn “lếu láo”; nghĩa là vẫn học bài một cách qua loa, đại khái, cốt cho có, cho xong. Mãi đến lúc này, trước một lỗi rất nặng (vừa biếng học, vừa vô lễ), cậu mới thực sự biết nhận lỗi và biết hứa từ nay chăm chỉ học hành để xứng đáng con nhà quyền thế, để xứng danh với truyền thống học phong của gia đình. Cả quan Thượng và vị khách chẳng những hết giận, mà còn tỏ ra rất thán phục về tài làm thơ của cậu bé)
vế đối: Những muốn Tự Do cho mới nhà, Thơ câu dại ý cóc mò tha, sách lề Đường Luật còng lưng mẹ, thầy thưởng Trường Ca mát bụng cha, Song Thất sao quên câu tuấn kiệt, Tứ Ngôn chăng nhớ bậc tài ba, vững lòng Lục Bát mà vui đạo, kim Cổ Phong lưu thi Việt gia (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Tự Do, Đường Luật, Trường Ca, Song Thất, Tứ Ngôn, Lục Bát, Cổ Phong là các thể loại thơ. Trong bài thơ này,Cóc dùng với nghĩa là con cóc, ý nói thơ dở, thơ con cóc; Song Thất cũng có thể hiểu là cửa sổ (song) trong nhà (thất); Tứ Ngôn có thể hiểu là ý tứ (tứ) cao lớn (ngôn, vì theo từ điển Hán Việt Đào Duy Anh, "ngôn" còn có nghĩa là cao lớn); Lục Bát cũng có thể hiểu là sông Lục, núi Bát thuộc tỉnh Bắc Ninh (bao gồm Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay) quê hương những làn Quan họ, một cái nôi của thơ ca Việt Nam. Ngoài ra, Lục Bát cũng có nghĩa là "lục tìm chén bát" để ăn cơm, "có thực mới vực được đạo")
  • Một hôm, một vị quan bên Liêu Xá đến thăm ông Lê Trọng Thứ. Vị quan có nghe tiếng cậu bé con quan Thượng Lê rất hay chữ, muốn trực tiếp thử tài. Nể tình, ông Lê Trọng Thứ cho gọi Lê Quý Đôn tới.
Ông khách nói: "Ta nghe cháu còn bé mà đã hay chữ, nhà cháu gần ngã ba sông, vậy ta ra vế đối là: Tam xuyên (三川)!"
Vế đối giản dị mà hóc búa, chữ tam (三) có ba nét sổ ngang nhưng dựng lên, thành ba nét sổ đứng và là chữ xuyên(川). "Tam xuyên" (三川) lại có nghĩa "ba con sông". Lê Quý Đôn chưa đáp ngay mà cứ trân trân nhìn ông khách có mang cặp kính. Ông khách rất vui vì tìm được vế đối rất hiểm, liền hỏi: "Sao, có đối được không, cháu bé?"
Lê Quý Đôn lễ phép thưa: "Dạ, cháu xin đối là: Tứ mục (四目)!".
"Tứ mục" (四目) có nghĩa "bốn con mắt". Chữ đối lại thật chuẩn, chữ "tứ" (四) viết quay dọc lại, cũng là chữ "mục" (目).

Khi vừa thành danh

  • Sinh thời Lê Quý Đôn nổi tiếng là người thông thái, đọc và hiểu không biết bao nhiêu sách vở thời bấy giờ. Ông thi đỗ Khôi nguyên. Lẽ thường, tuổi trẻ thông minh đĩnh ngộ, đỗ đạt sớm thường hay mắc tính kiêu ngạo. Thời trẻ, Lê Quý Đôn cũng không tránh khỏi điều ấy. Chuyện kể, sau khi thi đỗ, ông liền cho treo ngay trước ngõ tấm biển với hàng chữ: "Thiên hạ nghi nhất tự lai vấn" (Nghĩa là: Ai không hiểu chữ gì thì hãy đến mà hỏi). Lần thân phụ ông qua đời, người đến viếng rất đông. Trong số đó có một cụ già mà Lê Quý Đôn không quen. Cụ tự giới thiệu lai lịch: Cháu còn nhỏ, chứ lão là bạn thân với cha cháu từ xưa. Nhưng vì nhà nghèo, đường xa, lại tuổi già sức yếu nên ít đi lại thăm hỏi nhau. Nay nghe tin cha cháu mất, lão đến để có câu đối viếng. Lão run tay, cháu hãy lấy giấy bút, lão đọc, nhờ cháu viết hộ. Lê Quý Đôn lấy giấy bút. Cụ bèn đọc: "chi". Ông Đôn không biết nên viết chữ "chi" nào bởi trong tiếng Hán có nhiều chữ "chi" viết khác nhau. Ông đành cầm bút chờ cụ già đọc tiếp xem sao, cụ lại đọc "chi". Lê Quý Đôn thấy lạ, liền hỏi: "Bẩm, "chi" nào ạ?" Cụ thở than rằng: "Đến chữ "chi" cũng không biết viết, thế mà treo bảng ngoài ngõ để cho người đến hỏi, thì sao trả lời được kia chứ?" Lê Quý Đôn ngượng chín cả người. Bây giờ cụ già mới đọc luôn hai vế đối:
Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kiên thượng tại Cách hơn ba chục năm, xích huyện hồng châu nay vẫn đó)
Tại tại số thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chỉ (Xa ngoài mấy ngàn dặm, đào hoa lưu thủy bác về đâu)
Thấy câu đối hay và lạ, Lê Quý Đôn và cả các nho sĩ đến viếng đều kinh ngạc. Còn ông già thì phủ phục trước linh cữu mà khóc rằng: "Ới anh ơi, anh bỏ đi đâu để con anh đỗ đến Bảng Nhãn mà chưa biết chữ "chi" anh ơi". Lạy xong, cụ già chống gậy ra về. Lê Quý Đôn mời mãi nhưng cụ không chịu nán lại, bởi thế nên sau này không ai biết ông cụ hay chữ đó tên là gì. Có thuyết khác nói giai thoại này là do cụ già viết cho Cao Bá Quát.
  • Tuy bị cụ già làm cho bẽ mặt nhưng Lê Quý Đôn vẫn chưa bỏ được tính kiêu ngạo, sau đó ông đến cầu siêu cho cha ở ngôi chùa làng. Nhà sư trụ trì thấy ông thì mừng rỡ mà rằng: "Quan Bảng vừa tới, may mắn sao. Bần tăng có điều muốn nhờ quan chỉ giáo, chả là đứa tiểu đồng của bần tăng nghe người nào đó đó, về hỏi, nhưng bần tăng nghĩ không ra, nên đành theo lời quan bảng dạy "Nghi nhất tự lai vấn". Câu đối thế này, xin quan chỉ cho:
Hạ bất khả hạ, thượng bất khả thượng (dưới không thể dưới, trên không thể trên)
Chỉ nghi tại hạ, bất khả tại thượng (đúng nên ở dưới, không thể ở trên)
Lê Quý Đôn nghĩ mãi không ra, đúng lúc ấy chú tiểu chạy từ ngoài vào thưa với sư phụ là cậu đã giải được. Lê Quý Đôn giục chú tiểu nói thử xem, thì mới hay đó là chữ "nhất" (một). Đúng là trong chữ "hạ" (dưới), thì chữ "nhất" ở trên chứ không thể viết dưới. Trong chữ "thượng" thì chữ "nhất" nằm dưới và chữ "bất", chữ "khả" thì chữ "nhất" lại ngồi trên. Lê Quý Đôn biết nhà sư đã lấy ngay chữ "Nhất tự lai vấn" ông treo trước ngõ để nhạo.
  • Qua hai lần gặp cao nhân, Lê Quý Đôn đã bớt kiêu ngạo hơn nhưng cái tính tự mãn chưa thể sửa ngay được trong một sớm một chiều, ông hạ chữ "nghi nhất tự lai vấn" xuống nhưng lại viết mấy chữ: “Thiên hạ vô tri vấn Bảng Đôn” vào cái bảng, hễ đi đâu thì cho thằng đầy tớ đi trước cầm. Một hôm qua đò, ông lái đò nhìn thấy dòng chữ trên rất khó chịu liền nói: "Tôi ra câu đối ông đối được thì để bảng này cầm đi, nếu không đối được thì đập cái bảng đi!" Lê Quý Đôn đồng ý, thời gian đối là thời gian đò qua sông. Lê Quý Đôn bảo: "Ông xuất đối đi". Ông lái đò nhìn vào khoang thuyền, trên bếp đang nấu thịt con hôn trong nồi ba ông đọc luôn:
Con Ba Ba nấu nồi ba, tam tam chi cửu thật là chín chưng
Lê Quý Đôn nghĩ nát óc cho đến khi đò sang sông mà vẫn không đối được, ông lái đò đập cái bảng ấy đi, từ đó cái tật coi thường người khác của ông mất hẳn vì ông hiểu rằng "mình hay nhưng có người hay nữa". Câu một có lẽ chúng ta đã rõ ông lái đò chơi chữ “Ba ba” với hai nghĩa (số 3 và con Ba Ba) Câu hai chia thành hai phần: “Tam tam chi cửu (chơi tiếng Hán hoàn toàn có nghĩa là : ba lần ba là chín, và cửu vừa là số 9 vừa là tính từ “chín”); “thật là chín chưng” nghĩa tiếng Việt hoàn toàn như “chín ngấu, chín mùi, chín rục...
  1. Gần đây có người là Diên Minh đối như sau: Chim Đa Đa đậu nhánh đa, vô vàn trú thất khéo mà lạc nhau (Vế một dùng “Đa đa” với hai nghĩa (chim Đa Đa và nhiều), đạt tiêu chuẩn của vế xướng. Vế hai với phần một: “Vô vàn/trú thất”với từ Việt là “vô vàn”, từ Hán là “trú thất” (Thất : động, lều, chỗ trú đơn giản - còn có nghĩa là mất, thất lạc); phần hai thuần Việt “khéo mà lạc nhau”. Vô vàn:(无穷多: nhiều nhiều, đọc trại ra cho dễ nghe của nguyên từ “vô vạn” là từ Hán. Do đó, câu đối của Diên Minh có thể nói là đạt yêu cầu được 90% (vế một 50% + vế hai 40%)
  2. vế đối khác 1: Chim cô cô đáp nhà cô, đơn đơn như nhất líu lô một mình (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Theo Wikipedia, chim cô cô có 2 loại: Cô cô đầu xám (Cochoa Purpurea ) và Cô cô xanh (Cochoa viridis). Cô cô đầu xám được tìm thấy ở Bangladesh, Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Lào, Myanmar, Nepal, Thái Lan, và Việt Nam. Chim Cô cô đầu xám là một loài chim màu sắc rực rỡ, thích sống yên tĩnh, nó thường hay đứng bất động một mình trong các tán cây. Chữ cô được dùng trong từ "nhà cô" có thể hiểu theo nghĩa danh từ (như cô giáo, cô gái, cô cậu...) hoặc theo nghĩa tính từ (cô thân độc mã, cô quạnh...). Theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, chữ "cô" còn có nghĩa là một mình, chữ đơn cũng còn có nghĩa là một mình. Đơn đơn như nhất dùng ý nghĩa 1x1=1 để đối với 3x3=9 của vế ra. Có thể thay cụm từ "Đơn đơn như nhất" bỡi "Nhất nhất như nhất" mà vế đối không thay đổi ý nghĩa. Vế đối tả một con chim cô cô đậu một mình trên một ngôi nhà cô độc (hoặc ngôi nhà của cô giáo "hay cô gái, bà cô" chỉ ở một mình)
  3. vế đối khác 2: Biển mười mười cấp anh mười, thập thập đẳng bách sướng cười trăm vui (Thiền Long) ("Con ba ba" là danh từ chung chỉ con vật thuộc loài ba ba. "Nồi ba" cũng là danh từ chung; Phần đầu vế đối: "Biển mười mười" là danh từ chung chỉ biển số đăng ký cho các xe có số thứ tự 1010. Trên thực tế Biển số 1010 được gọi theo các cách: "một không một không" hoặc "mười mười" hoặc "một nghìn không trăm mười"; "Anh mười" chỉ chung người anh thứ 10; Phần hai vế đối (số hán việt) : thập = 10; bách = 100; thập thập đẳng bách: 10X10=100, phần thuần việt "sướng cười trăm vui" : diễn tả trạng thái đạt niềm vui lớn "trăm vui" vì biển số đẹp, chữ "trăm" lặp lại nghĩa chữ "bách" đối chữ "chín" lặp lại nghĩa chữ "cửu")
  4. vế đối khác 3: Đường hai hai qua nước hai, nhị nhị thành tứ đúng bài tư duy (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Đường 22 là quốc lộ Xuyên Á từ Tây Ninh qua Cam pu chia là nước thứ hai sau Việt Nam)
vế đối khác 4: Mười mười đúng cả vừa mười. Thập thập như bách đúng rồi trăm nguyên. (Nguyễn Sư Giao)
có thuyết khác lại nói vế ra này liên quan đến Trạng Trình Ngyễn Bỉnh Khiêm. Chuyện kể rằng: Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khi lên núi Tản Viên gặp ba cô gái rất xinh đẹp mỗi cô cầm một con ba ba và một cái né ba bằng đồng liền buông lời trêu ghẹo. Mấy cô gái nói "thấy ngài giỏi chữ nghĩa như thế, vậy nhờ ngài đối hộ vế đối này nhé". Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rằng "có câu đối nào mà ta bó tay đâu, các nàng ra câu đối đi". Các cô gái liền nói "Ba ba mà nấu nồi ba. Tam tam chi cửu thật là chín chưng". Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm không đối nổi nhìn theo bóng các thôn nữ xinh đẹp xa dần về nhà đổ bệnh mà chết.

Triều Nguyễn Tây Sơn

Quang Trung và Lê Ngọc Hân

Vua Quang Trung tên thật là Nguyễn Huệ, khi còn nhỏ, Nguyễn Huệ thường được gọi là chú Thơm. Dưới quyền của Tây Sơn vương Nguyễn Nhạc, ông được phong làm Long Nhương tướng quân. Khi đem quân ra Thăng Long lật nhào họ Trịnh, Nguyễn Huệ tỏ ý tôn phò nhà Lê. Cùng với thuộc tướng là Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ vào điện Vạn Thọ tiếp kiến vua Lê. Lê Hiển Tông mời Nguyễn Huệ ngồi ở sập bên giường ngự mà hỏi thăm yên ủi, Nguyễn Hữu Chỉnh mối lái nên nhà vua ưng lời gả Ngọc Hân công chúa và nhờ ông này dò ý Nguyên soái Nguyễn Huệ, Chỉnh bèn thay mặt nhà vua mời Nguyễn Huệ vào triều kiến diện.

Lê Ngọc Hân còn gọi bà là Bà Chúa Tiên khi bà ở Phú Xuân vì dinh phủ lập ở chùa Kim Tiên. Lúc vua cha và Nguyễn Huệ nói truyện, bà đứng sau bức bình phong, nghe tiếng Nguyễn Huệ ngân như chuông, lời lẽ quang minh chính đại. Đến khi thấy Nguyễn Huệ mắt phượng mày tằm, ánh nhìn như chớp, tướng mạo phi phàm thì trong lòng sinh ra cảm phục. Bà bước ra thi lễ và xin ra một vế đối và nói: "Nếu Chúa công đối được ấy là Chúa công đã trao lễ vật vậy". Nguyễn Huệ nhận lời, Ngọc Hân công chúa đã chuyển nguy thành an, chuyển thế bị động thành chủ động. Đang là kẻ bị ép duyên, Ngọc Hân công chúa trở thành chủ động tuyển phò mã.
vế ra là: Chúa công Công chúa hội ngộ
Ngọc Hân công chúa tuyển phò mã bằng phương pháp thanh tao nhất, một vế đối thích hợp cho cả hai. Chàng là chúa công, nàng là công chúa cành vàng. Vừa hợp tình hợp cảnh, vừa nhắc khéo đến địa vị của nàng.
Nguyễn Huệ đối: Một mai mai một anh hùng

Nguyễn Huệ tự cho mình là anh hùng mà không đối được với giai nhân hay sao, thành anh hùng mai một hay sao? Do nghĩ như vậy nên câu đối Nguyễn Huệ có chữ ‘anh hùng’, ‘mai một’ , và chỉ gồm hai chữ này thôi. Đây là cái mà người xưa gọi là khẩu khí, khi đối, khi làm thơ

Vế ra của công chúa Lê Ngọc Hân rất khó và sẽ khó hơn nếu khoảng thời gian đối đáp là rất ngắn ngủi trong một buổi gặp gỡ cho Vua Quang Trung, có lẽ do tình thế bắt buộc lúc đó nên tuy vế đối của vua Quang Trung chưa chuẩn nhưng công chúa Lê Ngọc Hân cũng buộc phải chấp nhận. Năm 2014, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đưa ra hai vế đối khác là:

Vế đối 1: Đạo gia Gia đạo liên quan (Đạo gia là danh từ chung chỉ người theo đạo giáo; Gia đạo là danh từ chung chỉ các nguyên tắc trong gia đình. Liên quan là động từ có nghĩa là có mối quan hệ với nhau có thể đối với hội ngộ (gặp nhau); Toàn ý của câu đối là đạo gia và gia đạo có liên quan với nhau ở các nguyên tắc của đạo và gia đạo). Việc kết duyên đó cũng thuộc chủ đề gia đạo)
Vế đối 2: Quốc vương Vương quốc chiến thắng ("Quốc vương" là vua một nước, "vương quốc" là một nước có vua). Vế đối muốn tôn vinh những chiến công lẫy lừng của người anh hùng áo vải mà sau đó trở thành vị hoàng đế lừng danh thiên hạ)
Vế đối khác 1: Sư thái Thái sư trùng phùng (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
Vế đối khác 2: Nhà nước Nước nhà độc lập hoặc Nhà nước nước nhà thống nhất (Hoàng Thành Ân tự Trọng Khoa) (Nhà nước là một tổ chức xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị được giai cấp thống trị thành lập nhằm thực hiện quyền lực chính trị của mình, nước nhà là nước của dân tộc mình, nước của chúng ta không phải của chủng loại khác. Câu này nói nên nhà nước ta là của chúng ta, do dân ta xây dựng nên một cách độc lập tự do chớ không còn bị áp bức bóc lột dưới gông xiềng nô lệ của ngoại bang nữa. Còn câu sau nói nên rằng nhà nước của nước ta là 1 nhà nước thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, không chấp nhận sự chia cắt đúng sách của chủ tịch Hồ Chí Minh "đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng chân lý đó không bao giờ thay đổi")
Vế đối khác 3: Hoàng thượng Thượng hoàng tương tri (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

Vế đối khác 4: Học sinh Sinh học thực tập (Đỗ Đình Bao)(Học sinh là người học tập tại các trường lớp có đào tạo quy củ, thường ở cấp độ tiểu học và trung học. Ở cấp độ cao học, đại học, cao đẳng gọi là sinh viên. Ở đó họ được truyền đạt kiến thức bài bản về một hoặc nhiều ngành nghề, chuẩn bị cho công việc sau này của họ. Sinh học là một môn khoa học về sự sống, tập trung nghiên cứu các cá thể sống, mối quan hệ giữa chúng với nhau và với môi trường. Nó miêu tả những đặc điểm và tập tính của sinh vật, cách thức các cá thể và loài tồn tại...vế đối nghĩa là Học sinh môn Sinh học đi thực tập)

  • Những dấu tích lịch sử và câu đối của Hoàng đế Quang Trung trên đất Bỉm Sơn:

Thị xã Bỉm sơn là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi đây còn lưu lại nhiều dấu tích Lịch sử và những huyền thoại dân gian. Năm Mậu Thân (1788) vua Lê Chiêu Thống cầu viện 29 vạn quân Thanh kéo sang nước ta. Trong thời gian Tướng quân Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhậm và Hoàng đế Quang Trung ở trên đất Tam Điệp - Bỉm Sơn đã sử dụng đình làng Gạo để chứa quân lương. Những địa danh như: Đồi Ông Tập, Đập chắn Voi, đồng càn Chuối, …Bài bia, Đồng cắm cờ, Đồi Ông Đùng Đền Cây vả (Trà sơn miếu)…Tại nơi đây, Quang Trung đã được Tiên Nữ báo mộng phải hành quân thần tốc ra Bắc Hà tiêu diệt giặc Thanh. Quả nhiên như báo mộng, khi thắng trận trở về Nhà Vua đã không quên giấc mộng đó và đã phong tặng đôi câu đối:

“Sắc lệnh bao phong thế phúc thần
Ân phá mạt tướng Thiên Tiên Nữ”

Những câu đối do hậu thế tưởng niệm

  • Bốn câu đối khóc vua Quang Trung của các sĩ phu Bắc Hà:

Câu thứ nhất:

Hoàng thiên cổ hạ dân, tác chi quân, tác chi sư, nam bắc đông tây giai cộng khánh;
Thánh nhân hữu đại đức, thực kỳ danh, thực kỳ vị, cổ kim khí số khước nan tề.

Nghĩa là:

Ông trời đo lường được lòng dân ban cho một ông vua, một vị thầy mà nam bắc đông tây đều mừng rõ;
Là bậc thánh nhân có đức lớn, danh đã thực mà vị cũng thực, từ xưa đến nay, vận khí và số mệnh nào có ai cũng như ai đâu!

Câu thứ hai:

Hách hách phục huỳnh Việt, tập thiên mệnh, oanh lôi chế diễn, thời bạc kiến hùng uy;
Phiêu phiêu thừa bạch vân, chí đế hương, cùng cốc thâm sơn phi hào giai nhũ mộ.

Nghĩa là:

Vâng mệnh trời giúp nước Việt da vàng, công tích chói ngời, sấm giăng chớp giật, trong giờ phút mong manh thấy rõ uy lực của đấng anh hùng;
Nương mây trắng đến chốn quê vua, trong chơi vơi, từ ngõ hẻm đến hang cùng không hề kêu gọi mà ai nấy đều mến mộ.

Câu thứ ba:

Phân vân lộc dã giác phương hưu, hốt nhĩ, thần qui nhật nguyệt, quang liễm vi tiên, tùng kỷ nhĩ triền thiên lý mộng;
Trù (võng) trướng long hồ nhiêm mạc vãn, tuy nhiên, trạch tại sinh linh, uy lưu hải vũ, cương điền vĩnh thoát ức niên mưu!

Nghĩa là:

Quá đỗi rối ren! Công cuộc phòng vệ đất nước mới vừa xong, thì bỗng chốc vị thần đã về cõi mặt trăng, ánh sáng gom tụ nơi đền đài, từ bấy giấc mộng ngàn dặm quanh quẩn đâu đây;
Chao ôi buồn thảm! Cái râu rồng không bao giờ quay lại, tuy vậy, ơn cứu vớt sinh linh còn đó, uy danh khắp biển trời còn đó, mưu đồ xây dựng đất nước thịnh trị lâu dài thì không thể nữa rồi!
hai cụm từ “lộc dã giác phương hưu” của vế trước đối với “long hồ nhiêm mạc vãn” của vế sau. Sở dĩ từ những chữ “lộc dã giác phương hưu” dịch thành “công cuộc phòng vệ đất nước vừa mới xong” vì rằng, theo như sách Từ Hải (NXB Trung Hoa thư cục - Vĩnh Ninh - tái bản năm Trung Hoa dân quốc thứ 37) trang 1548 chép: “Ngày xưa, vật liệu bố phòng các doanh trại quân đội người ta dùng cây, gỗ vạt nhọn làm chông cắm hoặc trồng trên mặt đất chung quanh doanh trại để chống kẻ địch đến gần. Vật liệu bố phòng này có hình sừng nai (chắc là con tùng lộc-ND) vì vậy mới có tên gọi “lộc giác”. Sách Nam sử, truyện Vĩ Nhuệ (cũng đọc là Duệ, hoặc Tuấn) chép: “Ban đêm đào hào (rãnh) dài, dùng sừng nai bằng gỗ làm thành”. Sách Tam dư chuế bút thì chép: “Tính con nai hay cảnh giác, lúc tập hợp cả bầy nghỉ ngơi thì nằm vòng tròn, đầu sừng chỉa ra chung quanh như một trận địa để đề phòng người và vật lạ đến sát hại. Cho nên hàng rào bố phòng các doanh trại quân đội chôn chông chỉa ra bên ngoài mới có tên gọi là lộc giác”. Như vậy, “lộc dã giác” có nghĩa là loại sừng nai bằng gỗ để bố phòng. Còn cụm từ vế sau “Long hồ nhiêm mạc vãn” chúng tôi buộc phải dịch thành “cái râu rồng không bao giờ quay lại” vì rằng, cũng theo sách Từ Hải trang 1575 (chữ “hồ” trong Từ Hải không có bộ chấm thủy) chép: “Thiên Phong thiền thư sách Sử ký nói rằng, vua Huỳnh Đế lấy đồng ở núi Thủ sơn đúc đĩnh dưới chân núi Kinh Sơn, khi đĩnh đúc xong, có con rồng xủ râu xuống rước vua Huỳnh Đế. Nhà vua cưỡi rồng, bầy tôi và cung tần cùng cưỡi rồng theo vua đến 70 người. Rồng chuẩn bị bay, các quan nhỏ không lên lưng rồng được bèn bám lấy râu rồng, rồng rút râu lên làm rơi người và cây cung của vua. Trăm họ ngước cổ nhìn nhà vua lên trời bèn ôm lấy cây cung mà kêu gào với râu rồng”. Như vậy, “long hồ nhiêm mạc vãn” là ý nói nỗi đau lòng của trăm họ đối với cái chết của vua Quang Trung.

Câu thứ tư:

Thê lương thu nguyệt ngũ canh, thanh điểu man man, ngọc vũ quỳnh lâu đồ cực vọng;
Thiều đệ xuân kinh thiên lý, bạch vân diểu diểu, Lô giang Tản lĩnh tự thê sầu!

Nghĩa là:

Đêm trăng thu năm canh thê thảm làm sao! Chim xanh mờ mịt, điện ngọc lầu quỳnh vòi vọi ngóng trông;
Kinh đô Phú Xuân ngàn dặm xa vời! Mây trắng lững lờ, núi Tản sông Lô đau buồn chi xiết!
  • Câu đối ở thượng điện đền thờ Hoàng đế Quang Trung trên núi Quyết - thành phố Vinh:
敦本國無遊民野無曠土 Đôn bản quốc vô du dân dã vô khoáng thổ (Phải coi trọng nghề nông thì nước không có dân du cư đồng không bị bỏ hóa)
抑末人都務業社不荒田 Ức mạt nhân đô vụ nghiệp xã bất hoang điền (Cần hạn chế sự yếu kém thì dân sẽ chăm lo nghề nghiệp làng xã không còn ruộng hoang)
Đây là đôi câu đối có ý nghĩa khuyến nông của thời Quang Trung.
  • Đền thờ vua Quang Trung ở Làng Do Xuyên xã Hải Thanh huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hóa là một di tích lịch sử rất qúy báu. Đền mới đuợc trùng tu, nhưng trong đền còn giữ đuợc bài vị của Nguyễn Huệ khi ông lên ngôi vua và một chuông đồng khắc bốn chữ Hán “Thuợng Trung Tự Đẳng” có niên đại vào năm tự Đức thứ 10 (1857) chứng tỏ đền đuợc lập từ thời Nguyễn, ngòai cổng đền có hai câu đối cổ:
“Anh hùng thanh sất Bân Sơn cổ
Miếu mạo quang lưu Bạch Hải kim”
Nội dung nhắc lại sự kiện cuối năm 1788, nguyễn Huệ nghe tin 20 vạn quân Thanh kéo vào xâm lược chiếm đóng kinh đô Thăng Long . Ông cho lập đàn tế trời trên núi Bân (Bân sơn) ở Huế lên ngôi vua lấy niên hiệu là Quang Trung, thét mắng (Thanh sắt) kẻ thù rồi kéo quân thần tốc ra Bắc đánh tan 20 vạn quân Thanh xâm luợc và vào thành Thăng Long ăn tết nguyên đán (1779).
  • Các câu đối của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh:
Càn khôn nhất cuộc thao tinh tú (vũ trụ một lúc thao luyện các ngôi sao tinh tú của mình)
Nhật nguyệt thiên thu chiếu sử hùng (trời trăng mãi mãi soi rọi lịch sử anh hùng ấy)
Ẩn dụ vua Quang Trung như một vì sao của vũ trụ sinh ra và những chiến công lừng lẫy đặc biệt ấy vốn là một dịp thao luyện tinh tú của đất trời
"Áo vải cờ đào, hào khí ngút trời, dẹp loạn giệt gian trừ giặc dữ
Văn hưng võ đỉnh, chiến công vang cõi, an bang hành đạo giúp dân lành"
Nói "áo vải cờ đào" thì ai cũng biết là nói về nhà Tây Sơn dẫu cho câu đối này có xuất hiện ở đâu chăng nữa. Tây Sơn tam kiệt thì có vua Quang Trung là nổi bật đặc biệt hơn cả. Những chiến công của vua Quang Trung đều rất vĩ đại, thần tốc và bất ngờ. Ông từng lãnh đạo đội quân Việt tấn công phủ đầu hơn 29 vạn quân Thanh hùng mạnh của thời kỳ đại hưng thịnh của triều Thanh với các chiến lược chiến thuật được tính toán như thần, hành quân thần tốc, diệt giặc nhanh gọn đầy tính quả đoán, quả quyết kinh người như thế là một chuyện cổ kim liệu có ai từng làm được?! Các thế võ cổ truyền của Tây Sơn vẫn còn lưu truyền đến ngày hôm nay và quả thật ta nói võ Tây Sơn là "võ đỉnh" là không ngoa chút nào. Ngoài ra vua Quang Trung cũng đặc biệt đề cao chữ nôm chú trọng văn hóa thuần Việt, các cách tạo hòa khí với nhà Thanh sau trận chiến chứng tỏ quan điểm vì dân, thức thời, cương nhu đúng lúc...
  • Các câu đối ở Đàn Tế Trời Đất trên núi Ấn Sơn tỉnh Bình Định:

Đàn tế trời đất được UBND tỉnh Bình Định xây dựng trên núi Ấn Sơn (thuộc xã Bình Tường, huyện Tây Sơn), khởi công từ ngày 26-11-2011 trên diện tích 46ha. Câu liễn thứ nhất được đặt ở cổng đón:

Ngàn thu vượng khí anh linh, một dải non sông kỳ tuyệt
Ba vị anh hùng cái thế, bốn phương trời bể tung hoành

Câu thứ hai đặt ở trước cổng đền ấn:

Công đức ngàn năm ghi bia đá
Truyền thống muôn đời tạc tâm can

Câu thứ ba đặt ở cổng chính “Bảo sơn thiên ấn”:

Trăm họ lầm than, nổi trống Tây Sơn trừ bạo chúa
Bốn phương loạn lạc, giương cờ Bình Định cứu lương dân
  • Điện Tây Sơn được xây dựng trên đền thờ cũ ở thôn Kiên mỹ, xã Bình thành. Gian giữa thờ vua Quang Trung. Gian bên tả thờ hai vua Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và gian bên hữu thờ tướng tá bộ thuộc. Hai bên cửa vào điện có câu đối:
Tây Khê thảo thụ lưu kỳ tích
Nam quốc sơn hà ký võ công

Đặng Trần Thường đối đáp với Nguyễn Huệ và Ngô Thì Nhậm

Ngô Thì Nhậm còn gọi là Ngô Thời Nhiệm, tự là Hy Doãn, hiệu là Đạt Hiên, người làng Tả Thanh Oai, ngày nay thuộc huyện Thanh Trì - Hà Nội. Năm 1788, Ngô Thì Nhậm ra làm quan cho nhà Tây Sơn. Khi vua Lê Chiêu Thống cầu viện 29 vạn quân Thanh kéo sang Đại Việt, Ngô Thì Nhậm đã có kế lui binh về giữ phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn (Ninh Bình) góp phần làm nên chiến thắng của nhà Tây Sơn. Năm 1790, vua Quang Trung đã giao cho Ngô Thì Nhậm giữ chức Binh bộ thượng thư.

Đặng Trần Thường người huyện Chương Đức (nay là huyện Chương Mỹ, Hà Nội). Tương truyền Ngô Thì Nhậm và Đặng Trần Thường quen biết với nhau, lúc Ngô Thì Nhậm được vua Quang Trung trọng dụng thì Đặng Trần Thường đến xin Nhậm tiến cử. Nhậm đưa Thường đến gặp Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ, sau một hồi nói chuyện, Nguyễn Huệ xét thấy con người này có dáng điệu luồn cúi khép lép liền ra vế đối:
vế ra:Trần tục, tầm thường như Đặng Trần Thường, kẻ tiểu nhân làm gì nên đặng
Đặng Trần Thường nhăn trán chau mày suy nghĩ sợ đà sởn gai ốc, đổ mồ hôi hột mà vẫn chưa tìm ra vế đối. Trong cơn nguy khốn chợt nghe Ngô Thì Nhậm nói: "Người thượng quân từ sánh bằng cây trúc, người trung quân tử sánh với cây ngô đồng. Nhậm tôi thời đến được Chúa công trọng dụng cho nhậm chức, sự quân tử chỉ đáng sánh với cây ngô đồng mà thôi".
Đặng Trần Thường chợt bừng tỉnh mà đối rằng: Thời đến, chức nhậm như Ngô Thì Nhậm, người quân tử đáng sánh cây ngô

Nguyễn Huệ tức giận nói: "Ngươi lấy oán trả ân Ngô Thì Nhậm. Nhậm nhắc ý cho ngươi đối được câu đối của ta. Đó là thượng quân tử đáng sánh bằng cây trúc, sao bảo rằng chỉ sánh bằng cây ngô." Bèn hạ lệnh cho quân đánh 20 roi rồi đuổi đi, Thường hổ thẹn ra về, vào Nam theo phò Nguyễn Phúc Ánh. Sau khi nhà Tây Sơn mất, các võ tướng và quan văn bị giải về Hà Nội để bị xử phạt đánh bằng roi, trong đó có Ngô Thì Nhậm. Chủ trì cuộc phạt đánh đòn đó lại chính là Đặng Trần Thường. Đặng Trần Thường kiêu hãnh ra vế câu đối cho Ngô Thì Nhậm:

Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai

(Vế đối hiểm hóc vì có 5 chữ ai và có chữ trần là tên đệm của Đặng Trần Thường)

Ngô Thì Nhậm khảng khái đáp: Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế, thế thì phải thế

(Vế đối lại cũng có 5 chữ thế, nói lên được hoàn cảnh và khí phách của người anh hùng. Và vế đối cũng có chữ thời là tên đệm của Ngô Thời Nhiệm)

Hai câu đối nhau chan chát, cực kỳ chỉnh không sai trật một ly, quả là lời lẽ và từ ngữ của bậc quốc sĩ. Đặng Trần Thường bắt ông phải sửa lại "thế đành theo thế". Ngô Thì Nhậm không nói lại, Thường tức giận sai người đánh ông đến chết...

Dân đến xem lớp trong lớp ngoài đều được Thường cho giấy bút gọi là làm gương cho kẻ sĩ. Xong việc, Thường vuốt râu ngồi uống trà trước án. Buổi chiều quân sĩ lo thu hồi hình cụ, chùi dọn máu me. Văn miếu lại trở về uy nghi thanh vắng. Gió lùa qua, bốc lên tờ giấy không biết ai đã làm rơi sót lại. Tuồng như có chữ viết bằng đất vàng theo lối thảo, một đôi vế đối theo cách y như Nhiệm và Thường đã ứng đối với nhau:

Quân gian tặc, quân vô đạo! Toàn hôn quân, quân mấy là quân...
Khổ ác bá, khổ tham quan! Rập khuôn khổ, khổ đâu hết khổ...
Kẻ tả hữu xu phụ đón ý Thường, quyết một hai do người nhà Nhiệm làm ra cốt nhục mạ triều đình. Thường căm tức liệng xuống đất, nạt tràn: "Ngu thế? Chả cứ một tân triều, trước sau triều nào đều chưởi tất...Sao ghép tội nhà Nhiệm được? Đây đích thị thằng dân đen láo xược." Quân hầu hùng hổ nhảy ra xin gông ngay thằng ấy về tra khảo. Thường nổi điên hắt tách trà vào mặt hắn: "Dân đen mấy vạn đứa mầy gông hết cả chăng?" Về sau, Thường đang đắc thời từ một công thần bỗng trở thành tội đồ nhà Nguyễn, bị tống ngục và - thay vì chém - được đặc ân thắt cổ.
  • Gần đây có 1 số nhân vật đối thêm vài câu như sau:
vế đối khác 1: Thời Hưng Vương, thời Thể Chế, ngẫm thế thời, thời thế theo thời (Nguyễn Hữu Quyến)
vế đối khác 2: Phận yếu liễu , phận đào thơ, nữ nhi phận, phận thôi đành phận (khuyết danh)
vế đối khác 3: Tôi đốt lò, tôi nung đá, cuộc đời tôi, tôi luyện luyện tôi (khuyết danh)
vế đối khác 4: Người quân tử, người anh hùng, giữa biển người, người sẽ gặp người (khuyết danh)

Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương là con ông Hồ Phi Diễn, làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu Nghệ An. Lúc Hồ Xuân Hương đã lớn, gia đình về thôn Tiên Thị, Tổng Tiên Túc, huyện Thọ Xương (nay là phố Lý Quốc Sư - Hà Nội). Nữ sĩ có một ngôi nhà riêng dựng gần hồ Tây, lấy tên là Cổ Nguyệt đường, chiết tự họ Hồ của mình ra thành 2 chữ Cổ và Nguyệt. Hồ Xuân Hương ở với mẹ, có đi học, sáng dạ, thông minh, nhưng không được học nhiều, thích làm thơ. Khi Xuân Hương lánh nạn lên Vĩnh Yên gặp Tổng Cóc Nguyễn Công Hòa (1802-1804), bắt đầu cuộc đời mười năm lận đận, vợ cả ghen tuông, thân phận như nàng Tiểu Thanh. Dứt tình với Tổng Cóc, quan Tham Hiệp Yên Quảng Trần Phúc Hiển cầu hôn, đám hỏi chẳng bao lâu thì mẹ mất, phải cư tang mẹ, đến đầu năm 1816 Hồ Xuân Hương mới về Yên Quảng được hai năm thì chồng bị bắt và kết án tử hình. Xuân Hương đi tu rồi trở về làng Nghi Tàm chết trong cô đơn, không một bài thơ phúng điếu.

Tự thuật và ứng khẩu

  • Câu đối vịnh cái Âm Hộ:
Khi khép tối om om, quân tử tò mò nhìn chăng thấy
Lúc mở ra toang hoác, anh hùng tấp tỉnh đứng coi
  • Ứng khẩu khi bị trượt ngã:

Hôm ấy, Hồ Xuân Hương cùng bạn bè ra phố dạo chơi, không may bà dẫm phải chỗ trơn trượt té sõng soài xuống đất. Người đi đường và bạn bè thấy vậy cười lăn cười bò, bà liền giơ tay trỏ lên trời đọc luôn đôi câu đối:

Giơ tay với thử, Trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem, Đất vắn dài
  • Hồ Xuân Hương khi du ngoạn qua cửa Gió ở Đèo Ngang, đã viết:
Khéo khen ai đẽo đá chênh vênh, tra hom ngược để đơm người đế bá
Gớm con tạo lừa cơ tem hẻm, rút nút nuôi cho lọt khách cổ kim
  • Câu đối Tết:
Đêm ba mươi tống cựu, khép cánh càn khôn, một then đưa đẩy khìn khin khít khịt
Sáng mồng một nghinh tân, mở lò tạo hóa, hai cánh banh ra toác toạc toàng toang
  • Câu đối nhận xét về tình duyên của mình:
Muôn kiếp biết là duyên trọn vẹn
Một đời riêng mấy tiếng chua cay
  • Hồ Xuân Hương và quan lớn:

Hôm ấy, một viên quan lớn trong triều đi vãn cảnh hồ Tây. Trời trong, nước xanh, cảnh vật đẹp đến nao lòng vì bao nhiêu tinh tú của đất trời dường như tụ hội cả ở nơi đây. Nơi mà tâm hồn nhạy cảm của bà nhìn ra và quyết định dừng lại an cư lập nghiệp chứ không tiến vào kinh thành Thăng Long - nơi bao văn võ bá quan, dân kinh kỳ kẻ chợ có máu mặt đều tìm vào - vì vị trí khuất nẻo so với kinh thành...Tiếng quân lính hô hét dẹp đường, cảnh võng lộng nghêng ngang, tiền hô hậu ủng, phá tan cảnh đẹp của bầu trời nơi đây. Xuân Hương đang giặt ở ven hồ thấy chướng tai gai mắt, liền buông rải quần áo ven bờ, điềm nhiên nhìn thẳng vào kiệu của quan đang đi tới, ngẫm nghĩ trong đầu, tìm tứ thơ, rồi đọc to:

Võng đào quan lớn đi trên ấy
Váy rách bà con giặt dưới này
Ví cái võng điều của quan lớn với váy rách của bà con quả là chua cay. Xem ra, quan thời xưa chả khác quan thời nay là mấy. Trong khi bà con khổ sở, cùng cực thì quan vơ vét hết cho bản thân. Nhà cao cửa rộng, vợ nọ con kia, còn ô dù võng lọng, nghêng ngang, quát lác, chỉ ăn tàn phá hại, có lợi gì cho dân đâu? Nghe câu đối, cả thầy, cả tớ trợn mắt nhìn Xuân Hương, thấy phong thái ung dung, ngôn từ sóc lỏi, độc địa, biết không thể là đối thủ để nạt nộ, đành lẳng lặng đi qua như không hề nghe thấy...Chuyện này mà để lan truyền ra khắp kinh thành Thăng Long thì mặt quan thành mặt mo, còn nhục hơn bị bà con dùng váy rách che lên mặt. Từ đó, như quả pháo xịt ngòi, quan mất hẳn thói nghêng ngang, hống hách, đi đâu bỏ hết lính dẹp đường ở nhà, Hồ Tây trở lại với khung trời cao rộng, cây xanh, nước biếc, đẹp mê hồn.
  • Hồ Xuân Hương có bài thơ Đường Luật dùng từ láy như sau:
vế ra: Tiếng gà bên gối tẻ tè te, Bóng ác trông lên hé hẻ hè, Cây một chồi cao von vót vót, Hoa năm sắc nở lóe lòe loe, Chim tình bè lứa kia kìa kịa, Ong nghĩa vui tôi nhé nhẻ nhè, Danh lợi mặc người ti tí tị, Ngủ trưa chưa dậy khỏe khòe khoe
vế đối: Mây rồng trên núi tủa tùa tua, Chốn Phật nom xa chúa chũa chùa, Trăng mỗi miệng cười tinh tĩnh tịnh, Cổng ba gian mở thủa thùa thua, Kệ non tiếng trúc vèo veo vẻo, Kinh nước hương sen lúa lũa lùa, Phúc đức dù duyên mon mỏn mọn, Làm lành hơn thỉnh bủa bùa bua (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối khác: Ngáy chiều lăn chiếu khỏ khò kho, Nắng dọi mái hiên tó tỏ tò, Gió mấy đợt len vù vú vú, Cành dăm lần chạm rỏ ro rò, Tách trà sắp sẵn cách cành cạch, Khói bếp tỏa quanh mó mỏ mò, Người, việc kệ đời đo đó đọ, Nghỉ ngơi say tít nó nò no (Thiền Long)

Với các nhân vật đương thời

Phạm Đình Hổ

Phạm Đình Hổ tên chữ là Tùng Niên hoặc Bỉnh Trực, hiệu Đông Dã Tiều, tục gọi là Chiêu Hổ. Chiêu Hổ người làng Đan Loan, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay thuộc huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ngay từ nhỏ, Phạm Đình Hổ đã tỏ chí rằng: "Làm người con trai phải lập thân hành đạo...Lấy văn thơ nổi tiếng ở đời..." Tuy đọc nhiều sách, nhưng ông chỉ đỗ đến sinh đồ. Khi Gia Long lên ngôi, ông đang dạy học ở phường Thái Cực, huyện Thọ Xương trong thành Thăng Long, hằng ngày rèn luyện học trò và biên soạn sách. Tại đây, ông kết bạn thơ với nữ sĩ Hồ Xuân Hương, dưới đây là những giai thoại đối đáp giữa hai người:

  • Những câu đối chào hỏi khi gặp gỡ:
Hồ Xuân Hương ra: Khấp như thiếu nữ vu quy nhật (Khóc như thiếu nữ vui ngày cưới)
Chiêu Hổ đối: Tiếu tự thư sinh lạc đệ thi (Cười như anh khóa lúc hỏng thi)
Chiêu Hổ hứng khởi lại ra: Người Cổ lại còn theo thói Nguyệt (Chữ cổ ghép với chữ nguyệt là chữ hồ, ý nói Hồ Xuân Hương đã lớn tuổi mà vẫn đa tình)
Hồ Xuân Hương đối: Buồng Xuân đâu đã nhạt mùi Hương (Chữ Xuân với ghép chữ Hương là tên, ý nói Hồ Xuân Hương này đâu đã phải là người “nhạt phấn phai hương”, đâu đã chịu già hom!)
Có thuyết nói cả 2 vế đều của Chiêu Hổ viết tặng Hồ Xuân Hương, vế sau thay chữ "đâu đã" bằng chữ "chi để". Câu đối ghép lại đủ cả tên họ bà, còn tách ra lại là sự trách khéo: "Đã tự coi là người cổ hủ, trọng nề nếp, gia phong lại còn thích thói hưởng nguyệt, xem hoa, lả lơi, thi phú ? Đang tuổi xuân thì còn hương sắc, mà không gìn giữ nền nếp, gia phong thì buồng xuân còn để lạnh đến bao giờ?
  • Lúc mới quen nhau, Chiêu Hổ còn ngại ngùng, Xuân Hương đùa:
Những bấy lâu nay luống nhắn nhe, nhắn nhe toan những sự gùm ghè, gùn ghè nhưng vẫn còn chưa dám, chưa dám cho nên phải rụt rè.
Chiêu Hổ cả thẹn nổi máu nóng anh hùng phản công liều lĩnh: Hỡi hỡi cô bay tớ bảo nhe, bảo nhe không được gậy ông ghè! ông ghè không được ông ghè mãi, ghè mãi rồi lâu cũng phải rè!
Ta thấy Chiêu Hổ mất bình tỉnh, lời thơ hồ đồ, nóng nảy. Tuy nhiên chúng ta thấy hai người đừa bởn rất thân tình.
  • Một hôm, Chiêu Hổ đến chơi nhà Hồ Xuân Hương, khi đi qua sân, đụng phải quần áo của nàng đang phơi. Hồ Xuân Hương xuất thần đọc: Tán vàng, lọng tía, che đầu nhau mỗi khi nắng cực
Chiêu Hổ đối lại: Thuyền rồng, mui vẽ, vém buồm lên rồi sẽ lộn lèo
  • Bữa nọ, Chiêu Hổ hơi men chếnh choáng ghé sang nhà Hồ Xuân Hương chơi, mượn cớ say rượu ông vừa nói chuyện vừa đưa tay quờ quạng lung tung, Hồ Xuân Hương biết Chiêu Hổ giả đò liền tức cảnh thành thơ:
Vẫn giả tỉnh vẫn giả say, sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày? này này chị bảo cho mà biết, chốn ấy hang hùm chớ mó tay.
Chiêu Hổ đáp: 'Nào ai tỉnh nào ai say, nào ai ghẹo nguyệt giữa ban ngày? hang hùm ví bẳng không ai mó, ao có hùm con bỗng trốc tay?
Văn bản cổ nhất chép giai thoại này không gọi là thơ Chiêu Hổ mà ghi là thơ "Mắng người say rượu", các văn bản về sau dựa vào chữ hùm, hùm con nên cho rằng đó là của Chiêu Hổ đối đáp với Hồ Xuân Hương.
  • Năm 1804 sau khi thôi Tổng Cóc, Hồ Xuân Hương vay tiền Chiêu Hổ để mở hiệu sách ở Phố Nam gần đền Lý Quốc Sư, Xuân Hương vay năm quan tiền. Chiêu Hổ cho mượn có ba, Xuân Hương trách:
Sao nói rằng năm lại có ba? trách người quân tử hẹn sai ra, bao giờ thong thả lên chơi nguyệt, nhờ hái cho xin nắm lá đa.
Chiêu Hổ đáp: Rằng gián thì năm quí có ba, bởi người thục nữ tính không ra, ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt, cho cả cành đa lẫn củ đa.
Xuân Hương trách Chiêu Hổ là Cuội, nói dối như Cuội ngồi gốc cây đa trên mặt trăng, có lẽ Chiêu Hổ cũng không giàu có lắm, nên mượn chuyện tiền quí với tiền gián mà trả lời. Ngày xưa một quan có mười tiền, tiền gián có 36 đồng, một quan bằng 360 đồng, do đó 5 quan bằng 1800 đồng. Tiền quí có 60 đồng; do đó 3 quan tiền quí bằng 60 X 3 = 1800 đồng. Xuân Hương tưởng mượn Chiêu Hổ tiền quí, nhưng Chiêu Hổ cho mượn tiền gián, trách Xuân Hương sao tính không ra.
  • Năm 1821, Phạm Đình Hổ dâng sách được vua Minh Mạng vời ra: Ông được bổ làm Hành Tẩu Viện Hàn Lâm. Xuân Hương năm ấy chồng Tham Hiệp Trần Phúc Hiển bị tử hình, trở về Cổ Nguyệt Đường, hay tin đã làm câu đối mừng Chiêu Hổ với lời đùa nhẹ nhàng:
Mặc áo Giáp, dãi cài chữ Đinh, Mậu Kỷ Canh khoe mình rằng Quý
Hồ Xuân Hương lấy những chữ trong thập can: Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý ý muốn chế diễu Chiêu Hổ chỉ đỗ Tú Tài, nhờ dâng sách mà được làm quan nay mặc áo đẹp ra vẻ ta đây.
Chiêu Hổ nổi nóng, đối đáp bằng lời mắng nặng nề: Làm đĩ Càn, tai đeo hạt Khảm, Tốn Ly Đoài khéo nói rằng Khôn
vế đối lấy những chữ trong bát quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn , Ly, Khôn, Đoài mắng Xuân Hương là 'con đi càn dỡ lại còn tự phụ, cho mình khôn'. Những lời mắng nặng nề ấy đã chấm dứt mối liên hệ giữa Xuân Hương và Chiêu Hổ. Trong thư hồi âm, đoạn cuối ông viết hai câu kết để cắt tình đoạn nghĩa với "bà chúa thơ nôm":
Nay đã mần cha thằng xích tử
Rầy thì đù mẹ cái hồng nhan
Xích tử là con đỏ, trỏ dân chúng. Theo Lê Thước, thì hai câu này là của Nguyễn Công Trứ - thân hai câu này là vô nghĩa lý: tại sao đã được mần cha thằng xích tử, thì lại đù mẹ cái hồng nhan! Không thèm đù nữa, hay lại đù hơn bao giờ hết? Chẳng qua đây là đối chọi chữ chan chát cho thích. Những chuyện tục truyền như thế này, rất có thể không phải là sự có thật (có ý kiến cho Chiêu Hổ chỉ là nhân vật trong giai thoại, không phải là Phạm Đình Hổ), nếu mà có thì như vậy thật đáng buồn biết chừng nào, Chiêu Hổ thì có vợ con, yên nhà yên cửa, tốt thân tốt thế, quan lớn sống lâu! Còn Xuân Hương thì lận đận, long đong, chưa bề nào! Hạ những lời đùa như thế giữa hai người tài tử ai đáng hơn ai?
Nhân vật khác
  • Đối đáp với học trò:

Một hôm sau ngày mưa, Hồ Xuân Hương đến trường, giẫm phải hòn gạch dưới có bùn bắn lên tận cẳng chân (hồi đó con gái còn mặc váy) Hồ Xuân Hương phải ra cầu ao cúi xuống vén váy rửa cẳng chân. Một cậu học trò tinh nghịch trông thấy liền đọc một vế:

Nê nếnh do chi tầm hà xứ? (Đại ý: Bùn bắn lên cẳng chân để tìm cái gì trên ấy nhỉ?)
Hồ Xuân Hương liền đáp: Mạc tương thoá thủ tiếu anh hùng (Đại ý: Khi cúi xuống rửa tay thấy nó cười người anh hùng như cậu).
  • Đối đáp với nhà sư:

Tương truyền khi Xuân Hương qua chùa chơi, vốn biết Xuân Hương nổi tiếng thơ phú, nhà sư liền cho chú tiểu mang ra 1 vế thách đối.

Vế ra như sau: Thông ba sáu bộ chân kinh, dẫu chẳng La Hán Kim Cương, cũng cao tăng đạt đạo
Hồ Xuân Hương liền bảo chú tiểu đưa bút và viết ngay vế đối lại bên cạnh: Dù hay ba vạn chín nghìn, không biết méo tròn ngang dọc, thì cũng đếch ra người
  • Đối đáp với Tổng Cóc (có thuyết khác nói cả 2 vế đều của Hồ Xuân Hương)

Trong thời gian theo cha về Sơn Dương dạy học, Hồ Xuân Hương được nhiều cậu Tú, anh Nho ngấp nghé chuyện riêng tư, trong những người đó có Tổng Cóc. Ông Tổng Cóc có tên thường gọi là Kình, quê ở làng Gáp, xã Tứ Xã (Lâm Thao, Phú Thọ). Khi đi lính lên chức Đội, gọi là Đội Kình. Khi làm Phó tổng được gọi là Tổng Kình. Tên chữ của Tổng Kình là Nguyễn Công Hòa. Cóc là tên gọi lúc còn bé. Gọi tên xấu xí thế cho tà ma bớt quấy. Sau này Hồ Xuân Hương có bài thơ Khóc Tổng Cóc nên dân làng mới gọi ông là Tổng Cóc. Tổng Cóc là con cháu quan nghè làng Gáp Nguyễn Quang Thành. Tương truyền Tổng Cóc kết thân với Tú Điếc làng Xuân Lũng và Nho Trâm người làng Kinh Kệ. Ba người quen biết Hồ Xuân Hương trong dịp họ đi thi Hương. Nhờ sự mối manh của họ, mà cụ Đồ Xứ người Nghệ An (đỗ đầu xứ nên khi dạy học họi là Đồ Xứ) đã dẫn con gái Hồ Xuân Hương về làng Sơn Dương cạnh làng Gáp để dạy học. Một hôm, nhân ngày Tết Nguyên đán, cậu Tú Kình cùng một số thư sinh đem biếu quà Tết cho cụ đồ Hồ Sĩ Danh, thân sinh Hồ Xuân Hương, bị Hồ Xuân Hương ra câu đối:

Tối ba mươi khép cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ tới
Tú Kình đối lại: Sáng mồng một mở then tạo hoá để cho thiếu nữ rước xuân vào
Nhờ câu đối này, Tổng Cóc cưới Hồ Xuân Hương về làm vợ kế, đương nhiên bị vợ cả và con cái bất bình, nhưng vì “trai làm nên lấy năm bảy vợ”, nên họ phải ngậm đắng nuốt cay. Một lần vợ chồng có va chạm, Tổng Cóc giận dỗi viết thư trách móc để dưới gối rồi bỏ đi xa một thời gian, khi Tổng Cóc về thì Hồ Xuân Hương đã không từ mà biệt. Mãi lâu sau Tổng Cóc mới dò la biết Hồ Xuân Hương đang sống trong phủ Vĩnh Tường, tính đếm ngày tháng, Tổng Cóc biết Hồ Xuân Hương đã sinh đẻ. Ông đến phủ Vĩnh Tường chỉ dám lân la ngoài phố, chờ con sen trong phủ ra hỏi mới biết được con gái Hồ Xuân Hương đã chết khi sinh ra. Tổng Cóc đành tay không ra về, ông viết mấy câu đối tỏ vẻ nuối tiếc như sau:
Thảo lai băng ngọc kính (Nói đến tấm gương bằng ngọc)
Xuân tận hóa công hương (Hóa công cũng chịu lúc tàn xuân)
Hai câu này hiểu theo nghĩa đen là: “Tấm gương trong trắng ví với người con gái trong trắng, nhưng khi hết xuân thì thợ trời cũng chịu”.
Độc bằng đan quế thượng (Chi bằng lúc ta vin cành quế đỏ)
Hỏa phóng bích hoa hương (Tha hồ hoa biếc tỏa hương thơm)
Hai câu này hiểu theo nghĩa đen là: “Chỉ biết dựa vào phúc đức, con cháu khi ấy hương thơm sẽ tỏa khắp muôn nơi”.
  • Hồ Xuân Hương với anh người Tàu:

Vì tò mò, mến mộ, có một chú Khách mò đến Cổ Nguyệt Đường định thưởng nguyệt xem hoa...Nếu dễ dãi thì hái lấy chơi, mà lắm gai quá thì...ngó nghiêng, nghiêng ngó rồi về (mất gì của ngộ?). Không ngờ bị Xuân Hương chặn cửa bằng câu đối:

vế ra: Chân đi hài Hán, tay bán bánh Đường, miệng hát líu Lường, ngây Ngô ngấy ngố
Trong câu trên có tên 4 triều đại Trung Quốc là: Hán, Đường, Lường (còn có âm khác đọc là Lương), Ngô khiến chú khách kia tẽn tò chuồn thẳng
vế đối: Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối, trong đó sử dụng tên 4 triều đại của Việt Nam là: Đinh, Triệu, Lý, Mạc: Tóc cắt đầu Đinh, vai nghinh lá Triệu, bụng liệu lẽ Lý, mộc Mạc mộc mà
Vế ra có gieo vần: Hán - bán, Đường - Lương; vế đối tương ứng: Đinh - nghinh, Triệu - liệu. Riêng ở cặp Triệu - liệu, thay vì gieo vần lưng xa chuyển sang gieo vần lưng gần. Như trong lục bát biến thể, trong câu tám, thay vì gieo vần chữ thứ sáu thì chuyển gieo ở chữ thứ tư. Chẳng hạn trong ca dao: Tiếc thay hoa nở làm CHI, Hoa nở lỡ THÌ lại phải mùa đông.
vế đối khác 1: Đầu để da Trần, đuôi đeo cành Lý, miệng hí hố Hồ, bò Lê bò la (Đồng Văn - câu này tả một con Khỉ sử dụng tên 4 triều đại Việt Nam là: Trần, Lý, Hồ, Lê)
vế đối khác 2: Đầu đội nón Âu, cổ đeo chuyền Mỹ, bụng tròn ung Úc, phương Phi phỏng phì (khuyết danh - sử dụng tên 4 châu lục: Âu, Mĩ, Úc, Phi)
vế đối khác 3: Miệng nói lời Càn, sự sinh địa Chấn, lấn ca lấn Cấn, từ Tốn từ ly (Bùi Tiến - sử dụng 4 phương vị trong bát quái gồm: Càn, Chấn, Cấn, Tốn)
vế đối khác 4: Lưỡi nếm táo TÀU, thân vào nhà THỔ, da phình thô LỖ, lễ MỄ lê mê (khuyết danh - sử dụng tên 4 quốc gia theo nhiều cách gọi: Tàu là Trung Quốc, Thổ là Thổ Nhĩ Kỳ, Lỗ là tên của nước Rumania gọi tắt chữ đầu theo phiên âm Hán-Việt là Lỗ Mã Ni, Mễ tức Mễ Tây Ca là phiên âm cũ của nước Mĩ)
vế đối khác 5: Mình mặc áo Hồng, nhà trống thân Mạc, lời khoát muôn Triệu, ngồi Lê ngồi lệch (Huỳnh Hữu Đức) (dùng 4 triều đại của Việt Nam để đối lại: Hồng Bàng, Mạc, Triệu và Lê để đối)
Vế ra này được xướng theo lối Vè, vế ra ngoài chữ Hán gieo vần với chữ Bán, còn có chữ Đường gieo vần với chữ Lương, nhưng vì lý do khách quan nên Vế Đối trên không thể rất chỉnh mà chỉ tương đối chỉnh mà thôi
  • Đối đáp với ông đồ Bút:
Khi tiếp chuyện một ông đồ tên là Bút ở làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Hồ Xuân Hương (có một thời cùng gia đình sống ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, nay là vùng vườn Bách Thảo, Hà Nội), ra vế đối: Gái Khán Xuân, xuân xanh tuổi mười ba, khép cửa phòng xuân còn đợi nguyệt.
Ông đồ Bút đối lại: Trai Đình Bảng, bảng vàng treo đệ nhất, chờ khi chiếm bảng trúng khôi khoa
“Bảng” (trong “bảng vàng”) cùng âm với “bảng” (trong “Đình Bảng”); tương ứng với “xuân” (trong “xuân xanh”) cùng âm với “xuân” (trong “Khán Xuân”) của vế ra.
  • Đối đáp với Dương Trí Tản:

1 - Một lần về quê nội Quỳnh Đôi, Hồ Xuân Hương cũng đối đầu ngang ngửa với các sĩ tử, ông đồ- những người ngưỡng mộ bà lũ lượt kéo tới nhà để xem mặt, bắt...hồn thơ, xem có đúng "danh bất hư truyền" như người đời tán tụng không? Trước mặt họ là một người đàn bà nhan sắc chưa phải chim sa cá lặn, dung mạo cũng chẳng phô bày nhung lụa, phấn son, nhưng phong thái đoan trang, ngôn từ lịch thiệp, lại nổi tiếng về trình độ học vấn, giỏi thơ nôm, khiến ai cũng cảm thấy hài lòng, mến mộ. Cuộc thi tài diễn ra ngay tối đầu tiên, tất cả các sĩ tử, văn nhân đều bị đánh bại, riêng ông đồ Dương Trí Tản - tính tình ngang ngạnh, tự phụ, là ra vẻ bất cần. Chờ cho đám bạn bè thất trận đi vãn ông mới thủng thẳng tìm đến ra mắt người đẹp. Rít xong điếu thuốc lào, nhả khói mù mịt gian phòng, Trí Tản cố tình ứng khẩu lại bài thơ đã chuẩn bị sẵn:

Eo lưng thắt đáy thật là xinh, điếu ai hơn được điếu cô mình, thoắt châm thoắt bén duyên hương lửa, càng núc càng say tính với tình
Hồ Xuân Hương đối: Giương oai giễu võ thật là kinh, danh tiếng bao năm đã Tản mình, thoáng ngửi thoáng ghê hơi hương lửa, tài Trí ra sao hỏi tính tình?
Bài thơ tỏ rõ bản lĩnh nhanh nhạy, sắc sảo và cũng không kém phần thẳng thắn, quyết liệt của Hồ Xuân Hương, dùng chính cái tên của ông đồ rởm, gõ đầu trẻ không xong, còn đòi gõ đầu Hồ Xuân Hương? Mượn điếu bát để tỏ tình thân...gái, chưa được gái già này cho phép đã tính chuyện ái ân (hương lửa) trong khi Xuân Hương có cả đống người chạy theo tán tỉnh nơi kinh kỳ, đô hội còn không được nữa là người nghiện thuốc lào, suốt ngày hun khói mù trời, ăn nói ngạo mạn, xấc xược như ông ta. Xuân Hương là con người bằng xương, bằng thịt, thích cảm xúc êm dịu, tao nhã, chứ đâu phải cái điếu bát trơ khấc, để ông muốn bén duyên hương lửa, ân ái vợ chồng lúc nào là có thể đè ra như đè điếu được? Bên cạnh đó còn có cả họ tên của ông Dương cũng được lồng ghép vào. Vừa song phi đã ngã ngựa, ông Trí không dám giữ bộ mặt dương dương tự đắc nữa mà nhân lúc mọi người tản đi vì trời khuya, bèn bấm bụng rút lui, thua tài trí Xuân Hương và trở thành bằng hữu. Từ đó ông ta thôi ti toe, không còn giở thói đàn anh, bắt nạt, lấn lướt, lớp nho sinh, văn sĩ trong làng nữa.

2 - Năm 1788, sau khi treo ba chữ “Cổ Nguyệt Đường” lên, khiến khách văn chương thành Thăng Long tò mò kéo đến tấp nập. Hồ Xuân Hương đã nổi hứng ra vế đối hiểm hóc:

Gái Cổ Nguyệt chơi Hồ cổ Nguyệt, Nguyệt Nguyệt bằng quân tử trượng phu.
Trong vế đối hai chữ ‘nguyệt” ghép lại thì thành chữ “bằng” (朋), chữ “bằng” ở đây có nghĩa là bằng hữu. Vế đối ngầm khoe bàn bè bằng hữu của Cổ Nguyệt Đường đều là bậc quân tử trượng phu.
Phải mấy năm sau, Dương Trí Tản mới đối lại được như sau: Trai Kỳ Sơn chơi núi Kỳ Sơn, Sơn Sơn xuất anh hùng hào kiệt.
Tuy nhiên, những người am tường Hán học bình luận rằng vế đáp của Dương Trí Tản chưa chỉnh so với vế đối của Hồ Xuân Hương, vì tuy vế sau hai chữ “sơn” ghép với nhau thì thành chữ “xuất”, nhưng vế trước chữ “Kỳ” không ghép được với chữ “sơn” để nên nghĩa như chữ “cổ” ghép với chữ “nguyệt”. Cũng giai thoại này nhưng có thuyết khác lại chép vế ra rằngGái Vọng Nguyệt chơi giăng vọng nguyệt, (Nguyệt 月) (nguyệt 月) (bằng 朋) tể tướng công khanhỞ đây có tên làng Vọng Nguyệt (làng Vọng), huyện Yên Phong, tỉnh bắc Ninh là làng nhiều người đậu tiến sĩ. Ý nói, gái làng Vọng Nguyệt chỉ chơi "giăng vọng nguyệt" là trăng rằm, và kết bạn (bằng 朋) với ai có tài làm tể tướng. Vế đối như sau:Trai Tam Sơn đứng núi Tam Sơn, (Sơn 山) (sơn 山) (xuất 出) anh hùng hào kiệtLàng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn; nay là thôn Tam Sơn, xã Tam Sơn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Làng có 2 Trạng nguyên là Nguyễn Quang Quan và Ngô Miễn Thiệu.
Vọng nguyệt (xã Tam Giang, huyện Yên Phong) xưa có tên là làng Ngột Nhì. Người họ Chu đến đây khai cơ lập nghiệp đầu tiên. Sau khi ông tổ họ Chu mất, mộ ông được đặt ở đồng Đống Tranh, nhìn xuống một cái ao bán nguyệt. Do vậy, làng được đặt tên tự là Vọng Nguyệt. Vọng Nguyệt nghĩa là trong trăng, đẹp và thơ mộng đến kỳ ảo. Đây là một làng cổ mang đầy đủ bản tính của quê hương Bắc Ninh trong truyền thống: anh hùng và trữ tình. Tính anh hùng được biểu hiện rõ trong câu chuyện dân gian và mối tình sử giữa chàng trai làng Vọng Nguyệt Chu Đình Dự và công chúa Lý Nguyệt Sinh. Họ gặp nhau trong ngày hội xuân và trai tài, gái sắc đã nên nghĩa trăm năm. Gặp khi giặc Tống xâm lấn nước ta, họ đã lập đội dân binh, góp phần vào chiến thắng hào hùng trên sông Như Nguyệt mùa xuân 1077. Nay, Vọng Nguyệt vẫn còn đền thờ Nguyệt Sinh công chúa, mối duyên tình kỳ ngộ giữa người con gái Vọng Nguyệt Chu Thị Bột và chàng thư sinh Tam Sơn Ngô Sử Toàn đã để lại cho người đời một đôi câu đối như trên mà sự kết hợp giữa chữ tình và chữ tài thật quả tùng lai ít thấy.
  • Gần đây, có người là Hồ Bá Quỳnh xin đổi lại câu của Dương Trí Tản như sau:
“Trai Nhân Sơn gặp tiên Nhân Sơn, sơn sơn xuất công hầu khanh tướng”
Về phía Tây Nam cách làng Quỳnh Đôi khoảng 3km có làng Nhân Sơn. Nay thuộc xã Quỳnh Hồng, huyện Quỳnh Lưu gần thị trấn Cầu Giát. Ngay trong làng ấy có hòn núi gọi là Lèn Nhân Sơn rất đẹp. Núi Nhân Sơn nay đã bị phá đá nung vôi gần hết. Nhưng truyền thuyết vẫn còn vì đã đi vào lòng dân. Truyền thuyết kể rằng: Nhiều đêm trăng thanh gió mát người ta tưởng thấy các cô tiên thưởng nguyệt cạnh các ông tiên đánh cờ. Dưới chân núi có ngôi đền cổ nhân dân thường hương khói lễ vật phụng thờ. Câu đối này đảm bảo được chữ Nhân là người ghép với chữ Sơn là núi thì thành chữ Tiên (ông Tiên, cô tiên) và hai chữ sơn ghép lại thành chữ xuất như ông Dương Trí Tản đối.

Hồ Bá Quỳnh biệt danh là ông “vua hiến kế” (nguyên cán bộ Ủy ban vật giá tỉnh Nghệ An, ngụ xã Quỳnh Bảng, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) vị Tiến sĩ được coi là một trong những cha đẻ của ý tưởng “Hưu nông dân”, có hàng trăm tờ trình ở tầm kinh bang tế thế, quốc kế dân sinh... làm lợi cho cộng đồng nhiều tỉ đồng, nhưng lại không nuôi nổi vợ con.

  • Hồ Xuân Hương và Khâm sai đại thần:
Khi Gia Long diệt được nhà Tây Sơn, tiến ra Bắc Hà, viên khâm sai lúc bấy giờ được lệnh đi kinh lý các tỉnh có gặp Hồ Xuân Hương để xin câu đối. Bà liền viết:
Thiên tử tinh kỳ đương bán diện (Che nửa mảnh rực cờ thiên tử)
Tướng quân thanh thế áp tam thuỳ (Trấn ba góc, rõ tài tướng quân)
Câu đối trên có nghĩa đen là: Cờ xí của nhà vua treo khắp mọi nơi, che nửa mặt người. Uy danh của vị khâm sai rất to lớn, bao trùm cả ba cõi. Câu đối được treo lên, vua Gia Long nắc nỏm khen, bàn dân thiên hạ cười mủm mỉm, còn quan bé, quan to giật điếng người...vì phong cách nghịch ngợm của Hồ Xuân Hưng chẳng giấu vào đâu được, khen vua mà lại xỏ ngầm chết vua đấy. Bán diện nghĩa là khuôn mặt chia ra làm hai nửa theo chiều dọc, còn áp tam thuỳ...chỉ khác gì áp vào cái chỗ ba góc da còn thiếu ấy? Đến nỗi chúa dấu vua yêu một cái này thì tướng quân dại gì buông tha? Câu đối được hiểu theo nghĩa ngầm rằng:
Che nửa mặt, rực cờ Thiên tử
Trấn ba góc, rõ tài tướng quân
  • Một vế ra tương truyền của Hồ Xuân Hương:
vế ra: Cửa hang hun hút, con chim cúc ì ạch chẳng tới nơi (Hồ Xuân Hương)
vế đối 1: Trái chuối don don, ả bướm non ỡm ờ chưa đến đậu (Phú Đa Nguyễn Phước An)
vế đối 2: Nọc ong tí ti, cánh hoa ly uột èo không nở trọn (Hoài Anh Võ Quang Thạch)

Nguyễn Huy Lượng

Nguyễn Huy Lượng người làng Phú Thụy, huyện Gia Lâm (Hà Nội). Làm quan nhà Tây Sơn với chức Hữu thị lang Bộ Hộ (nên thường gọi là Hữu hộ Lượng), tước Chương Lĩnh Hầu. Tây Sơn sụp đổ, ông được nhà Nguyễn thu dụng, làm Tri phủ Xuân Trường, sau đó ông bị bức tử. Hồi còn trẻ, Lượng có một người quen cũng được học hành tử tế nhưng phải cái hơi... “tối dạ”. Hôm ấy, anh này được ông bố vợ tương lai nhắn gọi đến nhà dự bữa tiệc chiêu đãi các bậc văn nhân thành Thăng Long! Anh chàng biết mình thể nào cũng bị ông bố vợ “thử tài” trước mặt các quan khách. Chẳng còn hồn vía nào, anh ta chạy sang cầu cứu “cậu Lượng”! Lượng cười nói: "Thôi, anh đừng lo! Hôm ấy, tôi sẽ cùng đi với anh, nếu có gì bí tắc, tôi sẽ gà cho!" Anh chàng giẫy nẩy: "Trước hàng trăm cặp mắt quan chiêm như vậy thì cậu gà cháu làm sao được?" Lượng đáp: "Gà được chứ? Nghe tôi dặn đây: Nếu ông nhạc hỏi anh bất luận câu gì mà anh tự thấy không trả lời được thì cứ thản nhiên nói một câu...ba lăng nhăng gì đó, rồi tôi sẽ tán vào cho thành ý tứ hẳn hoi..." Quả nhiên giữa đông đủ khách khứa, ông bố vợ đưa cho anh con rể tương lai một tờ giấy viết một vế đối:

vế ra: Giậu rào mắt cáo, mèo chui lọt (Một vế đối rất khó: Hai cặp có nghĩa tương đồng là “giậu - rào” và “cáo - mèo”, lại nữa, “mắt cáo” là từ dùng theo nghĩa bóng: đan mắt cáo...)
Chẳng những chàng rể mà cả cử tọa xung quanh cũng đều bí như bị gặp trời mưa trước vế đối hiểm hóc ấy. Cậu Lượng đột ngột lên tiếng giục chàng rể: "Ông ra “cái giậu” đấy, đối đi thôi còn chờ gì nữa!" Chàng rể đưa mắt nhìn quanh, chợt trông thấy một cái rổ ở góc nhà, sực nhớ lời cậu đã dặn, bèn nói liều một câu rất chi là vu vơ: "Chậc! Hãy xem cái rổ kia kìa!" Thấy vế đối chẳng ra đầu cua tai nheo gì, mọi người bò ra cười. Ông nhạc tương lai sửng sốt nhìn chòng chọc vào mặt rể. Song, cậu Lượng bỗng cất tiếng: "Tuyệt! Đối thế là cực chỉnh!" Mọi người thôi cười, dán hết cả mắt vào cậu. Ông bố vợ cũng lấy làm lạ hỏi: "Bác nói anh ta đối hay ở chỗ nào? Sao tôi tịnh không thấy tăm hơi gì? Lúc bấy giờ cậu Lượng mới từ tốn đứng dậy phân tích rạch ròi: "Xin phép cụ và chư huynh! Anh bạn tôi đây vốn từ lâu đã học được câu các cụ ta xưa dạy rằng: “Người khôn ăn nói nửa chừng!”. Anh ấy lấy “cái rổ” để đối lại “cái giậu”, là chí phải: Vế ra là “Giậu rào mắt cáo, mèo chui lọt”"
Anh ấy chỉ vào cái rổ có nghĩa là: Rổ nứt lòng tôm, tép nhảy qua thì thử hỏi còn chê bai bắt bẻ vào chỗ nào?!
Bấy giờ mọi người mới “ồ” lên một tiếng đầy thán phục với tài đối của chàng rể! Chữ “lòng”–”tâm” và “tôm”,”tép” cũng đều là từ cùng nghĩa vậy. Buổi tiệc hôm ấy vui hẳn lên, ông cụ cũng thỏa mãn vì kiếm được rể hay chữ, xứng đôi với con gái mình, đám cưới không bao lâu được tổ chức và cậu Lượng cố nhiên được đền ơn xứng đáng.

Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Trứ tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy Văn, sinh năm 1778; người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1819, ông thi đậu Giải nguyên. Sau nhiều thăng giáng, năm 1845 Nguyễn Công Trứ làm Chủ sự Bộ hình, năm sau làm quyền Án sát Quảng Ngãi, rồi đổi ra làm Phủ thừa Phủ Thừa thiên, rồi năm 1847 ông thăng làm Phủ doãn phủ ấy. Năm 1848, Tự Đức nguyên niên, ông về hưu.

Tự thuật và câu đối Tết

  • Bài thơ tự thán:
vế ra: Vất Vất Vơ Vơ cũng nực cười, Căm Căm Cúi Cúi có hơn ai, nay còn Chị Chị Anh Anh đó, mai đã Ông Ông Mụ Mụ rồi, Có Có Không Không lo hết kiếp, Khôn Khôn Dại Dại chết xong đời, chi bằng Láo Láo Lơ Lơ vậy, Ngủ Ngủ Ăn Ăn nói chuyện chơi (Nguyễn Công Trứ)
vế đối: Nhớ Nhớ Quên Quên muốn lảng đi, Khom Khom Bợ Bợ chẳng thua chi, trước thôi Nó Nó Tao Tao tuốt, sau lại Em Em Bác Bác gì? Thực Thực Hư Hư danh mấy thuở, Vinh Vinh Nhục Nhục tiếng bao thì, cũng đành Lửng Lửng Lơi Lơi thế, Tỉnh Tỉnh Say Say đỡ thấy kỳ! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • Câu đối tự thuật:
Nợ vướng nợ, nợ càng thêm nợ
vế đối 1: Tình vương tình, tình vấn vương tình
vế đối 2: Đời là thế, đời vẩn là đời
  • Câu đối vịnh đánh bạc:
Được thì vơ, thua thì chạy, ghét chứng anh hùng rơm
Ăn lấy thủa, ở lấy thì, coi như quân tử rác
  • Câu đối Tết:
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa
Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà
Chị em ơi! ba mươi sáu tuổi rồi. Khắp đông, tây, nam, bắc bốn phương trời, đâu cũng lừng danh công tử xác
Trời đất nhẻ! gắng một phen này nữa. Xếp cung, kiếm, cầm thư vào một gánh, làm sao nổi tiếng trượng phu kềnh
Nợ có chết ai đâu, đòi mà chi, trả mà chi, cha cóc
Trời để sống lâu mãi, tiền cũng có, bạc cũng có, mẹ bò
Tết có cóc gì đâu, uống một vài be củ tỏi
Nợ đâm ương ra đó, nói ba bốn chuyện cà riềng
Be củ tỏi: ve (chai) nhỏ, có hình củ tỏi, cổ dài, thân tròn, người xưa thường dùng đựng rượu. Chuyện cà riềng: chuyện con cà, con kê. Cà riềng đối với củ tỏi rất chỉnh.
Đuột giời ngất một cây nêu, hết túi ba mươi ri cũng Tết
Vang đất đùng ba tiếng pháo, rạng ngày mồng một rứa là Xuân
(Đuột giời: thẳng tuốt lên trời. Ri: thế này. Rứa: thế nọ, thế ấy, như thế. Đây là từ địa phương vùng Nghệ Tĩnh)
Bầu một chiếc lăn chiêng, mặc sức tam dương khai thái
Nhà ba gian bỏ trống, tha hồ ngũ phúc lâm môn
Bầu: bầu rượu. Bầu lăn chiêng là vì không có rượu. “Chiêng” đối với “trống” ở câu dưới, thật chỉnh. Ngày xưa, câu đối Tết dán nhà cửa thường có Ngũ phúc lâm môn/Tam dương khai thái. Ngũ phúc lâm môn (năm điều phúc vào cửa) là: Thọ (sống lâu); phú (giàu sang); khang ninh (bình an, khỏe mạnh); du hiếu đức (ham làm việc phước đức); khảo chung mệnh (sống trọn tuổi Trời cho). Tam dương khai thái: theo Kinh Dịch, ba hào dương (ba vạch liền) mở ra quẻ Thái tượng trưng cho mùa xuân tốt lành.
Mồng một Tết, mồng hai Tết, mồng ba Tết, ờ Tết
Buổi sáng say, buổi trưa say, buổi chiều say, cho say
Chiều ba mươi công nợ rối Mậu Thìn, những muốn mười năm dồn một Tết
Sáng mồng một rượu chè say Kỷ Tỵ, trông cho ba bữa hoá mười ngày
Mua pháo đốt chơi, để anh em nghe có tiếng
Giật nêu đứng lại, cho làng nước biết không xiêu
(có tiếng; không xiêu: cần được hiểu theo hai nét nghĩa ; có tiếng: chỉ tiếng pháo nổ, đồng thời cũng là tiếng tăm, danh tiếng ; không xiêu: chỉ cây nêu đứng vững, đồng thời còn chỉ khí tiết cốt cách cứng cỏi vững vàng của nhà nho Nguyễn Công Trứ)
Đắp gốc cây cao, Tết đến thắp hương thơm đèn sáng
Khơi nguồn nước mát, Xuân về dâng trái ngọt hoa thơm
Tối ba mươi, giơ cẳng đụng cây nêu...Ủa ! Tết
Sáng mồng một, lắng tai nghe lời chúc...Ồ ! Xuân
Phước thâm tự hải (hạnh phúc nhiều sâu như biển)
Lộc cao như sơn (của cải nhiều cao như núi)
Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái Tết
Ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa Xuân
Tối ba mươi, nợ réo tít mù, ấy mới Tết
Sáng mồng một, rượu tràn quí tị, ái chà Xuân
Công nợ rối canh tàn, ước những mười năm dồn lại một
Rượu chè tràn quy tị, trông cho ba bữa hóa ra mười
Tuế phùng Xuân, tân cảnh, tân thiều, tân vũ lộ (Năm vừa gặp mùa Xuân, cảnh sắc mới, thiều quang mới, mưa móc mới)
Thời hành Hạ, cựu bang, cựu điển, cựu xa thư (Thời vẫn theo nhà Hạ, nước non xưa, điển chế xưa, sách vở xưa)
Thời hành Hạ: lấy ý từ câu cổ văn: “Hành Hạ chi thời, phục Chu chi miện...”, nghĩa là “Thời tiết thì theo nhà Hạ, mũ miện thì theo nhà Chu”.
  • Giai thoại viết thơ khất nợ:

Lúc thiếu thời, Nguyễn Công Trứ đã từng được người đời liệt vào hàng các tay đổ bác có tiếng. Ông vớ của thiên hạ cũng đã lắm, mà thua thiệt nợ nần người ta thì cũng nhiều.Một lần đi đánh tổ tôm bị thua rồi mang nợ. Chủ nợ là một ông già, đến đòi năm lần bảy lượt mà Nguyễn Công Trứ cũng vẫn không có tiền giả. Sau ông lão đòi rát quá, Nguyễn Công Trứ đành phải đi lục lọi rương hòm xem có gì đáng giá để đem cầm đợ mà lấy tiền trang trải. Nhưng khốn thay, lục mãi mà vẫn chẳng khui ra được gì ngoài mấy quyển sách nát. Túng thế, Nguyễn Công Trứ mới đọc liều cho ông già một bài thơ để xin khất nợ.

Thơ rằng: Thân Bát Văn tôi đã xác vờ, trong nhà còn biết Bán Chi giờ, của trời cũng muốn Không Thang bắc, lộc thánh còn mong Lục Sách chờ, thiên tử Nhất Văn rồi chẳng thiếu, nhân sinh Tam Vạn hãy còn thừa, đã không Nhất Sách kêu chi nữa, Ông Lão tha cho cũng được nhờ!
Ông lão rắp tâm đòi cho bằng được, thấy Nguyễn Công Trứ giở thơ ra đã có ý bực. Nhưng lần lần nghe qua cả bài thấy thơ hay mà khéo quá; câu nào cũng có tên một quân bài tổ tôm, mà đồng thời lại nói lên được cái cảnh học trò kiết không tiền...Vì thế ông lão nghĩ thương tình và mến tài, bằng lòng cho Nguyễn Công Trứ khất nợ. Cái tài tình của bài thơ là ở chỗ Nguyễn Công Trứ khéo vận dụng những tên quân bài tổ tôm (như: bát văn, bán chi, không thang, lục sách, nhất văn, tam vạn, nhất sách, ông lão) vào bài thơ, nhưng đồng thời những danh từ ấy vẫn có nghĩa thông thường. "Bát văn": tên quân bài có vẽ một thân hình lươn khươn, yếu ớt, tượng trưng hài hước một anh học trò; vì vậy thân bát văn là nói bóng thân học trò. "Bán Chi": tên quân bài, và nghĩa thứ hai là bán cái gì bây giờ? "Không Thang": tên quân bài, nghĩa khác là không thang để bắc lên trời. "Lục Sách": tên quân bài, nghĩa thứ hai là lục tìm trong đống sách vở. "Nhất Văn": tên quân bài, nghĩa khác là thoắt nghe (đây lấy trong câu: "Nhất văn thiên tử chiếu, tứ hải trạng nguyên tâm". Nghĩa là: Vừa nghe chiếu vua mở khoa thi, bốn biển đã nức lòng muốn chiếm trạng nguyên). Câu này còn có ý bảo: nay mai tôi đỗ đạt rồi chẳng thiếu gì tiền. "Tam Vạn": tên quân bài, nghĩa nữa là ba vạn ngày, tức suýt soát một đời người, có câu: "ba vạn sáu ngàn ngày là mấy chốc, kiếp phù sinh nghĩ cũng nực cười". Ba vạn sáu ngàn ngày tính ra đúng 100 năm. "Nhất sách": tên quân bài, nghĩa thứ hai là một mưu kế. "Ông Lão": tên quân bài, nghĩa khác chỉ ông lão chủ nợ.
vế đối:Thế Nhị Lang cờ như nước sông, bạc đầu sao mộng Tiểu Chinh Đông?, tốt đen còn ngóng Đại Xa Mã, sĩ đỏ vẫn mòng Ngư Hí Long, ơn nước Thất Tinh đêm gắng dõi, tình quân Thập Nhị tháng hằng trông, sớm hay Ngũ Tử mai này thắng, Ngọc Nữ Xuyên Thoa mấy chạnh lòng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Các danh từ riêng: Nhị Lang (gọi tắt thế Nhị Lang Hàng Quái), Tiểu Chinh Đông, Đại Xa Mã, Ngư Hí Long (gọi tắt thế Kim Ngư Hí Long), Thất Tinh (gọi tắt thế Thất Tinh Tụ Hội), Thập Nhị (gọi tắt thế Thập Nhị Lan Can), Ngũ Tử (gọi tắt thế Ngũ Tử Đoạt Khôi) và Ngọc Nữ Xuyên Thoa là 8 ván cờ thế nổi tiếng là Giang Hồ Danh Cuộc của môn Cờ Tướng. Ngoài ra, Ngũ Tử là gọi tắt danh tướng Ngũ Tử Tư, tướng quốc nước Ngô thời Xuân Thu. Thế cờ Ngũ Tử Đoạt Khôi ngày xưa giải hòa nhưng sau này giải chính xác thì bên hậu thắng)

Khi là học trò

  • Lên 10 tuổi, Nguyễn Công Trứ theo cha trở về Hà Tĩnh, sống tại làng Uy Viễn, Nghi Xuân quê nội. Trong làng có ông Đồ Trung là một người có máu mặt, ông đứng ra mời thầy đồ về nuôi trong nhà để trẻ con của làng tới học. Và trong đám học trò đó có Nguyễn Công Trứ. Một hôm, khi cả lớp đang ngồi học, ông chủ nhà chợt nổi hứng đi vào và xin thầy cho phép ông ra cho các trò một vế đối.
Vế ra như sau: Ngoài vườn cây đại nở hoa đại
Ông Trung tuyên bố trò nào đối hay và đối nhanh trước sẽ được thưởng một quan tiền! Các học trò ngồi nhìn nhau, nhưng không ai tìm được vế đối lại để lấy.
Bỗng Nguyễn Công Trứ đứng dậy xin phép đối: Trong buồng ông Trung ấp bà Trung
Vế đối rất chuẩn, Trong đối với ngoài, Đại đối với Trung, và nở đối với ấp. Thầy và trò cả lớp được một trận cười nghiêng ngả, còn cụ Đồ Trung thì đỏ mặt im lặng, và tất nhiên, phải trao cho Trứ một quan tiền!
  • Nhận được quan tiền thưởng, tan buổi học trên đường về Nguyễn Công Trứ gặp một đám trẻ con đang tụ nhau đánh đáo ăn tiền. Như những đứa trẻ ham chơi khác, Củng liền nhập bọn và say sưa đánh cho tới khi bị thua hết sạch cả quan tiền mới thôi. Nhưng cái khác của Trứ là ở chỗ, mọi đứa trẻ khi thua bạc sẽ tiếc đứt ruột, hậm hực bỏ về, thậm chí cả khóc nữa, riêng Trứ thì vừa đi về nhà vừa đọc:
Tưởng mần ba trự mà chơi vậy
Bỗng chốc nên quan đã sướng chưa
Trong tiếng Nghệ, “chữ” đọc là trự; “trự” vừa có nghĩa là “chữ nghĩa”, vừa có nghĩa là “đồng tiền” (trự tiền); Quan vừa có nghĩa là “quan tiền” (một quan là 100 đồng/trự), vừa có nghĩa “quan chức”. Câu của Nguyễn Công Trứ có thể hiểu theo hai nghĩa: một là tưởng đánh chơi dăm ba đồng, nào ngờ mất đến cả quan; hai là học ba chữ chơi chơi mà cũng được làm quan, sướng chưa?
  • Một hôm, thầy học đến thăm nhà Nguyễn Công Trứ, cùng với thân phụ của cậu ngồi đàm đạo, lâu lâu hai người lại kéo thuốc lào, thả khói thơm lừng từng đám bay ra như mây. Trứ được phép đúng bên hầu thầy và cha để hóng chuyện. Chợt thấy cha đưa tay vê vê điếu thuốc nạp vào nõ, cậu vội đốt đóm đưa lên. Cụ Đức Ngạn Hầu rít một hơi dài khoan khoái, rồi nhả khói bay ra thành luồng như một con rồng uốn khúc. Cúi mình đón cái điếu cày từ tay cha, Nguyễn Công Trứ liền ứng khẩu đọc luôn hai câu:
Nín hơi, biển động ba tầng sóng
Há miệng, rồng bay chín khúc mây
Thầy học không nín được, vỗ đùi khen hay. Cha của Củng cũng tròn mắt nhìn, vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Như được động viên, Trứ sung sướng đọc tiếp:
Ba tầng sóng dội vang trời bể
Năm sắc mây bay thấp thoáng trời
  • Vào một ngày hè oi bức, thầy đồ dẫn học trò ra con sông gần trường tắm mát. Khi đi qua cái cống lớn đầu làng được xây ghép bằng những tảng đá xanh, cụ nghĩ ra một vế đối, bảo các trò cùng đối: Đá xanh ghép cống, hòn dưới nống hòn trên
Những học trò khác chưa nghĩ được gì thì Nguyễn Công Trứ đã đối liền: Ngói đỏ lợp nghè, lớp sau đè lớp trước
Câu đối về chữ nghĩa thật là chuẩn, lại chơi chữ tài tình: “cống” vừa là cái cống (bằng đá), vừa là người đỗ Cử nhân (Cống sinh dưới triều nhà Nguyễn); còn “nghè” vừa là cái miếu nhỏ thờ các danh nhân địa phương (từ này nay đã ít dùng), vừa là người đỗ Tiến sĩ, tức ông Nghè; thêm vào đó người đời còn tìm thấy cái thú vị ở khẩu khí của người đối: hậu sinh sẽ khả uý, lớp sau sẽ hơn (đè) lớp trước. Có thuyết nói vế đối này là của Lê Công Hành.

Vế đối khác: GẠCH HỒNG XÂY TỔNG, VIÊN PHẢI CHỐNG VIÊN TRÁI (Hoài Anh Võ Quang Thạch) ("TỔNG" vừa Là trụ sở của đơn vị hành chính gồm nhiều xã thời phong kiến vừa là ông chánh tổng xưa có câu;(Chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng Tổng) và trong vế đối tìm thấy (VIÊN PHẢI CHỐNG VIÊN TRÁI)

  • Đang nói chuyện thì một trận mưa to ập đến, thầy trò phải chạy vào trú trong một quán nước ven đường. Ngay lúc đó có một người đàn ông gánh cỏ đi ngang cũng vội quẳng gánh ngoài trời chạy vào mái hiên của quán trú mưa. Lát sau, trời vừa ngớt, người đàn ông đã vội vã ra nâng gánh cỏ lên vai chạy đi tiếp. Nhân đó, thầy bảo các trò thử làm câu đối tức cảnh nói về người gánh cỏ nọ. Trong khi các cậu bé khác đang vò đầu tìm chữ nghĩa thì Nguyễn Công Trứ đã ứng khẩu đọc hai câu:
Tạnh cơn phong vũ lò ngay mặt
Sẵn gánh càn khôn ghé thẳng vai
Thầy đồ công nhận câu đối của Nguyễn Công Trứ, vừa hợp cảnh, vừa bộc lộ chí khí của một đấng trượng phu tương lai. Còn về phép đối thì khỏi phải nói: hoàn chỉnh, từng ý, từng chữ - “cơn phong vũ” đối với “gánh càn khôn”, “ngay mặt” đối với “thẳng vai”
  • Câu đối viết để tạ ơn thầy đồ:
Tuy tôn sư chi giáo trạch vô cùng, hà cảm xá cận nhi cầu viễn (Tuy ơn giáo dục của tôn sư vô cùng, đâu dám bỏ nơi gần mà đi tìm nơi xa)
Nhi quốc gia chi học quy hữu định, tương sử tự hạ tiệm thăng cao (Nhưng phép học hành của quốc gia có định, nên phải từ chỗ thấp mà bước lên chỗ cao).
Đây là câu đối để tạ ơn thầy đồ trước lúc lên đường dời đất Nghi Xuân để trở thành nho sinh trường Đốc học của tỉnh
  • Đối đáp với sư chùa làng Uy Viễn:
Nhân một hôm rảnh học từ tỉnh thành về thăm nhà, Nguyễn Công Trứ tới chùa chơi. Đến nơi, thấy ngoài sân trong điện không có ai, lại đang khát nên đi thẳng vào bếp chùa để tìm nước uống, thì gặp sư trụ trì đang lúi húi bên bếp. Quay lại nhìn người lạ, vị sư buông ra một câu không mấy hiếu khách: Khách khứa kể chi ông núc bếp (Người Nghệ gọi ông đầu rau là ông núc bếp; câu này còn có ý diễu cợt: khách khứa gì mà lại xông (núc) vào bếp nhà người ta!)
Nguyễn Công Trứ nhìn quanh, thấy một cái vại ở góc bếp, liền ứng khẩu đối lại: Trai chay mà có vại cà sư (Trai chay: Trai giới và chay tịnh. Tiếng Nghệ chữ “vại” (vật bằng sành dùng để đựng cà) và “vãi” (ni cô) đều đọc như nhau, nên câu này còn có ý trêu chọc: Người / nơi trai chay sao lại có (bà) vãi cà (động từ: áp sát, cọ xát) ông sư?)
Câu này tuy rất vô tình, nhưng vị sư kia lại cho rằng Nguyễn Công Trứ thâm ý châm biếm mình có tư tình với bà vãi, nên chắp tay nhìn lên tượng Phật đọc một câu như thanh minh: Xin chứng minh cho, Nam mô A Di Đà Phật
Nguyễn Công Trứ chỉ vào cái kiềng trên bếp và cất tiếng đối lại: Có giám sát đó, Đông Trù Tư mệnh Táo quân
Đông trù Tư mệnh Táo quân là thần coi bếp, cầm giữ bản mệnh của gia chủ. Bên mời Phật, bên nhờ thần ra minh chứng, quả thực là hay; lại Đông đối với Nam, Quân đối với Phật thì thật là tài
Vị sư chưa chịu thua ra tiếp câu nữa: Thuộc ba mươi sáu quyển kinh, chẳng thiên địa thánh thần nhưng khác tục
Nguyễn Công Trứ cũng chẳng kém đối liền: Hay tám vạn tư mặc kệ, không quân thần phụ tử đếch ra người
Tới đây vị sư đành nín thinh, chấp nhận thua cuộc. Giai thoại này gần giống với giai thoại đối đáp giữa Hồ Xuân Hương với nhà sư, tuy có hơi khác mộ vài chữ nghĩa. Nho Củng đắc thắng ra về, nhưng vừa bước đến giữa sân thì hai con chó nhà chùa xổ ra cắn quyết liệt. Nho Củng dừng lại nhìn quanh chùa rồi ngâm hai câu như một lời nhắn gửi: "Bụt cũng hiền lành sư cũng khá, còn hai con chó chửa từ bi".
  • Đối đáp với Tả quân Lê Văn Duyệt:

Một hôm Nguyễn Công Trứ đang đi chơi, gặp mưa, vào trú trong quán nước bên đường. Mưa lâu quá, thêm gió lạnh, ông bèn nằm vào ổ rơm của quán, lấy chiếu đắp lên, ngủ ngon. Thình lình, đại binh của tả quân Lê Văn Duyệt đi qua. Lính vào đánh thức ông dậy, vừa kịp Tả quân cưỡi ngựa đến. Tả quân không bắt lỗi gì, chỉ buộc vịnh cảnh nằm ổ rơm đắp chiếu. Ông ứng khẩu:

Tám vạn anh hùng đè xuống dưới (anh hùng rơm)
Chín tầng thiên tử đội lên trên (Chiếu chỉ của Vua đồng thời cũng là chiếc chiếu)
Câu thơ vừa tả thực vừa ẩn dụ đầy khẩu khí. “Ba vạn anh hùng” là ổ rơm (anh hùng rơm!), “Chín lần thiên tử” vừa chỉ nhà vua, vừa chỉ chiếc chiếu (trùng âm với chiếu chỉ của nhà vua, và chiếu chỉ nhà vua thường bắt đầu bằng câu “Cửu trùng thiên tử chiếu”).
  • Đối đáp với quan Tuần Phủ:

Bấy giờ, Nguyễn Công Trứ lên tỉnh học được ít lâu, một chiều nọ đẹp trời, khi lang thang dạo phố thì bỗng gặp một đoàn xe ngựa của quan Tuần phủ đi hành hạt, dù lọng nghênh ngang, tiền hô hậu hoán. Đang lớ ngớ không biết đường tránh, cậu vô tình cản đường đoàn người ngựa và bị toán lính hầu bắt tới trình quan về tội vô lễ. Cậu trò vừa bị giải đến nơi, đã nghe quan quát hỏi: "Sao cậu dám thất lễ với bản quan" Trứ đáp: "Bẩm quan lớn, tiểu sinh nguyên học ở trường làng, vừa mới lên tỉnh chưa biết rõ các nghi lễ nên mới vô tình vô lễ, xin quan lớn dung thứ". Quan nói: "nếu cậu đúng là học trò thì sẽ ra 1 vế đối, không đối được sẽ bị phạt"

vế ra là: Khách khoa bảng, khách văn chương, giữa quan khách, khách lại gặp khách. :Nguyễn Công Trứ ứng khẩu đối ngay: Ai anh hùng, ai hào kiệt, trong trần ai, ai dễ biết ai (câu này na ná câu của Đặng Trần Thường ra cho Ngô Thì Nhậm)
  • Đối đáp với Đầu phủ Thạch Hà Nguyễn Trùng Quang:

Ở phủ Thạch Hà có đầu phủ Nguyễn Trùng Quang vốn tự thị, tự đắc là hay chữ, học rộng nhất trong vùng. Nghe đồn thần đồng Nguyễn Công Trứ phong lưu, tài giỏi, anh ta chưa tin, những muốn gặp để thử hơn thua thế nào. Một lần, Trùng Quang cho người mời thần đồng Củng tới nhà mình chơi. Đúng ngày hẹn, Nguyễn Công Trứ tới thì thấy ngoài cửa chủ nhà có dán một đôi câu đối chữ Hán:

Sinh nê nhi bất nhiễm (Sinh nơi bùn mà không nhiễm)
Hữu xạ tự nhiên hương (Có chất xạ tự nhiên thơm)
Vào trong nhà, lại thấy trên bàn có một tờ giấy trắng, một cây bút lông và một đĩa mực mài sẵn, Trứ biết ngay chủ nhà muốn thử tài mình. Ông bèn xin phép cầm bút viết liền một đôi câu đối Nôm như sau:
Cửa sấm dám đâu mang trống lại
Đất người đành phải vác chiêng đi
Hai câu này lấy từ hai câu tục ngữ: “Đánh trống trước cửa nhà sấm” và “Mang chiêng đi đánh đất người”, ý nói: tôi đâu dám khoe khoang trước một người tài giỏi như ông, nhưng vì ông đã muốn thách thức thì tôi cũng đành thể hiện vậy. Đọc xong hai câu thơ, Đầu phủ họ Nguyễn, người tự đặt cho mình tên là Trùng Quang, có nghĩa là hai lần sáng, lập tức lấy làm tâm phục khẩu phục. Ông liền viết tặng Nguyễn Công Trứ hai câu thơ chữ Hán:
Khắc chấn danh gia năng hữu tử (Nối nghiệp, danh gia sinh con tài giỏi)
Bất tài tiện đệ nhượng vi huynh (Kém tài, tiện đệ xin nhường làm anh)
Đầu phủ Quang nhất định tôn Nguyễn Công Trứ làm anh, mặc dầu nhiều hơn Nho Củng đến năm sáu tuổi. Đến khi chia tay, Nguyễn Trùng Quang lại viết tặng “Đại huynh” thêm hai câu thơ Hán văn như sau:
Kinh nhân văn tự đề giai cú (Đề câu thơ hay văn tự kinh người)
Tuyệt thế anh tài kiến thiếu niên (Thấy kẻ thiếu niên anh tài tuyệt thế)
  • Một lần, Nguyễn Công Trứ theo bạn đi xem hát ví ở Nghi Xuân, gặp một đám con gái hát rằng:
vế ra: Hỏi anh hà tính hà danh, hà châu hà quận niên canh kỷ hà?.
vế ra rất oái oăm, chỉ 1 câu lục bát mà hỏi đủ thứ tên tuổi và nhà ở đâu. Theo phép đối thì phải đối lại bằng câu lục bát, nếu 2 câu trở lên thì sẽ thua. Nguyễn Công Trứ bí quá nghĩ mãi không ra đành chơi lối lấp lửng:
vế đối: Trước Lam Thủy sau Hồng Sơn, nhà nào đọc sách gẩy đờn là anh
vế đối tuy nói rõ nhà ông ở trước sông Lam và sau núi Hồng Lĩnh nhưng lại chưa rõ được cụ thể làng xóm và tên tuổi, các cô gái biết đối phương đã bí định dồn tiếp nhưng ngoảnh lại thì Nguyễn Công Trứ đã chuồn mất tự lúc nào
vế đối khác chuẩn hơn: Uy Viễn như Nguyễn như Công, như Trứ như Mậu Tuất dòng Văn như... (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nguyễn Công Trứ sinh năm Mậu Tuất (1778), quê ở làng Uy Viễn, có biệt hiệu Hy Văn. Ông là con quan Đức Ngạn Hầu Nguyễn Công Tấn vốn dòng văn chương nổi tiếng ở Hà Tĩnh)
  • Gần làng Uy Viễn có bến Giang Đình trên bờ sông Lam, là một trong “Nghi Xuân bát cảnh” (tám cảnh đẹp của Nghi Xuân), trên bến có khu chợ nổi tiếng với những đặc sản miền quê và cũng là nơi thường lượn lờ, gặp gỡ của trai thanh gái tú. Một chiều xuân nọ, Nguyễn Công Trứ vừa thơ thẩn đến ngã ba đó thì thấy từ đằng xa một cô gái cũng đang đi lại. Chàng trai làm ra vẻ đang mê mải ngắm hoa, nhưng thực ra là câu giờ để đợi giai nhân đến. Biết tỏng chàng Nho sinh kia là ai và vốn không lạ gì những mẹo vặt kiểu đó, khi đến gần cô gái mỉm cười đọc, như bâng quơ: 'Có ai vô lí như thi sĩ, hoa nở giữa đường cũng vấn vương
Cô gái ấy vốn là một nghệ sĩ dân gian làng nghệ thuật Ca Trù Cổ Đạm, tài sắc có thừa. Biết đã gặp “đối thủ” cao tay, chàng thi sĩ dù vô lí vẫn không hề bối rối, mà lại buông giọng ỡm ờ như nói với bông hoa ven đường:
Trời đà cho sắc cho hương, hoa kia nỡ để gió sương đãi đằng.
Chuyện đến đây, có người nói cô gái tự biết mình không phải là “kì phùng địch thủ” của chàng “thi sĩ vô lí” kia nên e thẹn bước đi, kéo theo cái nhìn xao xuyến của kẻ đa tình; nhưng cũng có người kể
sau một phút lúng túng, nàng đã trả đòn ngoạn mục': Sắc hương là của đất trời, phận ai ai giữ ai người phải lo!
Rồi không đợi chàng thi sĩ kịp đáp lời, sắc hương đã nhẹ gót xa dần với tiếng cười khúc khích…
  • Câu đối viết tặng vợ:
Mạc vị khốn hành phi ngọc nhữ (Vận khó trời còn trau chuốt ngọc)
Cảm tương bần tiện cố kiên nhân (Lúc nghèo ta có lụy chiều ai)
  • Câu đối viết trước lúc lên kinh ứng thí:
Nhờ trời phù hộ chồng tôi, miếng khoa giáp ăn xanh phường sĩ tử
Ơn chúa yêu vì bố nó, nợ trần hoàn trang trắng mặt nam nhi

Khi đã hiển đạt

1 - Đối đáp với Tham Tri Bộ Lại Hà Tông Quyền (1790 - 1848):

  • Hà Tông Quyền quê ở Thanh Oai, Hà Đông. Hà Tông Quyền nổi tiếng là thần đồng, người sau viết truyện ông đã ghi một sự thực về tinh thần học tập của ông là “dạ tĩnh thường văn độc thư thanh” (đêm lặng thường nghe tiếng đọc sách). Không những chăm chỉ, ông Quyền còn rất mẫn tiệp. Năm 12 tuổi, một viên quan huyện nghe tiếng cậu bé, liền ra câu đối thử tài:
Tam nhân đồng hành, tức hữu ngã sư
Câu đối lấy chữ liền ở sách Mạnh Tử, có nghĩa là: ba người cùng đi, ắt có thầy của ta.
Cậu bé đối lại: Thiên lý nhi lai, tương lợi ngô quốc
Câu này cũng lấy chữ có sẵn trong sách trên, nghĩa là ông ở ngàn dặm tới đây, chắc có đem lợi cho nước tôi. Câu đối cho thấy tầm nhìn xa của cậu bé, hứa hẹn một hành trạng rực rỡ sau này.

Nguyễn Công Trứ không ư­a Hà Tôn Quyền về chỗ miệng l­ưỡi khéo léo, nịnh hót lấy lòng nhà vua của ông ta. Nhân một bữa, sau lúc bãi triều Hà Tông Quyền vừa gặp Nguyễn Công Trứ, liền đọc một vế đối hóc hiểm:

Quân tử ố kì văn chi Cụ lớn
Nguyên đây là một câu cổ văn trong sách Trung Dung 君子惡其文之著 “Quân tử ố kì văn chi trứ”, nghĩa là “Người quân tử ghét lối văn chương loè loẹt bề ngoài” (Trứ tiếng Hán nghĩa là nổi trội, loè loẹt), nhưng ông Quyền lại thay tên “Trứ” thành “Cụ lớn”, vừa tỏ vẻ kính trọng, vừa hóm hỉnh thách đối, nhưng kì thực thâm ý của ông ta muốn nói: nhà vua ghét văn chương phù hoa của cụ lớn/Trứ.
Không cần phải nghĩ ngợi lâu, Nguyễn Công Trứ đọc liền một câu đối lại: Thánh nhân bất đắc dĩ dụng Quý ông.
Đây cũng là một câu cổ văn 聖人不得已用權 “Thánh nhân bất đắc dĩ dụng quyền”, nghĩa là “Đức Thánh nhân bắt đắc dĩ phải dùng quyền biến”. Nguyễn Công Trứ cũng thật tài tình thay tên “Quyền” thành “Quý ông”, cũng vừa lịch sự và vô cùng thâm thuý: nhà vua bất đắc dĩ mới phải dùng ông đấy thôi! Người đời còn tán rằng vế đối của cụ Trứ không chỉ là đòn nhằm vào Hà Tôn Quyền, mà còn ngụ cả ý chê nhà vua nữa. “Ý tại ngôn ngoại” của câu này là phê phán nhà vua dùng người không đúng, bởi vì lúc thường thì nên dùng “kinh”, lúc biến mới phải dùng “quyền”; nay đang thời bình trị mà nhà vua dùng “quyền” thì không phải là đấng minh quân!
  • Nhân đà đối đáp, Nguyễn Công Trứ lại đọc thêm một câu cổ văn nữa:
vế ra: Cùng, thông, đắc, táng, bỉ thương mặc phó kì quyền (Nghĩa là: Cùng,thông, thua, được, trời xanh giao phó quyền hành). Câu này cũng có chữ “quyền” ở sau cùng, và cũng để thách thức Hà Tôn Quyền đối lại, nhưng Nguyễn Công Trứ còn có thâm ý nói rằng Hà Tôn Quyền khéo nịnh nên mới được nhà vua giao phó cho quyền hành. Nhất thời Hà Tôn Quyền không tìm ra câu khác nào trong cổ văn có chữ Trứ ở cuối để đối lại được đành chịu thua chờ cơ hội khác phục thù.
vế đối: Cơ, tắc, vu, tà, hoành, tứ chi đạo bất trứ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Trứ là tên riêng của Uy Viễn Tướng Công để đối với tên riêng của Hà Tôn Quyền. Cơ = đói, tắc = vùi, lấp; vu = lừa dối, tà = cong vạy, không ngay thẳng; hoành = ngang ngạnh, tứ = buông thả. Vế đối ý nói: Nếu đạo lý không rõ ràng thì Cơ, Tắc, Vu, Tà, Hoành, Tứ sẽ xảy ra. Toàn bộ vế đối đều trích trong sách Mạnh Tử. Những chữ Cơ, Tắc, Vu, Tà, Hoành, Tứ được chọn lọc trong các ý chính của 1 đoạn văn rồi ghép lại, "chi đạo bất trứ" là trích trong 1 câu cũng của đoạn văn trên. Mạnh Tử (372–289 trước công nguyên; có một số tài liệu khác ghi là: 385–303 hoặc 302 TCN) là nhà triết học Trung Quốc và là người tiếp nối Khổng Tử. Ông tên là Mạnh Kha, tự là Tử Dư, sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà Chu; quê gốc ở đất Trâu, thuộc nước Lỗ, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông mồ côi cha, chịu sự nuôi dạy nghiêm túc của mẹ là Chương Thị (người đàn bà họ Chương). Chương Thị sau này được biết tới với tên Mạnh Mẫu (mẹ của Mạnh Tử). Mạnh Mẫu đã ba lần chuyển nhà để Mạnh Tử được ở trong môi trường xã hội tốt nhất cho việc học tập, tu dưỡng. Ông đem học thuyết của mình đi truyền bá đến vua chúa các nước chư hầu như Tề Tuyên Vương (nước Tề), Đằng Văn Công (nước Đằng), Lương Huệ Vương (nước Nguỵ)...nhưng không được áp dụng. Về cuối đời ông dạy học và viết sách, sách Mạnh Tử của ông là một trong những cuốn sách quan trọng của Nho giáo. Ông được xem là Ông Tổ Thứ Hai của Nho giáo và được hậu thế tôn làm "Á Thánh Mạnh Tử" (chỉ đứng sau Khổng Tử).

2 - Bịa ra những giai thoại đối đáp để trả đũa một số viên quan có tư thù:

  • Với quan tổng đốc tỉnh Bắc Ninh:

Trong một bữa tiệc có quan Tổng đốc Bắc Ninh (một trong những người đã từng vu khống Nguyễn Công Trứ) cùng dự, khi chén rượu đã ngà ngà, đáp lời mọi người mời mọc, thúc dục kể chuyện vui, Nguyễn Công Trứ nói: "Thư­a các quan, cách đây mấy năm, khi đương làm quan ở đất Bắc, nhân đi hành hạt tại huyện lị Nam Sách gặp một đứa bé con mới lên bảy tám tuổi mà thông minh linh lợi khác thường, tôi liền ra cho nó một vế đối Nôm: Lời vàng quan tỉnh Bắc Ninh.

Không ngờ, chẳng cần phải nghĩ ngợi lâu, nó ứng khẩu­ đối luôn: Cửa ngọc bà huyện Nam Sách.
Chà,“Lời vàng” đối với “cửa ngọc”, “quan tỉnh” đối với “bà huyện”, “Bắc Ninh” đối với “Nam Sách” thì còn chê làm sao được! Tôi liền thưởng cho nó một quan tiền. Nghe chuyện, các quan đều pha ra cười, chỉ có quan Tổng đốc Bắc Ninh họ Phạm thì đỏ mặt tía tai, cố ngồi nín thinh cho qua bữa tiệc.
  • Kể chuyện đối đáp trả đũa tri phủ Thạch Hà:

Quan phủ Thạch Hà - Hà Tĩnh, cũng có mối ân oán chi đó với Nguyễn Công Trứ, Trong một bữa tiệc, khi các các quan đã ăn uống say sưa rồi, cụ Trứ kể chuyện: "Ở phủ Thạch Hà đất Hà Tĩnh quê tôi có một đứa bé thần đồng. Nó ứng đối tài tình không thể tưởng. Một lần tình cờ gặp nó, tôi đọc mau một câu thật dài để thách nó đối, thế mà nó đối hay và nhanh hơn cả người lớn mới tài chứ".

Câu tôi đọc là thế này: Chống chọi như quan phủ Thạch Hà. Thạch là đá, hà là sông, giữa dòng sông ngăn đá, nên chi mồm ông phủ Thạch Hà hà!.
Nó tiếp lời tôi mà đối ngay như sau: Giàu có như bà huyện Kim Động. Kim là vàng, động là hang, trong cửa hang có vàng, bởi thế đồ bà huyện Kim Động động!.
Các quan khách trong tiệc ôm bụng cười nghiêng ngửa vô tư, chỉ riêng quan Tri phủ Thạch Hà thì nửa cười nửa mếu lấm lét nhìn quanh.
  • Với quan tỉnh thần Hà Tĩnh:

Mùa xuân năm Canh Tuất (1850), lúc đó Nguyễn Công Trứ về hưu dưỡng đã được gần nột năm, các quan tỉnh Hà Tĩnh tổ chức lễ cúng “Xuân thủ”, là lễ cúng đầu mùa xuân hàng năm. Tham dự lễ cúng, ngoài các quan viên tại chức, các hưu quan trong tỉnh cũng được mời, trong đó có viên tỉnh thần Hà Tĩnh trước đây từng tố cáo Nguyễn Công Trứ với vua Tự Đức. Sau khi hành lễ là một bữa tiệc rượu khoản đãi các quan viên văn võ tân cựu trong tỉnh. Vào bàn tiệc, Nguyễn Công Trứ kể chuyện: "Chả là hồi đó lão còn làm Tổng đốc Hải Yên, một hôm đi đường gặp một đứa bé chừng mười tuổi mà trông lanh lợi vô cùng".

Đoán nó là một học trò thông minh, lão liền ra cho nó một câu đối: Ở Hà Tĩnh sông lặng nhờ gió lặng (Hà Tĩnh có nghĩa là sông lặng)
Nó ứng khẩu đối ngay: Tại Hải Yên bể yên bởi sóng yên (Hải Yên có nghĩa là biển yên)
Lão tiếp tục đọc: Quan tỉnh Hà Tĩnh mở miệng hay, lời lời châu ngọc
Nó đối liền: Bà tổng Hải Yên giấu của kín, hàng hàng gấm thêu ("Miệng hay" ở trên đối với "của kín" ở dưới! "Lời lời châu ngọc" ở trên đối với "hàng hàng gấm thêu" ở dưới!)
Lão lại ra một câu đối bằng tục ngữ: Ăn một đọi, nói một lời, đừng học thói tam tiên tam tổ
Nó cũng đối ngay bằng tục ngữ: Của ba loài, ngư­ời ba đấng, kể chi phường bát đảo bát điên ("Tam tiên tam tổ" ở trên đối với "bát đảo bát điên" ở dưới).
Lão phục nó lắm, đọc một câu ngạn ngữ khác: Ném đất giấu tay, ghê những kẻ mặt người dạ thú
Nó đối liền cũng bằng một câu ngạn ngữ: Phun người ngậm máu, sá chi ph­ường miệng Phật lòng xà ("Mặt người dạ thú" đối với "miệng Phật lòng xà" ở dưới).
Các quan trong tiệc ngồi nghe, có người xuýt xoa khen thằng bé giỏi, nhưng cũng có người tái mặt, cúi đầu.

3 - Câu đối viết cho Phan Bá Vành:

  • Trong trận đánh với Phan Bá Vành, thế trận thiên la địa võng của Nguyễn Công Trứ giăng ra rất chặt chẽ khiến vị lãnh tụ nông dân này đành thúc thủ, phải nộp mình cho viên cai tổng quen biết trong những ngày còn là nông dân chịu thương chịu khó. Nguyễn Công Trứ có viết như sau:
Rồng mà mắc cạn tôm giỡn mặt
Cọp lạc đồng bằng bị chó khi
Qua những lời này, Nguyễn Công Trứ thực lòng ông cũng tiếc cho Phan Bá Vành. Nhưng biết làm sao được. Ở đời nào ai có thể chọn cho mình quê hương, cha mẹ, số phận? Nợ nần kiếp trước chăng?

4 - Những câu đối viết khi đã về nghỉ hưu:

  • Câu đối viết khi vừa hồi hương:
Miệng thế khó đem b­ưng nó lại
Lòng mình chưa dễ bóc ai coi
  • Câu đối viết cho chùa ở làng làm nghề thợ rèn:

Có làng làm nghề thợ rèn, vừa làm xong ngôi chùa làng. Dân đến xin ông Nguyễn Công Trứ câu đối để khắc vào cổng chùa. Cho nên ông đã cầm bút viết hai đại tự: Sắc Không vào một tờ giấy đỏ.

Trên một tờ khác, ông viết hai chữ: Không Sắc, bảo dân làng ấy đem về khắc vào hai cái bảng như hai cái khánh, có chạm rồng phụng sơn son thếp vàng, treo lên hai đầu trụ.
Nội hàm có hai ý: câu hỏi thường của người dân với người thợ rèn đối đáp để hỏi về tính chất của dụng cụ họ rèn ra. Thứ hai là cả nội dung triết lý nhà Phật, mênh mông, rất khó. Giảng ra thiên kinh vạn quyển, rút lại còn hai chữ “Sắc” với “Không“. Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc…
  • Câu đối viết trước lúc ly trần:
Cũng may thay công đăng hoả có là bao, theo đòi nhờ phận lại nhờ duyên, quan trong năm bảy thứ, quan ngoài tám chín phen, nào cờ nào quạt, nào mão nào đai, nào hèo hoa gươm bạc, nào võng tía dù xanh, mặt tài tình trong hội kiếm cung, khắp trời nam bể bắc cũng tung hoành, mùi thế trải qua ngần ấy đủ
Thôi quyết hẳn cuộc phong trần chi nữa tá, ngất ngưởng chẳng tiên mà chẳng tục, hầu gái một vài cô, hầu trai năm bẩy cậu, này cờ này kiệu, này rượu này thơ, này đàn ngọt hát hay, này chè chuyên chén mẫu, tay thao lược ngoài vòng cương toả, lấy gió mát trăng trong làm tri thức, tuổi trời ít nữa ấy là hơn

Được nhân dân tặng

  • Câu đối của nhân dân huyện Kim Sơn tỉnh Thái Bình:
Hoan quận hương chi khôi, cái thế văn tài kiêm võ lược (Hoan quận Hương đỗ đầu, cái thế văn tài kiêm võ lược)
Kim Sơn địa dĩ tích, thiên thu miếu hưởng hựu triều phong (Kim Sơn đất mở rộng, nghìn thu miếu hưởng lại triều phong)
  • Câu đối của nhân dân huyện Tiền Hải tỉnh Thái Bình:
Văn võ tuyền tài, danh trọng nội triều ngoại quận (Văn võ tài gồm hay, danh trọng đối nội triều, ngoài quận)
Điền trù thực ngã, công cao Tiền Hải, Kim Sơn (Ruộng nương đất mở rộng, công cao tại Tiền Hải, Kim Sơn)
  • Câu đối của thân bằng văn hữu ở Hà Tĩnh:
Sự nghiệp kinh nhân thiên hạ hữu (Trong thiên hạ vốn có người sự nghiệp kinh đời như Cụ)
Phong lưu đáo lão thế gian vô (Giữa thế gian nào có kẻ phong lưu mãn kiếp như Ngài)
  • Câu đối của thân bằng văn hữu ở Nghệ An:
Minh thế văn chương thiên hạ hữu (Văn chương cái thế như ông, trong thiên hạ còn có đôi kẻ)
Nhứt sinh khảng khái thế gian vô (Khảng khái suốt đời như Cụ, giữa thế gian không có một người)
  • Câu đối do Ông Nghè Nguyễn Quý Tân viết tặng:
Giang sơn tóm lại đôi sân khấu
Văn vũ đem ra một khúc cầm
  • Câu đối do cụ Hoàng Nho Nhã gửi tặng:
Sự nghiệp kinh nhân thiên hạ hữu
Phong lưu đáo lão thế gian vô!

Nghĩa là kẻ làm nên sự ngiệp khiến người đời khiếp sợ trong thiên hạ vẫn còn, chứ người đến già vẫn phong lưu (như cụ) thì thế gian không có!

  • Câu đối mừng thọ Nguyễn Công Trứ 80 tuổi của Tổng Đốc Nam Định Võ Trọng Bình (1808 - 1898):
Trực dục lăng tiêu tri kính trúc (Thẳng đám trời cao hay trúc cứng)
Khả ư hàn tuế kiến thương tùng (Vào năm rét lớn thấy tùng xanh)
  • Câu đối ở đền thờ Nguyễn Công Trứ (Làng Đông Quách huyện Tiền Hải Thái Bình):
Đắc địa sinh từ Đông ấp nhất bách niên kỷ niệm (Đất tốt dựng đền thờ, làng Đông ấp trăm năm lưu kỷ niệm)
Kình thiên trụ thạch Hồng Sơn thiên vạn cổ tề cao (Trời cao xây cột đá, núi Hồng Sơn muôn thuở sánh công lao)
  • Đông các đại học sĩ Trương Quốc Dụng (1797-1864) người đồng châu với ông (xã Thạch Khê, huyện Thạch Hà) nhưng thua Nguyễn Công Trứ 19 tuổi và đậu sau ông 10 năm, nhân dịp Nguyễn Công Trứ về hưu đã tặng ông một đôi câu đối:
Lục địa thần tiên, danh trọng Hồng Sơn, Lam Thủy
Vạn gia sinh phật, công cao Tiền Hải, Kim Sơn

Dịch nghĩa:

Tiếng tăm dội Hồng Sơn, Lam Thủy, (cụ) như bậc thần tiên trên mặt đất
Công cao trùm Tiền Hải, Kim Sơn, (cụ) là ông Phật sống của muôn nhà

Trong số những văn từ ca tụng Nguyễn Công Trứ lúc sinh thời thì đôi câu đối của Trương Quốc Dụng là một trong những lời đánh giá, ngợi ca Nguyễn tướng công cao nhất và thành kính nhất. Ông Trương đã ngưỡng vọng cụ Nguyễn như là bậc thần tiên của giang sơn, đất nước, là ông Phật sống của muôn nhà; so ngang công danh của Nguyễn ở Tiền Hải, Kim Sơn với tầm vóc núi Hồng sông Lam. Tuy là cách nói khoa trương, nhưng thiết nghĩ, sự so sánh của ông Trương không hề khập khiễng. Nguyễn tiên sinh đã làm được bao nhiêu việc giúp ích cho đời. Cái đáng quý nhất ở Nguyễn là chí hướng bình sinh từng được ông phát biểu một cách hào hứng thì hầu như ông đều thực hiện được một cách trọn vẹn, có trường hợp được thực hiện xuất sắc như sự nghiệp doanh điền. Khác với đa số sĩ phu đương thời, ở ông, lời nói luôn đi đôi với việc làm. Trương đỗ đạt và nhập thế khi Nguyễn đã lừng lẫy công huân. Khi Nguyễn "nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo" thì cũng là lúc Trương đang ở đỉnh cao của sự nghiệp. Điều làm cho Trương kính phục nhất và thấy mình không thể làm được như Nguyễn chính là sự nghiệp doanh điền, là việc Nguyễn lập ra 2 huyện Tiền Hải và Kim Sơn. Nói cách khác, ngoài cái tài an bang định quốc thì cái "nhất điểm linh đài" ở Nguyễn làm Trương cảm khái nhất là tấm lòng rất mực thương yêu, chăm lo cho dân.

Những câu đối của Cử Nhân Đốc Học Miễn Am Lê Văn Thạc (1782 - 1876)

Lê Văn Thạc hay còn gọi là Lê Quốc Thạc, hiệu là Miễn Am, người làng Phùng Cầu, nay thuộc xã Thiệu Thịnh (Thiệu Hóa). Năm ông 11 tuổi, trong kỳ thi sát hạch ở trấn, viên quan triều Tây Sơn bấy giờ là Trấn thủ Trung Khuông quận công đã ra cho ông một vế đối chữ Hán:

“Quan trung trở sơn đái hà, tứ tái địa khả đô dĩ bá” (Giữa ải quan hiểm trở núi sông, thu đất bốn phương ắt nên nghiệp lớn)
Ông đã đối: “Túc hạ thâm câu hào lũy, lưỡng tướng đầu khả trí ư huy” (Dưới chân mình cao sâu hào lũy, hai tướng đầu quyết lập công to)

Viên Trấn thủ thấy vế đối của cậu bé còn nhỏ tuổi vừa hay, lại tỏ ra có chí, nên giữ lại làm bạn học với con mình.

Đương thời, ông Miễn Am còn được giới nho sĩ và nhân dân Thanh Hóa ca ngợi là người làm câu đối hay. Người ta thường truyền nhau câu nói: “Văn trướng Cát Xuyên, đối liên Phùng Cầu”. Nghĩa là về văn hay thì có ông Nhữ Bá Sĩ, người Cát Xuyên, Hoằng Hóa. Sau khi nghỉ hưu ở tuổi 70, ông Miễn Am về nhà còn mở trường dạy học, ông đã làm đôi câu đối, dán ở chỗ thường ngồi trong nhà:

Tam tỉnh thư học quan cam lãnh, hoạn thành phi lợi khí
Thất tuần phụng tân cáo bất dược, dã diệc thị tường kim”

Nghĩa là:

“Lạm giữ đốc học ba tỉnh cam phận nghèo khổ thầy đồ, vẫn tin chức chẳng hóa giàu
Kính dâng sắc phong lúc bảy mươi đâu dám rạng rỡ mặt mày, đúng là vàng khối đúc nên đẹp”

Về cuối đời thấy cảnh đất nước đang bị thực dân Pháp thôn tính dần, mà triều đình không có quốc sách hữu hiệu để đối phó, còn bạn bè, người thân thì đều đã lần lượt khuất núi, nên ông tỏ ra buồn rầu, chua xót trước thời cuộc, thể hiện ở đôi câu đối điếu người bạn tâm giao Nhữ Bá Sĩ: “Ông viết trát nhi phản chân, đế truyền dĩ hải Bộc viết mạo nhi do tại, trần ba vị thanh”. Dịch là:

“Ông tám chục cõi thật trở về, nút trời đã cởi
Tôi chín mươi bến mê còn ở, sóng dữ chưa êm”

Nguyễn Văn Siêu

Nguyễn Văn Siêu tên khác là Định, tự Tốn Ban, hiệu Phương Đình và Thọ Xương cư sĩ, thuỵ Chí Đạo, người làng Kim Lũ, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Ông thi hương đỗ Á nguyên năm 1838, thi hội đỗ Phó Bảng, làm quan đến Kiểm thảo viện Hàn lâm, rồi trải qua các chức vụ Chủ sự bộ Lễ, Thị giảng học sĩ...Ông và Cao Bá Quát là hai người nổi tiếng có tài văn thơ mà dân gian hay truyền tụng là "thần Siêu thánh Quát". Tương truyền khi Nguyễn Văn Siêu được cử về giữ chức án sát ở Hà Tĩnh, các nho sĩ vùng này lập mẹo để thử tài Thần Siêu xem như thế nào. Họ bố trí cho một người chạy ra đường, đón võng ông đi qua để xin câu đối. Ông hỏi hoàn cảnh, người ấy nói là gia đình có hai bố mẹ cùng chết một lúc, nay xin câu đối về thờ chung, hỏi thêm hành trạng người đã khuất thì chẳng ai có công tích hay tài năng gì đặc biệt cả, người ta bày giấy bút ra trước mặt ông, để xin …có ngay! Nguyễn Văn Siêu hơi lúng túng. Đầu đề “khô khan” như thế này, thì phải có thời gian suy nghĩ. Ông nói với người kia: "Được, ta sẽ viết ngay. Có điều giấy bút này xấu quá ta không quen viết. Anh chịu khó chạy đi đổi cho ta thứ khác". Thời gian người kia chạy đi kiếm giấy bút tốt là thời gian ông cấu tứ. Và đôi câu đối được viết ra:

Đình tiền đồng trúc giao phù, xưng cô diệc xưng ai, bất thắng địa thảm thiên sầu, cửu tự chi ân vị báo (Trước sân gậy vông gậy trúc chống xen nhau, hết xưng cô rồi lại xưng ai, xiết bao trời thảm đất sầu, chín chữ cù lao chưa chút báo)
Tuyền hạ sắt cầm tịnh cổ, bất quan diệc bất quả, ý giả sơn minh hải thệ, bách niên chi ước mạc vong (Dưới suối, đàn sắt đàn cầm cùng hòa hợp, thôi nỗi quan và thôi nỗi quả, ý hẳn non thề biển hẹn, trăm năm nguyện ước quyết không quên)
Đám tang xưa, khi cha mất, con chống gậy vông tự xưng là cô, khi mẹ mất con chống gậy tre tự xưng là ai. Quan là người chết vợ, quả là người chết chồng. Trong hoàn cảnh như vậy mà Nguyễn Văn Siêu viết được câu đối ý tình tha thiết nói đúng cảnh ngộ chung và cảnh ngộ riêng một cách thanh thoát và thật tài tình.
  • Câu đối bày tỏ sự thương tiếc của Nguyễn Văn Siêu với gia đình họ Cao:
Tối liên tai, quán cổ tài danh, nan đệ cánh nan huynh, bất thế ngẫu sinh hoàn ngẫu tử (Thảm thương thay! nức tiếng tài danh, anh giỏi em giỏi, đời dễ mấy người cùng sống thác)
Khả tích dã, đáo đầu sự thế, thử nhân nhi thử ngộ, hỗn trần lưu xú diệc lưu hương (Khá tiếc nhỉ! đến nơi sự thế, người này cảnh ấy, đời lưu một tiếng để danh thơm)

Giai thoại đối đáp liên quan đến Hoàng Giáp Nguyễn Đăng Huân (1804 - 1837)

Nguyễn Đăng Huân sinh tại xã Hương Ngãi, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây (nay là Hà Tây). Từ bé đã nổi tiếng học giỏi, có tài ứng đối. Tương truyền, khi còn nhỏ có vị quan họ Bùi, bạn của cụ thân sinh đến thăm thầy Đăng Huân thông minh lanh lợi liền ra một câu đối như sau:

Nhị thân cư đồng hương, hà địa bất sinh tài, hà tài bất tư thế

Nghĩa là: Hai người ở cùng làng, đất nào chẳng sinh người tài, người tài nào chẳng giúp đời

Đăng Huân liền đối lại ngay: Nhất cử đăng khoa đệ, tự Hương dĩ cập Hội, tự Hội dĩ chí Đình

Có nghĩa là: Một lèo thi đều đỗ, từ thi Hương rồi thi Hội, từ thi Hội đến thi Đình

Vị quan họ Bùi khen ngợi Đăng Huân là người rất có khẩu khí. Quả nhiên sau đó Nguyễn Đăng Huân đã thi một mạch đến Hoàng Giáp Tiến sỹ. ngày nay trên cổng cũ của gia đình vẫn còn dòng chữ “Nguyễn Đình nguyên - đệ nhất bộ”. Nguyễn Đăng Huân được nhận chức Hàn lâm viện ty soạn, sau bổ là Tri phủ Điện Bàn (Quảng Nam).

Thân sinh của cụ Hoàng Giáp là Nguyễn Đình Thực cũng là người thông minh, nhân hậu. Năm Tân Dậu (1801), niên hiệu Bảo Hưng, cụ thi trúng Quốc tử giám thượng đường giám sinh. Sau khi ở Quốc tử giám về quê, cụ mở trường dạy học. Vợ cụ Hoàng Giáp là cụ bà Nguyễn Thị Chuyên cũng là người có học và có tài ứng đối. Theo ghi chép thì trong thời gian cụ Hoàng Giáp còn đi học và đi thi, lý dịch đã bắt cụ bà đi phu thay chồng đắp đê sông Tích, một con sông chảy qua huyện Thạch Thất. Quan tri huyện thấy vậy có hỏi, cụ trình bày lý do, quan huyện ra một vế đối và yêu cầu nếu đối được sẽ miền cho việc phu dịch.

Câu đối như sau: “Phu là chồng, Phụ là vợ, vì chồng nên vợ phải đi phu”
Cụ bà đối lại: “Mẫu là mẹ, Tử là con, thờ mẹ sao con còn nói mẫu”
Quan huyện đỏ bừng mặt, nhưng rất phục, liền tặng cụ một nén bạc và miễn cho việc đắp đê, đồng thời yêu cầu lý dịch về sau không được làm phiền cụ bà nữa. Sau này khi cụ Hoàng Giáp được vinh quy bái tổ, số lý dịch trước đây thường có những hành vi nhũng nhiều, gặp khó khăn cho gia đình, đến lạy cụ tha tội. Cụ không truy cứu, chỉ khuyên bọn chúng từ nay không được quấy nhiễu dân chúng nữa.

Về giai thoại này trong dân gian còn lưu truyền 2 vế đối khác do Nguyễn Đình Thực trực tiếp đối đáp với viên quan nọ như sau:

vế đối 1: Ngã là ta, nhĩ là mày, tại mày nên ta mới ngã
vế đối 2: Phụ là cha, tử là con, công cha con không dám phụ
Những vế đối này cũng rất chuẩn, các cặp cùng nghĩa đã được nêu trực tiếp. Các cặp cùng âm: “phụ” (cha) 2 ”phụ” (phụ bạc); “mẫu” (mẹ) 2 ”mẫu” (nói mẫu: nói bông lơn, nói mỉa mai).
Các cặp cùng nghĩa đã được nêu trực tiếp. Các cặp cùng âm như sau: “phu” (chồng) 2”phu” (phu phen, lao dịch); “ngã” (ta) 2”ngã” (té ngã)

Nghe xong, viên quan lẩm bẩm nhắc lại từng chữ: "Ngã ta, nhĩ... mày, tại mày... ta... ngã... Chậc! Cũng Hán cũng Nôm ... hay thật". Rồi truyền tha cho cả hai vợ chồng. Nhưng về sau, ngẫm nghĩ lại, viên quan mới cảm thấy choáng váng như người vừa bị một cái tát. Nhẩm nhiều lượt: "Tại mày... ta... ngã", đến bây giờ mới thấy chỗ xỏ lá của vế đối, ấy là lời Nguyễn Đình Thực nói với vợ, nhưng cũng chính là lời Nguyễn Đình Thực chửi vào mặt viên quan.

Giai thoại đối đáp của Bảng Nhãn Vũ Duy Thanh (1807 - 1859)

Vũ Duy Thanh tên thật là Vũ Văn Tân, tự Trừng Phủ, hiệu Mai Khê, Vĩ Nhân, được gọi là "Trạng Bồng" vì đỗ thủ khoa triều Nguyễn tương đương với Trạng nguyên thời Đại Việt. Đương thời ông được ca tụng bởi đôi câu đối:

"Quế tiên nơi bình địa
Trạng nguyên chốn dân gian

Kim Bồn, nay là làng Vân Bồn, huyện Yên Khánh, Ninh Bình. Năm Tân Hợi (1851), đỗ phó bảng. Khoa này, Phạm Thanh người Thanh Hóa đỗ bảng nhỡn. Kéo bảng xong, vua Tự Đức nằm mơ thấy có người bảo: "Khoa này còn bỏ sót lại người tài", và đưa một cái bảng ra, trong có hai chữ Thanh. Khi tỉnh dậy, vua lấy làm phân vân, sau cho mở thêm ngày ân khoa, cho các tú tài củ nhân và phó bảng đã đồ từ trước đến nay đều được vào thi cả. Khoa hội ấy, Vũ Huy Dực đỗ 6 khoa tú tài, được chấm đỗ hội nguyên, Vũ Duy Thanh đứng thứ nhì. Khi vào thi đình, Vũ Duy Thanh được 8 phân, mà Vũ Huy Dực được có 6, thành ra Vũ Duy Thanh đỗ bảng nhỡn trị trạng nguyên, Vũ Huy Dực đỗ thám hoa; vì thế nên thường gọi Vũ Duy Thanh là cụ bảng Kim Bồng. Ngày con đi học, gặp năm nước sông lên to, tri phủ Yên Khánh về đốc dân hộ đê, ông đi ngang qua đó, lính bắt phải xuống khiêng đất, ông xin miễn lấy cớ là học trò yếu ớt. Tri phủ nói: "Nếu thực là học trò, ta ra cho câu đối":

Quan thị đắp đê Kim Bồng, chắn hồng thủy cho dân được cậy
Ông ứng khổi đối ngay: Nhà nho đỗ khoa bảng nhãn, quyết tranh khôi, thì chí mới cam
Câu ra dụng ý dùng bốn thứ quả: thị, hồng, bồng, cậy (chữ thị: tri phủ nguyên là hàm thị độc). Câu đối lại có bốn thứ quả: nho, nhãn, chanh, cam . Lúc đối là ngẫu nhiên, cốt đối cho đúng lệ mà thôi, ai ngờ về sau ông đỗ bảng nhãn, thành ra câu đối có vẻ ứng nghiệm như lời thi sấm, nên mới được truyền tụng. Giai thoại trên theo thuyết khác lại là của ông tổ nghề thêu Lê Công Hành thời Hậu Lê nhưng có khác 1 vài từ ngữ.

Gặp năm tế Nam Giao, ông xung vào chức bồi tự, phàm các quan dự tế, mỗi người phải nghĩ một câu đối để viết vào đàn giao. Câu của ông như sau:

Chí thành tùy địa hữu vu, như tại kỳ thượng, tại kỳ tả hữu
Thánh đức dữ thiên vô gián, nhi huống ư nhân, huống ư quỷ thần
Vế trên lấy chữ trong sách Trung dung: lòng thành tùy chốn nào, cũng có cảm tin như là thần minh ở trên,và ở tả hữu> Vế dưới lấy chữ trong Kinh Dịch: đức nhà vua đối với trời không xa cách (gián đoạn) huống chi người và quỷ thần

Lúc nhàn rồi ông cao hứng vịnh bài thơ "Phong Hoa Tuyết Nguyệt":

Thi đàn tế liễu lộng hoa hài
Khách bộ tùy sương, ấn bích đài
Kỳ cục đả phong thanh áp trận
Tửu biều nghinh tuyết bạch hòa bôi
Sơ liêm thấu nguyệt hương ly cúc
Yến tịch lăng hoa vị át mai
Phi phất lĩnh đầu chiêm tĩnh điếm
Thi đàn tế liêu lộng hoa hài

Dịch nghĩa:

Đi hài hoa đến thi đàn, qua dặng liễu nhỏ
Lốt giầy khách đi sớm, in trên rêu biếc
Nhân lúc gió mát đánh cuộc cờ
Có tuyết xuống nghiên bầu rượu uống
Vườn cúc bóng trăng soi qua rèm thưa
Mùi hương hoa mai đưa vào tiệc yến
Phất phơ gió thổi qua điếm vắng trên đỉnh núi
Đi hài hoa đến thi đàn, qua dặng liễu nhỏ
Bài này tài tình, đọc xuôi là thơ chữ Hán, đọc ngược từ dưới lên trên theo lối đọc chữ nôm thì lại thành thơ quốc văn
Giầy hoa lỏng lẻo tới đàn thơ
Điếm tạnh xem đầu núi phất phơ
Mai át mùi hoa lừng tiệc yến
Cúc lìa hương nguyệt thấu rèm thưa
Chén hoà bạch tuyết nghiêng bầu rượu
Trận áp thanh phong đánh cuộc cờ
Rêu biếc in sương theo bước khách
Giầy hoa lỏng lẻo tới đàn thơ

Một hôm vào khoảng thánh hai, có người khách tên Bình Sơn đến nhà, ông đi vắng, khách để lại mấy chữ:

Nhất giáp nhất danh kim bảng quý
Tứ nguyệt tứ nhật ngọc lâu thành

Từ đấy không thấy Bình Sơn trở lại. Đến ngày mồng 4 tháng 4 năm ấy ông từ trần, bấy giờ mới hiểu câu "Tứ nguyệt tứ nhật ngọc lâu thành" . Sau khi từ trần, giám thần dâng sớ lên, vua Tự Đức châu phê : Khả mẫn gia tuất tiền bách (khá thương gia ân cho 100 quan tiền), và cho đưa quan tài về quê ở Ninh Bình, tư cho đi qua tỉnh nào, các học quan tỉnh ấy đều phải phúng điếu. Các quan ở Kinh có câu đối viếng:

Cửu nguyên di hận Trà Sơn úc
Thiên lý quy hồn Thuý Lĩnh phong
Chín suối còn di hận ở vùng núi Trà sơn (thuộc Đà Nẵng): Lúc Pháp đánh cửa Đà Nẵng, ông có dâng sớ xin tòng quân, nhưng vua không cho. Du hồn về núi Thúy sơn, đường xa nghìn dặm (Thuý sơn thuộc Ninh Bình).

Câu đối của bảng nhãn Phạm Thanh:

Phạm Thanh (1821 - ? ) hiệu là Đạm Trai và Nghị Trai, tự là Di Khanh, người thôn Nội, xã Trương Xá, tổng Đăng Trường, huyện Hậu Lộc, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa (nay là xã Hoa Lộ, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa). Ông đỗ Giải nguyên kì thi Hương năm Mậu Thân 1848, niên hiệu Tự Đức. 3 năm sau, ông đỗ Bảng nhãn. Phạm Thanh làm quan Tham tri Hộ bộ. Ông đã viếng Vũ Duy Thanh như sau:

Nhân bảo đương vi thiên hạ tích
Hoạn tình năng động cửu trùng lân
Người quý nay mất đi, thiên hạ đều tiếc
Tính làm quan thanh bạch, cửu trùng cũng thương

Câu đối của nội các Vũ Phạm Khải:

Đông canh đồng thuận, đồng tính thị châu lư, vãn bối suy quân tiêu vật vọng
Thử cảnh thử tình, thử giang sơn bi kiệt, tích hiền tiên ngã ký sầu ngâm
Cùng tuổi, cùng học, cùng họ lại cùng tỉnh, những học trò lớp sau đều tôn trọng ông là bực tiêu biểu: (ông Khải chỉ đỗ cử nhân nên mong học trò lớp sau, đỗ được cao như ông bảng ).
Tình ấy, cảnh ấy, núi sông ấy và bia đá ấy, người hiền xưa đã trước ta, gửi tiếng sầu ngâm: (người xưa, chỉ Trương Hán Siêu, vì Trương làm bài văn bia Linh Tế Tháp, ông Bảng có bài Bình Linh Tế Tháp, việc văn chương có can hệ đến mối sầu cảm.)

Những câu đối đề ở nhà thờ họ Vũ làng Kim Bồng:

Câu thứ nhất:

Vế phải : BảNG NHÃN THỊ TRạNG NGUYÊN KHOA DANH THUỶ THỬ.

Nghĩa: (đỗ Bảng Nhãn, coi như là đỗ Trạng Nguyên vậy, khoa Bảng và danh tiếng bắt đầu từ đây)

Vế trái : VĂN CHƯƠNG KIềM HẠNH ĐỨC HọC GIả NGƯỠNG CAO

Nghĩa: (Tài văn chương gồm luôn hạnh kiểm, đức độ, khiến giới có học phải ngưỡng mộ ông ở chổ trên cao).

Lùi vào phía trong, nơi đặt Ngai thờ Bài vị cụ Bảng và song thân, có câu khác nội dung như sau:

Vế phải: SĨ HOẠN HOÀNG LÊ SƠ ĐĂNG PHÚC

Vế trái: KHOA DANH Đế NGUYỄN KINH THốNG QUANG.

Nguyễn Hàm Ninh

Nguyễn Hàm Ninh tự là Thuần Chi, hiệu Tĩnh Trai, Anh Toàn tử, quê làng Phù Ninh; sau dời sang làng Trung Ái (sau đổi thành Trung Thuần) phủ Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Năm Kỉ Sửu (1829), ông đỗ Tú tài, đến năm Tân Mão (1831) đỗ Giải nguyên tại Thừa Thiên. Ông nhiều lần bị thăng giáng trên quan trường, kết cục bị đổi về Huế làm Trai đàn hiệu lực tại chùa Thiên Mụ.

  • Lúc còn là học trò, các bạn của Nguyễn Hàm Ninh ra cho ông vế đối:
Vinh Sơn, Ngưu Sơn, sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt
Ông Nguyễn đối lại: Tràng Hải, Ngoại Hải, hải hải đa liệt nữ anh thư
Vế ra nhằm thể hiện niềm tự hào về quê hương (vùng dưới chân đèo Ngang) của bạn. Cách ghép chữ “sơn” [山] (núi) + “sơn” [山] = “xuất” [出] (ra). Vế đối lại cũng biểu thị niềm vinh dự được sống trên mảnh đất có nhiều “liệt nữ anh thư”, để sánh cùng “anh hùng hào kiệt” của bạn. Ở đây, cũng dùng cách ghép chữ: khung chữ bên bộ “thủy” [氵] của chữ “hải” [海] (biển), được xem là “đa” [多] (nhiều).
  • Ngày ấy, có một chàng trai làng Trung Ái cưới một cô vợ người làng Phan Long. Phan Long là phố huyện cũng lắm bậc hay chữ kỳ tài. Người Phan Long biết hôm ấy trong đám đón dâu của làng Trung Ái có ông Tiến Sĩ Nguyễn Hàm Ninh, nên họ tổ chức bày một hương án chặn ngang đường vào làng, đoạn đầu cầu Kênh Kịa. Trên hương án họ đặt một vế đối kèm theo điều kiện nếu họ nhà trai đối được thì sẽ cho qua, bằng không thì...quay về.
vế ra là: Chân giậm tay mò bơn hói Kịa (Bơn là loại cá thờn bơn mình dẹp, dẹt hình như cái lá đa, có nhiều ở con ngòi nước mặn chảy dưới cầu Kênh Kịa. Từ cái ý thực ấy, vế đối muốn ám chỉ việc người con trai về đất này tìm vợ)
Đoàn người đi đón dâu còn ngơ ngác, lúng túng chưa biết xử trí thế nào thì Nguyễn Hàm Ninh đã vượt lên ứng khẩu: Má kế miệng ngậm bống Khe Giang
Vế đối thực hợp cả ý thực lẫn ý lỡm. Khe Giang là con suối lớn chảy ngang cuối làng Trung Ái, nơi có nhiều cá bống nước ngọt. Còn ý lỡm đối lại cũng rất đạt, nói bóng nói gió việc người con gái về lấy chồng ở đất Khe Giang...!
  • Có người phụ nữ chồng là người Tàu sang Việt Nam buôn bán bị bệnh mà chết phải đưa linh cửu về Trung Quốc trong khi bà có thai, Nguyễn Hàm Ninh có viết đôi câu đối viếng, một câu chữ Nho 1 câu chữ Nôm như sau:
結髮訂吾緣誰謂今朝鴻北去 Kết phát đính ngô duyên, thùy vị kim triêu hồng bắc khứ (Kết tóc hẹn duyên ta, một phút ai xui hồng về bắc)
茫心憑客地吁嗟何日雁南歸 Mang tâm bằng khách địa, hu ta hà nhật nhạn nam quy! (Ôm lòng nương đất khách, bao giờ còn thấy nhạn sang nam?)
Câu này tác giả dùng ngô, khách, mang để nói việc bà lấy chồng Tàu, có mang.
Trước cũng tưởng Tấn Tần một nhà, vậy phận bạc phải nhờ đất khách
Nào có biết Bắc Nam đôi ngả, đem gánh vàng đi đổ sông Ngô
  • Câu đối của vua Thiệu Trị tặng Nguyễn Hàm Ninh khi ông làm Hành tẩu bộ Lễ:
野外秀才齊天大聖 Dã ngoại tú tài, Tề thiên đại thánh (Tú tài ở làng to như Tề thiên đại thánh)
部中行走陸地神仙 Bộ trung hành tẩu, lục địa thần tiên (Hành tẩu trong bộ khoẻ như lục địa thần tiên)

Câu đối và giai thoại về Thám Hoa Phan Thúc Trực (1808 - 1852)

Phan Thúc Trực còn có tên là Phan Dưỡng Hạo, Phan Sư Mạnh, hiệu là Hành Quí, Cẩm Đình, Dưỡng Hạo Hiên, quê ở làng Vân Tụ, huyện Đông Thành, nay thuộc xã Khánh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Phan Thúc Trực đọc nhiều sách và làu thông kinh sử, nức tiếng hay chữ, từng thi đậu Đầu xứ (năm 16 tuổi) và nhiều khoa Tú tài, nên được Hội Văn của huyện Đông Thành tôn tặng đôi câu đối:

Nhất cử thành danh thiên hạ hữu
Thập khoa liên trúng thế gian vô

Nghĩa là:

Một lần thi đậu Cử nhân thiên hạ đã có người như vậy
Mười khoa thi đều trúng thế gian chưa từng có ai
  • Tương truyền, thời ông dạy học ở làng Nguyệt Viên, tổng Từ Minh, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Làng này có tục các cô gái vừa kéo vải vừa hát đối đáp với các chàng trai trong đêm. Đôi khi có cả những nhà nho gà cho các bên hát. Một hôm gặp ông đồ xứ Nghệ, các cô bèn ra một vế đối để thử tài:
vế xuất: Gái Nguyệt Viên vừa độ trăng tròn, ai muốn lấy mười lăm quan chẵn
Đây là một vế đối rất hóc hiểm. Nguyệt Viên là tên làng nhưng cũng có nghĩa là trăng tròn, trăng lại tròn vào hôm rằm tức mười lăm.
Ông liền đối: Trai Vân Tụ đông như mây nhóm…
Về đầu đồi rất chỉnh, vì Vân Tụ là quê ông sánh với Nguyệt Viên, và còn có nghĩa là mây nhóm. Nhưng đến vế sau "Ai muốn lấy mười lăm quan chẵn" thì ông bế tắc, đành chữa thẹn: "Mười lăm quan đắt quá, không lấy nữa". Từ ấy, ông tự thấy sở học mình còn kém, nên lại về quê tiếp tục học nữa. Nhờ đó về sau lừng danh Đình nguyên Thám hoa Phan Thúc Trực

Vế ra thoạt đầu thấy có vẻ đơn giản, nhưng khi phân tích rõ mới thấy tính hóc búa tiềm ẩn. Ở chỗ điểm chung của một địa danh, một lứa tuổi và một con số. Mà địa danh thì có là có hoặc không có là thua, con người cũng chỉ có vài lứa tuổi nhất định. Phải đến gần 200 năm sau, có người là Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh mới tìm ra đáp án cho vế xuất của các cô gái. Khi đọc đến giai thoại trên, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh rất thích. Dù công việc mùa vụ cực kỳ bận rộn gần giống như đang lo hậu cần cho một trận đánh giặc, nhưng nhân vật này vẫn bị vế ra làm phân tâm. Một vế ra tuyệt hay, trong tình thế đối đáp trực tiếp thì quả thật là khó cho cụ Phan tìm ra vế đối ngay lúc ấy được. Nhưng rồi khi có thời gian gián tiếp hơn, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đã tìm được đáp án trong lúc chợt nhớ về xã Nhơn Thọ là quê hương của mình.

vế đối: Lão Nhơn Thọ đến tuổi người già, khách được đãi sáu mươi mâm lẻ
Phân tích: theo từ điển Hán Việt Trần Văn Chánh, chữ "thọ" còn có nghĩa là "già, tuổi già". Vậy "Nguyệt Viên" được dịch là "trăng tròn" thì "Nhơn Thọ" cũng được dịch là "người già". Xã Nhơn Thọ thuộc huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Theo wikipedia, "người già" hay người "cao tuổi" hay người "cao niên" là những người từ 60 tuổi trở lên. Do đó 60 tuổi là một con số có tính cột mốc. Nói tới tuổi già là biết tuổi từ 60 trở lên. Trăng ngày 15 cũng tròn, trăng ngày 16 còn tròn hơn. Như vậy, điểm chung về địa danh, lứa tuổi gắn liền con số đã được giải quýêt trong vế đối trên

Nghe tin ông mất, vua Tự Đức phái Tổng đốc Nghệ An mang phẩm vật tới tang quyến truy điệu với bốn chữ "Học cao hạnh thuần" (nghĩa là "Học vấn đã cao thâm mà đức hạnh lại thuần hậu") và truy phong cho ông hàm Chánh ngũ phẩm. Một vị túc nho ở trong huyện Yên Thành đã khóc ông với một đôi câu đối rất ai oán:

Bảng vàng bia đã ngàn thu, thương tiếc thay, người ấy!
Đầu bạc răng long trăm nỗi, đau xót lắm, trời ơi"!
  • Có một lần, nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng về xã Liên Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An để “nói chuyện” với Thám hoa Phan Thúc Trực. Sau đó, trong Hội thảo KH về cụ Thám cũng có một số người nhắc chuyện này. Thậm chí một báo cáo khoa học còn viết: “Vừa qua, qua nhà ngoại cảm Bích Hằng, cụ Thám có đọc cho một đôi câu đối, bảo hãy khắc vào ngôi đền thờ dân làng và con cháu họ Phan sắp làm, rằng:
Tổ tông trọng trí, thiên nhiên thịnh
Huynh đệ đồng tâm, vạn sự thành”

Nguyễn Tử Mẫn

Nguyễn Tử Mẫn là một nhà địa lý học của tỉnh Ninh Bình và Việt Nam. Ông quê ở ở thôn Đống Cao, xã Giá Hộ, tổng Kỳ Vĩ, nay là làng Thư Điền, xã Ninh Nhất, huyện Hoa Lư. Nguyễn Tử Mẫn là một người rất am hiểu về địa lý Ninh Bình. Ông đỗ cử nhân năm 1841, làm tri các huyện Kim Anh (Vĩnh Phúc), Hiệp Hòa (Bắc Ninh) và Gia Viễn (Ninh Bình), gọi tắt là Ông Huyện Hiệp Hoà.

  • Tương truyền Ông Huyện Hiệp Hòa có câu đối nôm tự vịnh về hoàn cảnh thực tế của mình như sau:
Vợ cả vợ hai không vợ cả
Con trai con gái có con trai
Nguyên là ông có hai bà, khi ấy đều mất rồi, mà con trai con gái đều có cháu trai cả. Câu đối này sau được Nguyễn Đỗ Mục và Dương Bá Trạc chuyển thể để đả kích Tổng Đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu trên tờ báo Trung Bắc.
  • Câu đối viết sau sự kiện "4 tháng 3 vua":
Ngoái cách năm hai đạo chiếu đăng quang, bể Bắc trời Nam, táng khảo tỷ, con nào không nước mắt (Cuối năm ngoái sang năm nay, vua Dục Đức, vua Hiệp Hoà, đều có chiếu đăng quang rồi cùng bị giết. Táng khảo tỷ: vua chết cũng như cha mẹ chết)
Giêng sang độ, bốn ông già mở cảnh, ngày xuân chén hạ (chén mừng) cuộc hương thôn, cái ấy phải non tay (Lệ làng sang tháng giêng, có bốn ông lên lão ăn mừng, ông cho là một cuộc hương ẩm ăn uống phải vừa vừa thôi)
Đôi câu đối trên có dụng ý: Bắc Nam đối với Xuân Hạ, con đối với cái, nước mắt đối với non tay
  • Những câu đối dán chơi:
Sáng sáng ăn sáng rồi; cầm quyển mới, kỳ cui ký cúi viết vài chương, đoạn thu gương mắt, xếp khăn tay; dắt bút vào tam sơn, ngả lưng ngáy khò khò cho tối xuống
Ngày ngày ngủ ngày dậy; vớ câu cũ, phếu pháo phều phào ngâm mấy khẩu, đứng dậy ngắm chậu hoa, nhìn cây thế, rê chân bách bộ, vỗ tay cười khanh khách với trăng lên
vế ra: Già ưa người ta chiều, rét chiều hong, nồng chiều quạt, lưng đau ruột xót, chiều canh ngọt cơm ngon, cối răng voi, chày sắt nghiền dồn, chiều được lão, chị hầu non chừng một
vế đối: Thầy dạy học trò đối, tình đối thú, ngủ đối chơi, tóc bạc da mồi, đối mày ngài mắt phượng, trống bụng cóc dùi son đánh xuống, đối thầy già con hát trẻ vừa đôi
vế đối khác: Lớn thích người ta dạ: Lạnh dạ thức, nực dạ ngủ, mày chau miệng chát, dạ trà nát sữa chua, cọc nanh cọp mu vàng xiết chặt, dạ với cụ anh hầu tơ chắc chín (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Dạ ở đây có nghĩa vâng dạ, thưa bẩm và dạ là đêm)
  • Khi Biện Lý La Ngạn Đỗ Huy Uyển lên thọ thất tuần, Ông Huyện Hiệp Hòa có câu đối mừng như sau:
Quan trên chữ nhất đứng hai hàng, Thủ khoa Hoàng Giáp (Con trai cụ Biện lý là Hoàng Giáp Liêu, thi hương đỗ thủ khoa, thi đình đỗ Hoàng Giáp đều là thứ nhất)
Cụ tuổi bẩy tuần ngồi một cặp, đầu phát bạch canh (Cụ ông cụ bà cùng 70 tuổi, đầu đã đổi ra tóc trắng . Nhưng cố ý lấy chữ thủ đối với chữ đầu, hoàng đối với bạch, giáp đối với canh)
Đỗ Huy Uyển (1815 - 1882) húy Mâu, tự Viên Khuê và Tân Giang. Ông sinh tại làng La Ngạn, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Năm 1859, nhân việc soạn chiếu dụ được vua Tự Đức khen ngợi ban hàm Thái thường thiếu khanh, Biện lý bộ Hộ sự vụ (nên được người đời gọi là Biện lý La Ngạn). Năm Canh Thân (1860), ông bị đau mắt nên được về nghỉ. Về ở quê, ông làm nghề dạy học.
  • Khi nghe tin Ông Huyện Hiệp Hoà tạ thế, Đốc Học Ninh Bình Nguyễn Thượng Hiền có câu đối viếng như sau:
Lâm ngoạ hữu dư thanh, tửu tận nhàn hoa do mãn kính (Ông nằm ẩn ở trong rừng, có khí tiết thanh cao, uống cạn chén rượu, mà vườn vẫn còn đầy hoa cúc)
Ngã lai tư nhất kiến, đơn thành tiên hạc hốt lăng không (Ta đến đây mới gặp cụ một lần, mà bài thuốc tiên đã luyện xong, nay cưỡi hạc bay đi mất)
  • Ngoài ra, Hoàng giáp Liêu cũng có câu đối viếng ông, câu đối làm sẵn từ trước, vì Liêu chết trước ông tới 10 năm:
Độc kỳ văn như tinh như sương, như tuấn mã khinh xa, ư thế hữu danh tư diệc túc (Đọc văn ông sáng như sao, như sương, nhanh như ngựa khỏe, xe nhẹ, ông có danh ở đời như thế là đủ)
Giả nhi hóa vi đàn vi luân, vi thử can trùng tí, tùy thiên sở phú hựu hà vưu (Ví ông mất đi, hoá ra cây đàn, ra cái xe, ra gan con chuột, ra càng con sâu tùy ý trời cho không oán trách gì)
Điển tích "thử can trùng tý" lấy ở sách Trang tử, điển tích "tuấn mã khinh xa" lấy ở cổ văn.

Giai thoại đối đáp của thầy Võ Tử Văn và các học trò

Triều Tự Đức có một vị thầy nổi danh cả một vùng đó là Ông Võ Tử Văn người làng Nại Cửu, phủ Triệu Phong (nay là huyện Triệu Phong) tỉnh Quảng Trị. Ông học rất giỏi nhưng chỉ có số làm thầy nhưng không có số làm quan. Học trò ông rất đông, trong số đó có ba môn sinh xuất sắc :Lê Cảnh Trinh, Lê Bá Thoại và Ông đốc Tham Triều. Một hôm, thầy Văn bảo học trò làm câu đối cho ông xem tướng, đề tài nói về cái đình làng Nại Cửu, đình làm trong một khu đất đẹp , rộng rải, thoáng mát ở đầu làng, trước có một cái hồ, sau có một cái hồ và chung quanh có tường bao bọc. Sau một hồi suy nghĩ ông Lê Cảnh Trinh đọc trước:

Thành như trung, Hình như ngoại
Giựt hồ hậu, Dẩn hồ tiền
Văn phong thanh thoát, ý văn oai vệ thầy Văn khen hay đoán rằng sau nầy Ông Trinh sẽ làm quan to, vinh hiển làng nước, bà con được nhờ.

Kế đến ông Đốc Tham Triều đọc đôi câu đối như sau::

Khí khái bình sinh thiên địa
Sương thê hạ vũ xuân thu

Lời văn cao ngạo, dũng mãnh nhưng buồn. Ông thầy Văn đoán rằng ông đốc về sau cũng đổ đạt làm quan to nhưng kết cục buồn. Câu đối của Ông Lê Bá Thoại cũng rất hay (hiện đã thất truyền), về sau đổ đạt rất cao.

Thật vậy, khoa thi năm đó ông Lê Bá Thoại đổ Tiến Sĩ bổ nhiệm Tham Tri, Ông Lê Cảnh Trinh đổ phó bảng bổ nhiệm thượng thơ đầu triều.Ông Đốc Tham Triều cũng trúng khoa và được bổ nhậm đốc học. Trong khi làm đốc học, ông đốc Tham Triều thấy thói ngang ngược của bọn thưc dân ông ngăn không được, buồn tình ông từ quan về Tham Triều cất chòi tranh để ở ,làm thơ ngâm vịnh, vui chơi quên ngày tháng. Không lâu sau trong một đêm tối trời căn chòi tranh của ông Đốc Tham Triều bốc cháy và hỏa thiêu ông luôn, người ta nói rằng ông Đốc đã tự vẫn. Thế là ứng với câu đối buồn:…"Sương thê hạ vũ xuân thu".

Ông Trinh đổ thấp hơn ông Thoại nhưng lại làm quan lớn hơn, điều gây ra sự hục hặc, đau đầu cho ông tiến sĩ. Một dạo nọ, quan tri phủ Triệu Phong người quê Nghệ An về trấn nhậm, ông đổ tiến sĩ nên coi thường quan Thượng chỉ là phó bảng. Không lâu, quan tri phủ vì một tội gì đó mà bị cách chức và bị đục bia tiến sĩ, không biết có phải do quan thượng hay không? Họ Lê Bá có làm mới nhà thờ, Ông quan Thượng có làm hai câu đối rất nổi tiếng, tặng họ ngoại, được treo vào hai cột ở tiền điện:

Nội ngoại thù nguyên giai vọng tộc
Thi thơ dư khánh hữu văn tôn
Hai câu đối ngoài việc ca tụng uy danh họ hàng, còn đoán rằng trong họ sau nầy có con cháu đổ đạt cao và làm quan to.

Ông quan Tham Tri chẳng chịu thua, ông làm hai câu đối cũng tài hoa và phải treo ở cửa Tam quan:

Giang hữu thu lai lưu thủy diễu
Đương triều vũ thế viễn sơn thanh

Tuy có phần hục hặc nhau lúc sanh tiền là cả hai nhân tài sinh ra cùng một nơi và cùng thời , nhưng cả hai người đều tương kính. Bằng chứng là khi quan thượng qua đời, quan tham đi hai câu đối thể hiện sự kính trọng và tình cảm thân thương của mình;

Dư thế tâm bình tố liễu công danh hoàn thế cuộc
Đồng hương nghị thuyết tưởng vô ngôn mạo xúc tâm hoài

Cuộc đối đáp giữa Nguyễn Văn Giao (1811 - 1863) và Nguyễn Đức Đạt (1824 - 1887)

Nguyễn Văn Giao tên huý là Tao, hiệu Quất Lâm, tự là Đạm Như. Ông là người xã Trung Cần, tổng Nam Kim, huyện Thanh Chương, phủ Anh Sơn (nay là xã Nam Trung, huyện Nam Đàn), tỉnh Nghệ An. Sau khi thi đỗ, ông được bổ thụ Hàn lâm viện Trước tác, nhận chức vụ Hành tẩu ở Nội các. Tháng 8 năm Ất Sửu 1855, được thăng thụ Hàn lâm viện Thừa chỉ. Năm Mậu Ngọ 1858, được thăng nhiệm Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ kiêm chức Hành tẩu Nội các. Tháng 6 năm Kỷ Mùi 1859, thăng thực thụ Thị giảng học sĩ, tháng 1 năm Nhâm Tuất 1862, thăng thụ Thị độc học sĩ, vẫn kiêm chức Tham biện Nội các.

Nguyễn Đức Đạt tự Khoát Như, hiệu Nam Sơn Chủ Nhân, Nam Sơn Dưỡng Tẩu, Khả Am Chủ Nhân. Ông sinh tại làng Hoành Sơn, xã Nam Hoa Thượng, tổng Trung Cần (nay là xã Khánh Sơn, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An). Năm 1863, ông làm Đốc học tỉnh Nghệ An. Năm 1885, vua Hàm Nghi ra chiếu Cần Vương. Ông dựng cờ nghĩa khởi binh, chiến đấu chưa được bao lâu thì thất thế nên nghĩa quân phải rút lên vùng miền núi Thanh Chương. Do tuổi cao sức yêu không đi được, nên Nguyễn Đức Đạt ở ẩn tại quê nhà và mất.
  • Tương truyền, khoa thi năm Quý Sửu (1853), Tiến sĩ chỉ lấy đậu hai đệ nhất giáp Thám hoa, thì cả hai cùng ở một tổng (Nam Kim, Nam Đàn) là Nguyễn Đức Đạt và Nguyễn Văn Giao. Sau ngày vinh quy bái tổ, Nguyễn Đức Đạt qua thăm nhà Thám giao, thấy nhà chỗ nào cũng có đậu (đậu mới thu hoạch), liền ra vế đối:
Trong nhà đậu, ngoài sân đậu, cha thi đậu, con học đậu, thi vân: đa đậu thử chi vị dã
Nguyễn Văn Giao nhìn ra ngoài sân, thấy hàng dâm bụt đang trổ nhiều hoa, liền đối lại: Trên cây hoa, dưới gốc hoa, bái vinh hoa, tôi Thám hoa, thi viết: trùng hoa bất diệt ghi hồ
  • Câu đối tại bản chi từ đường ở làng Hoành Sơn do học trò của Thám Hoa Nguyễn Đức Đạt phúng điếu ông:
Thọ khảo tác nhân, Nam Sơn thảo đường trạch vạn thế (Suốt đời đào tạo bao người, ơn muôn đời ngôi nhà cỏ núi Nam Sơn)
Văn chương minh quốc, Hồng Lĩnh ngô châu đệ nhất phong (Văn chương nổi tiếng cả nước, một ngọn núi cao châu ta Hồng Lĩnh)

Những câu đối của Ông Nghè Nguyễn Quý Tân (1814 - 1858)

  • Câu đối gà cho học trò:

Nguyễn Quý Tân hiệu Đình Trai, người làng Thượng Cốc, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Khi chưa đỗ ông Nghè, Nguyễn Quý Tân có mở trường dạy học. Một hôm thấy các trò lớn đều đến chậm, ông hỏi chuyên cớ thì được các trò cho biết như sau: Nguyên ở gần trường, ngay giữa lối học trò qua lại, có một cô gái nhà nọ người xinh đẹp mà lại giỏi chữ. Học trò qua lại thường buông lời chòng ghẹo, nhưng cô ta không trả lời. Một hôm có mấy anh chàng táo bạo, vào tận nhà làm thơ ghẹo cô ta. Cô ta tức khí mới ra một vế đối, bảo hễ đối được thì sẽ tiếp chuyện, bằng không thì đừng có qua lại trước cửa nhà cô ta. Mấy anh chàng không đối được. Thế là cả đám học trò từ đấy không dám vác mặt qua lối ấy nữa, mà phải đi vòng lối ven làng do đó đến chậm...Thầy đồ Tân thấy câu chuyện lý thú, bèn hỏi: "Câu ra thế nào?" Một học trò đứng dậy: Yêu nhau như bàu, như rót, như hót vào thúng, như búng con quay, như xoay thợ tiện, như bện hàng tơ

Thầy nghe qua nói: "Tưởng gì, câu tục ngữ ấy mà không đối được à? Các anh dốt thế chả trách được!"
Rồi thầy gà luôn cho các trò câu đối lại như sau: Lấy đây có bầu, có bạn, có ván cơm xôi, có nồi cơm nếp, có đệp bánh chưng, có lưng hũ rượu.
Các trò được thầy gà cho, mừng quýnh, tranh nhau học lấy làm lòng. Chiều về, cả bọn lại hiên ngang đi qua lối cũ và vào gặp cô gái để xin đối. Cô gái nghe câu đối rất phục, bằng lòng tiếp chuyện. Nhưng các trò đã bị một phen hú vía, nên đều bảo nhau bớt mồm bớt miệng, không dám giở thơ giở phú ra với cô ta nữa.
  • Câu đối viết hộ 2 chị em góa chồng:

Nghè Tân ở gần nhà một người có hai vợ, hai người vơ lại là hai chị em ruột nên ăn ở rất thuận hoà. Một hôm người chồng bị vu cao là tòng đảng với kẻ cướp nên phải đi tù mấy năm ròng, đến khi được tha không đầy một tháng thi mắc bệnh mà chết. Hai chị em xót thương chông mới sang xin ông Nghè câu đối về thờ, ông viết :

Nghĩ rằng rết khoẻ nhờ chân, chị ngã em nâng đành đã vậy!
Ai ngờ cóc chết hết chuyện, quan tha ma bắt biết làm sao?
  • Giai thoại xướng họa cùng Uy Viễn Tướng Công Nguyễn Công Trứ:

Tương truyền, khi Nguyễn Công Trứ về lĩnh chức Tổng đốc vùng Hải An thì Nguyễn Quý Tân vừa mới thi đậu cử nhân. Nghe tiếng quan Tổng đốc là bậc tài hoa, Nguyễn Quý Tân muốn gặp. Thế rồi từ chỗ mến tài nhau, nên tuy hơn tới ba giáp nhưng Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Quý Tân đã trở thành bạn tri âm tri kỷ. Công Trứ xin cho Nghè Tân được bổ đi làm Giáo thụ ở Bình Giang, vì nể quan Tổng đốc nên Nghè Tân nhận lời, nhưng vẫn tìm cách “gây sự” bằng cách sai con trai đem một bức thư sang dinh cụ Trứ xin cầm lấy chút tiền làm lộ phí. Nguyễn Công Trứ mở thư xem thì thấy đó là một bài thơ đường luật:

vế ra: Có nghề mà lại cậy chi nghề/ Nghề thế ai ngờ lại hóa nghê/ Vạn sự bất như thân cũng hổ/ Nhất văn vô hữu nợ còn bê/ Công danh chỉ tổ đồ khoe mã/ Cờ biển còn hơn của ướt sề/ Bôn tẩu làm chi cho rách gấu/ Thà rằng ngồi đó vuốt râu dê
Nguyễn Công Trứ đọc xong tuy giận nhưng không nói gì, chỉ sai người lấy tiền, cho cậu con trai của Nghè Tân mang về. Và lẽ tất nhiên là cụ Nguyễn Công Trứ cũng không quên gửi kèm thêm bài thơ họa nguyên vần, mà số từ chỉ thú vật trong đó còn nhiều hơn những...3 con so với 1 trong bài thơ của Nghè Tân!
vế đối: Tám vạn nghìn tư thứ ngỗng nghề/ Thứ nghề áo mũ thứ nghề nghê/ Mày râu ngẫm lại lòng thêm hổ/ Thư kiếm sao đành dạ bỏ bê/ Xanh đỏ rẻ cùi khoe tốt mã/ Phong lưu khỉ gió hót đầy sề/ Xin đừng giở thói văn chương nữa/ Bán chó sao ngoài lại thủ dê?
  • Năm 70 tuổi, Nguyễn Công Trứ làm bài thơ chữ Hán để mời các bạn cùng hoạ nhân dịp “thất thập cổ lai hi”. Cụ Thượng Trứ lại thích nhất bài của của ông Nghè Nguyễn Quý Tân. Sở dĩ như vậy là vì trong khi mọi người đều hoạ bằng chữ Hán thì duy nhất một Nghè Tân viết bằng tiếng Nôm:
Bài thơ "Thất thập tự thọ" của Nguyễn Công Trứ nội dung như sau: 日對兒曹自解頣,今吾不似故吾時,隨機塊儡供人笑,逐驥年花屆古希,老實不堪粧面目,英華安用染鬚髭,自慚毫末渾無狀,怪殺鴻山有是非 Nhật đối nhi tào tự giải di, kim ngô bất tự cố ngô thì, tùy cơ khối lỗi cung nhân tiếu, trực ký niên hoa giới cổ hy, lão thực bất kham trang diện mục, anh hoa an dụng nhiếm tu tỳ, tự tàm tiên liệt hào vô trạng, quái sát Hồng Sơn hữu thị phi (Hằng ngày ta sẽ cùng chơi đùa với trẻ con, ta hôm nay không còn giống ta ngày xưa nữa, ta theo thời mà làm con rối mua cười cho thiên hạ, thấm thoát nay đã đến tuổi cổ lai hi, cái chân chất không cần trau tria mày mặt nữa, vẻ tốt tươi đem nhuộm cho râu tóc để làm gì, ta tự lấy làm thẹn chẳng có chút công trạng gì, thôi hãy phó mặc cho núi Hồng hạ lời khen chê). Bản dịch ra thơ Đường Luật của Lê Thước: "Ngày cùng lũ trẻ cợt đùa chơi, quả thực ta nay khác trước rồi! Múa rối mấy hồi rằng giúp nước, sống lâu bảy chục cũng ơn trời! Thật thà bao quản khoe mình đẹp, tóc bạc xin đành kém vẻ tươi! Những thẹn bất tài không báo bổ, non Hồng thôi mặc tiếng trên đời!"

1 - Bài họa bằng thơ Nôm của Nghè Tân: Bẩy mươi tuổi tác vẫn nhường ri, mới biết xưa kia buổi thiếu thì, rượu tỉnh thơ say hồn Lí Bạch, trúc cười hoa cợt thú Vương Hi, giang sơn nắm lại đôi tay khẩu, văn võ buông ra một ngón tì, cùng kiếp phù sinh hay dở sạch, dẫu ai tiếng thị với lời phi!

Lấy vần Nôm họa lại vần chữ Hán là một việc rất khó, vì đó thực chất là hai ngôn ngữ, một âm vần nhưng ở hai trường nghĩa khác nhau, nhưng ông bạn trẻ Nghè Tân (lúc đó mới 34 tuổi) tài hoa đã tài tình chọn được những từ, những ý rất đắt, rất hợp tâm hợp ý của người bạn già: không gợi đến cái thời “làm con rối mua cười cho thiên hạ”, màchỉ nhắc lại “buổi thiếu thì” xưa kia với những thú vui của cầm kì, thi tửu; còn bây giờ lại vẫn cuộc chơi “ngoài vòng cương toả”, bất chấp miệng thế gian thị phi hay dở.

2 - Bài của Cao Bá Quát: 群山南望獨支頤,遙想先生未老時,自古英雄遇常異,即今齒德見眞稀,飽嘗世味终須酒,斷禁霜花不上髭,聞道鴻峰欲回首,豈應六十九年非 Quần sơn nam vọng độc chi di, dao tưởng tiên sinh vị lão thì, tự cổ anh hùng ngộ thường dị, tức kim xỉ đức kiến chân hy, bão thường thế vị chung tu tửu, đoạn cấm sương hoa bất thướng tỳ, văn đạo Hồng phong dục hồi thủ, khởi ưng lục thập cửu niên phi! (Một mình ngồi chống tay vào cằm, nhìn về các núi phía nam, xa tưởng đến hồi tiên sinh còn chưa già, sự gặp gỡ của bậc anh hùng từ xưa vẫn khác thường, những người tuổi cao đức cả (như tiên sinh) ngày nay thật hiếm thấy, mùi đời đã nếm đủ rồi rốt cuộc vẫn cần đến rượu, cấm ngặt hoa sương không cho bén vào râu, nghe nói tiên sinh muốn quay về ngọn núi Hồng, vậy lẽ nào cách xử thế năm sáu mươi chín tuổi của tiên sinh là không phải sao?) Trúc Khê dịch ra thơ Đường Luật: "Non nam một dải ngó xa xa, nhớ lại tiên sinh lúc chửa già, từ trước anh hùng nhiều chuyện lạ, đời nay xỉ đức thấy ai chưa? Mùi đời nếm chán cần thêm rượu, râu mép phun nhiều cấm điểm hoa, nghe nói non Hồng sắp trở lại, lẽ nào lầm cả những năm qua?"

Đỗ Huy Uyển (1815 - 1882)

Đỗ Huy Uyển húy Mâu, tự Viên Khuê và Tân Giang, ông sinh tại làng La Ngạn, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Ông là con trai cả của Cử nhân Đỗ Huy Cảnh và là cha của Hoàng giáp Đỗ Huy Liêu, thi đỗ Cử nhân tại trường thi Nam Định. Đỗ phó bảng khoa tân sửu, Thiệu Trị I (1841) làm quan đến chức biện lý hộ Hình, nên khi về nghỉ, người ta thường quan gọi là ông Biện Lý La Ngạn . Khi ông ở nhà dạy học, thường tự phụ là hay chữ bậc nhất; văn chương của ai cũng không coi ra gì. Những làng ở quanh miền La Ngạn, phàm có công việc hiếu hỉ, đều đến xin chữ của ông. Một hôm đương buổi học, một thanh niên trạc ngoài hai mươi tuổi, vào nói là học trò lỡ độ đường, xin giúp đỡ. Ông có ý khinh, hỏi: "Anh là học trò thực à, đã học đến sách gì rồi?" Thanh niên thưa: "Cháu mới học hết sách Tam tự tam tiếc, và đã học sang sách Hán sách hiếc". Nghe lối ăn nói hỗn hào, ông giận lắm, nhưng nén tâm, bảo: "Anh đã học đến sách Hán, nay ta ra cho câu đối, đối được sẽ cho năm quan tiền, còn như không đối được thì sao?" Thanh niên thưa: "Nếu không đối được thì xin chịu đánh đòn 30 roi". Ông liền ra:

Đoạt Triệu bích, bạt Triệu kỳ, Triệu tốt bất tri Hàn kích Triệu (Cướp thành nước Triệu, giở cờ nước Triệu, mà quân nước Triệu không biết là Hàn Tín đánh nước Triệu)
Thanh niên đối ngay: Nhập Tần cung, trừ Tần pháp, Tần dân đại hỉ Hán vương Tần (Vào cung nhà Tần; trừ phép tàn bạo nhà Tần, dân nhà Tần rất mừng được Hán làm vua nước Tần)

Câu ra có ý bảo người thanh niên: bị đánh đến nơi rồi mà không biết đấy. Câu đối lại, thanh niên ngầm bảo: ta định vào nhà ông để trừ tính ông hay đánh.

Những câu đối của Cách Mạng Khai Sơn Chi Tổ Hoàng Phan Thái (1819 - 1865)

  • Hoàng Phan Thái, người làng Cổ Đan (tục gọi làng Bo), huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An; hiệu là Đại Hưu; ông nổi tiếng thông minh và học giỏi từ lúc còn nhỏ; lớn lên thi đậu đầu xứ nên được gọi là Đầu Xứ Thái. Sống dưới thời Tự Đức và nhìn xa thấy rộng về thời cuộc, ông có khuynh hướng canh tân, từng đề xuất việc lập tân đảng để đưa nước nhà tiến bộ trên đường văn minh. Phan Bội Châu gọi Hoàng Phan Thái là “Cách Mạng Khai Sơn Chi Tổ”. Nhà ông gần chùa, sư Hóa trụ trì chùa lại là người thích thơ phú. Một lần, Thái đến chùa chơi, sư thầy ra nhìn thấy một con bò chạy lang thang ngoài đường về hướng phía làng Bo liền tức cảnh ra một vế đối: Bò lang chạy vào làng Bo
Phan Hoàng Thái đối: Hoa sứ bay quanh sư Hóa
Về giai thoại trên, có thuyết khác lại kể như sau: Một chú bé chăn bò trên đê Trà Lý ở Thái Bình, con bò lang dứt dây chạy vào làng Bo (ở Thái Bình cũng có làng Bo) gần đấy. Đúng lúc đó cụ Lang Giá (tên riêng) đi chữa bệnh về thấy thế liền cười và đọc ngay một vế đốiBò Lang chạy vào Làng Bo!Đang mải đuổi bò chưa được, quay lại thấy cụ Lang Giá đi giày theo sau, chú bé liền đọc luônLang Giá đi giày da láng!Cụ Lang Giá ngạc thiên kêu lên: "hay quá", rồi gọi mọi người đón bắt chú bò lang cho cậu bé.
  • Lần khác, sư Hóa lại ra một câu: Dầu vương ra đế (lúc đó sư lỡ tay rót dầu rớt ra đế đèn)
Cậu học trò Thái nhìn quanh, đối lại: Ỉa vãi vào sư
Đọc xong cậu ù té chạy… Câu đối rất xược nhưng về mặt câu chữ quả là không chê vào đâu được.
  • Một lần khác sư Hóa lại ra một vế:
Cái là tượng, tượng là voi, voi chầu cửa cái
Vế đối này khá lắt léo. Nguyên chữ Hán cái là tượng – là dáng vẻ, tượng cũng là con voi, chữ cái cuối cùng là chữ nôm – cái là to. Cậu Thái xin phép ra đứng ở tam quan rồi mới đọc:
Tu là hổ, hổ là cọp, cọp bắt thày tu
Đọc xong lại ù té chạy. Vế đối của cậu Thái cũng lắt léo tài tình không kém..Trong Hán tự, tu nghĩa là xấu hổ, hổ cũng là con cọp…Các cặp cùng nghĩa được nêu trực tiếp (cái là tượng, tượng là voi,...) Các cặp cùng âm như sau: HV-HV: “tượng” (tượng mảng) 2 ”tượng” (voi), “tu” tức “hổ” (xấu hổ) 2 ”tu” (thầy tu); HV-TV: “cái” tức “tượng” (HV, tượng mảng) 2 ”cái” (“cửa cái” –TV, cửa chính), ”hổ” (cọp) 2 “hổ” (xấu hổ). Ở đây, có hiện tượng chuyển nghĩa bằng cùng âm, tạo sự vi phạm quy luật đồng nhất về hình thức (giả vi phạm luật đồng nhất), trong lúc thực chất là hợp logic. Có thể mô hình hoá để lí giải hiện tượng này như sau: “Tu (T) là hổ (H), hổ là cọp (C), cọp bắt thầy tu”: T = H , H = C ® C ¹ T Công thức trên biểu thị việc vi phạm luật đồng nhất (lẽ ra, phải suy thành C = T). Nhưng chỉ giả vi phạm, bởi vì “cọp” là “hổ” (con hổ), không phải là “hổ” (xấu hổ); và “hổ” (xấu hổ) này là “tu” (HV), cùng âm với “tu” (HV -trong “thầy tu”). Vì thực chất C ¹ T, “nên cọp bắt thầy tu” là hợp lẽ.

Những câu đối của Ông Đồ Chiểu (1822 - 1888)

Nguyễn Đình Chiểu (tục gọi là Đồ Chiểu) tự Mạch Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh tại làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, nay là Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 21 tuổi (1843), ông đỗ tú tài ở trường thi Gia Định. Năm 25 tuổi, ông trở ra Huế học tập, chờ khoa thi Kỷ Dậu (1849). Chưa kịp thi thì được tin mẹ mất. Trên đường về chịu tang, vì quá buồn lo khóc thương mẹ, ông lâm bệnh và bị mù cả hai mắt. Về lại Gia Định, sau khi mãn tang mẹ, Nguyễn Đình Chiểu chuyển sang học thuốc, chữa bệnh cho dân, mở trường dạy học, vừa sáng tác thơ văn. Năm 1886, vợ ông là bà Lê Thị Điền mất lúc 51 tuổi. Buồn rầu vì vợ mất, vì bệnh tật ngày càng trầm trọng, hai năm sau, ngày 24 tháng 5 năm Mậu Tý (3 tháng 7 năm 1888), Nguyễn Đình Chiểu cũng từ trần tại Ba Tri.

  • Câu đối tự thuật:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
  • Đối đáp với Thầy Tàng:
Ở xã Trường Bình, có một ông thầy thuốc, tính tình ngay thẳng tới mức ngang bướng, nhân dân vẫn gọi là ông Tàng. Ông này bị nặng tai, hay qua chơi với Nguyễn Đình Chiểu. Một hôm đang ngồi chơi thầy Tàng đọc: Trâu khát nước bò xuống uống
Nguyễn Đình Chiểu đối: Trẻ thèm mồi lóc lên ăn

Câu đối chơi chữ ở hai chữ “bò” và “lóc”, vừa có thể hiểu như danh từ là con bò và con cá lóc, vừa có thể hiểu như danh từ, vừa có thể hiểu như động từ.

Vế đối khác 1: GHẸ GHIỀN THỨC CUA QUA XƠI (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(Vế đối dùng danh từ chỉ con cua và động từ cua qua)
Vế đối khác 2: NAI KHOÁI CỎ MANG RA NHAI (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Mang vừa danh từ con mang vừa là động từ mang ra)

Kế đó Nguyễn Đình Chiểu đọc: Thầy Tàng tai không nghe sấm (Nói về con vịt có câu ”Trí lôi thanh ư nhĩ ngoại võng nhiếp thiên uy”; dịch là “Để tiếng sấm ở ngoài tai, chẳng sợ oai trời”. Nguyễn Đình Chiểu vừa có ý trêu chọc thầy Tàng bị nặng tai, vừa có ý nói đến tính ngay thẳng tới mức ngang ngạnh “không sợ trời không sợ đất” của thầy Tàng).

Thầy Tàng đối: Đồ Chiểu mắt chẳng xé mây (Lời Mã Siêu nói khi mới theo hàng Lưu Bị: “Nay giặp được minh chúa khác nào vén đám mây mà mà trông thấy trời xanh”. Thầy Tàng cũng có ý trêu lại Nguyễn Đình Chiểu bị mù lòa, vừa có ý phân bua rằng thời buổi này đâu có ai là minh quân thánh chúa mà tôi phải kính trọng, cũng như ông đó thôi, ông có thấy ai là minh quân thánh chúa không?).
  • Đối đáp với Đoàn Ngọc Thơ (1816 - 1876):

1 - Sau khi triều đình Huế ký hòa ước Nhâm Tuất (1862) nhường ba tỉnh miền đông Nam Kỳ cho Pháp, để tỏ thái độ bất hợp tác với giặc, Nguyễn Đình Chiểu quyết định tỵ địa về Ba Tri, Vĩnh Long (nay thuộc tỉnh Bến Tre). Trước ngày Nguyễn Đình Chiểu đi Ba Tri, Đoàn Ngọc Thơ - là bạn thân nhất học trước ông một khóa - và nhiều người khác đến thăm để từ biệt, Nguyễn Đình Chiểu cảm cảnh kẻ đi người ở liền ra một câu đối: Sinh ly nhi tâm bất ly, quí huynh quí đệ (Sống xa mà lòng không xa, thẹn anh, thẹn em)

Đoàn Ngọc Thơ cảm động đối lại: Tử biệt kỳ văn hà biệt, vi quốc, vi dân (Chết cách văn anh nào cách, vì nước, vì dân)

2 - Mười ba năm sau, nhân có ghe buôn xuống Ba Tri, Đoàn Ngọc Thơ có gửi một bài thơ hỏi thăm Nguyễn Đình Chiểu:

Vắng người tri kỷ tự ngày đi, nhớ mãi thương hoài bực trí tri, sức khỏe như xưa còn phấn đấu? bàn cờ thế sự sẽ chờ khi…
Đoàn Ngọc Thơ hẳn cũng mong mỏi bàn cờ thế sự sẽ chuyển biến tốt đẹp hơn. Nhưng thế nước đang lúc lâm nguy, Nguyễn Đình Chiểu trả lời Đoàn Ngọc Thơ bằng một bài thơ họa nói lên tấm lòng yêu nước và trăn trở của mình:
Cắt đất đau lòng hận phải đi, nghĩa tình Cần Giuộc mến Ba Tri, tâm can vẫn nóng thân già yếu, tái ngộ như hà… biết mấy khi

Những câu đối của Tiễu Phong Lệ Ông Ích Khiêm (1829 - 1884)

Ông Ích Khiêm sinh tại làng Phong Lệ, tổng Thanh Quýt, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam (nay là Khu vực Phong Lệ Bắc, Phường Hòa Thọ Đông, Quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng). Mười sáu tuổi, ông thi đậu cử nhân (1847) trong khoa thi hương ở Bình Định, được bổ làm Tri huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Thời gian làm quan ở kinh, ông tỏ ý không phục hai quan phụ chính là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường nên bị họ trù dập. Ông bị đày vào nhà lao Bình Thuận, làm một người tù khổ sai. Uất ức, ông nhịn đói mà chết.

  • Một hôm, Ông Ích Khiêm ngồi trong quán, quan huyện sở tại đi ngang: có lính che lộng (2 lộng trước, 2 lộng sau, quan ngồi trên võng do lính khiêng). Ai nấy đều ra đường quỳ mọp để cung kính quan huyện, trừ Ông Ích Khiêm. Ông lấy một chiếc giày của ai bỏ đó, cố ý xỏ hai chân vào. Quan huyện cho lính gọi ra, hỏi làm nghề chi. Khiêm bảo mình là học trò. Quan huyện bèn ra vế đối: Cắc cớ thay, hai cẳng xỏ một giày
Ông Ích Khiêm đối lại: Sung sướng mấy, một đầu che bốn lộng
  • Sau khi vua Tự Đức băng hà, nước ta rất "loạn". Trong bốn tháng, thay ba vua (Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc), quyền hành trong triều đều do Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường nắm giữ. Lại thêm quân Pháp chia luôn "Empire d'Anam". Bờ Bắc của sông Hương, thuộc triều đình Huế, bờ Nam do Pháp chiếm. Ông Ích Khiêm có viết câu đối để phản ánh thế cuộc đó sau:
一江兩國難分說 Nhất giang, lưỡng quốc nan phân thuyết (Một sông, hai nước, không làm sao thương lượng chi hết - chữ Thuyết ở cuối ám chỉ Tôn Thất Thuyết)
四月三王兆不祥 Tứ nguyệt, tam vương, triệu bất Tường (Bốn tháng, ba vua, điềm chẳng lành - chữ Tường ở cuối ám chỉ Nguyễn Văn Tường)
Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886) xuất thân từ một gia đình lao động nghèo thuộc làng An Cư, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Năm 1862, ông vào kinh đô Huế giữ chức biện lí Bộ Binh, rồi vào Quảng Nam làm án sát. Năm 1874, ông được bổ sung vào Viện cơ mật. Năm 1883, vua Tự Đức băng hà, cùng với Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường lập rồi phế bỏ 2 vua Dục Đức, Hiệp Hòa. Năm Quý Mùi (1884), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lập vua Hàm Nghi lên ngôi. Năm 1885, Pháp bắt Nguyễn Văn Tường. Năm 1886, tại Papeete, một làng trên quần đảo thuộc địa Tahiti của Pháp, Nguyễn Văn Tường mất.
  • Cha của Ông Ích Khiêm đã mất từ sớm, lúc Khiêm đang cầm quân dẹp loạn thì nghe tin mẹ mất. Không thể bỏ quân sĩ mà về chịu tang mẹ, ông làm câu đối:
Mạc hiềm trần thế Khiêm vô mẫu (Trần thế đừng hiềm Khiêm mất mẹ)
Ưng tiếu tuyền đài phụ hữu thê (Tuyền đài có vợ, hãy mừng cha)
(Cha chết xuống suối vàng trước, giờ mẹ cũng xuống theo...Vợ chồng sum hợp, mừng cho Cha)

Phan Văn Trị (1830-1910)

Phan Văn Trị sinh tại làng Hưng Thạnh, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay là xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Ông thi đỗ cử nhân khoa Kỷ Dậu, năm Tự Đức thứ hai (1849) tại Trường thi Gia Định. Sau khi đậu cử nhân, ông về làng Bình Cách (nay thuộc thị xã Tân An) dạy học trò, về sau dời về làng Phong Điền, Cần Thơ (nay là xã Nhơn Ái, huyện Châu Thành, tỉnh Cần Thơ) tiếp tục dạy học, làm thơ, bốc thuốc chữa bệnh cho đến cuối đời.

  • Lúc còn ở kinh đô Phú Xuân, nhân một buổi dạo chơi trên bờ sông, thấy những người lặn xuống sông bất ốc khi trồi lên thì cổ họ bị rong quấn, đầu vướng đầy rác rêu, Phan Văn Trị chép miệng ngâm:
Phú quí Trường An rong quấn cổ
Phong lưu kinh địa rác đầy đầu!
  • Một hôm, Phan Văn Trị đi ăn giỗ. Trong đám giỗ hôm ấy, các danh sĩ cùng nhau ngồi đàm luận văn chương, một người ra đối:
Sắc nan
Phan Văn Trị lên tiếng: Dung dị
Người ra thấy vậy nói: "Dung dị à? Thử đối lại coi". Cử Trị đáp: "Tôi đối rồi đó. Dung dị". Lúc đó mọi người mới hiểu ra. Ai cũng khen ngợi. Người ra đối cũng như cử tọa chậm hiểu, bởi lẽ từ “dung dị”: có nghĩa là “dễ dàng”. Do đó, người ta tưởng Phan Văn Trị bảo vế đối đã ra là dễ dàng, chẳng khó khăn gì mà không đối lại được nên bảo Phan Văn Trị hãy thử đối đi. Họ không dè Phan đã đối ngay: “Sắc” đối với “Dung” còn “nan” đối với “dị” không gì chỉnh hơn được nữa.
Có người đang ăn quít, gặp quả quít ngọt tấm tắc khen: Quít ngọt
Phan Văn Trị tưởng người ấy ra đối để thử thách mình, bèn gắp miếng chả vào miệng nhai rồi đáp: Chả ngon
Cử tọa đề vỗ tay thán thưởng, từ “Quít ngọt” còn có nghĩa bóng là “lường quịt khéo”. “Chả ngon” có nghĩa bóng là “chẳng đẹp đẽ, chẳng xứng đáng gì” được dùng để đối lại chỉnh cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
vế đối khác: Cóc sướng (khuyết danh)
Một người khác đang ăn bỗng cắn phải lưỡi bèn kêu: Ái! (vừa là tiếng kêu, lại có nghĩa là yêu)
Tiếng kêu làm mọi người giật mình, có người đánh rơi miếng thịt hoen bẩn hết chiếc quần sộp. Cử Trị tức cảnh đối ngay: Ố! (vừa nghĩa là hoen ố, lại có nghĩa là ghét)
  • Một hôm, có người bạn giễu cợt mời Phan Văn Trị thử xướng một bài thơ vịnh “tứ khoái”. Không ngờ ông mỉm cười dễ dãi rồi ngâm luôn:
vế ra: Cơm Phiếu Mẫu gối Trần Đoàn, gối nghiêng loan phụng nhẹ nhàng nương long (Để ám chỉ việc ăn, Phan Văn Trị đã lấy tích Hàn Tín (thời Hán – Sở tranh hùng), lúc công danh chưa thành đạt, nhà nghèo phải đi câu cá ở dưới thành Hoài Âm được bà Phiếu Mẫu cho cơm ăn. Còn việc ngủ, ông lại dùng tích Trần Đoàn, đời Ngũ Đại, tu tiên đắc đạo ở dưới Hỏa Sơn, đã ngủ ba mươi năm liền cho khỏe mắt trong thời loạn lạc. Nói về cái khoái thứ ba và thứ tư, bài thơ đã dùng điển tích thanh tao là loan phụng và nương long. Loan phụng là giống chim quí, con mái gọi là phụng, con trống gọi là loan. Điển tích này thường dùng để chỉ việc vợ chồng, tình duyên trai gái, còn nương long là mỹ từ dùng để ám chỉ hậu môn)
vế đối:Gạo Trọng Do bướm Trang Chu, bướm vờn mai trúc phập phù hậu quy (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Trọng Do – Tử Lộ, người ở ấp Biện, thuộc nước Lỗ, sinh vào đời Xuân Thu, học trò Đức Khổng. Nhà nghèo, ông thường đi đội gạo đường xa hàng trăm dặm về nuôi cha mẹ. Không có tiền mua thức ăn, phải tìm các thứ rau về nấu canh dâng lên cha mẹ dùng tạm. Sau khi cha mẹ mất, ông sang nước Sở, được vua Sở trọng dụng, phong ban tước cao sang, cấp nhiều bổng lộc. Ông thường than phiền là không còn cha mẹ để được phụng dưỡng như xưa, để ngày ngày đội gạo, bữa bữa nấu canh rau. Khổng Tử thường khen Tử Lộ là người hiếu để và thận trọng từng hành vi. Ông được xếp tên trong Nhị Thập Tứ Hiếu. Trang Tử (365–290 trước CN) là một triết gia và tác gia Đạo giáo. Tên thật của ông là Trang Chu. Ông còn có tên là Mông Lại, Mông Trang hay Mông Tẩu. Ông sống vào thời Chiến Quốc, thời kỳ đỉnh cao của các tư tưởng triết học Trung Hoa với Bách Gia Chư Tử. Có lần Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm vui vẻ bay lượn, mà không biết mình là Chu nữa, rồi bỗng tỉnh dậy, ngạc nhiên thấy mình là Chu. Không biết phải mình là Chu nằm mộng thấy hóa bướm hay là bướm mộng thấy hóa Chu. Giấc mơ thành bướm của Trang Tử gợi ra nhiều câu hỏi trong các lĩnh vực triết học tâm thức, triết học ngôn ngữ, và nhận thức luận. Không chỉ là một thành ngữ thường gặp trong tiếng Trung, "Mộng hồ điệp" còn lan sang cả các ngôn ngữ phương Tây. Cây trúc và cây mai, hai cây thường trồng hoặc vẽ cạnh nhau; dùng để chỉ tình nghĩa gắn bó thuỷ chung, khăng khít giữa bạn bè, vợ chồng. Hậu quy là mỹ từ ám chỉ phía sau quy đầu tức là hậu môn)

Những câu đối liên quan đến Hồng Y Liệt Nữ Lê Thị Miên (1836 - 1908)

Bà Ba Cai Vàng, tên thật là Lê Thị Miên, còn được gọi là Yến Phi, biệt biệu Hồng Y liệt nữ; là vợ ba của Cai Vàng. Quê bà ở thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

  • Đối đáp với Tổng Thịnh:

Nguyễn Văn Thịnh tức Cai Tổng Vàng (còn gọi là Cai Vàng), người xã Vân Sơn, huyện Phượng Nhỡn, Kinh Bắc (nay thuộc xóm Kẻn, thôn Vân Sơn, xã Phương Sơn, huyện Lục Nam, Bắc Giang). Năm 1862 Cai Vàng khởi binh chống lại vua Tự Đức, thời đó trong nước lan truyền câu ca: "Trên trời có ông sao dài, ở vùng Kinh Bắc có Cai Tổng Vàng". Một lần, Cai Vàng mở hội vật để tuyển người khoẻ mạnh xung vào nghĩa quân của mình. Có một đô vật nhỏ nhắn, khôi ngô tuấn tú, đã vật ngã nhiều đô vật sĩ nổi tiếng, sắp chiếm giải nhất, thì keo vật cuối cùng mái tóc của “đô” này bị xổ tung, hiện nguyên hình là một giai nhân. Cai Vàng đích thân ông thẩm vấn. Cô gái “đô vật” khai tên Lê Thị Miên, tự Yến Phi, con một ông đồ ở thôn Đại Trạch, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Cai Vàng nói cô là con thầy đồ ắt phải biết chữ bèn ra câu đối: Cô Miên ngủ một mình

Vì đêm qua cô bị nhốt một mình ở trong rừng sâu, nên Cai Vàng mới nghĩ ra vế đối này. Nhưng vấn đề ở chỗ chữ "cô" là gái chưa chồng, đổi ra "cô" là cô đơn, một mình; chữ "Miên" là "dài" lại viết chữ "miên" là "ngủ" thành ra từ Hán Việt "cô miên" nghĩa nôm là "ngủ một mình", mà tai quái ở chỗ Miên lại chính là tên của cô gái này. Tổng Thịnh nghĩ chắc chắn cô gái không thể đối nổi.

Không ngờ cô gái đối ngay: Tổng Thịnh tóm nhiều đứa

Ông Cai Vàng tên "Thịnh" làm "cai tổng", thì "tổng" là "tóm", "Thịnh" là "nhiều", còn chữ "mình" thì cô đối bằng "đứa" mà lại rất phù hợp với tình thế lúc ấy. Cai Tổng Vàng cảm phục tài trí cô Miên, đã thu nạp làm… “vợ ba”, phong cho làm phó tướng.
Sau này có người là Võ Văn Hoa đối thêm được 2 câu nữa:

Hoàng Mai mai nở vàng (Hoàng Mai cũng có nghĩa là mai nở vàng)

Liên Hoa đội búp sen (Liên Hoa cũng có nghĩa là đội búp sen)

vế đối khác: Bác (bá) Tánh thương trăm họ (Dương Hồng Kỳ)
  • Người ta kể rằng, vì cô Miên không chịu lấy chồng,, nên có lần cô bị các nho sĩ làm thơ trêu ghẹo rằng: Lạnh lùng thay, giấc cô Miên/Mùi hương tịch mịch bóng đèn thâm u. Không chịu kém, cô Miên xướng trước một câu, thách ai đối được sẽ nhận người ấy làm chồng, nhưng rồi không một ai lên tiếng.
vế ra: Chưa chồng chơi chốn chùa chiền, chanh chua chuối chát chính chuyên chờ chồng
Câu đối này phải chờ mãi đến cuối năm 2013 mới có ông Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối lại được như sau: Thủ thân thăm thất thiên thần, thi thông thư thạo thảo thuần thành thân
  • Câu đối đề tại miếu thờ:

Sau khi Tổng Thịnh chết, mùa xuân năm 1864, Bà Ba Cai Vàng trực tiếp cầm quân đánh vào Nải Sơn (Kiến Thụy, Hải Phòng). Sau 22 ngày chiến đấu liên tục, hao quân hao tướng mà không thắng được. Xét thấy, không còn đủ sức để tiến hành cuộc chiến đấu lâu dài được nữa, bà giải tán lực lượng...Theo truyền thuyết, Bà Ba Cai Vàng mai danh ẩn tích ở chùa Dặn (Đình Bảng, Bắc Ninh). Cũng có người cho rằng, bà đã vào tu tại chùa Hương nơi thôn Tứ Kỳ (nay là thôn Đại Trạch, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), với pháp danh là Đàm Giác Linh. Tại chùa này, bà đã cho dựng miếu Âm Hồn để thờ chồng (Cai Vàng). Sau khi bà mất, nhân dân lập miếu thờ, hai bên cửa miếu có đề đôi câu đối sau:

Tiểu cát phục nhung y, kỵ mã huy kỳ, danh trấn anh hùng nhân Kinh Bắc (Thời trẻ mang giáp trụ, cỡi ngựa phất cờ, nức tiếng anh hùng miền Kinh Bắc)
Xuất gia quy thiền phái, chiêu kinh tịch kệ, giác chân đức độ Phật Như Lai (Xuất gia vào chùa thiền, tụng kinh đọc kệ, hiểu tường đức độ Phật Như Lai)

Những câu đối của Tam Nguyên Vị Xuyên Trần Bích San (1840 - 1877)

  • Đối đáp với Linh Mục Trần Lục (1825 - 1899):

Trần Lục tên thật là Trần Văn Hữu, năm 20 tuổi, được Chúa kêu gọi, Trần Lục lên đường vào Tiểu chủng viện Vĩnh Trị, đổi tên Hữu Thành Triêm. Tháng giêng 1860 thầy Triêm thụ phong linh mục ở Kẻ Trừ (ngay xưa có thói quen gọi linh mục và các Thầy Phó Tế, chức Sáu, là “Cụ” nên từ khi chịu chức Sáu và linh mục “chui” ờ Kẻ Trừ, để tránh tên bộ là Trần Lục, người ta goị tên nôm na vắn tắt là “Cụ Sáu” hoặc “Cụ Sáu Trần Lục”).

Trần Bích San tự Vọng Nghi, hiệu Mai Nham, được vua Tự Đức ban tên là Hy Tăng; ông là người ở xã Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.Nay là phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Năm 1865, ông đỗ đầu thi Hội và thi Đình, cho nên người đương thời gọi ông là Tam nguyên Vị Xuyên. Năm Đinh Sửu (1877), ông được thăng Tham tri bộ Lễ, làm Chánh sứ sang Pháp. Chưa kịp đi, ông đột ngột mất ở Huế.

Tương truyền khi Trần Bích San làm Tuần Phủ Hà Nội, Linh Mục Trần Lục mới được phong làm Khâm Sai Tuyên Phủ Sứ từ Phát Diệm lên thăm. Trong lúc trò truyện, muốn thử tài vị Tam Nguyên, Linh Mục Lục đưa ra một vế câu đối nói thác đi là đã nghe được muốn đối nhưng khó quá, nhân dịp gặp nhà đại khoa nhờ đối giùm. Vế ra như sau:

Ba cụ ngồi một cỗ, cụ đủ điều cụ chẳng sợ ai
Vế ra rất khó vì có tới 3 chữ “Cụ” với 3 nghĩa khác khau. “Cụ” là cụ đạo, tiếng gọi các Linh Mục ở miền Bắc, “Cụ” cũng có nghĩa là sẵn sàng, “Cụ” còn có nghĩa là sợ hãi. Ý và lời tỏ ra vừa ngạo mạn, vừa đắc ý của người đang gặp thời. Trần Bích San từ chối vì e rằng vế đối khiếm nhã. Linh Mục Lục cho rằng Trần Bích San không đối nổi nên càng nài ép, nại cớ đây là chuyện văn chương văn hành công khí, không có gì phải e ngại.
Trần Bích San lúc đó mới bèn ứng khẩu đối lại: Một đạo há hai đường, đạo trộm cắp đạo còn nói láo
Dùng chữ “Đạo” đối với chữ “Cụ” là tuyệt hay. Chữ “Đạo” cũng có 3 nghĩa: “Đạo” là cố đạo tiếng dùng gọi các Linh Mục, “Đạo” cũng có nghĩa là con đường, “Đạo” còn có nghĩa là trộm cắp. Ý và lời mỉa mai kẻ tu hành không giữ được đạo hạnh, xu thời theo thực dân Pháp không biết xấu hổ với đất nước mà còn lên mặt đắc chí.
  • Câu đối mang tính triết lý:
Văn vô sơn thủy phí kì khí (văn hay bởi khí hùng non nước)
Nhân bất phong sương vị lão tài (người gió sương thao lược mới già)
  • Câu đối Tôn Thất Thuyết viết phúng điếu Trần Bích San:
Lân quân độc thủ cô thành, quốc trung thành, gia hiếu tử
Sử ngã kinh qua thủ địa, giang bán dạ, nguyệt trung thu

Dịch nghĩa:

Thương ông riêng tấm lòng thành, con hiếu của nhà, tôi trung của nước
Khiến tôi qua nơi đất cũ, dòng sông đêm vắng, vầng trăng giữa thu

Câu đối treo giải của Tổng Đốc Danh Dự Đỗ Hữu Phương (1841 - 1914)

Đỗ Hữu Phương sinh tại Chợ Đũi (Sài Gòn), gốc người Minh Hương. Năm 1865, Đỗ Hữu Phương được chính quyền Pháp cho làm hộ trưởng. Đỗ Hữu Phương lần lượt được nhận các phần thưởng như sau: Huyện Danh dự (25 tháng 7 năm 1868), Huy chương vàng (31 tháng 12 năm 1868), Phủ Danh Dự (4 tháng 8 năm 1869), Đốc phủ sứ Danh dự (4 tháng 8 năm 1868), Đệ tam đẳng bội tinh (1 tháng 1 năm 1891), Tổng đốc Danh dự (8 tháng 10 năm 1897). Năm 1881, ông được gia nhập quốc tịch Pháp, và liên tiếp qua Pháp vào các năm 1884, 1889, 1894. Tương truyền trong 1 dịp Tết, ông Phương ra câu đối ca tụng nhà ông và treo giải thưởng nếu ai đối được như sau:

vế ra: Đất Chợ Lớn có nhà họ Đỗ, Đỗ một nhà, ngũ phước tam đa
Ngay ngày hôm sau, có người gởi đến câu đối lại: Cù Lao Rồng có lũ thằng phung, Phung một lũ: Cửu trùng bát nhã (Thằng Phung là bệnh phong hủi)

Những câu đối liên quan đến Tham Tá Nội Các Sự Vụ Đỗ Huy Liêu (1845 - 1891)

Đỗ Huy Liêu tên tự là Ông Tích, hiệu Đông La. Ông sinh tại làng La Ngạn, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên tỉnh Nam Định. Ngày 1 tháng 5 năm Tân Mão (1891), tổ chức xong lễ mãn tang cho mẹ vào buổi sáng thì buổi chiều Đỗ Huy Liêu đột ngột từ trần. Theo Phan Bội Châu, thì ông đã uống thuốc độc tự vẫn.

  • Câu đối viếng Tổng Đốc Nghệ Tĩnh Đặng Toán:

Đặng Toán làm quan có tiếng thanh liêm, đang giữ chức tuần phú Ninh Bình thì có chỉ cử làm tổng đốc Nghệ Tĩnh, nhưng sắp sửa lên đường nhận chức mới thì mất. Đỗ Huy Liêu có câu đối viếng Đặng Toán:

Phương đáo Hoan chi thăng, hồ kị hạc quy, quy Thúy Hạc (Mới nghe tin ông thăng quan lên châu Hoan (Nghệ Tĩnh), sao ông vội cỡi hạc về, về núi Thúy Sơn, núi Hồi Hạc)
Khởi dữ Ninh hữu ước, hưu tương hồng ấn, ấn Lam Hồng (Hay là với tỉnh Ninh có hẹn, nên không đem dấu chim hồng in ở sông Lam Giang, núi Hồng Lĩnh)
“Hạc”, “hồng” là tên hai loài chim lớn (HV), cùng âm với một thành tố của tên gọi địa danh Thúy Hạc, Lam Hồng.
  • Đối đáp với Cử Nhân Phạm Văn Phổ:

Sau khi thực dân Pháp bình định xong Trung và Bắc Việt, Tổng đốc Nam Định Vũ văn Báo, cho mời Đỗ Huy Liêu và cử nhân Phạm Văn Phổ làng Tam Quang, ý muốn để ông làm đốc học Nam Định, Phổ làm tri phủ Nghĩa Hưng. Nhưng hai ông từ chối, nên bị tống giam, bị ngâm vào bể nước, cho lính tráng đứng tắm ở bên bể, cố làm nhục hai ông. Hai ông ngồi trong bể làm câu đối cho đỡ buồn, một ông ra, một ông đối:

vế ra của Pham Văn Phổ: Tại luy tiết chi trung, phi kỳ tội dã (Câu này lấy ý trong Luận ngữ, thiên Công dã Tràng, điển Công dã Tràng, dẫu phải giam trói, nhưng không phải vì tội mình làm ra)
vế đối của Đỗ Huy Liêu: Tuy khỏa trình ư trắc, yên năng nỗi tai (Câu này từ nội dung sách Mạnh Tử, thiên Công tôn Sửu, điển Liễu hạ Huệ vốn có tính khoan hoà nói: kẻ khác làm bậy như là cởi áo chìa vai ở bên ta, cũng không nhơ nhuốc đến ta)
  • Sau được tha về, lấy cớ là có mẹ già, Đỗ Huy Liêu xin ở nhà phụng dưỡng, nhất định không chịu ra làm quan. Được bốn năm thì mẹ mất, ông có câu đối khóc mẹ như sau:
Tằng tứ niên lai, quốc vận gia đình lụy lụy (Đã từng bốn năm nay, vận nước tình nhà, thường gặp gian truân)
Tài tam nguyệt nội, thần tâm tử niệm du du (Vừa trong ba tháng, lòng người bầy tôi, và lòng người con cảm thấy xót xa)
  • Câu đối viếng Đỗ Huy Liêu của Đốc Học Hà Nội Khiếu Năng Tĩnh (1835 - ? ):

Khiếu Năng Tĩnh là người xã Chân Mỹ, tổng Tử Vinh, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định (nay thuộc xã Yên Cương, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định). Năm 1878, ông đỗ Cử nhân (Hương cống). 2 năm sau, ông đỗ đồng tiến sĩ xuất thân. Ông làm quan Đốc học Hà Nội, Tế tửu Quốc tử giám. Sau khi nghe tin Đỗ Huy Liêu mất, ông có gửi đôi câu đối phúng điếu như sau:

Hiển tàng độc dị phùng tam mão (Lúc hiển đạt và lúc mất, một điều lạ là cùng gặp vào ba năm mão)
Tâm sự toàn nghi đối lưỡng thân (Tâm sự như thế là trọn đạo làm con đối với hai đấng thân)
Thân” trong “lưỡng thân” (cũng gọi song thân, là cha mẹ), cùng âm với “thân” (thuộc thập nhị địa chi), do yếu tố “mão” cùng trường nghĩa này, ở vị trí đối ứng chỉ ra 2 Đỗ Huy Liêu đỗ thủ khoa năm đinh mão (1867), đỗ hoàng giáp năm kỉ mão (1879), mất năm tân mão (1891).
  • Câu đối viếng Đỗ Huy Liêu của Đông Các Đại Học Sĩ Cao Xuân Dục (1843 - 1923):
Cái kỳ sinh kỳ cố kỳ tử diệc kỳ, mạc hoặc giả nhân trọc nhi ngã thanh, nhân túy nhi ngã tinh, thuật lai chúc tử sổ ngôn, quát nhãn quan hà lưu thế lệ (Lúc sống vốn kỳ, lúc chết cũng kỳ, có phải chăng người say mà ta tỉnh, người đục mà ta trong, những trối trăng con cháu đôi lời, ngoảnh lại non sông giàn nước mắt)
Duy kỳ hành hiển, cố kỳ tàng diệc hiển, dĩ yên tai tương kiến năng kỷ thời, tương thức năng kỷ nhân, tài khứ đàm thân nhất nhật, hồi đâu thân thế hận ba đào (Khi xuất đã rõ, khi xử càng rõ, rành là thế cùng hiểu nào mấy người, cùng gặp nào mấy độ, vừa xong tang mẹ già một bữa, đoái trông thân thế hận ba đào)
Cao Xuân Dục tự là Tử Phát, hiệu Long Cương Cổ Hoan Đông Cao, sinh tại thôn Thịnh Mỹ (Thịnh Khánh), xã Cao Xá, huyện Đông Thành, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Năm 1876, ông đỗ Cử nhân. Trong quá trình làm quan, ông đã trải qua những chức: Biện lư Bộ Hình, Án sát Hà Nội, Bố chánh Hà Nội, Tuần phủ Hưng Yên, Tổng đốc Sơn Tây - Hưng Hóa - Tuyên Quang, Khâm sai Chủ khảo trường thi Hương Hà Nam, Tổng đốc Định Ninh, Phong hàm Kiên Giang Quận công, Tổng tài Quốc Sử Quán, Thượng thư Bộ Học.

Giai thoại đối đáp của Nguyễn Thiện Kế (1849-1937)

Vế xuất: Cái thỏ lợn
Vế đối: Cái lồn tâu
Nhân một cuộc vui lớn được tổ chức ở tỉnh đường Bắc Ninh, một số thuộc lại đưa lễ tổng đốc một mâm xôi và cái sỏ lợn. Khi trình lễ, viên lại đầu bọn nói “Cái thỏ nợn” (cái sỏ lợn - các tương ứng [S-] - [Th-] và [L-] - [N-] giữa ngôn ngữ phổ thông và phương ngữ Bắc). Ba tiếng này trở thành một vế đối hóc hiểm. Vậy mà có người đã đối lại rất chỉnh, cũng dùng cách biến âm của vùng đất: “Cái nồn tâu” (ngoài tương ứng [L-] - [N-], còn có [Tr-] - [T-] ® “trâu” - “tâu”).

Tương truyền, người đối lại là Nguyễn Thiện Kế (người làng Nễ Độ, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên; đỗ cử nhân năm 1888; ông nổi tiếng với những bài thơ đả kích đám quan lại tay sai của Pháp). Nguyễn Thiện Kế (1849-1937) tên tự là Trung Khả, hiệu Đường Vân hay Nễ Giang, còn được gọi là Huyện Nẻ hay Huyện Móm, là 1 chỉ huy của khởi nghĩa Bãi Sậy trong phong trào Cần Vương và cũng là em ruột của Nguyễn Thiện Thuật, quê ở làng Xuân Đào, xã Xuân Dục, huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên. Ngoài ra, ông còn làm thơ trào phúng và cũng là anh rể của thi sĩ Tản Đà.

Những câu đối của Nguyễn Hiển Dĩnh (1853 - 1926)

Nguyễn Hiển Dĩnh hiệu Tô Tân, sinh tại làng An Quán, tổng An Nhơn (nay thuộc xã Điện Phương, Điện Bàn, Quảng Nam). Cha là Nguyễn Hiển Doãn, đỗ cử nhân khoa Nhâm Dần, Thiệu Trị thứ hai (1842), được bổ làm tri huyện rồi bị bãi chức vì có xích mích với quan trên, về nhà dạy học. Cao Bá Quát khi bị kỷ luật ở triều đình phải đi hiệu lực trên một tàu viễn dương, lúc ghé Hội An cũng đến nhà cụ Doãn đàm đạo thân tình và tặng một câu đối. Câu đối này đến đời cụ Dĩnh vẫn còn treo hai bên bàn thờ gia tiên, theo học trò cụ, nay chỉ còn nhớ vế thứ hai:

“Bách niên tri kế bất nhược thọ nhân” (Kế trăm năm không chi bằng trồng người)

Sinh thời, ông thể hiện quan niệm của mình về nghệ thuật hát bội bằng những câu đối như:

Thốn thổ thị triều đình, châu quận
Nhất thân đô phụ tử, quần thần

nghĩa là:

Một miếng đất (sân khấu), đó là cả triều đình, châu, quận
Một tấm thân (diễn viên) là cha, con, vua, tôi (khi diễn)

Như thế, hàm nghĩa nghệ thuật mang tính ước lệ. Sân khấu là nơi thể hiện việc giả nhưng lại phải nói rất thực. “Cái chốt cửa vốn thẳng mà ta làm động tác rút chốt để mở cửa lại hoậy cái tay để người ta thấy (tưởng tượng) là chốt cong, là không thực”. Khi bàn về những đóng góp của Nguyễn Hiển Dĩnh vào kho tàng lý luận sân khấu hát bội, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Liễn cho rằng: "Về nghệ thuật biểu diễn, Nguyễn Hiển Dĩnh viết câu đối":

Dũng dượt dụng binh, bách chiến binh vô huyết nhẫn
Thung dung ẩm tửu, thiên bôi tửu bất tuý nhân

Nghĩa là:

Hùng hổ ra quân, đánh trăm trận mà giáo gươm không vấy máu
Ung dung ngồi nhấm rượu, cạn cả nghìn chén mà diễn viên không say, chỉ có nhân vật say thôi

Về sáng tác, cụ Tô Tân viết:

Anh hùng kỳ phục dã vô tận
Nhân sinh hà xứ bất tương phùng

nghĩa là:

anh hùng chưa gặp thời còn ẩn náu không biết bao nhiêu trong sân khấu hát bội
người ở đời cứ lộn ra lộn vào sân khấu chỗ nào cũng gặp nhau

Sân khấu hát bội, bằng thủ pháp ước lệ của diễn viên, của đạo cụ, của hát, múa… mà diễn như thật mọi cảnh huống cuộc đời. Điều này cũng được cụ nhắc lại trong đôi câu đối:

Bước ra sân, khanh tướng công hầu, mày râu chĩnh chệ
Vào trong rạp, mày tao chủ tớ, cặc dái lòng thòng

Những câu đối của Ông Nghè Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì (1854 - 1922)

Ông nghè Vân Sơn Nguyễn Trọng Trì hiệu Tả Am; là nhà thơ và là một nghĩa quân trong phong trào Cần Vương, người làng Vân Sơn xã Nhơn Hậu huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Cách đây hơn hai thế kỷ, họ Bùi là dòng họ đầu tiên di cư từ Bắc vào khai khẩn vùng xóm Trung, ấp Lạc Điền, tổng Thiều Quang, phủ Tuy Phước. Bùi Tình, hậu duệ của họ Bùi là một nhà nho nhân hậu, sống giữa thời nhiễu nhương mà vẫn giữ được phẩm chất thanh cao. Nguyễn Trọng Trì là bạn vong niên của Bùi Tình, cái "kinh tế" - cái thế sự mà các nhà nho yếm thế thời bấy giờ luận bàn bên chén rượu giải buồn rồi cũng chỉ đi đến mong muốn: dầu trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ lấy đạo đức phẩm hạnh nhà nho như trong câu đối cụ Nguyễn Trọng Trì viết tặng Đoàn Quýnh - con rể Bùi Tình:

Phú nghĩa trung vô giao chiến địa
Hành tàng thượng hữu thái hòa thiên

Tạm dịch:

Giàu sang đại nghĩa không tranh cạnh
Lui tới khoan hòa có trí nhân

Con Bùi Tình là Bùi Thứu có tiếng hay chữ, bút hiệu là Tử Hồ đã nhiều phen lều chõng tới trường thi. Tuy đường khoa bảng chẳng được hanh thông nhưng ông là nhà nho đức độ, có lòng yêu nước thương dân mà không gặp thời, đành gửi gắm hy vọng vào thế hệ trẻ mai sau. Cho nên ông đã xuất tiền của cất một ngôi trường tại Điền Trung để dạy chữ Quốc ngữ cho con em trong làng. Vân Sơn đã làm hộ dân thôn Lạc Điền đôi câu đối để chúc tụng:

Nghĩa tâm chức tác giang sơn cẩm
Hiếu tửu nung thêm võ lộ hương

Tạm dịch:

Lòng nghĩa rạng ngời non sông gấm vóc
Rượu đào hiếu thảo mưa móc thơm nồng

Những giai thoại đối đáp của Bạch Xỉ Hoàng Đế Đoàn Chí Tuân (1855 - 1897)

Bạch Xỉ chính tên là Đoàn Đức Mậu rồi đổi là Đoàn Chí Tuân, còn có tên khác như: Đoàn Văn Long, Thầy Đoàn. Ông sinh tại làng Hoà Ninh, xã Quảng Hoà, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Lên 12 tuổi, Đoàn Chí Tuân đã nổi tiếng về văn và thơ. Bấy giờ có người ra câu đối sau:

vế ra:Hoàn quân dĩ đãi tướng quân (cho ông về là đãi ngộ ông)
Bạch Xỉ đối ngay: Sinh tử tất vi thái tử (sinh con ra là đẻ hoàng tử ra)
Lúc đầu, Bạch Xỉ đi theo cuộc khởi nghĩa Hương Khê. Trong đại bản doanh ở Hương Khê, Đoàn Đức Mậu đã đề xuất hai ý kiến: "Một là tôn quân diệt địch, hai là không sát tả mà chỉ bình tây". Ý của Đoàn Đức Mậu là vua Hàm Nghi đã bị bắt, nghĩa Cần vương không còn chính danh cho công cuộc chiến đấu nữa. Còn Đồng Khánh là vua do Pháp dựng lên, bấy giờ Pháp sợ nhất là một nước có hai vua, chi bằng tôn phò một vua mới, và Đoàn Đức Mậu qua câu tuyên ngôn:
Tướng quân nghĩa liệt văn hoàn vũ (Nghĩa liệt tướng quân vang bốn cõi)
Nguyện hướng viên môn tác chấp chiên (Xin theo bên ngựa đỡ dây cương)
Ý ông muốn nói, không ai xứng đáng hơn Phan Đình Phùng lên ngôi chấp chánh để lo việc quốc gia đại sự. Cả hai đề nghị của Đoàn Đức Mậu đã bị cụ Phan phản đối. Bạch Xỉ đã tách khỏi Phan Đình Phùng mà tự quyết định lên ngôi, lấy niên hiệu là Long Đức Hoàng Đế. Thời đó có câu sấm: “Bạch Xỉ sinh thiên hạ bình” (Ông Bạch Xỉ ra đời là thiên hạ thái bình). Khi Đoàn Chí Tuân tự xưng hoàng đế, ông là người không nhuộm răng đen thời đó. Có lẽ vì vậy mà ông tự lấy làm hiệu hoặc dân gian gán cho ông. Sau 4 năm hoạt động ở Nam Quảng Bình và 8 năm trên đất Hà Tĩnh, nghĩa quân Bạch Xỉ đã đánh bại nhiều cuộc hành quân càn quét của Pháp và nhà Nguyễn uy trấn tứ phương. Giặc Pháp bắt được ông khi ông đang lên cơn sốt rét tại nhà một bô lão ở làng Trung Định, trước mặt là núi Đại Hàm (Hà Tĩnh) rồi đưa về giam ở nhà lao Vinh. Hồ Lệ - bấy giờ là Tổng đốc An Tĩnh, lấy tư cách là người trước đây đã từng xướng hoạ thơ phú với ông. Để tỏ lòng mình, y thử lừa Bạch Xỉ mà đọc một vế câu đối:
vế ra: Thương người răng trắng gặp hồi đen
Bạch Xỉ ứng khẩu đáp lại ngay: Đau kẻ lòng son ôm máu đỏ
Câu đối của ông vừa để tỏ lòng son sắt với đất nước vừa để vạch mặt tên sĩ phu làm tay sai cho giặc, vì không chịu cung khai, bọn giặc đã hành hạ ông hết sức tồi tệ cho đến chết.
vế đối khác: Ghét lũ dạ thâm chờ tóc bạc ("dạ thâm" ám chỉ bọn bán nước cầu vinh thường có tâm địa đen (thâm) tối và thâm hiểm, muốn hưởng lợi hưởng nhàn (chờ tóc bạc), "gió thổi chiều nào theo chiều ấy" trong lúc đất nước bị giặc đô hộ. (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)
  • Một lần khác, tổng đốc Hoàng Cao Khải tự động đến gặp Bạch Xỉ trong nhà lao, vừa muốn dụ dỗ vừa muốn thử tài đối đáp của một thần đồng nổi danh từ đất Quảng Bình. Khải nói: "Biết ông hay chữ xin hãy đối lại câu đối của tôi". Bạch Xỉ trả lời: "Tôi văn chương ít, ít được học hành, chỉ đối được từng chữ mà thôi".

Khải xướng: Mạnh mẽ bảy đời cửa tướng

Theo cách phát âm gốc Nghệ Tĩnh, Mạnh đọc thành mẹng, cũng có nghĩa là mồm; mẽ đọc thành âm mẹ (đối với mẹ là cha), bảy đời đối lại là tám kiếp, cửa tướng đối lại là nhà ông. Bạch Xĩ chỉ nêu lên từng chữ để đối. Nghe xong Hoàng cao Khải ngớ ra không hiểu gì cả, còn Bạch Xĩ thì đã ung dung chắp tay sau lưng đi vào nhà ngục. Khải vặn hỏi số người hộ vệ của mình, câu đối được chắp lại như sau:
vế đối: Mồm cha tám kiếp nhà ông
Dù giận tím mặt và thù lên tận cổ, Khải cũng không nói được câu nào với Bạch Xỉ nữa, nên đã bảo bọn cai ngục đem Bạch Xĩ ra bắn ngay cho hả giận. Lúc nầy Pháp chưa nghe lời Hoàng Cao Khải vì Pháp còn muốn dụ dỗ một nhà nho tài giỏi và có uy tín để có thể ổn định được một vùng địa lý rộng lớn từ Quảng Bình ra tới Hà Tĩnh, Nghệ An, đỡ phải hao binh tổn tướng trong nhiều năm mà chưa chắc đã thành công. Nhưng không có gì mua được chí khí cang cường của một nhà nho yêu nước. Dụ dỗ không được, Pháp quay sang sử dụng đòn tra tấn dã man. Bảy lần tra tấn là bảy lần Bạch Xỉ cương quyết phản cung. Sự khảng khái tuyệt đối của Bạch Xỉ đã đưa ông đến cái chết tàn khốc vào ngày 12-5-1897, khi ông đang bị cơn sốt rét hoành hành. Bạch Xỉ mất, tuổi đời mới hưởng được 43 năm.
  • Tương truyền có lần Bạch Xỉ cùng Nguyễn Hàm Ninh đi chơi gặp mưa, ngồi núp ở gốc đa - Nguyễn Hàm Ninh đọc: Đường đất thịt, đi trơn như mỡ
Bạch Xỉ đọc theo liền: Gió gốc da, ngồi mát tận xương
  • Lần khác, Bạch Xỉ đến trường học cụ thám hoa Nguyễn Đức Đạt, gặp lúc cụ ra đề cho học trò, lấy tích ở Kinh Thi nói về một ông vua chăm việc nước, quên mình, quên ăn. Bạn học sinh nhờ ông giúp vài câu, ông lấy bút viết ngay:
Tể phụ tiến thiện, vương viết: vi vi! Nhất đán ky, viết ngã ky chi (Đầu bếp dọn ăn, vua bảo: chưa chưa! Một người dân đói, chính là ta đói đây)
Thuỳ tướng truyền xan, vương viết: phủ phủ! Ngô tuy mạo, thiên hạ tất phi! (Cần vụ đem cơm, vua bảo: khoan khoan! Mặt ta tuy gầy, nhưng mặt người dân được béo!)
  • Câu đối làm giúp một người bạn thờ vợ chết:
Dữ chi tử, cánh đoạt chi thê, ức mệnh, ức vô duyên, duy hướng thiên tào vấn đoạt đích (Cho con răng trắng, cướp quách vợ má hồng, vì mệnh hoặc vì duyên, mới biết lòng trời khôn nhắn hỏi)
Tử dã ấu, nhi tồn dã lão, thị hạnh, thị bất hạnh, mang văn nhân thế thuyết mơ hồ (Mất ả tóc xanh, còn trơ ông đầu bạc, rằng may hay rằng rủi, rối nghe miệng thế nói mơ hồ)
  • Khi nghĩa quân Bạch Xỉ đang đắc thế, dân gian vẫn lưu truyền câu đối sau để ca ngợi công tích của ông như sau:
Một lũ Thầy Tăng ra trị nước (Thầy Tăng nói lái là Thằng Tây)
Có ông Bạch Xỉ mới nên đời

Những câu đối liên quan đến Tuần Phủ Thái Bình Nguyễn Duy Hàn (1856 - 1913)

  • Nguyễn Duy Hàn người làng Hành Thiện (huyện Giao Thủy, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định). Làng Động Trung (huyện Kiến Xương, Thái Bình) có nhiều người ủng hộ phong trào Cần Vương. Pháp và tay sai đã đàn áp dã man, cả biện pháp cho cày xới mồ mả tổ tiên của những người tham gia kháng chiến. Năm 1905, Nguyễn Duy Hàn khi về nhận chức tuần phủ Thái Bình, đã tới làng răn đe và ra một vế đối:
Dân Động Trung hiếu động, động hiếu vô trung
Ý nói, dân làng Động Trung thích “làm loạn”, động đến việc hiếu (bị đào mồ cuốc mả), như vậy là mất chuyện trung hiếu với bề trên.
Dân làng đối lại: Quan Hành Thiện vi hành, hành vi bất thiện
Hành Thiện là tên làng (thuộc Nam Hà), quê của Nguyễn Duy Hàn. Vế đối lại đả kích Hàn hành xử gian ác, bằng cách đảo trật tự từ (“Hành Thiện vi hành” -> “hành vi bất thiện”); tương ứng với cách đảo trật tự từ của vế ra: Động Trung hiếu động -> động hiếu vô trung.
  • Ngày 12 tháng 4 năm 1913, Việt Nam Quang phục hội phục kích trên con đường chính của tỉnh lỵ Thái Bình. Khoảng 11 giờ 30 phút, xe kéo tuần phủ Nguyễn Duy Hàn chạy qua, ông Nguyễn Văn Tráng liệng tạc đạn và giết chết viên tuần phủ. Bẩy người bị chính quyền Pháp bắt giữ rồi đưa ra trảm quyết, trong đó có hai anh em Phạm Hoàng Luân, Phạm Hoàng Triết. Các nho sĩ đương thời có câu đối viếng như sau:
Anh em ruột thịt một hùng tâm, con Lạc cháu Hồng nêu nghĩa cả
Khí tiết sáng ngời hai chí sỹ, non Thường dòng Lỗ ngát hồn thơm
  • Còn với với viên Tuần Phủ Thái Bình Nguyễn Duy Hàn, các Nho gia cũng viết đôi câu đối phúng điếu như sau:
Hành Thiện bản lai vô ác báo (Làm thiện xưa nay không ác báo)
Thái Bình thuỳ thức hữu phong ba (Thái Bình sao lại nổi phong ba)
Tác giả câu đối đã chơi chữ rất khéo: Hành Thiện còn là quê và Thái Bình là nơi làm quan.

Câu đối của Chánh Quản Hương Binh Lê Trung Đình (1857 - 1885)

Lê Trung Đình hiệu là Long Cang, người làng Phú Nhơn, nay là thôn Trường Thọ Đông, thị trấn Sơn Tịnh, huyện Sơn Tịnh. Ông là chí sĩ yêu nước, kháng Pháp, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Cần Vương đầu tiên trong cả nước. Ngày 5/7/1885, sau vụ đánh úp quân Pháp ở Huế không thành, vua Hàm Nghi hạ chiếu Cần Vương. Lê Trung Đình cùng các thủ lĩnh hương binh kéo quân về tỉnh thành, nghĩa quân làm chủ tỉnh thành được 4 ngày thì bị Nguyễn Thân đưa lực lượng từ sơn phòng về, bất ngờ tấn công dữ dội. Lê Trung Đình bị bắt, Nguyễn Thân lôi kéo Lê Trung Đình đầu hàng, nhưng ông không nói một lời. Ngày 23/7/1885 (1/6 năm Ất Dậu) Lê Trung Đình bị xử chém ở phía Bắc thành Quảng Ngãi.

  • Năm 18 tuổi, cậu Đình đi thi hương. Cả nhà mừng thầm thế nào Trung Đình cũng đổ thủ khoa. Đình cũng rất tự tin, nhưng không dè quan trường chấm thế nào mà chỉ á nguyên (thứ hai sau thủ khoa). Cử Đình tức lắm, nhân thấy anh chàng thủ khoa tài học kém mình, lúc vào ra mắt trong lễ xướng danh, cử Đình sẵn tay cầm cái quạt giấy liền lấy gióng quạt gõ lên đầu chàng thủ khoa - con một mệnh quan ở triều đình Huế - và nói lớn: "Thứ anh thủ khoa cái nước gì?" Cả quan trường buổi lễ xôn xao, rộ lên bàn tán, cười nói mỉa mai. Quan tuần phủ Điện tức tối, vì năm xưa lúc Trung Đình mới 15 tuổi, có lần theo cha đến dinh tuần phủ ngâm vịnh; nghe Đình hay thơ tuần phủ mới ra câu đối để thử tài:
vế ra: Đình xiêu giữa chợ ăn mày ngủ
Cậu bé Đình xin phép cha, ứng đối lại ngay: Điện tế bên đường chó đói ăn
Câu đối rất chỉnh, lại dùng chữ Điện tên của quan chủ tỉnh để đối với Đình tên mình, hơn nữa Đình và Điện đều là những nơi thờ cúng. Ai ngờ một vị quan đầu tỉnh lại bị cậu bé chơi xỏ một vố quá đau. Nên ông nghè Lê Trung Lượng vờ quở mắng Đình để quan tuần phủ đỡ ngượng, nhưng trong bụng ông cười thầm: "thằng.......phải đo ván".

Câu đối của La Sơn Phu Tử Quảng Nam Tú Quỳ (1857 - 1928)

  • Tú Quỳ, tên thật là Huỳnh Quỳ, người làng Giảng Hòa - Quảng Nam. Ông rất thông minh nhưng cả 3 lần thi chỉ đỗ Tú tài nên nhân dân gọi ông là Tú Quỳ. Nhân một buổi đi thăm người bạn ở phủ Thăng (tức Thăng Bình), Tú Quỳ đi ngang qua ngôi đình làng Đồng Tranh đã xây dựng xong 4 tháng nhưng chưa khánh thành. Hỏi ra, Tú Quỳ biết làng phải chờ vế đối của một vị quan là người của làng mà vị quan này mới làm được một vế, còn vế thứ hai chưa nghĩ ra. Câu đối này làng xin vị quan đó đề khắc lên 2 trụ cột ở căn trung cho toàn thiện ngôi đình. Tú Quỳ nghe chuyện cũng lúc quá trưa, trời nắng gắt, nên tạm ngồi dưới gốc đa trước đình nghỉ mát. Bỗng có gã bán chiếu gánh một gánh chiếu nặng tiến đến gốc đa cùng nghỉ, Tú Quỳ hỏi chuyện và nhận bàn giúp gánh chiếu, Tú Quỳ đặt gánh chiếu giữa sân đình để lấy cớ gặp làng. Kết quả, Tú Quỳ giúp làng giải được vế đối và làng cùng mua gánh chiếu của anh hàng chiếu để lo lễ khánh thành.
vế ra: Văn Đồng Tranh, võ Đồng Tranh, văn võ Đồng Tranh long hổ bảng
vế đối: Quân Gia Hội, thần Gia Hội, quân thần Gia Hội phụng hoàng trì
Các vị bô lão trong làng thán phục và bày tiệc khoản đãi, thì ra anh hàng chiếu tên là Hường Hiệu, vừa từ quan ở Huế, nay vâng thánh chỉ của vua Hàm Nghi hưởng ứng phong trào Cần Vương, khi Tú Quỳ ra hỏi chuyện biết là Hường Hiệu nên mượn vế đối này để mở đầu cho việc phò Vua, chống giặc Phú Lang Sa cứu nước của ông. Hường Hiệu, tên thật là Nguyễn Duy Hiệu, sinh năm 1847, tại Quảng Nam. Đỗ cử nhân năm 1876, phó bảng năm 1879, được phong Hồng Lô Tự Khanh nên dân quen gọi là Hường Hiệu. Sau khi Hàm Nghi xuống Hịch Cần vương, ông cùng một số đồng chí lãnh đạo phong trào Cần vương ở Quảng Nam. Ông bị giặc Pháp giết vào ngày 1 - 10 - 1887.
  • Câu đối Tú Quỳ làm để 12 bà vợ góa thờ 12 ông chồng cùng bị chết trôi trong một trận lụt:
vế xuất: Tưởng khi bóng chích gương loan, một thảm một sầu mười bức tức (1 + 1 + 10 = 12)
vế đối: Nhớ thuở bẻ mai chiết quế, ba chìm ba nổi sáu lênh đênh (3 + 3 + 6 = 12)
vế đối khác: Nghĩ lúc giường tre chiếu lá, hai nghèo hai khổ tám gieo neo (2 + 2 + 8 = 12) (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • Trước ngày lâm chung, Tú Quỳ làm mấy câu đối sau:
Thảo võ thiệu huy phong Kim Bảng, ba vãn tiết ngọc đường (Một nhà cỏ được dựng nên, ba đời chiếm bảng vàng rực rỡ)
Khoa danh lam thế diễn Hoàng Ân, thanh giá vạn niên hương (Ơn vua ban như hoa nở muộn, lừng danh thi phú tiếng vang xa)
Tú khí ngưỡng bằng tiên Tổ Khảo
Tài lang kỳ diễn hậu Nhi Tôn
Nối gót Lân ông dựa bảng Vàng, hai chữ thọ quan đà báu nước
Trăm tuổi Hạc bà đơm tóc Bạc, một câu trùng khánh lại vinh nhà
  • Câu đối viếng Tú Quỳ của Phạm Liệu:
Gia Học Kế Thừa Ngã Ngoại Tổ Môn Trung Túc Xưng Cao Đệ
Quốc Văn Đề Xướng Đại Súy Đường Hội Diện Hiệp Bái Tiên Huy
Nguyên cụ Tú Sáu là anh cô cậu ruột mà cũng là thầy dạy Phạm Liệu, Tú Quỳ tuy là học trò cụ Tú Sáu nhưng là lớp đàn anh học trước Phạm Liệu xa. Thành thử Phạm Liệu dùng cụm từ này như là cách xác định nơi Tú Quỳ đã thọ giáo -- thọ giáo tại nhà ngoại tổ (bên ngoại) của Phạm Liệu, vế sau Phạm Liệu đã tôn vinh Tú Quỳ là "Đại Súy Đường", một đại tướng trong làng Quốc văn.

Những giai thoại đối đáp của Y Gia Nguyễn Văn Xiển (1860 - ? )

Xiển Bột hay Xiển Ngộ tên là Nguyễn Văn Xiển, sống ở làng Hoằng Bột, nay là xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa. Ông là chắt của Trạng Quỳnh, người ta gọi Xiển là Xiển Bột vì quê Xiển ở làng Hoằng Bột, ông sống bằng nghề làm thuốc. Xiển Bột nổi tiếng trong dân gian vì những câu chuyện cười dí dỏm, châm chiếm đã kích vào những thói xấu của xã hội, những quan lại, cường hào chuyên hiếp đáp dân lành. Những câu chuyện hài hước được kể lại cho thấy ông không những trừng trị bằng trí tuệ đối với các đối tượng quan lại, cường hào mà thậm chí còn hí lộng đến cả người lãnh đạo cao nhất là nhà vua.

  • Đối đáp với viên tri phủ Hoằng Hóa:

Gần tết Nguyên Đán, viên tri phủ Hoằng Hóa cùng vợ đi chợ tết. Từ phủ ra chợ Bút Sơn rất gần, nhưng vốn tính hách dịch, quan phủ bắt lính cáng ra tận cổng chợ và mang theo hai cái lọng xanh che. Hồi này, Xiển Bột hãy còn nhỏ, xong thấy cái oai rởm của quan thì ghét lắm. Xiển mang một con chó con đi chợ, cứ ôm ở trước bụng, lúc thì chen đi trước quan, lúc thì lùi lại đi sau quan. Thấy Xiển Bột mang chó, ai cũng tưởng Xiển Bột mới mua, liền hỏi: "Chó bao nhiêu?" Xiển trả lời: "Quan đấy!" Quan phủ biết thằng bé ôm chó chửi xỏ mình, cho lính bắt lại hỏi: "Ai xui mày ăn nói như thế?" Xiển đáp: "Bẩm quan, nhà con muốn nuôi một con chó con để dọn cứt cho em, nên bố mẹ con bảo con đi mua, giá của nó là 1 quan tiền." Quan hỏi: "Mày là con cái nhà ai?" Xiển trả lời "Bẩm con là chắt cụ Trạng Quỳnh ạ!" Quan nói đã là chắt cụ Trạng tất phải hay chữ, vậy ta ra vế đối, đối hay tao tha tội, dở tao đánh đòn".

Quan đọc: Roi thất phân đánh đít mẹ học trò!
Xiển Bột liền đối: Lọng bát bông che đầu cha quan lớn!
Không ngờ Xiển lại dám chửi mình một lần nữa, để chữa thẹn, quan lấy giọng bề trên mắng Xiển Bột qua loa một vài câu, rồi quát bảo lính hầu sửa soạn ra về.
  • Xin tiền Tổng Đốc Thanh Hóa Tôn Thất Thuyết:

Xiển Bột đi thi bị trượt, ông buồn rầu, cùng các bạn hỏng thi ngồi than phiền, chực mượn rượu tiêu sầu, nhưng sờ túi, các thầy đồ đều hết tiền cả. Một bạn đố Xiển dám vào xin tiền Tôn Thất Thuyết, lúc ấy đang làm tổng đốc Thanh Hoá. Sáng sớm hôm sau, Tôn Thất Thuyết ra công đường thấy một người quỳ ở sân, Thuyết quát lính hỏi tên kia muốn kêu gì. Xiển đứng dậy trình ngay: "Con muốn chết, đến đây để nhờ lưỡi gươm của cụ lớn hoá kiếp cho". Tôn Thất Thuyết quát: "Tên này thật là điên ngộ cuồng ngu. Vì sao mày lại muốn chết?" Xiển đáp: "Bẩm cụ lớn, con là học trò thi hỏng, sống thêm hổ bút hổ nghiên, nên muốn chết cho rảnh". Thuyết thấy Xiển có vẻ thư sinh nho nhã, nói năng lại hoạt bát, liền bảo: "Nếu là học trò giỏi mà thi hỏng thì cũng đáng thương. Bây giờ ta sẽ ra đề cho ngươi vịnh thử bài thơ xem ngươi là học trò hạng nào". Rồi Thuyết lấy ngay đầu đề là "điên cuồng ngu ngộ".

Xiển ứng khẩu đọc luôn như sau: Cao Tổ điên hào kiệt, Vũ Đế ngộ thần tiên, Tăng Điểm cuồng thiên địa, Nhan Tử ngu thánh hiền (Cao Tổ điên đảo người hào kiệt, Vũ Đế giác ngộ chuyện thần tiên, Tăng Điểm ngông cuồng với giời đất, Nhan Tử ngu ngơ mà thánh hiền)
(Bốn nhân vật kể trên đều là những bực vua chúa thánh hiền tài giỏi trong sử sách: Hán Cao Tổ có tài thuyết phục làm cho những người tài giỏi phải theo mình. Hán Vũ Đế thích tìm hiểu chuyện thần tiên để rút kinh nghiệm xử thế. Tăng Điểm (Tăng Tử) là học trò giỏi bực nhất của Khổng Tử. Lúc nói chí hướng của mình, ông không thích làm quan làm giàu mà thích sống thanh cao. Nhan Tử tên thật là Nhan Hồi, học trò giỏi nhất của Khổng Tử. Bề ngoài, ông có vẻ như người ngu đần, nhưng thực ra là bậc thánh hiền). Nghe bài thơ, Tôn Thất Thuyết biết Xiển là người tài giỏi, học rộng, trí nhanh; trong chớp mắt biến bốn chữ chê thành bốn chữ khen, để tỏ chí khí của mình. Thuyết bèn thưởng cho Xiển 30 quan tiền, và an ủi, khuyên lơn Xiển nên cố gắng học nữa. Thế là Xiển Ngộ đã được cuộc. Các bạn phải khao một bữa chén linh đình.
vế đối:Lê Tổ điên anh hùng, Lý Tổ ngộ pháp Phật, Đồng Tử cuồng càn khôn, Trạng Trình ngu nguyệt nhật (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Lê Thái Tổ tên húy là Lê Lợi, Ông có tài thu phục anh hùng, khởi xướng khởi nghĩa Lam Sơn chiến thắng quân Minh trở thành vị Hoàng đế đầu tiên của triều Hậu Lê, triều đại lâu dài nhất trong lịch sử Việt Nam (tính cả Lê sơ và Lê Trung hưng). Ông sinh năm 1385 và mất năm 1433, ở ngôi gần 6 năm, thọ 49 tuổi. Lý Thái Tổ húy là Lý Công Uẩn, là vị Hoàng Đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời năm 1028. Thuở nhỏ Ông nương nhờ cửa Phật. Dưới triều nhà Tiền Lê, Ông làm quan đến chức Điện tiền chỉ huy sứ, là một chức quan võ chỉ huy quân đội bảo vệ kinh đô Hoa Lư bấy giờ. Ông được lực lượng của đại thần nhà Tiền Lê là Đào Cam Mộc và sư Vạn Hạnh tôn làm vua sau khi vua Lê Long Đĩnh qua đời. Dưới triều Ông, triều đình trung ương được củng cố, các thế lực phiến quân bị đánh dẹp, kinh đô được dời từ Hoa Lư về thành Đại La vào tháng 7 năm Thuận Thiên thứ hai (1010), và thành này được đổi tên thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay). Chử Đồng Tử là một vị thánh nổi tiếng, một trong "Tứ bất tử" trong tín ngưỡng Việt Nam.Truyền thuyết về Tiên Dung-Chử Đồng Tử gắn liền với Đầm Nhất Dạ là một trong những huyền sử được ghi chép trong Lĩnh Nam chích quái kể về thời kì cổ xưa của nước Việt Nam. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585), tên huý là Nguyễn Văn Đạt, tên tự là Hanh Phủ, hiệu là Bạch Vân cư sĩ, được các môn sinh tôn là Tuyết Giang phu tử, là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16. Ông được biết đến nhiều vì tư cách đạo đức, tài thơ văn của một nhà giáo có tiếng thời kỳ Nam-Bắc triều (Lê-Mạc phân tranh) cũng như tài tiên tri các tiến triển của lịch sử Việt Nam. Sau khi đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi (1535) và làm quan dưới triều Mạc, Ông được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công mà dân gian quen gọi Ông là Trạng Trình. Người đời coi Ông là nhà tiên tri số một trong lịch sử Việt Nam đồng thời lưu truyền nhiều câu sấm ký được cho là bắt nguồn từ Ông và gọi chung là Sấm Trạng Trình. Trạng Trình cũng được coi là người đầu tiên trong lịch sử nhắc đến hai chữ Việt Nam một cách có ý thức nhất thông qua các văn tự của Ông còn lưu lại đến ngày nay. Ông có bài thơ viết về cảnh nhàn nổi tiếng, được xem là hay bậc nhất trong thi ca Việt Nam: "Một mai một cuốc một cần câu, thơ thẩn dầu ai vui thú nào, ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, người khôn người đến chốn lao xao, thu ăn măng trúc đông ăn giá, xuân tắm hồ sen hạ tắm ao, rượu đến gốc cây ta sẽ uống, nhìn xem phú quý tựa chiêm bao").
  • Đối đáp với quan huyện Lê Kim Thằng:

Một hôm, nhân có lệnh của bọn chức dịnh bắt tất cả trẻ già trai gái làng Hoằng Bột phải ăn mặc chỉnh tề để đi đón quan huyện Lê Kim Thằng về làng hiểu dụ, Xiển Bột nghĩ ra ngay một kế. Xiển lẻn vào buồng ông nội lấy trộm chiếc áo thụng đỏ mặc vào, rồi đi thẳng ra đình, giả vờ chạy đi chạy lại lăng xăng ngay trước mặt quan huyện. Quan lấy làm lạ, cho lính gọi lại hỏi. Xiển Bột xưng tên họ và nói là học trò. Huyện Thằng liền mượn ngay việc ăn mặc ngộ nghĩnh của Xiển ứng khẩu đọc một câu, bắt phải đối:

vế ra: Áo đỏ quét cứt trâu
Xiển Bột đối ngay: Lọng xanh che đít ngựa
Huyện Thằng không ngờ bị một vố, tái mặt, dọa: "Thằng này láo! Đã thế, phải đối thêm câu này nữa, không đối được, tao sẽ cho ăn đòn".
Thấy tóc Xiển đỏ hoe vì đãi nắng lâu ngày, Huyện Thằng liền ra câu đối: Học trò là học trò con, tóc đỏ như son là con học trò
Xiển không cần nghĩ ngợi lâu, đối tức khắc: Tri huyện là tri huyện Thằng, ăn nói lằng nhằng là thằng tri huyện!
Huyện Thằng tức ứa máu, nhưng vì Xiển đối rất chỉnh, không bẻ vào đâu được, đành mắng mỏ qua loa vài câu rồi đi thẳng.
  • Đối đáp với viên quan huyện hay nịnh bợ:

Có một viên quan huyện hay nịnh hót quan trên để chóng được thăng quan tiến chức. Một trong những viên quan hắn thường bợ đợ là án sát Nguyễn Văn Tiêu, tục gọi là án Tiêu. Để nịnh quan thầy, hắn ra lệnh cho dân hàng huyện không ai được nói đến tiếng "tiêu". Hễ ai thấy người nào trái lệnh thì được phép vả vào mồm ba cái thật đau, rồi đem trình quan trị tội. Lệnh ban ra khiến Xiển Bột rất ghét quan huyện, ông mang một ít quần áo rách mướp xin vào bái quan. Quan hỏi có việc gì, Xiển thưa là nhà nghèo quá, gia tài chỉ còn một ít quần áo rách, nhờ quan cầm hộ cho lấy ít tiền về làm vốn sinh nhai. Quan nổi trận thét mắng đùng đùng, vì xưa nay có ai dám đem quần áo rách đến bán cho quan bao giờ? Đợi quan nguôi giận, Xiển mới nói: "Dạ thưa ngài, xin ngài thương kẻ học trò nghèo túng này, không gì cũng mang danh là người quân tử..."

Quan buột miệng nói: Quân tử cố cùng, quân tử cùng quân tử cố! (Người quân tử bền lòng lúc cùng khổ, quân tử lúc cùng, quân tử bền lòng – Luận ngữ)
Xiển Bột trần tình: Khổng Minh cầm túng, Khổng Minh túng Khổng Minh cầm (Khổng Minh bắt, Khổng Minh tha, khổng Minh bắt – Tam quốc diễn nghĩa: Khổng Minh bắt Mạnh Hoạch bảy lần lại tha)
Nghe câu nói khó hiểu, quan chau mày suy nghĩ một lúc mới biết lời mắng của mình với lời trần tình của Xiển đã làm thành đôi câu đối hay tuyệt. Câu của quan nói khó ở chữ cố, vì đây lấy nghĩa nôm là cầm cố và chữ cùng nghĩa nôm là cùng quẫn. Tài tình ở chữ cầm, lấy nghĩa nôm cầm cố như trên, chữ túng nghĩa nôm là túng tiền, vừa đối chữ vừa đối nôm. Quan phục tài Xiển Bột, thưởng cho một quan tiền, nhưng lại chọn cho cái thứ tiền chôn giấu dưới đất lâu ngày bị han rỉ hết cả. Xiển Bột đỡ lấy quan tiền, cầm một đồng dằn mạnh xuống đất, tiếng kêu nghe cành cạch, rồi nói: "Bẩm quan, tiền này không ớt được ạ!" Quan vô tình mắng: "Mày điên à! Tiền này mà không tiêu được ư?" Chỉ chờ có thế, Xiển Bột liền vả cho quan ba cái tát vào mồm như trời giáng. Quan hô lính bắt trói thì Xiển Bột nói: "Chắc ngài vẫn chưa quên cái lệnh kiêng tên húy quan án ngài mới ban ra. Tôi làm vậy cũng chỉ là thi hành cái lệnh ấy của ngài mà thôi!" Quan sợ bọn lính biết chuyện thì mình thêm xấu hổ, liền đuổi Xiển ra.
  • Câu đối tiễn quan phủ Thọ:

Quan phủ Thọ được thăng chức, sắp lên đường nhậm chức mới, nên mời Xiển Bột và một số quan bạn đến uống rượu chia tay. Trong bữa tiệc, quan phủ Thọ dương dương tự đắc khoe với mọi người, bước đường hoan lộ của mình luôn luôn được quan trên cất nhắc. Nhân lúc vui, Xiển xin phép được tặng quan một câu đối để ghi công đức ngài trong thời gian trị nhậm phủ nhà. Ý Xiển được mọi người tán thưởng. Xiển liền hắng giọng đọc ngay:

Vi phủ liêu, vi học chánh, vi đường quan chủ khảo, cách tự trung sơn
Đọc đến đây Xiển dừng lại, mọi người chờ Xiển đọc tiếp, nhưng Xiển nói vế thứ hai dành hôm quan lên đường đọc mới có ý nghĩa. Mấy ngày sau, gia đình quan phủ Thọ chuyển hết gia tài xuống thuyền. Khi thuyền sắp nhổ sào dời bến, Xiển mới tất tả chạy đến. Thấy Xiển, quan phủ Thọ vỗ vai, nói: "Ông còn nợ tôi vế đối đấy nhá!" Xiển đáp: "Dạ, bẩm quan, tôi xin trả".
Xiển hắng giọng đọc oang oang: Phi ôn hoàng, phi dịch lệ, phi thần khí ma vương, cô châu tống hải.
Xiển đọc xong, mặt quan tím như cục tiết gà. Quan vội vàng quát lính nhổ sào tếch thẳng.

Những câu đối liên quan đến Tuần Phủ Ninh Bình Từ Đạm (1862 - 1936)

Từ Đạm hiệu là Cúc Nhân, sinh tại xã Khê Hồi, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là xã Hà Hồi, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội). Ông là con Cử nhân Từ Tế, và là anh Phó bảng Từ Thiệp. Năm Giáp Ngọ (1894) đời vua Thành Thái, Từ Đạm thi đỗ Cử nhân, năm sau (1895) thi đỗ Tiến sĩ. Sau khi thi đỗ được bổ chức quan, lần thăng đến Tuần phủ tỉnh Ninh Bình, hàm Hiệp tá Đại học sĩ. Năm Bính Tý (1936) đời vua Bảo Đại, ông mất, thọ 74 tuổi. Sau khi Thế chiến 1914-1918 chấm dứt, Pháp thắng Đức. Triều đình Huế làm lễ mừng thọ ngũ tuần cho mẹ vua Khải Định, cùng lúc công sứ (chủ tỉnh) Ninh Bình ra lệnh mỗi xã góp ba chục (30) đồng để mua cờ Pháp (tam sắc). Đồng bạc lúc ấy lớn lắm. Tiệc hay cờ gì, dân cũng phải chịu. Bấy giờ Tuần Phủ Ninh Bình Từ Đạm có đưa một vế xuất:

vế ra: Tiệc thọ năm mươi mừng mẹ nước (Từ Đạm)
Lập tức ngày hôm sau trên báo chí đăng tải nhiều câu đối lại, trong đó có 2 câu hay nhất như sau:
vế đối 1: Túi tham nghìn vạn chết cha dân (Tản Đà)
vế đối 2: Bạc thuồn chục một chết cha dân (khuyết danh)
  • Nhân một cuộc đi chơi núi Dục Thúy nhân dịp tết Trùng Cửu, Từ Đạm có ra vế đối như sau:
vế ra: Cuối thu ngày chín lên chơi núi
Thấy vế thách đối có ý nghĩa tầm thường quá, ngay hôm sau trên báo chí đăng tin có nhiều người đối lại, nhưng nhằm đùa cợt châm biếm văn tài của y hơn là dự thi. Trong đó có 3 câu nổi bật hơn cả như sau:
vế đối 1: Đầu vú cô ba có sữa non (khuyết danh)
vế đối 2: Giờ tí canh ba xuống nhảy đầm (Tản Đà)
vế đối 3: Đầu trống canh năm, gọi thủng đồi (khuyết danh - Thủng Đồi nói lại lại là Đổi Thùng, đó là đổi thùng phân của các công nhân vệ sinh lúc sáng ở thành phố. Bấy giờ do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, ở các thành phố và thị xã cứ vào khoảng gần sáng là sở hoặc ty vệ sinh cho người đến từng nhà gọi cửa đổi thùng phân. Lấy cái ý đó mà đối lại cái sở thích của quan Tuần phủ họ Từ thì kể cũng mỉa mai)
  • Đôi câu đối mượn tiếng truyện Kiều để chửi Từ Đạm (khuyết danh):
Kiếp trước mơ màng con đĩ Đạm (đây nói về Đạm Tiên)
Đời sau gặp gỡ bố cu Từ (đây nói về Từ Hải)

Những câu đối của Nữ Sĩ Sương Nguyệt Ánh Nguyễn Thị Xuân Khuê (1864 - 1921)

  • Sương Nguyệt Ánh là con gái thứ 5 của ông Đồ Chiểu, tên thật là Nguyễn Thị Xuân Khuê hiệu là Nguyệt Ánh, sau khi goá chồng mới thêm chữ Sương, thành biệt hiệu Sương Nguyệt Ánh (tục gọi cô Năm Hạnh). Một hôm, ông Đồ Chiểu vừa ra khỏi nhà, có 2 chàng thanh niên tên là Giảng và Xương đến mượn tiếng chơi cờ và bình luận thơ văn để tán tỉnh cô. Cô Năm Hạnh liền ra một vế đối: Đằng tiểu quốc, sợ Tề hồ, sợ Sở hồ (lấy ý trong bài thơ dịch trong sách Mạnh Tử nghĩa là:Đằng quốc xưa này phận nhỏ nhen, trên chi Tề-Sở ép hai bên, quay đầu sang Sở e Tề giận, ngoảnh mặt về Tề sợ Sở ghen)
Hai chàng nhăn mặt, bối rối tìm câu đáp lại. Giảng còn ngẫm nghĩ, Xương lên tiếng: Nga đại trượng, phạt quách hí, phạt Sở hí (lấy ý trong bài thơ dịch trong Hán Thư nghĩa là: có ai đương nổi gậy dài ta, ngang dọc tung hoành đủ lối mà, đánh Quách ghê hồn quân xếp giáp, phá tan quân Sở tiếng đồn xa)
  • Cô Năm thẹn, bỏ vào nhà trong; hai chàng nhìn nhau bối rối, lỡ ở lỡ về. Lát sau, một em bé ra trao cho hai chàng một mảnh giấy, vỏn vẹn có hai câu:
Chiêu Quân nhan sắc nghe ra uổng
Tây Tử phong lưu nghĩ lại buồn
::Câu này ngụ ý rằng: nàng Chiêu Quân lẫn nàng Tây Thi là cô Xuân Khuê đã chê cả hai chàng! Hai chàng ôm hận đành ra về. Chàng Giảng trách bạn: "Lại khoe "gậy" dài..." Chàng Xương nói: "Thì "đại" đối với "tiểu" chỉnh quá đi chứ!". Giảng nói: "Ừ chỉnh! Người ta vác "gậy" đuổi về đó!"
  • Ít lâu sau, Sương Nguyệt Ánh lấy phó tổng Nguyễn Công Tính, sinh được một bé gái là Nguyễn Thị Vinh thì chồng chết. Nhiều người "ngấp nghé", trong số đó có thầy Bảy Nguyệt nộp đơn với bài thơ tứ tuyệt:
Ai về nhắn với Nguyệt Anh Cô, chẳng biết lòng cô tính thế mô! không phải vãi chùa sao đóng cửa? đây lòng gấm nghé bắc cầu ô.
Sương Nguyệt Ánh họa: Chẳng phải tiên cô cũng đạo cô, cuộc đời dâu bể biết là mô! lọng sườn dầu rách còn kêu lọng, ô bịt vàng ròng tiếng vẫn ô.
Sợ Thầy Bảy vẫn theo đuổi, cô hoạ thêm một bài dứt khoát: Phải thời cô quả chịu thời cô, chẳng biết tuồng đời tính thế mô? dòm thây bụi trần toan đóng cửa, ngọc lành chi để thẹn danh ô.
  • Nhưng nào đã hết đâu những kẻ trêu hoa ghẹo nguyệt, một ông tên Phủ Học cũng gởi bài thơ bông lơn:
Phải gần với Nguyệt lúc lưng vơi, đặng hỏi Hằng Nga những sự đời, ở hạ mây mưa còn kém sắc, vì thu non nước tố cùng nơi, hay trông Dữu Lượng xây lầu trước, hoặc đợi Thanh Liêm cất chén vời? vóc ngọc há sờn cơn gió bụi, tài tình rõ mặt khó đua bơi
Sương Nguyệt Ánh đáp lại bằng bài thơ cự tuyệt: Đường xa vời vợi dặm chơi vơi, nghĩ nỗi mây xanh ngán tự đời, biển ái nguồn ân còn lắm lúc, mây ngàn hạc nội biết đâu nơi! một dây oan trái rồi vay trả, mấy cuộc tang thương há đổi vời! chước quỷ mưu thần âu những kẻ, gặp cơn nguy hiểm khó đua bơi!
Cũng như thầy Bảy Nguyệt, cô bồi thêm cho một bài nữa: Hết lúc trăng đầy đến lúc vơi, danh hưu trong cuộc phải coi đời, vén mây bắn thỏ xa ngàn dặm, dây ước cung thiên tỏ khắp nơi, nội tri đứa vang hiềm kẻ rạng, vui lòng đứa triết thú đua vời, khi dòng Hối thực ưng ra mặt, đứng giữa trời xanh tiết chẳng bơi!
  • Có lần, một người tên Phạm Đình Chi ở Mỹ Tho và có ý muốn được thử tài, mời Sương Nguyệt Ánh ra câu đối để kết duyên văn tự. Chẳng từ chối được, bà đành ra câu đối: Đình làng tôi chẳng phạm. Thưa ông, ông Phạm Đình Chi?
Đại ý là: "tôi đã không phạm và đình làng thì ông phạm vào làm gì, bà nhắc khéo ông kia rằng tôi không động chạm đến ông tại sao ông cứ gây rắc rối cho tôi". “Phạm” là xúc phạm, đụng chạm đến cái cần tôn trọng, “đình” là đình làng, chúng cùng âm với “Phạm Đình” (họ Phạm Đình); “phạm đình chi” (phạm vào đình gì) cùng âm với Phạm Đình Chi (tên riêng). Cách cùng âm này vốn đã rất khó, với người trong cuộc càng khó hơn (muốn đối lại, trước hết, phải tìm được một cái tên gồm ba âm tiết, có từ loại theo thứ tự động từ, danh từ và đại từ (tương ứng với tên Phạm Đình Chi), kết thành một tổ hợp có nghĩa,và nếu được, là tên của người ra vế đối càng tốt). Nhưng điều hóc búa ở chỗ nó gộp đủ cả tên họ của bản thân ông Phạm Đình Chi, do vậy nên nhà yêu thơ họ Phạm nghĩ nát óc mà cũng không tìm ra câu đối lại, đành rút lui.
Hậu bối Trường Văn Nguyễn Phước Thắng xin phép được đối: Nguyệt hồ tôi đẫm sương. Thưa cô, cô Sương Nguyệt Ánh! (Ánh trăng lòng hồ đẫm sương, nghĩa bóng là hình ảnh Bà đã chiếm trọn tấm lòng Ông ta, trong khi bà đã góa chồng (Cô sương có nghĩa là người đàn bà góa) mà Ánh Nguyệt vẫn sáng trong lòng sương phụ (nghĩa cụm từ: cô sương nguyệt ánh), nên Ông mong ước kết duyên...văn tự (!), chứ nào dám mạo phạm đến Bà!)
  • Tương truyền, lúc Sương Nguyệt Ánh ở Rạch Miễu, có một ông thầy thuốc trong làng đi xa, người vợ nhớ chồng đến cậy bà làm một bài thơ gửi thăm chồng. Bà liền viết một bài thơ như sau:
vế ra: Viễn Chí lưu hành tháng Mạch Đông, trách lòng Quân Tử quá Thung Dung, tơ duyên Tục Đoạn đành xao lãng, tình nghĩa A Dao khó mặn nồng, Quán Chúng ngậm ngùi thương Phụ Tử, Nhân Trần cám cảnh Bạch Đầu Ông, dù miền Sinh Địa tìm Khương Hoạt, cũng đoái Phòng Phong phận Quýt Hồng
vế đối: Cát Cánh về đâu thân Quế Chi, thương người Trinh Nữ buổi Đương Quy, cữa nhà Thục Địa riêng gồng gánh, duyên nợ Châu Trần nỡ bỏ đi, Kinh Giới thẩn thơ tình Đỗ Trọng, Hoài San ngơ ngẩn nghĩa Linh Chi, sầu dâng Thần Khúc chưa Cam Toại, mộng mãi Thiên Môn hóa Thạch Bì (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

Những câu đối của Như Ý Bạch Sĩ Trần Cao Vân (1866 - 1916)

  • Trần Cao Vân người làng Tư Phú, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, Lúc nhỏ có tên Trần Công Thọ, đi thi lấy tên Trần Cao Đệ, qui y lấy pháp danh Như ý, biệt hiệu Hồng Việt, Chánh Minh, Bạch Sĩ, khi hoạt động chống Pháp mới đổi tên thành Trần Cao Vân. Năm 1886, ông vào tu tại chùa Cổ Lâm, rồi mở trường dạy học nhằm chiêu tập chiến hữu. Năm 1892, ông mở rộng địa bàn hoạt động vào Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Năm 1898, ông bị bắt giam, đến 1914 mới được phóng thích. Tương truyền, năm mười ba tuổi, ông theo học một trường ở ngay làng. Thầy đồ dạy học rất cần mẫn, tối nào thầy cũng dạy thêm cho các trò tập đặt đối làm bài. Một hôm nhằm giữa bữa sáng trăng các trò đều đến đông đủ. Lúc vào học, ngay ở giữa trường có một cái đèn treo. Nhân đấy thầy đồ ra câu đối như sau:
vế ra: Đèn treo giọi sáng bốn phương nhà
Trong đám học trò, Cao Vân bấy giờ là nhỏ tuổi nhất, đã lanh trí đứng lên đối lại rằng: Trăng tỏ chiếu soi muôn cụm núi
Thầy đồ khen câu đối ấy là xuất sắc; tuy lời lẽ giản dị không có gì, nhưng là câu ứng khẩu tự nhiên mà lại bao hàm một ý chí to lớn ở bên trong
  • Lại một lần nữa, Cao Vân đến nghe giảng sách ở nhà một ông cử nọ. Buổi giảng vừa xong, có người láng giềng đem biếu bà cử một mớ hành hương để làm giống. Sau khi người láng giềng về rồi bà cử bảo: "Hành này còn non mà đã tàn sớm thế này e giống không mạnh". Giọng miền Nam Trung bộ phát âm "tàn" ra "tàng", âm "không" ra "khổng". Ông cử nghe câu nói của vợ, thấy có ngụ ý vô tình mà độc đáo, bèn lấy đấy để ra đối cho học trò.
Ông đọc: Hành tàng giống Khổng Mạnh (Nghĩa là: Kẻ sĩ phải làm y như Khổng Mạnh, Mạnh Tử, đã dạy, lúc gặp thời thì nên hành động, lúc không gặp thời thì cần thoát tàng, phải ẩn náu mình đi)
Trong lúc học trò còn đang suy nghĩ, thì Trần Cao Vân đã ứng khẩu đối ngay: Cải hoá con càn khôn (Nghĩa là: Làm người đứng trong vũ trụ, xứng đáng là con của vũ trụ, con của càn khôn, thì phải được cải hoá, phải được giáo dục, rèn luyện, để ngày càng tiến bộ hơn. Câu này lại còn có nghĩa thứ hai, là giống rau cải càng để già chừng nào thì sau khi gieo vãi, con cải mọc lên càng khoẻ. (Giọng miền Nam Trung bộ, âm "càn" đọc cũng giống như "càng")
Tất cả mọi người đều chịu phục vế đối này. Không những đáp ứng đầy đủ những yêu cầu về nghệ thuật đối với vế ra, mà nó còn bao hàm một tinh thần tích cực hơn hẳn tinh thần thụ động của vế ra.
  • Khi thấy cảnh đất nước điêu tàn, tang thương do thực dân Pháp gây ra, Trần Cao Vân đã than rằng:
Ước gì gọi được ngài Hưng Đạo
Cùng lập công to thuở Bạch Đằng
  • Lúc Trần Cao Vân mới ở Côn đảo về được vài năm, nghe tiếng Vua Duy Tân có khí tiết, ông liền tìm cách liên lạc để tuyên truyền. Lúc đầu, Trần Cao Vân liên lạc với một viên đội thị vệ là Nguyễn Quang Siêu, nhờ đó mà ông biết được Vua Duy Tân thường ra chơi hồ Tĩnh Tâm. Trần Cao Vân bèn giả dạng một người câu ếch, lân la đến gần, và đọc những vần thơ cảm khái, lâm ly để khích động lòng yêu nước của Nhà Vua. Ban đầu, vua tôi đàm luận với nhau về thơ văn, rồi dần dần bàn đến thời thế, đến khả năng một cuộc khởi nghĩa chống Pháp cứu nước. Trần Cao Vân muốn nhờ Vua dò xem ý tứ của Nguyễn Hữu Bài là viên quan thượng thư có thế lực lúc bấy giờ. Muốn công việc khỏi bị bại lộ, Trần Cao Vân đọc cho vua một vế đối thác lời Vua để thử Bài.
Vế đối rằng: Ngồi trên nước khôn toan việc nước, trót buông câu sở dĩ phải lần
Vua y lời, mời Nguyễn Hữu Bài vào cung thăm hỏi, cuối cùng vua đọc vế đối mà vua nói là chưa nghĩ ra được vế thứ hai và đề nghị Bài nghĩ giúp. Thấy vua có giọng cảm khái như vậy, Bài đối lại rằng:
Ngẫm sự đời mà ngán cho đời, liều nhắm mắt tới đâu hay đó
Trần Cao Vân nghe Vua truyền lại vế đối của Nguyễn Hữu Bài, biết là không thể trông mong gì về phía đó nữa.

Nguyễn Quyền (1869 - 1941)

Nguyễn Quyền sinh tại làng Thượng Trì, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, đỗ tú tài Hán học và được bổ nhiệm làm Huấn đạo tỉnh Lạng Sơn, do đó người ta gọi ông là Huấn Quyền. Năm 1907, ông từ chức, về Hà Nội cùng với một số bạn bè lập Trường Đông Kinh nghĩa thục. Một tháng sau, ông bị mật thám Pháp bắt. Năm 1910, Nguyễn Quyền được ân xá, chúng đưa ông về “an trí” ở tỉnh Bến Tre. Cuối cùng, ông chuyển về sống ở Sa Đéc, dựa vào nguồn lợi của mấy mẫu vườn cây ăn trái và mất tại đây. Tương truyền, Nguyễn Quyền lúc bé được ông nội kèm cặp. Một hôm, ông nội ra vế đối:

"Kinh sử thị lương điền, kỳ tiền bá dẫn kỳ hậu thừa dực" (Kinh sử là ruộng báu, người trước dắt dìu người sau noi theo)
Quyền đối: "Thiên địa hữu chánh khí, bất đãi sinh tồn bất túy tử vong" (Trời đất có chánh khí, chẳng sợ sống chết chẳng chờ mất còn)

Ông nội khen, tiên đoán Quyền sẽ nên người và có thanh danh sự nghiệp

Những câu đối của Ông Tú Vị Xuyên Trần Tế Xương (1870 - 1907)

Trần Tế Xương tự là Mặc Trai, hiệu Mộng Tích, Tử Thịnh; lúc nhỏ bố mẹ đặt tên là Trần Duy Uyên, người làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định; nay thuộc phố Hàng Nâu, Nam Định). Ông đậu Tú tài năm Giáp Ngọ (1894) nên người đời thường gọi là Tú Xương. Ông cưới vợ rất sớm, bà Phạm Thị Mẫn, một cô gái quê, có với nhau 8 người con - 6 trai và 2 gái. Nhà nghèo, con đông, nghề dạy học của ông lại bấp bênh trong thời kỳ Nho học suy tàn nên mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú quán xuyến. Đang lúc còn đeo đuổi nghiệp khoa cử thì ông đột ngột qua đời, cuộc đời ngắn ngủi của ông toàn nằm trong giai đoạn bi thương của đất nước, ông dũng cảm dùng ngòi bút trào phúng giễu mình, giễu đời, tung hê mọi cái nhố nhăng của xã hội, từ dân chí quan, không chừa một ai.

  • Hồi Tú Xương còn là cậu bé Uyên, có một ông khách đến nhà thăm bố cậu. Trước sân thấy có một cụm hoa năm sắc, bèn ra vế đối:
"Đình tiền ngũ sắc hoa" (Bông năm sắc trước sân)

và bảo cậu Uyên đối. Cậu chỉ cái lồng chim gần đó, đọc:

"Lung trung bách thanh điểu" (Chim trăm tiếng trong lòng)

Khách đoán tương lai cậu Uyên sẽ như con chim trong lồng. Quả thật, như chúng ta đều biết, Tú Xương cùng thời với Nguyễn Khuyến, Dương Khuê mà hai vị này đỗ đạt làm quan đến Tổng đốc, vinh hiển suốt đời. Còn Tú Xương thì thi hỏng mãi nên phải lẩn quẩn trong nhà làm thơ tiêu khiển, "ăn lương vợ". Có người hỏi tại sao bé Uyên không đối:

"Viên ngoại bách thanh điểu" (Chim trăm tiếng ngoài vườn) nhỉ?
Viên là vườn, chữ này có xa lạ gì đâu! Chim ngoài vườn thì bốn mùa tự do bay nhảy hót ca. Theo ngụ ý thì vì cậu ta đã nhìn thấy ngay cái lồng chim treo gần đó bên trong có con chim hằng ngày cất trăm tiếng hót mà cậu rất thích. Chim trong lồng ăn ít và mất tự do nên hót nhiều và thống thiết, chim ngoài vườn ăn no và tự do nên ít hót mà chỉ thích đua bay.
  • Tú Xương làm câu đối cho một người cháu khóc ông:
Ông đi đẩu đi đâu, đến sáng mai, ngày tết ngày tung, buồn rỉ buồn rầu không yếm đỏ
Cha khóc lăn khóc lóc, qua bữa nọ, mất cướp, mất bóc, khổ sao khổ vậy, thực hồi đen
  • Câu đối viết tặng cô hàng cau:
Thiếp vì lòng trắng không thay hạt
Khách muốn môi son phải mượn trầu
  • Những câu đối Tết:
極人間之品價,風月情懷 Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài (Cái phẩm giá cao nhất trên đời là tình hoài phong nguyệt, (ở đây chỉ tình hoài vọng về gió mát trăng thanh một cách thanh cao, chứ không phải chuyện "gió trăng" tầm thường của nhân thế!).
最世上之風流,江湖氣骨 Tối thế thượng chi phong lưu, giang hồ khí cốt (Cái phong lưu nhất ở trên đời nầy là cái khí cốt giang hồ! (chỉ làm trai chí tại 4 phương, phải vùng vẫy giang hồ chứ không phải tối ngày ngồi bó gối ở nhà với... vợ!)
Đây là câu đối phú được đặt theo lối câu cách cú, thể tứ lục, loại tả chí. Câu đối Tết mà nội dung của nó không nói chuyện ngày tết, cũng không thể hiện niềm mong ước của mình, của vợ con gia đình trong năm mới, mà lại nói chuyện cá nhân của người viết ra nó. Đó là cái phẩm giá cực tốt hơn người, với lòng mến gió trăng; là tính phong lưu nhất trần đời, với khí cốt giang hồ. Câu đối này được Tú Xương diễn thành bài vè như sau: Ngày tết dán câu đối: Nhập thế cục bất khả vô văn tự (vào cuộc đời không thể không có chữ nghĩa), chẳng hay ho cũng nghĩ một vài bài, huống chi mình đã đỗ Tú tài, ngày tết đến cũng phải một vài câu đối. Đối rằng: "Cực nhân gian chi phẩm giá, phong nguyệt tình hoài"..."Tối thế thương chi phong lưu, giang hồ khí cốt"...Viết vào giấy dán ngay lên cột, hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay. Rằng hay thì thực là hay, chẳng hay sao lại đỗ ngay Tú tài, xưa nay em vẫn chịu ngài!
Xuân về chớ để Xuân đi, thương kẻ quạt nồng cùng ấp lạnh
Năm mới khác gì năm cũ, vạn người bán muối với mua vôi
Theo Tú Xương thì năm mới chẳng khác gì năm cũ, người ta vẫn làm ngần ấy việc, ngần ấy thứ, cho dù có muốn níu kéo một cái gì tốt, một cái gì hay lại không cho nó đi để tránh những cái xấu, những cái không hay, chẳng hạn giữ Xuân ở lại mãi mãi để tránh khỏi cảnh hè nóng và đông lạnh, cũng không được.
Thiên hạ xác rồi còn đốt pháo
Nhân tình bạc thế lại bôi vôi
Ý Tú Xương muốn nói là người ta đã nghèo xác nghèo xơ, nghèo đến không có tiền mua thực phẩm để ăn cho no, mua quần áo để mặc cho ấm, thế mà lại còn phí tiền đi mua pháo về đốt, pháo đốt rồi thì cũng tan tành chứ có mang lại cái ích gì cho người đâu. Cũng vậy, người có cảnh sống bạc phếch, nghĩa là sống gieo neo khốn khó, mà lại còn cuối năm rắc vôi bột trước nhà thành hình cánh cung, nỏ, giáo, v.v., để mà trừ ma quỉ không cho tới quấy nhiễu, như vậy là làm việc vô ích, vì đã kiệt quệ lắm rồi thì còn có gì để hấp dẫn cho ma quỉ lại.
Vui Xuân, vui cả một trời, có lẽ đâu đâu đâu cũng vậy
Học sách, học cho hết sách, hay là thế thế thế mà thôi
Tú Xương còn cho rằng ở đâu thì người ta cũng vui Xuân vui cả một trời, giống như học sách, có học hết tất cả các sách trên đời nếu thấy hay thì người ở đâu cũng thấy hay vậy thôi.
Nực cười thay: nêu không, pháo không, vôi bột cũng không, mà Tết
Thôi cũng được: rượu có, nem có, bánh chưng cũng có, thừa Xuân
Tú Xương nói rằng thực là nực cười, dù không có cây nêu, không có pháo và không có cả vôi bột thì Tết vẫn là Tết, chứ đâu bắt buộc phải có những thứ này thì Tết mới thực là Tết. Chỉ cần có rượu, có nem, có bánh chưng, nghĩa là có đồ ăn thức uống, cũng đủ là Xuân rồi, đâu có cần những thứ vô ích và vô dụng như là cây nêu, tràng pháo, hay vôi bột, v.v.
Đào tiên đã chín hay chưa, bác mẹ em già, chắp cánh bay lên xin một quả
Đối Tết không hay cũng dán, bà con ai biết, dừng chân đứng lại ngắm vài câu
Không dưng Xuân đến chi nhà tớ
Có lẽ nào trời đóng cửa ai
Đì đẹt, ngoài sân, tràng pháo chuột
Lập loè trên vách, bức tranh gà
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh
Ba vạn sáu ngàn ngày, góp lại chốc đà trăm bận Tết
Một năm muời hai tháng, ước chi đủ cả bốn mùa Xuân
  • Thời xưa, các cụ cũng có lúc cao hứng, hay lui tới “xóm chị em” thường được gọi lá “Quán sở lầu Tần), ở đây có vài cô có chữ nghĩa nhưng vì hoàn cảnh đưa đẩy. Tương truyền, Tú Xương một buổi kia cũng xuống xóm chơi, sáng ra về tìm ô không thấy, tuy bực mình nhưng là bậc nho nhã không giám nói nặng lời, nên tức sự mấy câu: Hôm qua anh đến chơi đây, giấy chân anh dận ô tay anh cầm. Rạng ngày vừa trống canh năm, anh dậy em hãy còn nằm trơ trơ. Hỏi ô ô mất bao giờ, hỏi em em cứ ậm ờ không thưa. Nữa rồi rầy nắng mai mưa, lấy gì đi sớm về trưa với tình?
Lập tức 1 cô ứng khẩu đáp liền: Chiếc ô là của mấy mươi, ngắn ngày xin chớ dài lời làm chi ! Nắng thì nắng cũng có khi, mưa thì mưa cũng có kỳ mà thôi. Ví dù anh có thương tôi, thì xin anh cứ đội trời anh lên…Hay là anh quyết bắt đền, thì đây có sẵn cái đền…bằng ba!
  • Khoảng đầu thế kỷ 20, khi người Pháp đặt cơ quan hành chính ở Bắc Việt, sự cộng tác của nhân dân còn rụt rè. Nếu không phản đối ra mặt, ít nhân cũng có sự phản đối trong trong tinh thần vì ai cũng còn giữ điều tự trọng. chỉ riêng một bọn vô học vì danh lợi mà nhảy ra, mà được cân nhắc lên chức nọ chức kia, vội cho ngay là cờ đã đến tay, lên mặt lên mũi hống hách với nhân dân. Trong đám này, ở tỉnh Nam Định, có ông Pháo được sung vào chức phòng thành tức cũng như cảnh sát trưởng. Hàng phố gọi tắt là ông Thành Pháo, hai chữ này đã khiến cho Tú Xương liên tưởng đến lối chơ bài tam cúc; khi mỗi nhà còn hai quân trên tay thi tu quân xe trở xuống, ai có được đôi nào tức là thành, nghĩa là thành đôi, và ngả ra ăn kết, nếu không có đôi hơn đè trên. Ông bèn viết gửi Thành Pháo mấy câu như sau:
vế ra: Tượng tượng xe xe xé lẻ rồi, sĩ đen sĩ đỏ chẳng thành đôi, đố ai biết ngỏ đôi gì kết, mã cũng chui mà tốt cũng chui…
Tuy là nói về tam cúc, sự thực là nói về bức tranh thời cục: Trong trật tự tam cúc (tướng – sĩ – tượng – xe – pháo – mà – tốt), sĩ, tượng, xe phần bị xé lẻ vì khủng bố, phần không liên kết được với nhau (chẳng thành đôi) vậy nếu mỗi người còn hai quân trên tay và nếu nhà cái lại gọi đôi, thì có còn đôi gì khiến cho mã tốt phải chui hết? Tất nhiên người nào Thành Pháo là đôi hạng xoàng bất quá đứng trên hàng mã và tốt, được ngỏ ra ăn hết: rõ thật tiểu nhân đắc chí! Ông Thành Pháo bị diễu tức lắm, nghĩ mãi không ra lời đối lại nên ghét cay ghét đắng Tú Xương.
vế đối: Già già đầm đầm ghép chẵn rồi, bồi cơ bồi bích đã nên đôi, quân gì dấu kín im nằm đáy, mười chẳng chui thì chín chẳng chui (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nói về tâm trạng dự đoán khả năng đạt mức Suốt (5 quân liên tục gồm Mười (10), Bồi (J), Đầm (Q), Già (K) và Xì (A) của người chơi xì tố (xì phé)
  • Có một bà buôn gạo ở ven sông, làm vợ kế một nhà nho. Nhà nho này có người vợ cả đã mất từ mấy năm trước, nay chẳng may ông nhà nho cũng theo bà vợ cả về dưới suối vàng. Bà vợ kế làm đám cho chồng rất linh đình. Tương truyền, nhà thơ Tú Xương cũng là chỗ quen biết với nhà nho nên có đến viếng. Nhân vậy, tang chủ bèn dọn rượu thịt mời và đem bút giấy ra nhờ làm câu đối khóc chồng. Nhà thơ gắp nhắm rồi đề ngay một vế đối rằng:
Con cò lặn lội bờ sông rủ rỉ ru con nhà hóa thực.

Rồi ngồi uống rượu tràn, không để ý gì đến vế đối nữa. Mọi người xung quanh thấy vậy đều thì thào “ Câu đối gì mà vớ vẩn thế?”. Nhà thơ Tú Xương gác ngoài tai uống thêm dăm ba chén rượu nữa, mới ung dung viết nốt vế kia như sau:

Gối phượng ngậm ngùi dưới suối, bâng khuâng duyên chỉ lại từ đây.
Vế trên thật đúng là cảnh bà buôn gạo khóc chồng. Còn vế dưới, nghe vừa buồn thương mà lại vừa có giọng trào lộng kín đáo thật thú vị. Mọi người bấy giờ đều phục và khen ngợi nhà thơ đủ điều.
  • Câu đối phúng điếu ông Hàn Chén:
“Vị thủy đầu can nhật
Kỳ sơn nhập mộng hồn”

Dịch nghĩa:

Buông cần bên sông Vị
Câu chức tận non Kỳ.
đôi câu đối nói về một người là Lã Vọng, tức Khương Thượng, còn gọi là Khương Tử Nha, Thái công vọng của vua Văn Vương nhà Chu. Xưa nay, nói đến các cổ vật có tranh và cảnh đang xét, người ta chỉ nói chén, đĩa, v.v..., Lã Vọng thả câu, chẳng ai nói chén, dĩa, v.v…, Lã Vọng thả câu. Kỳ Sơn là đất gốc của Hậu Tắc mà con cháu sau này sẽ dựng nên cơ nghiệp nhà Chu. Chu Văn Vương - đây là tên thụy do con là Vũ Vương tôn xưng - khi hãy còn là Cơ Xương và nhận tước Tây Bá do vua Trụ của nhà Ân phong cho thì đã là chủ của một nước nhỏ mà lãnh thổ nằm ở vùng chân núi Kỳ Sơn, thuộc huyện Kỳ Sơn , tỉnh Thiểm Tây. Bấy giờ Trụ càng ngày càng bạo ngược và nhà Ân đang buổi mạt vận. Cơ Xương đã khôn ngoan và khéo léo chỉnh đốn chính trị ở trong nước. Khi gặp được quân sư Lã Vọng thì tiền đồ nhà Chu như đã mở ra trước mắt: nhiều nước chư hầu khác đã theo về và trong thiên hạ, ba phần thì Chu đã nắm hết hai. Sau khi Văn Vương qua đời, con là Vũ Vương tiếp tục tôn Lã Vọng làm thầy, huy động các nước chư hầu Đông chinh để tiêu diệt nhà Ân, đánh bại Trụ Vương ở Mục Dã . Trụ phải tự thiêu mà chết. Vũ Vương lấy được thiên hạ, lên ngôi hoàng đế, đóng đô ở đất Hạo, tôn thụy hiệu cho cha là Văn Vương, ở ngôi 19 năm và dựng lên cơ nghiệp nhà Chu kéo dài đến hơn 800 năm. Nói về Lã Vọng, sau khi thất sủng vì phản đối việc xây dựng Lộc Đài, ông bèn bỏ nhà Ân - ông vốn làm quan cho nhà này - mà đi ở ẩn bên bờ sông Vị Thủy. Ngày nào ông cũng ra bến sông để buông câu. Nhưng ông câu mà lại dùng lưỡi câu thẳng và không dùng mồi. Có người hỏi thì ông trả lời rằng mình câu đây là câu thời, câu vận, câu chức, câu tước, chứ không câu cá. Thời vận và chức tước này tất nhiên không thể đến từ dòng họ đang suy tàn của nhà Ân mà từ một thế lực mới đang lên và đang chuẩn bị tiêu diệt dòng họ kia. Bởi vậy mà tuy người ông thì ngồi câu cá bên bờ sông Vị nhưng lòng ông thì lại hướng về miền đất tổ của thế lực mới là đất Kỳ Sơn. “Vị Thủy đầu can nhật - Kỳ Sơn nhập mộng thần” chính là như thế. Toàn câu đối có nghĩa là: “Những ngày mà Lã Vọng ngồi buông câu bên bờ sông Vị chính là những lúc mà ông đang mơ về núi Kỳ, nơi phát tích của dòng họ nhà Chu”.

Ghi nhận về chữ thần và đặc điểm ngữ pháp của đôi câu đối:

1. Nguyên đó là chữ thìn . Thìn là âm xưa, còn âm nay là thần: “thì dần thiết, âm thần” (Từ nguyên, Từ hải). Ngoài việc dùng để ghi chi thứ năm của mười hai địa chi, chữ đó còn có nghĩa là “giờ”, “ngày”, “thời”, “khi”, “lúc” (Dictionnaire classique de la langue chinoise của F.S. Couvreur: “heure, jour, époque, moment”). Chính chữ này mới phối hợp chặt chẽ với chữ nhật của câu trên và đối lại với nó một cách thật chỉnh (nhật và thần đều thuộc phạm trù thời gian) để diễn đạt cái hàm nghĩa thâm thúy của cả đôi câu đối, còn chữ “hồn” chỉ là một chữ lạc lõng. Chữ về sau đã được một số nghệ nhân viết thành vì nói chung hai chữ có thể thay thế cho nhau trong một số trường hợp.

2. Mỗi câu đối ở đây tự nó đã là một cấu trúc đề thuyết hoàn chỉnh. Đề: “Vị Thủy”, đối với “Kỳ Sơn”. Thuyết: “đầu can nhật”, đối với “nhập mộng thần”. Nhưng đây không phải là hai cấu trúc đề thuyết độc lập với nhau về mặt cú pháp mà cấu trúc trước (câu trên) bản thân nó lại là phần đề liên quan chặt chẽ đến phần thuyết là cấu trúc sau (câu dưới).

  • Câu đối Tập cổ:
“Vấn chinh phu dĩ tiền lộ
Vọng mỹ nhân hề nhất phương”
Câu đầu lấy trong bài ‘Quy khứ lai từ’ của Đào Tiềm, câu sau lấy trong ‘Tiền Xích Bích phú’. Như vậy chữ mỹ nhân lại có nghĩa khác, như Phan Kế Bính diễn nôm, vì ngữ cảnh này được nhắc bởi chữ ‘chinh phu’, nên phải có nghĩa là ‘quân tử’ hay một đấng anh hùng nào đó xuất hiện trong bối cảnh đang chống Pháp. Như vậy thì chữ mỹ nhân tùy vào ngữ cảnh. Bài phú cho thấy người viết trong tâm trạng an bình tự tại, an lạc bình dị. Không cầu mong nơi nào khác, niết bàn là hiện tại nơi đây. Đó là niết bàn của kinh Hoa Nghiêm, không lìa bỏ thế gian, ở trong thế gian, mà như không ở trong thế gian, chỉ cần không để cho bụi trần đóng bám. Về mặt chữ, nếu câu của Đào Tiềm chỉ sáu chữ, thì Tú Xương đã bỏ chữ “hề” trong câu của Lý Bạch; nếu câu Lý Bạch vẫn giữ nguyên bảy chữ thì có lẽ câu Đào Tiềm mất chữ “hề” ở giữa. Trần Tế Xương thật happy có hai câu của hai người từ hai cõi mà đối nhau chan chát. Vọng / tiển; chinh phu / mỹ nhân ..... Hai vế đối là hai sự kiện song song trong sự diễn tả văn chương. Hai việc nầy có thể nằm trong một không gian hạn hẹp hay một không gian nội tâm vô cùng lớn lao. Nhỏ hẹp như gõ sừng mục tử gác mái ngư ông, rộng lớn như hai câu ghép bởi Trần Tế Xương. Hai sự thể tuy không tách nhau nhưng không thể đồng hóa hay chuyển thể cho nhau. Mỹ nhân không thể là chinh phu. Trái lại sự hiện diện của mỹ nữ cần thiết để nói sự phân ly. Không thể đồng hóa hay chuyển thể giữa khách và chim trong hai câu: ngàn mai gió cuống chim bay mỏi, dặm liễu sương sa khách bước dồn. Cho nên có điều ngạc nhiên khi nói Phan Kế Bính từ hai câu đối ghép mà dịch câu văn trong Tiền Xích Bich Phú. Vả lại, nếu dịch giả bị ảnh huởng của thời đại thì ông đã dùng chữ chiến sĩ thay cho quân tử; đã thay nguyên gốc thì sá chi không dùng cho được ý. Bài phú không mang tính chất đấu tranh trái lại lấy nhàn tản làm gốc hành động. Mâm bát ngổn ngang, nằm khè ngủ say chẳng biết trời đã hừng sáng.

Những câu đối của Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm (1875 - 1929)

Nguyễn Văn Cẩm quê ở làng Ngọc Đình, huyện Duyên Hà (nay là xã Văn Cẩm, Hưng Hà tỉnh Thái Bình. Vì ông có tiếng thông minh từ bé, và tương truyền chính vua Tự Đức cũng khen ngợi ông là Kỳ Đồng (đứa trẻ thông minh kỳ lạ), nên tục gọi ông là Kỳ Đồng. Ông 7 tuổi đã lầu thông kinh sử cùng các thể văn chương thi phú. Do đó, người ta cho ông là Trạng, ứng vào hai câu sấm truyền: "Bao giờ Nhân Lý có đình, Trạm Chay có chợ, Ngọc Đình có Trạng sinh".

  • Câu đối lúc lên 10 tuổi:

Lúc Kỳ Đồng mới trên mười tuổi, một giám mục thấy có vẻ thông minh, khen ngợi và ngỏ ý đưa cậu đi theo đạo Thiên chúa, cậu bé không ưng.

Giám mục lắc đầu thốt ra: Một thằng ba chỏm tóc!

Kỳ Đồng ứng khẩu đáp lại: Ba cụ chín chòm râu!

  • Đối đáp với tri phủ Tiên Hưng:

Quan huấn đạo phủ Tiên Hưng lúc ấy là cụ cử Bùi Tam Đồng, một hôm mời cha con ông lại chơi. Gặp trời mưa, thân phụ ông phải cõng con vào dinh, quan Huấn mỉm cười nói: "Trạng gì mà bắt cha cõng thế?" Ông đáp: "Đó không phải cõng mà là chữ "cửu" là lâu vậy, tức nghĩa quan lớn chờ lâu đó. Quan Huấn hỏi: "Sao gọi là chữ "cửu"? Kỳ Đồng đáp: "Chữ "cửu" (久)không phải do chữ "nhân" con (tức nhân nhỏ) ở trên chữ "nhân" bố (tức nhân lớn) là gì?"

Viên tri phủ Tiên Hưng ra câu đối thách: Đứng giữa đình Trung Lập!
Kỳ Đồng đối lại: Dấy trước phủ Tiên Hưng!
“Đứng giữa”, “dấy trước” (TV), cùng nghĩa với “trung lập”, “tiên hưng” (HV –vốn tách theo cách cùng âm với hai địa danh Trung Lập, Tiên Hưng, thuộc tỉnh Thái Bình). Trung lập là đứng giữa, Tiên Hưng lại là dấy trước. Câu đối rất chỉnh mà làm cho viên tri phủ phải để ý, ông thầm nghĩ: "Dấy trước! Cậu bé đã có tư tưởng "làm loạn" chăng?"
  • Đối đáp với quan Huấn Đạo:

Quan Huấn ra:

Tam tài thiên địa nhân (Tam tài là trời, đất và người)

Cẩm lại đối:

Tứ nhi: Phong, Nhã, Tụng (Tứ nhi là bốn thể thơ: thể phong, thể nhã (gồm 2 tiểu nhã và đại nhã, nhưng chỉ kể là một) và thể tụng)
quan Huấn Đạo lại ra: 孔門傳道諸賢曾子思子孟子 Khổng môn truyền đạo chư hiền, Tăng tử, Tử tư, Mạnh tử (Cảu Khổng truyền đạo có 3 nhân vật nổi bật là Tăng Tử, Tử Tư và Mạnh Tử)
Kỳ Đồng đối: 周室開基列聖太王王貴文王 Chu thất khai cơ liệt thánh, Thái vương, Vương quý, Văn vương (nhà Chu khai quốc khởi đầu từ ba vị: Thái Vương, Vương Quý và Văn Vương)
Tăng Tử là học trò xuất sắc thứ 2 của Khổng Tử, sau Nhan Hồi. Tử Tư là cháu nội của Khổng Tử và là thầy của Mạnh Tử. Ba người này đã làm cho Nho Giáo phát triển tới mức cực thịnh, quan điểm của họ cùng với Khổng Tử chính là nền táng của Nho giáo sau này. Thái Vương là Cổ Công Đản Phủ, người quyết định việc dời đô từ đất Bân sang đất Chu đựơc coi là vua đầu tiên xây dựng nên cơ nghiệp nhà Chu. Vương Quý là Quý Lịch, con của Thái Vương. Văn Vương là Tây Bá Hầu Cơ Xương, con của Quý Lịch và cha của Chu Vũ Vương. Đây là những vị vua khai quốc, làm nền móng cho Chu Vũ Vương phạt Trụ khai quốc sau này. Câu ra, khó và lắt léo; dùng ba chữ Tử, mà trong tên Tử tư chữ Tử ở trên. Còn tên Nhan tử, Mạnh tử hai chữ Tử đều ở dưới. Ông đối được hay, là có ba chữ Vương, Vương quý chữ Vương ở trên. Còn Thái vương, Văn vương, chữ Vương ở dưới.

Trong lúc quan Huấn cùng cha con Nguyễn Văn Cẩm đang đàm đạo, có cụ Thủ khoa Nguyễn Đình Khanh tới, gặp Cẩm, cụ Thủ Khanh cũng ra một câu đối rất khó:

Tùng mộc do lai thập bát công (Thập bát 十 八 là chữ mộc 木 , ghép với chữ công 公 thành chữ tùng 松)

Cẩm ứng khẩu đối lại:

Quý hòa tự hữu bát thiên tử (Bát thiên 八 千 là chữ Hòa 禾 để lên chữ tử 子 là chữ quý 季)

Năm Tự Đức thứ 35, ông mới 8 tuối (tuổi ta), tỉnh Hưng Yên có kỳ thi chọn các sĩ tử sang năm dự trường thi hương Nam Định, cha con ông đều lên tỉnh dự. Các quan trong Hội đồng khảo hạch thấy Cẩm còn nhỏ quá, lấy làm lạ, cho gọi đến thử tài. Một vị quan ra đối:

Bát thế nhân xưng kỳ, kỳ phùng hữu nhật (Tám tuổi người đều cho là lạ, có ngày gặp lạ).

Cẩm đối ngay: - Thất niên nhân dĩ sĩ, sĩ chính cập thời (Bẩy tuổi người đã làm quan, làm quan đúng lúc).

Một vị quan khác ra:

Mã xa theo tướng, tốt làm sao? (chữ tốt có 2 nghĩa)

Cẩm đối lại:

Nam Bắc sang Tây, đông biết mấy! (chữ đông cũng có 2 nghĩa)

Một vị quan nữa ra:

Thần đồng thất thế thần đồng tử (Thần đồng 7 tuổi thần đồng chết).

Cẩm đối ngay:

Nguyễn Cẩm thập tuế Nguyễn Cẩm đăng (Nguyễn Cẩm 10 tuổi, Nguyễn Cẩm sẽ vượt lên tất cả).

  • Đối đáp với quan Đốc Học:
Quan Đốc Học ra: 玉亭亭上人如玉 Ngọc đình đình thượng nhân như ngọc (Người đứng trên đình cao, người là ngọc)
Kỳ Đồng đối: 金牓牓中士似金 Kim bảng bảng trung sĩ tự kim (Sĩ ở trong bảng vàng, sĩ như vàng)
Ngọc Đình, Kim Bảng là tên hai làng ở gần Hà Nội

Những giai thoại liên quan đến Hiệp Lý LÊ TRÍ HIỂN (1879 - 1943)

Năm 1940, Hiệp Lý LÊ TRÍ HIỂN vào Nam dự Đại Hội Long Vân thứ 12 tại Thánh Tịnh Minh Kiến Đài. Hôm đó có đông đảo các chức sắc của các Chi Phái Đạo Miền Nam. Sau ngày Đại Hội lại tổ chức đêm văn nghệ tại Văn Minh Đài do Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt chủ xướng: Mở đầu Cụ Lịch ra một vế đối:

"Nhật Nguyệt hiệp minh, minh đức, minh tâm, minh chánh đạo"

và nhờ phái đoàn Trung Kỳ đối giúp, Cả Hội Trường im lặng chờ đợi, Ngài Hiển ung dung lên tiếng xin đối:

"Thiên nhơn thành Phật, Phật thân, Phật quả, Phật nhơn duyên"

Mọi người vỗ tay tán thưởng nhiệt liệt vì vế đối quá tài tìn. Chính cụ Lịch cũng ngạc nhiên và thán phục tài học của Ngài. Cụ Lịch phải khen là kỳ tài và cả Hội Trường thêm một lần vỗ tay tán thưởng. Đang phấn khởi, lại được động viên, Ngài tiếp tục Trổ tài, xin được góp thêm cho buổi văn nghệ một vế đối lái:

"Trân tướng tùng tiên trương tấn lý"(Trân Tướng là Trương Tấn, câu đối nói về tích ông Trương Lương dâng dép cho Huỳnh Thạch Công ngày xưa)

Cụ Lịch nhìn mọi người tỏ ý khâm phục biệt tài của người ra Thai và động viên đối lại. Bấy giờ Ngài Huỳnh Ngọc Trác lên tiếng xin phép đối, nhưng không được sát:

"Thánh Quân xuất thế thuấn canh điền"(Thánh quân trái lại là Thuấn canh, câu đối nói về tích ông Vua Thuấn cày ruộng sau thành bậc vua Thánh)

Mọi người vỗ tay hoan nghinh, xong quay sang yêu cầu Ngài tiếp tục cuộc vui. Ngài lại lên tiếng đối lại vế đối trên làm mọi người cười vui vẻ:

"Tịnh Cung ngũ dạ tụng kinh thanh"(Tịnh cung trái lại là Tụng Kinh)

Riêng cụ Lịch đã phát biểu bày tỏ sự khâm phục thật sự của mình trước một Hướng Đạo thâm nho của Phái Đoàn Hội Thánh Trung Kỳ mà từ lâu Cụ hơi xem thường.

Những câu đối của Thảo Am Nguyễn Khoa Vi (1881 - 1968)

Nguyễn Khoa Vy biệt hiệu Thảo Am, quê quán ở làng An Cựu, sinh ở xã Phú Thượng, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế. Trong cuộc vận động Cách mạng Tháng Tám 1945, ông tham gia khởi nghĩa ở Huế và đã sáng tác nhiều thơ ca động viên, cổ động đồng bào tích cực hưởng ứng phong trào Việt Minh chống Pháp đuổi Nhật. Đầu năm 1947 quân Pháp chiếm lại Huế, ngôi nhà của Thảo Am bị quân Pháp chiếm làm đồn. Ông cùng với nhà thơ Thúc Giạ và bạn bè lập ra Hương Bình thi xã, Ưng Bình Thúc Giạ là chủ soái, còn ông là phó soái.

  • Trong một cuộc thi hò giã gạo do thi xã tổ chức có nhiều vị tai to mặt lớn hay sính thơ đến dự, Nguyễn Khoa Vi đã gà cho phe nữ: Tiếng đồn anh hay chữ, Xin hỏi thử cho thông, Thánh hiền xưa đặt chữ công, Tại sao lại có cái quéo trong lòng làm chi?
Và khi bên nam không đối được, Nguyễn Khoa Vi lại gà cho họ: Người xưa đặt chữ công, Trong lòng có cái quéo, Đó là nơi lắt léo khôn khéo của thánh hiền. Em ơi em hãy chịu phiền, Phải cho có nhiều kinh nghiệm em hiểu liền chữ công.
  • Sinh thời, Thảo Am Nguyễn Khoa Vi rất ghét bọn làm mật thám cho Tây. Ở gần nhà, ông có một tên tay sai đắc lực của Xô-nhi (Sogny), chánh mật thám Trung Kỳ, cũng làm một cái am trong vườn để thờ Phật. Ông liền ra một câu, thách các nhà thơ trong thi xã đối lại, tuy nhiên không ai đối lại được vì nó quá khó:
Vế ra: Thâm trần tục thục trần tâm, kinh thỉ sám nguyện từ thán sĩ (Kinh thỉ sám là kinh từ bi thủy sám của đạo Phật)
Vế đối: Phạm cõi tiền, phiền cõi tạm bài nhân duyên cầu tụng nhuyên dân (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(Bài nhân duyên là kinh thập nhị nhân duyên trong đạo Phật)

Bây giờ có ai lên núi Ngự Bình đi sâu thêm vài trăm thước vào khu Nội táng, nghĩa địa của gia đình Nguyễn Khoa, sẽ thấy một ngôi mộ bình thường như hàng trăm ngôi mộ khác nhưng có một chút khác thường đó là hai câu đối:

Chẳng có danh thơm mà để lại.
Làm chi xác thối phải chôn đi.

Đó chính là mộ của cụ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi

  • Năm 1946, sau khi nghe tin quân viễn chinh Pháp đã đánh chiếm đồn Mang Cá, Thảo Am Nguyễn Khoa Vi có làm đôi câu đối sau:
Lũ Quỷ nay lại về Lũy Cũ
Thầy Tu mô Phật cũng Thù Tây
  • Thảo Am có một bài thơ nói lái phản ánh chuyện quan hệ mờ ám giữa sư và vãi như sau:
vế ra: Cầu Đạo cần chi phải Cạo Đầu, Dầu Lai dưa muối cũng Dài Lâu, Na Bường bát tới Nương Bà vãi, Dầu Sãi không tu cũng Giải Sầu
vế đối: Dân Chài sao cứ mộng Dài Chân, Ân Thiên sóng gió được Yên Thân, Làng Vua bão nổi Lùa Quan quỷ, Thần Tiên ban phúc gái Thiền Tân (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • Một lần, ban đêm đi qua đò Đập Đá, Thảo Am Nguyễn Khoa Vi tức cảnh viết ra bài thơ nói lái sau:
vế ra: Đập Cũ đò đưa Đủ Cặp đời, Trời Cho sức khỏe lắm Trò Chơi, Có Đôi khi rảnh lên Côi Đó, Cười Ngả nghiêng cho mệt Cả Người
vế đối:Đường Xưa nắng đổ Đưa Sườn xơi, Người Ban tình nghĩa chớ Bàn Ngơi, Sai Lẹm có buồn đừng Xem Lại, Đời Lả lơi say thế Đã Lời (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • Thảo Am Nguyễn Khoa Vi còn có 4 bài thơ nói lái nữa như sau:

1 - Bài thứ nhất:

vế ra: Làng Vọng còn hơn cái Lọng Vàng, Mang Sơ tấm áo chớ Mơ Sang, Nhắn Bạn lên non đừng Bắn Nhạn, Hang Lỗ tìm vào bắt Hổ Lang (Thảo Am)
vế đối: Xóm Kề sao thua chiếc Xế Còm, Dòm Chi tiền gạo mấy Dì Chôm, Bán Kẹo đổi đời nên Kéo Bạn, Bợm Bãi làm chi hóa Bãi Bờm (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

2 - Bài thứ hai:

vế ra: Đời Chua bậu cứ thử Đùa Chơi, Chơi Ngổ xong rồi kiếm Chỗ Ngơi, Bến Đậu thênh thang mời Bậu Đến, Ngồi Đây say tít, ngất Ngây Đời (Thảo Am)
vế đối: Phàm Lu ta phải gắng Phu Làm, Lãm Đao sao bằng học Lão Đam, Tổ Ca bát ngát thiền Ta Cổ, Làm Pho sống khỏe lắng Lo Phàm (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Lão Đam = Lão Tử)

3 - Bài thứ ba:

vế ra: Dòng Châu lai láng đĩa Dầu Chong, Công Khó đợi chờ biết Có Không, Nhắc Bạn thêm thương người Nhạn Bắc, Trông Đời ngao ngán giữ Trời Đông (Thảo Am)
vế đối:Rày Bông rạng rỡ hội Rồng Bay, Giấy Mo đền đáp thấu Gió Mây, Thương Vợ càng mong đời Thơ Vượng, Vầy Tương ngan ngát cà Vườn Tây (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Lấy ý ca dao: Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương)
Bài thơ nói lái thứ 3 của Thảo Am còn có một dị bản khác như sauNhắc Bạn những thương tình Nhạn Bắc, Trông Đời chỉ thấy cảnh Trời Đông, Đêm Thâu tiếng dế Đâu Thêm mãi, Công Khó chờ nhau biết Có Không!

4 - Bài thứ tư:

vế ra: Phấn Lau chưa dứt nghe Pháo Lân, Tân Niên rót rượu mời Tiên Nâng, cô Dâu Hứa đãi ăn Dưa Hấu, chú rể Tinh Thần tựa Tình Thân, có ông Phó Đảo châm Pháo Đỏ, chú lính Xuân Qua muốn Xa Quân, Mang Vài chậu kiểng Mai Vàng rộ, Xin Tuần nghỉ phép thoả Tình Xuân
vế đối: Dưa Thào rượu mứt đón Giao Thừa, Đưa Chả nhấm mồi Tết Đã Chưa, đường Phố Có đông ông Phó Cố, ngõ quê Chưa Thẳng bà Chẳng Thưa, hoa mai Nở Đẹp đem Nẹp Để, thược dược Mướt Ưa chớm Ướt Mưa, Liếm Tý rượu ngàn Lý Tím đẹp, Xưa Truân chuyên lắm nhớ Xuân Trưa (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • Thảo Am còn có bài thơ thất ngôn tứ tuyệt chơi chữ toàn phụ âm CH mang tên: "Trách người đa tình" như sau: Chạy chửa chay chân chẳng chịu chừa, chín chiều chua chát chán chê chưa, cha chài chú chóp chơi chung chạ, chẳng chính chuyên chi chớ chực chờ
vế đối: Mênh mông muôn mẫu một màu mưa, mỏi mắt miên man mãi mịt mờ, mộng mị mỏi mòn mai một một, mỹ miều may mắn mấy mà mơ (Tú Mỡ)
  • Thảo Am còn có 1 vế xuất khá độc đáo được viết vào dịp tết Đinh Hợi (1947) như sau:
vế ra: Tết tới túng tiền tiêu, tính toán toan tìm tay tử tế
vế đối: Mùa mới mạnh mã mề, mon men muốn mời mặt mạo muội (Thiền Long)
Sự hiểm hóc của câu đối nằm ở từ hai nghĩa "tay tử tế" {người con rể ("con" (danh từ) và "rể" (danh từ) xét nghĩa từng từ đơn Hán Việt) ; người tốt bụng (từ ghép Hán Việt)}. Ở đây cháu dùng từ "mặt mạo muội" vì chữ "mặt" gần giống nghĩa chữ "tay" trong trường hợp dùng để chỉ người nào đó (vd: "cái mặt đó lì lợm lắm" nghĩa là chỉ người đó ít nghe theo lời ai). Từ "mạo muội" cũng có hai nghĩa: Xét từ đơn nghĩa là "dung mạo (danh từ) của người em (bạn) gái (danh từ)", xét từ ghép nghĩa là "dại dột" (cách nói khiêm nhường). Ý vế đối là: 1/ Vào mùa mới, sửa soạn vẻ bề ngoài (mã mề) cho đẹp, mạnh mẽ, đi tán tỉnh người con gái trẻ hơn. 2/ Vào mùa mới, sửa soạn vẻ bề ngoài cho đẹp, mạnh mẽ, đi tìm những người khờ khạo để chọc ghẹo vui vẻ, ngoài ra chữ "muội" đối chữ "tế".
vế đối khác 1: Tuổi tăng tã tài tậu,tùng tiệm tiến tầm tướng tôn ti(Hoài Anh Võ Quang Thạch)
vế đối khác 2: Cơ cùng còn cặc cụt, cù cưa cứ cắn cửa cùng căn (Câu này vận dụng 2 thành ngữ “trên răng dưới dái” và “chó cắn áo rách” đều chỉ cảnh cùng khó, đặc biệt “cửa cùng căn” cũng có hai nghĩa: “cửa cùng khổ” và “cửa với căn (nhà)”, và lại áp dụng cả cách nói lái : “cặc cụt” = “cục cặc” nếu nói theo giọng Huế (cụt=cục).
vế đối khác 3: Hội hè hòng hý hửng, hỏi han hàng họ hẳn hay ho (khuyết danh)
vế đối khác 4: Xuân sang xong xổ số, say sưa sắm sửa sẳn xu xài (khuyết danh)
vế đối khác 5: Cô kia còn kênh kiệu, kĩ càng cố kén cậu căn cơ (khuyết danh)
vế đối khác 6: Mới mẻ mừng mợ mạnh, mỹ miều mà mở mặt môn mi (khuyết danh)
vế đối khác 7: Ái ân êm ấm ấy, ỡm ờ uốn éo ý yêu ai (khuyết danh)
vế đối khác 8: Tết tới thêm trúng thưởng, tíu tít tân trang túi tiền tiêu (khuyết danh)
vế đối khác 9: Lịch lùi lơi lợi lộc, lo lường lánh lướt lối lao lung. (Tụ Vinh - Nguyễn Sư Giao)

Nếu coi vế ra là vế tả cuộc đời một kẻ hàn nho, thì có thể tạm đối lại:

1. Bằng cuộc đời một kẻ sung túc, no đủ, có điều kiện tập bạn bè đánh bạc, tổ chức đồng bóng hay gọi cô đầu đàn hát.v.v…

KỴ QUA, CÒN CỖ CÚNG, KỲ KÈO CỐ KÉO CÁNH CÒ QUAY (HOẶC CÒ CƯA)
KỴ QUA, CÒN CỖ CÚNG, QUÂY QUẦN QUẤY CỢT CÁNH CẦM CA
KỴ QUA, CÒN CỖ CÚNG, QUẦN QUANH QUÂY QUẤY CÁNH CẦU KỲ

(Cò quay: một trò đánh bạc; cò cưa: chơi kiểu đàn nhị, chơi không hay (xem từ điển Thanh Nghị); nếu sự cầm ca có nghĩa quá rõ, không khớp với tử tế thì có thể thay bằng cò cưa hoặc ca cơ hoặc ca công, cam ca (xem từ điển Đào Duy Anh), cầu kỳ ngoài nghĩa thông thường còn có từ đồng âm với nghĩa là cầu đảo (xem từ điển Đào Duy Anh)

2. Hoặc bằng cuộc đời một kẻ giàu có nhưng keo kiệt, sợ cảnh cháu con, khách khứa ở lâu, ăn bám:

KỴ QUA, CẤT CỖ CÚNG, QUANH CO CỐ CẢN CÁNH CÀ KÊ
KỴ QUA, CẤT CỖ CÚNG, QUANH CO QUAY CẢN CÁNH CÀ KÊ (có thể thay quanh co bằng cáu co; cản bằng cấm hay cắt hoặc quát)

3. Hoặc bằng cuộc đời một kẻ quyền thế, tham nhũng, lại móc ngoặc với bọn làm ăn phi pháp (loại tiêu cực mà báo chí hiện chống!)

QUYỀN CAO, QUƠ CỦA CẤT, QUANH CO CÒN KẾT CÁNH CÔN QUANG
QUYỀN CAO, CÓ CỦA CẤT, QUANH CO CÒN QUỊT KẺ CÙNG CƠ
QUỸ CÒN, KIẾM CÁCH CUỖM, KIỂM KÊ CỐ CÃI CỚ QUANH CO
CỬA QUA (qua hải quan!), CÓ CỦA CẤM, KIỂM KÊ CÒN KIẾM KẾ QUANH CO

(Có thể thay còn kết bằng còn cậy hay cố kết; quịt bằng cuỗm hay cướp; cùng cơ có thể thay bằng cùng cư (ở nơi cùng tịch, ở vào cảnh cùng khốn, theo Đào Duy Anh); kẻ cùng cư cũng có thể tạm cho là còn có nghĩa thứ hai: kẻ cùng “ở”. Có thể thay quỹ còn bằng quỹ quên hay quỹ quen; cãi bằng kế)

II. Nếu coi vế ra là vế tả cảnh tết nhất, thì có thể đối lại bằng:

1. Cảnh hội hè, đình đám:

ĐÁM ĐƯA, ĐÔNG ĐOÀN ĐIẾU, ĐẢM ĐƯƠNG ĐỪNG ĐỂ ĐỨA ĐUỀNH ĐOÀNG
ĐÁM ĐI, ĐÔNG ĐOÀN ĐIẾU, ĐÓN ĐƯA ĐỪNG ĐỂ ĐỨA ĐUỀNH ĐOÀNG
ĐÁM ĐI, ĐÔNG ĐOÀN ĐIẾU, ĐẮN ĐO ĐÀNH ĐUỔI ĐỨA ĐONG ĐƯA

(Có thể thay điếu bằng đến)

2. Cảnh tiệc tùng:

TIỆC TAN, TÀN TỐI TIỄN, TỈ TÊ TÌM TỎ TÍ TÂM TƯ
TIỆC TÀN, TÚM TAY TIỄN, TỈ TÊ TÌM TỎ TÍ TÂM TƯ

(Nếu nghĩ đến một buổi tiễn đưa ở nước ngoài thì cũng có thể đổi thành Tuyết tan, tàn tối tiễn…)

Nhưng đó là với nhân vật chính. Còn với tay chân nhân vật chính thì:

TIỆC TAN, TÀN TỐI TIỄN, TỈ TÊ TÌM TÁN TỤI TÙY TÙNG
TIỆC TÀN, TÚM TAY TIỄN, TỈ TÊ TÌM TÁN TỤI TÙY TÙNG

3. Cảnh mùa màng thời tiết:

LỤT LÊN, LO LÚA LÚT, LĂM LE LIỄU LỘI LỐI LÀM LẦY (Có thể thay lo bằng lấy; lúa bằng lạc; lăm le bằng lấm lem)

Nhưng nếu không phải bản thân người lao động mà là một ông gia đình, chủ trại.v.v… thì lại có thể:

LỤT LÊN, LO LÚA LÚT, LU LOA LA LỐI LŨ LÂU LA (Có thể thay lâu la bằng lầm lỳ; lâu la có hai nghĩa: chậm trễ và bọn bộ hạ).

III. Còn nếu coi vế ra là một tự vịnh (tự trào, tự thán) của bản thân nhà thơ Nguyễn Khoa Vy thì cũng có thể đối lại bằng cảnh tự vịnh của một nhân vật khác, ở một tình thế khác. Ví dụ:

1. Cảnh tự vịnh của một xã viên hợp tác xã, một công nhân công trường… khi gặp chuyện không may:

XUÂN XONG, XIÊU XƯỞNG XÁT, XỞ XOAY XIN XỎ XÃ XUÊ XOA
XUÂN XONG, XẸP XE XÚC, XỞ XOAY XIN XỎ XƯỞNG XUÊ XOA (Có thể thay xuê xoa bằng xuề xòa)

2. Đối với cánh đi nghiên cứu, điều tra điền dã thì:

XUÂN XONG, XIN XÃ XÉT, XỞ XOAY XÔNG XUỐNG XÓM XA XÔI
XUÂN XONG, XOAY XẮC XÁCH, XÁO XÔNG XIN XUỐNG XỨ XA XÔI

3. Còn đối với trường hợp như tác giả mấy dòng này, một người từng bị trộm cướp hành hung, phải chống lại, thì:

CỬA CÀI, CÓ KẺ CẠY, KIÊN CƯỜNG QUYẾT QUẬT CÁNH CÔN QUANG (Hoặc quang côn, theo từ điển Khai Trí Tiến Đức)
CƯỚP QUÂY, QUƠ CỌC QUẤT, KIÊN CƯỜNG QUYẾT QUẬT CÁNH CÔN QUANG

(Có thể thay quơ cọc quất bằng quay quyền cán hay kiếm cách cản hoặc còn kế cản; quật bằng quét; côn quang bằng kình côn. Cánh kình côn có thể hiểu là cánh thú dữ, mà cũng có thể tạm hiểu là cánh đang giương côn lên đánh; đối với cánh côn quang cánh quang côn cũng vậy)

Những câu đối hay khác rất tốt phần điệp âm đầu nhưng tiếc thay chưa chuẩn về chữ nghĩa, cũng đưa cả vào để tham khảo :

Mới mới mới, mặc mẹ mưu mô mời mọc mọi mánh mung TRẦN VĂN THÁI (Hà Nội)
Xuân xưa xài xa xỉ, xun xoe xin xỏ xếp “xăng xu” (chef sans sous hay cent sous) MẶC HY (Hà Nội)
Đông đến điện đếch đỏ, định đến đốc Đối điều đình HOÀNG ĐĂNG MAI (Huế)
Đời đang đầy điên đảo, đắn đo đợi đấng đứng đầu NGUYỄN NGỌC ĐIỆP (Huế)
Đời đang đà đung đưa, đắn đo đón đợi đấng đứng đầu NGUYỄN KHẮC PHÊ (Sông Hương)
Thảm thê thay Thanh Thảo, thổn thức thương thân thiếp thẩn thơ KIM THOA (Đà Nẵng)
Mùa mong mờ mắt mỏi, mơ màng muốn mắng mống mưu mô TƯỜNG LINH (T.p Hồ Chí Minh)
Lễ lạc lòng lẽ loi lưỡng lự liệu lánh làng lạt lẽo VÕ QUANG YẾN (Paris)
Lương lui lên lộn lạo, làm liền lui lại loại lao lung VĨNH AN (Cửu Long)
Đối đáp đầy đủ đâu đã đoạt được điều đó đã đưa (vì chú gà trống sống quá lâu thịt quá dai!) DÂN CÁ GỖ (Nghệ Tĩnh)

Những câu đối của Đầu Xứ Nguyễn Khắc Nhu (1882 - 1930)

Nguyễn Khắc Nhu là người làng Song Khê, cách thành phố Bắc Giang chừng dăm cây số. Hồi thi sát hạch, ông đỗ đầu xứ, nên mọi người thường gọi là Đầu xứ Nhu. Hồi ông làm tổng sư (thầy giáo của một tổng, độ vài ba làng), ông có đôi câu đối rất hay:

Tay chẳng việc quan mà cụ Tổng
Miệng không niệm Phật cũng ông Sư

Ông có lòng yêu nước, chịu ảnh hưởng của phong trào Đông du và Đông Kinh nghĩa thục, từng đi vay tiền, thóc nuôi chiến hữu. Có lần gặp những vị điền chủ keo kiệt, không cho vay, ông cũng vận dụng thành ngữ tục ngữ, xuất khẩu nên đôi câu đối thú vị:

Giật đầu cá vá đầu tôm. quý hồ xong việc
Thắt cổ mèo treo cổ chó, vị tất hơn ai

Nơi ông sinh ra là cái nôi của nhiều làn điệu dân ca và văn học dân gian. Ngay từ nhỏ ông đã từng theo một phương chèo đi khắp miền Bắc Giang, Bắc Ninh, Lạng Sơn. Những làn điệu dân ca đầy chất trí tuệ, nhưng không kém phần lạc quan thấm vào ông từ lúc nào. Chí lớn, hoài bão của ông được thể hiện rõ nét trong thơ. Đây là câu đối treo trên tường lớp học, cùng bản đồ thế giới:

“Bích quải địa dư đồ, Tổ quốc giang sơn hà xứ tại?
Đường tôn nho giáo học, Nam cương tử đệ kiếp tông dư?”

có nghĩa là:

Trên vách treo bản đồ, Tổ quốc non sông đâu đó nhỉ?
Trong nhà tôn nho học, cháu con đất nước nối dòng chăng?

Trong khi vận nước đang lúc khó khăn, nhưng Nguyễn Khắc Nhu vẫn tin tưởng vào tương lai của dân tộc, của con đường đấu tranh cách mạng mình đã lựa chọn. Ngay khi còn dạy học, ông đã cho dán câu đối:

“Thế giới văn minh vô chỉ cảnh
Nhân quần tiến hóa hữu cơ quan”

có nghĩa là:

Văn minh thế giới không dừng bước
Tiến hóa loài người có chốt then”.

Nguyễn Khắc Nhu vào Việt Nam Quốc dân đảng, Đêm mồng 9 tháng Hai 1930, nghĩa quân các vùng Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao...nổi dậy… Cuộc khởi nghĩa thất bại, Nguyễn Khắc Nhu bị bắt. Để bảo toàn danh tiết, ông đã hy sinh trong tù…Nhân dân vô cùng thương tiếc và cảm phục, một nhà nho đã lập bài vị thờ cùng câu đối được nhân dân khắp nơi truyền tụng:

“Vị dân quyên sinh, vị Quốc quyên sinh, vị đảng nghĩa quyên sinh, thệ bất câu sinh đối thủ tặc
Kỳ tâm bất tử, kỳ danh bất tử, kỳ tinh thần bất tử, quyết tương nhất tử khích đồng bào”

Có nghĩa là:

Vì dân quyên sinh, vì nước quyên sinh, vì đảng nghĩa quyên sinh, thề chẳng tham sinh nhìn giặc nước
Lòng ông không chết, danh ông không chết, tinh thần ông không chết, quyết đem cái chết giục đồng bào

Câu đối của Hi Đình Nguyễn Đỗ Mục (1882 - 1951) và Tuyết Huy Dương Bá Trạc (1884 - 1944)

Nguyễn Đỗ Mục, tự Trọng Hữu, bút hiệu Hì Đình Nguyễn Văn Tôi. Quê gốc của ông là làng Thư Trai, huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây (sau đổi là huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây; nay là huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội). Năm 1913, Đông Dương tạp chí ra đời. Ông đến cộng tác và viết đều đặn ở mục Gõ đầu trẻ, chuyên về giáo dục. Sau khi tạp chí này đình bản (ngày 15 tháng 9 năm 1919), ông viết cho tờ Trung Bắc tân văn.

Dương Bá Trạc có tên hiệu là Tuyết Huy, ông sinh tại làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, huyện Khoái Châu (nay là huyện Văn Giang), tỉnh Hưng Yên. Năm 1906, ông tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục. Năm 1907, Dương Bá Trạc bị bắt giam, ông bị kết án tù Côn Đảo. Năm 1910, Dương Bá Trạc được đưa về đất liền an trí ở hạt Long Xuyên (nay thuộc An Giang). Năm 1932-1935, ông làm chủ bút tờ Văn học tạp chí. Năm 1943, ông sang Singapore. Ở xứ người, ông luôn mong tìm một kế sách giúp nước nhà sớm được độc lập, nhưng ý nguyện chưa thành, thì Dương Bá Trạc mất.
  • Nguyễn Đỗ Mục và Dương Bá Trạc thường viết ra những giai thoại nhằm đả kích thực dân Pháp và tay sai, trong số đó có một câu chuyện rất hay như sau: Một anh nông dân ở làng nọ có hai vợ. Do khéo đối xử và sắp xếp việc nhà, việc cửa, nên nhìn bề ngoài người ta thấy gia đình anh tương đối thuận hòa, yên ổn. Thế nhưng, chuyện chồng chung không ai dễ chịu ai. Về mặt tâm lý, anh chồng vẫn nể sợ người vợ cả, trong khi tình cảm yêu thương thì lại nghiêng về người vợ nhỏ nhiều hơn, bởi lẽ ngoài sức trẻ trung, và chút ít nhan sắc, chị ta còn là con gái của một ông đồ hay chữ nhất vùng. Một chiều nọ, nhân buổi rảnh rỗi việc đồng áng, ba vợ chồng ngồi bàn chuyện. Nhân không khí vui vẻ, cởi mở, anh chồng đưa ra đề nghị: "Anh ta ra một câu đối, nếu ai đối được thì tối nay, anh sẽ "vô buồng" người ấy". Cả hai bà vợ đều đồng thanh tán thành.
Anh chồng bèn đọc: Vợ cả vợ hai, cả hai vợ đều là vợ cả
Cô vợ nhỏ khiêm tốn nhường lời cho người vợ cả đối trước. Suy nghĩ một hồi, chị vợ lớn lắc đầu: "Thôi dì Hai nó nói trước đi!"
Người vợ nhỏ bèn ứng khẩu đáp: Con dòng, con giống, dòng giống con mới thiệt con dòng
Câu đối khá chỉnh. Anh chồng vỗ đùi khen hay. Nhưng chưa dứt lời, thì bà vợ lớn mới nổi "máu Hoạn Thư", đứng dậy túm lấy áo ông chồng, xỉa xói: "Thôi, tui biết tỏng cái mẹo của các người rồi, đừng giả vờ qua mắt tui, để tối vô buồng “con mẻ” chớ gì. Tui nói cho mà biết, tui mới là vợ chánh, mọi quyền hành ở nhà nầy đều do tui, tui chưa ưng thuận thì ông đừng hòng bước qua khỏi cửa buồng của dì ấy, chớ đừng nói “cả hai đều là vợ cả" nhen! Ông nghe rõ chưa?" Anh chồng đang hứng, bỗng yểu xìu một cách thảm hại. Lúc đó, bên hàng xóm có 2 nhà Nho hay chữ là Nguyễn Đỗ Mục và Dương Bá Trạc đang ngồi đàm luận chuyện văn chương. Có thuyết khác lại cho rằng vế ra và vế đối thứ nhất đều do 2 vị sĩ phu này trông thấy tình cảnh như vậy mà đối đáp với nhau, còn vế đối của người vợ lẽ vẫn do người đó đối khi nghe thấy 2 ông đọc như vậy
Ông Nguyễn Đỗ Mục chợt nảy ra vế đối khác: Quan thừa, quan thiếu, thừa thiếu quan sao gọi quan thừa
Quan Thiếu ở đây ám chỉ Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu (1872 - 1946), con trai thứ của Hoàng Cao Khải. Vì có hàm Thái tử Thiếu bảo, nên được gọi là cụ Thiếu Hà Đông.
Ông Dương Bá Trạc cũng có câu đáp lời: Con nuôi, con đẻ, nuôi đẻ con há đợi con nuôi
Mấy câu đối trên được 2 ông cho đăng lên tờ báo Trung Bắc, mục đích chính để đả kích những viên quan thân Pháp
vế đối khác 1: Chồng tất, chồng vớ, tất hai chồng đều là chồng tất (khuyết danh)
vế đối khác 2: Thầy tu, thầy chùa, tu chùa thầy cứ việc thầy tu (khuyết danh)
vế đối khác 3: Em dưới, em trên, dưới trên em cùng mê em dưới (Phú Đa Nguyễn Phước An)
vế đối khác 4: Con một, con đàn, một đàn con vẫn hơn con một (khuyết danh)
vế đối khác 5: Chồng sau, chồng trước, sau chồng trước vẫn cứ chồng sau (giáo sư Vũ Khiêu)
vế đối khác 6: Chồng chung, chồng chạ, chung chạ chồng vẫn gọi chồng chung (Ngọc Thanh)
vế đối khác 7: Nhà thuê, nhà tậu, thuê tậu nhà vẫn ở nhà thuê (khuyết danh)
vế đối khác 6: Chồng thôi, chồng nửa, nửa chồng cũng chồng thôi (Nguyễn Sư Giao)
vế đối khác 9: CON ĐẦU CON MỘT MỘT CON CHẲNG GỌI CON ĐẦU
  • Câu gieo đối có 2 chỗ lắc léo :

1.Từ cả : Cách dùng từ vừa hóm hỉnh vừa lắc léo:

+ Ở đầu câu: Xác định ngôi vị (để so sánh) :

Vợ cả là vợ lớn (vợ trước).

+ Ở cuối câu : Là sự bao hàm : vợ cả xác định cả 2 đều là vợ.

2.Từ hai đứng trước cũng xác định ngôi vị để so sánh:

Vợ hai là người vợ thứ hai.

Từ hai đứng sau chỉ về số lượng : hai vợ là hai người vợ.

Trọn câu có nghĩa: VỢ CẢ + VỢ HAI = HAI VỢ (đều là vợ).

Về sự ứng đối của hai câu : Trong câu gieo thì từ cả ở trạng thái phát triển, khẳng định:

Cả là lớn:

+ Ở đầu câu từ VỢ CẢ để chỉ về người vợ trước (Cả = 1).

+ Cuối câu : Đều là vợ cả: từ cả phát triển, bao hàm: cả hai đều là vơi (Cả = 2).

Còn câu đối đáp từ đầu ở trạng thái bị phủ định, bị triệt tiêu: Đầu là trước :

+ Ở đầu câu từ Con đầu để chỉ là con trước:(Đầu = 1).

+ Cuối câu : Chẳng gọi con đầu, từ đầu bị triệt tiêu không còn gọi là con đầu nữa (Đầu = 0).

Cặp đối :

VỢ CẢ VỢ HAI HAI VỢ ĐỀU LÀ VỢ CẢ

CON ĐẦU CON MỘT MỘT CON CHẲNG GỌI CON ĐẦU

Có thể dùng 2 câu đối dí dỏm để minh họa cho sự ứng đối :

VỢ CẢ VỢ HAI HAI VỢ ĐƯỢC HƯỞNG CẢ

CON ĐẦU CON MỘT MỘT CON BỊ TIÊU ĐẦU

Câu đối và giai thoại về nhà cách mạng Nguyễn Hàng Chi (1885 - 1908)

Nguyễn Hàng Chi quê ở thôn Đông Thượng, xã Ích Hậu, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, nay thuộc huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Nguyễn Hàng Chi nguyên tên là Nối, khi đi học lại có tên là Đồ Nam và Đồ Tuy. Nguyễn Hàng Chi từng lãnh đạo cuộc làm reo phá kỳ thi miễn thuế thân (dao) cho Nho sinh năm 1906 tại tỉnh lỵ Hà Tĩnh thành công, khiến cả một bộ máy quan lại đầu tỉnh Pháp Nam một phen sửng sốt trở tay không kịp; cũng đã từng đánh lừa bọn lính khố xanh bằng vài đồng xu lẻ ném ra xung quanh mình để thoát cuộc săn đuổi của chúng dễ dàng. Người ta học thuộc và truyền nhau những cặp câu đối sắc bén của Nguyễn Hàng Chi tự giễu mình hủ lậu, chưa kịp mở mắt trước vận hội mới:

“Người người đều như Hàng Chi, còn ai là Nã Phá Luân(Napoléon), ai là Hoa Thịnh Đốn (Washington)?
Thời nay nếu sinh Khổng Tử, cũng sẽ thành Khang Hữu Vi, thành Lương Khải Siêu”.

Trong một lễ chúc thọ ông ngoại, Nguyễn Hàng Chi tìm đến phô cái đầu trọc làm người ông tái mặt, mà còn dúi cả một bài hát cho đám nhà trò hát lên để mua cười, và cũng để đánh vào nỗi đau nước mất, cốt khuyến khích mọi người hăng hái duy tân, trong bài hát đó có xen lẫn đôi câu đối sau:

Khổng Tử nhược sinh đầu đoản phát (Khổng Tử nếu sống cũng cắt tóc)
Hàng Chi đáo tử khẩu minh nha (Hàng Chi đến chết răng vẫn trắng)

Người ta cùng tuôn trào phẫn uất với Nguyễn Hàng Chi khi ông lên án những kẻ cam tâm làm tay sai như Cao Ngọc Lễ đã hèn nhát bán đứng thầy học là Tống Duy Tân cho Pháp:

“Không đất để chôn Cao Ngọc Lễ
Có tiền khôn chuộc Tống Duy Tân”

Nguyễn Hàng Chi hy sinh lúc 24 tuổi, chưa có vợ con, và cái chết rất oanh liệt của ông đã gây nên một mối cảm kích lớn trong các tầng lớp nhân dân xứ Nghệ. Được tin ông hy sinh, các văn thân đang bị giam ở nhà lao Hà Tĩnh (như Ngô Đức Kế, Lê Văn Huân, Đặng Văn Bá, Đặng Nguyên Cẩn…) đã có đôi câu đối khóc ông:

“Khẩu năng ngôn cảm ngôn, thủ năng thư cảm thư, phiên phiên khả ái tai, nhân cách đô tòng tân học xuất;
Vấn quân thê vị thê, vấn quân tử vị tử, phẫn phẫn hồ vi giả, huyết ngân chỉ vị quốc dân lưu”.

Tạm dịch:

Miệng nói giỏi dám nói, tay viết giỏi dám viết, phơi phới đáng yêu thay, nhân cách đúc nên từ học mới;
Hỏi vợ anh chưa vợ, hỏi con anh chưa con, uất uất làm gì thế, máu tươi tuôn chảy với đồng bào
Câu đối điếu Nguyễn Hàng Chi của Văn thân Nghệ-Tĩnh hiện đặt ở nhà thờ họ Nguyễn Đức

Những câu đối liên quan đến nhân vật Nguyễn Tri Khương (1890 - 1962)

Nguyễn Tri Khương là con thứ 5 của Nguyễn Tri Túc, cháu nội Khâm sai Kinh Lược Nam Kỳ Nguyễn Tri Phương, là cậu ruột của giáo sư Trần Văn Khê. Ông là một nghệ sĩ và là soạn giả cải lương danh tiếng tại miền Nam Việt Nam đầu thế kỷ 20. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là vở cải lương "Giọt lệ chung tình", nhưng thường được nhiều người biết đến với tên dân gian "Chuyện tình Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà". Hồi nhỏ anh em Trần Văn Khê và Trần Văn Trạch thường xuyên tiếp xúc với cậu Năm , và có những kỷ niệm sâu sắc về cậu qua những câu đối độc đáo như sau:

  • Câu đối «nói láy»:
«Ông mượn cháu, đi Giồng dứa , mua dừa gống về ươn mộng» «Ông mượn , ươn mộng ; giồng dứa, dừa giống».
« Chồng sai vợ, đi Chợ Thủ kêu chủ thợ về chày sông » «Chồng sai, chày sông, Chợ Thủ, chủ thợ »

Một hôm cậu Năm ra câu đối :

«Cỡi máy bay, bay vòng Đông Tây Nam Bắc»
Không ai đối được, cậu Năm đối : «Đi tàu lặn, lặn mãn Xuân, Hạ, Thu Đông».

Cậu năm lại ra một câu rất khó đối: «Thằng đàng Thổ, nằm dưới đất, ăn thục địa »

Thổ là đất, địa cũng là đất lại nằm dưới đất . Lẽ tất nhiên không ai đối được.
Chính cậu năm tìm ra câu đối : «Chà Châu giang, lội qua sông, hái bạc hà »
Giang là sông, hà cũng là sông, lại lội qua sông. Thục địa là một vị thuốc, bạc hà là một loại rau nhưng cũng là vị thuốc.

Năm 1934, Trạch mới được 11 tuổi ta, một hôm thấy con chó mực trong nhà làm đổ bình mực liền nghĩ ra một câu đối và thưa với cậu Năm : « Cậu ơi! Con mới ra câu đối để cậu đối lại cho con:

«Chó mực làm đổ bình mực, mực đổ trên mình chó mực»

Cậu Năm nói : «Cậu không đối liền được, hẹn con đến trưa nay cậu sẽ tìm câu đối». Cậu ra vườn trồng bông. Vài giờ sau, cậu năm tươi cười gọi Trạch và tôi đến để nghe câu đối :

«Gà bông bươi ngã bụi bông, bông rơi trên cánh gà bông »
Anh em Khê Trạch vỗ tay hoan nghinh, nhưng cậu năm nói : « Đối ý thì hoàn toàn, nhưng đối chữ còn chưa được. « … làm đổ bình mực », chữ đổ trắc mà cậu đối « làm ngã bụi bông », chữ ngã cũng trắc, nhưng cậu tìm không ra chữ nào giọng bình. Chữ làm đổ bình mực và mực lại đổ trên mình chó mực, hai chữ đổ cùng âm mà khác nghĩa. Nhưng kể ra câu đối của con cũng khó đối lắm. Và cậu khen Khê em mới 11 tuổi mà đã ra được câu đối mắc mỏ như vậy.'

Những câu đối liên quan đến nhóm Tự Lực Văn Đoàn

  • Câu đối của độc giả chúc Tết:

Tự Lực văn đoàn là một câu lạc bộ viết văn do Nguyễn Tường Tam vào năm 1934 (tuần báo Phong Hóa số 87). Cơ quan ngôn luận của Tự Lực văn đoàn là tuần báo Phong Hóa, ngoài ra, còn có nhà xuất bản Đời Nay. Ban đầu, bút nhóm chỉ có 6 thành viên, gồm: Nguyễn Tường Tam (còn gọi Nhất Linh), Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thế Lữ, Thạch Lam, Tú Mỡ. Về sau, kết nạp thêm Xuân Diệu. Bên cạnh đó còn có những cộng sự viên và các họa sĩ. Năm 1934, một độc giả ở Hải Dương đã làm đôi câu đối chúc tết nhóm Tự Lực Văn Đoàn như sau:

Xuân sang, kể chuyện “đào hoa”, Khái Hưng ru “Hồn bướm vào cõi tiên”, chợt nghĩ đến “Nửa chừng xuân” mà đã lo quãng “Đời mưa gió”
Tết đến, đọc văn “Thơ mới”, Thế Lữ ngắm “Đêm trăng ở hang Văn Dú” mới tưởng tới “Lưỡi tầm sét” rồi thấy sợ con “Đường thiên lôi”
Khái Hưng và Thế Lữ là 2 cây bút chủ chốt trong tổ chức này.
  • Câu đối Tết của Văn Gia Khái Hưng Trần Khánh Giư (1896 - 1947):

Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư. Bút danh Khái Hưng của ông được ghép từ các chữ cái của tên Khánh Giư. Ông xuất thân trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng. Năm 1947, Khái Hưng bị Việt Minh bắt giam tại Liên Khu 3 (Lạc Quần, Trực Ninh) rồi đem xử tử hình ở bến đò Cựa Gà, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Sinh thời ông từng có câu đối tết như sau:

Bốn nghìn lần: xuân hạ thu đông vạn vật loanh quanh vòng lẩn quẩn
Ba ngày tết: xôi dê rượu thịt muôn dân hì hục chén no nê
  • Câu đối xuất hiện sau khi đã chuyển vào Miền Nam:

Sau 1954, nhóm Tự Lực Văn Đoàn vào Saigon, xuất bản tạp chí "Ngày nay", in bởi một nhà in mà TLVĐ vừa mới mua (nhà in nhà, khỏi phải đem đi mướn in) nhân đó họ có ra một vế đối như sau:

vế ra: Ngày nay ngày nay in nhà in nhà (nghĩa là tạp chí Ngày Nay lúc đầu được in bởi nhà in bên ngoài, sau đó mua lại cơ sở in để tự in ấn tại nhà)
vế đối 1: ĐÊM TRƯỚC ĐÊM TRƯỚC ĐỌC TRẠI ĐỌC TRẠI (Hoài Anh Võ Quang Thạch) ("ĐÊM TRƯỚC" là tác phẩm của văn hào Nga Ivan Turgerer,TRẠI đọc TRẠI là TRẠI đọc sách của Doanh Trại.Nghĩa câu đối là:tối hôm trước,tác phẩm "ĐÊM TRƯỚC" được đọc tại TRẠI đọc sách của Doanh Trại)
vế đối 2: Chiều tối chiều tối lưu khu lưu khu (Thiền Long) ("Chiều tối" là bài thơ của Hồ Chí Minh)
vế đối 3: Tiếng xưa Tiếng xưa hát sô hát sô (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) ("Tiếng xưa" là nhạc phẩm của Nhạc sĩ Dương Thiệu Tước)

Những câu đối liên quan đến Thi Sĩ Thanh Tịnh (1911 - 1988)

Thanh Tịnh tên thật là Trần Văn Ninh, năm 6 tuổi được đổi là Trần Thanh Tịnh. Các bút danh khác: Thinh Không, Pathé, Thanh Thanh, Trinh Thuần. Ông sinh tại xóm Gia Lạc, ven sông Hương thuộc làng Dương Nổ, Thừa Thiên Huế. Bút danh của ông gồm hai chữ: Thanh-Trong sáng và Tịnh-Tinh khiết. Năm 1948, ông gia nhập bộ đội. Năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam. Thanh Tịnh mất ngày 17 tháng 7 năm 1988 tại Hà Nội. Ông có hai câu thơ từ bài thơ "Dân no thì lính cũng no" sáng tác năm 1948 trùng với câu châm ngôn thường bị hiểu nhầm là của Hồ Chí Minh: "Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong".

  • Thanh Tịnh ngoài vai trò là 1 thi sĩ ông còn là một “cây” về tiếu lâm, về câu đố, câu đối. Người xứ Nghệ thường hay đọc:
Đến xứ Nghệ, ra Quán Hành, uống rượu gừng, nói chuyện cà riềng cà tỏi

Nhiều người lầm tưởng câu đối hóc búa ấy là của một ông đồ nào mà ít người biết là của Thanh Tịnh chợt nghĩ trong chuyến vào công tác lúc Nghệ An còn là tuyến lửa, trong quán phở ở Quán Hành, một địa điểm cách Vinh 10 km về phía bắc. Sau giải phóng Miền Nam, ông có dịp công tác trong Đồng Nai và chính ông đã tự đối lại câu đối này khi trong thời gian đó đang bị bỏ ngỏ:

Vào Đồng Nai, nhớ Kỳ Lừa, ăn thịt chó, ngồi vui tán vượn, tán hươu

Vế trên đầy những tên gia vị nghệ, hành, gừng, riềng, tỏi, của dưới đối với các tên thú nai, lừa, chó, vượn, hươu

vế đối khác 1: Thăm Phù Cát, xuống Núi Đất, nhắp ly chanh Đá, hóng tiếng Bùn tiếng Phèn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Núi Đất thuộc thôn Chánh Mẫn, xã Cát Nhơn, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Nơi đây có di tích lịch sử là Phế Tích Thành Chánh Mẫn, một tiền đồn Thành Hoàng Đế xưa của Nhà Tây Sơn)
vế đối khác 2: Vào xóm GÀ, phao tin VỊT, ăn miếng thịt CHÓ, làm chuyện MÈO chuyện CHUỘT (khuyết danh)
vế đối khác 3: Vào đảo CÒ, tới chòi KHỈ, húp tô cháo VỊT, ngồi tán VƯỢN tán HƯƠU (khuyết danh)
vế đối khác 4: Vào làng HÒ, ghé quán REO, nghe thieu_thoi HÁT, More dở KHÓC dở CƯỜI (khuyết danh)
vế đối khác 5: Dời làng Bưởi, ghé quán CÓC, uống nước DỪA, ôm nhỏ CAM nhỏ MÍT (khuyết danh)
  • Đối đáp với Văn Gia Xuân Thiều:

Một thời, ở tạp chí Văn nghệ, có Nguyễn Đình làm thơ trào phúng, Nguyễn Đình Thi viết truyện ngắn, thơ trữ tình rất hăng say.

Nhà văn Xuân Thiều ra vế đối: Nguyễn Đình thi với Nguyễn Đình Thi
Nhà thơ Thanh Tịnh đối lại: Trần Thanh địch cùng Trần Thanh Địch
Tên của hai người ở đầu vế đối cùng âm với hai âm tiết đầu trong tên ba âm tiết của hai người ở cuối vế đối. “Thi”, “địch”, hai động từ, cùng âm với “Thi”, “Địch” trong Nguyễn Đình Thi, Trần Thanh Địch, tên riêng.
  • Lần khác, Thanh Tịnh ra và Xuân Thiều lại đối:
Nhà văn, nhà báo, nhà giáo, nhà thơ, mấy nhà mà không nhà ... ở. (Thanh Tịnh)
Cửa vào, cửa sổ, cửa bàn, cửa tủ, nhiều cửa sao vẫn thiếu cửa ... đời.(Xuân Thiều)
  • Câu đối viết cho Thi Gia Vương Trọng:

Một lần, nhà thơ Thanh Tịnh đến nhà Vương Trọng chơi, nhìn cảnh nhà thơ Vương Trọng đang vui vẻ bón cơm cho cậu con trai ba tuổi, ông bật ra vế đối:

Bố cho con ăn, bố cười, con cười!
Con cho bố ăn, con khóc, bố khóc!
  • Thời bao cấp, hàng tiêu dùng khan hiếm, thường mỗi khi có mặt hàng nào đó, phải tổ chức phân phối theo chỉ tiêu đầu người từng cơ quan. Khi về đến cơ quan, lại phải tiến hành bình bầu, nhận xét xem phân cho ai là đúng. Không bình bầu nổi thì chọn phương án “bốc thăm”, may ai nấy được. Một lần bốc thăm như thế, nhà thơ Xuân Sách và nhà văn Nguyễn Thị Như Trang cùng bốc được một chiếc màn.... đôi! Vốn bực mình về cái thói cửa quyền của cơ quan phân phối, nhân chuyện này, Thanh Tịnh buông một câu: Cái cứt gì cũng phân, mà phân thì như cứt!
Câu đối có hàm chứa từ ngữ tục tĩu hoặc ý nghĩa dâm dục thấp hèn đều có thể tồn tại hấp dẫn nếu nó có độ thanh lẫn trong tục. Mà độ thanh này là độ khó độ lắt léo hợp lý (biểu hiện của thuộc tính văn học dân gian câu đối) được tỷ lệ cao trong kết cấu của câu đối. Vế ra "cái gì cũng phân mà phân thì như cứt" có vài điểm đắt giá của tính hóc búa như : hán việt "phân"="cứt"; "phân" vừa là danh từ vừa là động từ (phân chia). Nghĩa là ít nhất câu đối trên đã có hai vấn đề khó thuộc văn học so với một vấn đề là chữ tục tĩu nên yếu tố "thanh" mạnh hơn "tục". Ta chỉ cần căn cứ vào tỷ lệ "thanh" cao hơn "tục" thì ta có thể cảm nhận được giá trị của câu đối. Một câu quá tục tĩu nhưng hàm chứa độ khó của câu đối nhiều thì càng tục vậy mà lại càng hay vì thuần tục vốn không hay.
vế đối: "Quan khỉ đều thích hầu nhưng hầu là tựa khỉ " (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh) ("hầu"="khỉ"; "hầu" vừa là danh từ vừa là động từ "hầu hạ")
vế đối khác: Thứ chó gì cũng cẩu, mà cẩu thì như chó! (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Câu đối nói về thực trạng ở 1 doanh nghiệp: Một ông chủ mua xe cẩu về làm tất tần tật những việc khuân vác nặng nhẹ nên công nhân bốc vác thất nghiệp, nhưng do tay nghề người điều khiển cẩu hàng còn kém nên làm việc thường hư sự)
  • Câu đối chung của 2 Nhà thơ Thanh Tịnh và Chế Lan Viên:
Người nhái bơi ếch vào bắt cóc, cóc bắt được ai ngồi trơ mắt ếch
Năm 1984,nhà thơ Chế Lan Viên về thăm Trường Đại học Đà Lạt và kể chuyện cho anh em sinh viên nghe rằng: Năm 1972, các nhà văn nhà thơ Việt Nam về Quảng Trị để viết về chiến trường Vĩnh Linh. Nhà thơ Thanh Tịnh đưa vế ra: "Người nhái bơi ếch vào bắt cóc". Có người đối được câu này. Liền sau đó, nhà thơ Chế Lan Viên bổ sung thêm vào: "cóc bắt được ai, ngồi trơ mắt ếch". Thế là câu đối hoàn chỉnh như trên đã nói, đến trước năm 1989 vẫn chưa ai đối được.
Năm 1989, Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối: Thợ nem vác thịt đi ăn chả, chả ăn chút chi đứng ê mặt thịt (đã đăng trong tạp chí Thời Văn số 16/17 năm 1997)
vế đối khác 1: Lũ yêu giả beo đến rình lừa, lừa rình bị lộ, lâm đòn chạy rớt lốt beo (Nguyễn Sư Giao)
vế đối khác 2: DU CÔN MÚA ĐAO RA ĐÓNG NỎ, NỎ ĐÓNG CÁI CHI ĐỨNG THỪ MẶT ĐAO (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(CÔN, ĐAO, NỎ...là một trong 18 bộ binh khí. NỎ theo tiếng gọi ở vùng Hà Tĩnh ,Bình Trị Thiên thì giống như chẳng ,không ĐÓNG NỎ đơn thuần là việc làm nỏ, Cung. Nhưng nghĩa bóng là hành động lăng nhăng mèo mỡ. "ĐỨNG THỪ MẶT ĐAO" là cử chỉ ngạc nhiên, đưa cái mặt đao ra)
Vế ra trên có 1 dị bản khác viết như sau: Đêm ba mươi người nhái vào bắt cóc, cóc bắt được ai, bị bắt cóc người nhái ngồi trơ mắt ếch
vế đối: Sáng hai mốt lính thủy về nằm không, không nằm yên thân, cho nằm không lính thủy dậy quê điệu bộ (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)(thủy, bộ, không là 3 kiểu đường đi cơ bản, muốn di chuyển thì ta chỉ có thể đi đường thủy, đường bộ hoặc đường không)
  • Cũng có lần Thanh Tịnh trở thành đối tượng để châm chọc trong một đôi câu đối của một “tướng” văn nghệ sĩ báo chí nào đó không ở số 4 Lý Nam Đế (Văn nghệ quân đội) thì cũng ở số 7 Phan Đình Phùng (Báo QĐND):
Thanh, Thanh, Thanh: Thanh toán, thanh giường, thanh thiếu nữ
Tịnh, Tịnh, Tịnh: Tịnh sừng, tịnh gỗ, tịnh nam mô
  • Điểm lại những chặng đường đã đi qua, có vẻ như ông luôn luôn nhìn sâu vào con người mình, từ những câu chuyện quá khứ nho nhỏ, những thành công và thất bại, để rồi tỏ vẻ trầm tư và đăm chiêu, bâng khuâng tiếc nuối pha lẫn với tự hào, hãnh diện. Ông đôi khi không giấu giếm sự muộn phiền vì bất lực, khi thấy thời gian đi quá nhanh, mình đã muộn màng. Ông viết:
Nghề nghiệp quá dài, đời quá ngắn
Biết đời, đời hết, biết làm sao
  • Sinh thời, thi sĩ Thanh Tịnh cũng thường dùng câu đối để đùa bạn, trong đó có 1 vế xuất như sau:
Vế ra: Xuân Diệu, Xuân Sanh, Xuân... tóc đỏ
vế đáp: Tú Xương, Tú Mỡ, Tú...lơ khơ (khuyết danh)

Câu này có 1 dị bản khác như sau: Xuân Thiều, Xuân Miễn, Xuân Sanh, Xuân tóc đỏ

Những câu đối của Thi Sĩ Hữu Loan (1916 - 2010)

Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, quê quán tại xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tham gia quân đội. Trong thời gian 1956-1957, ông tham gia Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm do nhà văn Phan Khôi chủ trương. Sau khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị dập tắt vào năm 1958, nhà thơ Hữu Loan phải vào trại cải tạo vài năm, tiếp đó bị giam lỏng tại địa phương, cuối đời ông về sống tại quê nhà.

  • vế ra: Thế quỳ, thế đội, thế bò, thời thế thế, thế mà chẳng thế (Hữu Loan)
vế đối 1:Xế hộp, xế nổ, xế điếc, đời xế xế, xế sao chả xế (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (xế hộp = xe con, xế nổ = xe máy, xế điếc = xe đạp)
vế đối 2: Ô bung, ô xếp, ô dù, kiếp ô ô, ô vì có ô (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh) (theo từ điển "Ô" có rất nhiều nghĩa, ở đây có nghĩa danh từ là cấp trên có thế lực muốn che chở bất hợp pháp cấp dưới, "ô" còn có nghĩa là bẩn)
  • vế ra: Mày ăn dân, dân ăn mày (Hữu Loan)
vế đối 1: Mặt làm quan, quan làm mặt (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
vế đối 2: Tớ đầy cậu, cậu đầy tớ (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)( theo từ điển: "đầy"="đày" (xét nghĩa động từ, phương ngữ); Từ "ăn mày" của vế ra có hai nghĩa: 1/ ăn (động từ) mày (đại từ, đồng nghĩa : mi, ngươi); Nghĩa 2: là danh từ chỉ người đi xin ăn. Ở vế đối, "đầy tớ" cũng có hai nghĩa: 1/đầy (=đày (động từ)) tớ (đại từ, mình); Nghĩa 2: là danh từ chỉ "người đi ở")
  • Một lần, vào dịp tết Mậu Tý (2008) có người là Trần Cao Sơn (chưa rõ tiểu sử) đến chơi với nhà thơ Hữu Loan. Biết ông đang vui, cũng biết ông thích câu đối, Trần Cao Sơn đọc hai đôi câu đối tặng ông, nội dung như sau:

Câu I:

Mây ngắm Hoàn Vân, nghiêng bóng núi dặm đường chiến sĩ
Gió đùa Ô Lỗi, rộn hương đời trang chữ thi nhân.

Câu II:

Đất lạnh nghìn trùng, vẩy ngọn bút tím lòng nhân thế
Trời thiêng một với, ôm mây mưa tàn cánh phù dung.

Ông nghe chăm chú và chậm rãi nói: "Về mặt bút pháp, niêm, luật, ý tứ của câu đối như vậy là được. Chỉ có điều anh ca ngợi tôi ghê quá". Sau một vài phút hỏi thăm gia đình, ông thong thả: "Câu một thì ổn, nhưng câu hai thì chữ "tím" ở vế thứ nhất có thể nhiều người sẽ hiểu khác. Tôi biết anh dùng chữ tím là chỉ màu tím, viollette, liên quan đến màu hoa sim trong bài "Màu tím hoa sim". Nhưng đây là câu đối, nó đứng biệt lập, vì vậy sự liên tưởng đến màu của hoa sim là không nhiều. Chữ tím ấy sẽ được hiểu là thâm tím, bầm tím, tím tái. Nghĩa nghịch của nó nhiều hơn cái nghĩa thuận xuất phát từ ý thơ: "Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết... / màu tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt" mà anh đang muốn dùng".

Trần Cao Sơn giật mình, không ngờ ông minh mẫn đến thế, nghe có một lượt mà đã phát hiện ra cái lỗi cần sửa, liền ngỏ ý muốn nhờ ông sửa giúp, ông im lặng suy nghĩ 1 lát rồi trả lời: "Chữ "thắm" cũng được nhưng nhạt nghĩa, không tương xứng với mệnh đề "đất lạnh nghìn trùng" đứng trước, có thể chữ "thấm" hay hơn".

Câu đối II được sửa lại là:

Đất lạnh nghìn trùng, vẩy ngọn bút thấm lòng nhân thế
Trời thiêng một với, ôm mây mưa tàn cánh phù dung.
  • Một hôm khác, một số bạn giáo học đến nhà chơi với Hữu Loan, trong đó có Phan Cự Triệt. Nhân bàn về vấn đề Phật giáo đang đứng trước nhiều thách thức và nhạy cảm thời đó, mấy người đàm luận về các nhân vật trong "Tây Du Ký". Trong bốn thầy trò đi Tây Trúc thì Trư Bát Giới được coi là hồn nhiên, bản năng nhất, không thiết kinh kệ, Niết Bàn gì hết, phải đi vì mắc tội hám gái, trêu chọc Hằng Nga. Bát Giới lúc nào cũng chỉ mong "giải tán đội hình" để được về nhà ngủ khì, cơm no, rượu say bên mẹ đĩ, rất đời thường. Nhưng vì thương Sa Tăng vất vả, lại sợ gậy sắt của lão Tôn hết vía nên không dám "đảo ngũ". Trong con mắt của Thiên Bồng Nguyên Soái thì sư phụ Đường Tăng chỉ là lão hòa thượng đầu trần mắt thịt, không phân biệt nổi trắng đen, phải trái, người quỷ lẫn lộn, chỉ sợ đàn bà và đọc thần chú là nhanh. Trư Nhị đệ kính nể Tôn huynh, nhưng cũng ghét lão Bật Mã Ôn bất lực, quá ngoan ngoãn qui thuận trước các thế lực thần quyền. Thần thông quảng đại là vậy, nhưng xét chung vẫn là kẻ chiến bại. Lấy Trư Bát Giới làm trung tâm, mỗi người đưa ra một câu đối về các nhân vật trong truyện. Một câu dành cho Đường Tăng, muốn lột tả cái bản chất thụ động và luôn được chở che của Đường Tam Tạng:
Tích trượng chín vòng, lưng ngựa rung rinh nhờ bóng Phật.
Cà sa một mảnh, mắt trần hấp háy đón chân kinh.

Câu thứ hai là câu đối của Hữu Loan dành cho Tôn Ngộ Không:

Kiếp nạn tám mốt tròng, muôn trận hùng thiêng tay thiết bổng
Thần thông bảy hai phép, nửa đời nghiệt khuất bóng kim cô.
  • Câu đối của Hữu Loan khóc bà mẹ vợ đầu khi bà qui tiên:
Rể không đền, gái ngắn phận sao đền, ơn cứu ơn mang, ơn đoán giữa một tương lai nhân cách.
Sống khó gặp, chết vì sao không gặp, khóc nguồn khóc núi, khóc ai cùng đương đại loạn thiên lương.
Thống thiết đến thế là cùng. Đôi hàng chữ - hai dòng lệ - vọng âm thanh của tiếng khóc tức tưởi bị dồn nén lâu ngày, đang vật vã trước linh cữu nhạc mẫu vừa quy tiên

Những câu đối của Lãng Mạn Thi Gia Nguyễn Bính (1918 - 1966)

Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Trọng Bính, sinh tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Năm 1947, Nguyễn Bính đi theo Việt Minh, một thời gian sau, nhờ sự mai mối của ông Lê Duẩn, ông kết hôn với bà Nguyễn Hồng Châu. Sau đó ông lại kết hôn với bà Mai Thị Mới, ở ấp Hương Mai, xã Khánh Lâm, huyện U Minh. Năm 1954 theo Hiệp định Genève, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc. Ông về công tác tại Nhà xuất bản Văn nghệ, sau đó ông làm chủ bút báo Trăm hoa. Ông bị đột tử khi đang đi ra ao rửa tay, gục xuống chết ở bên gốc mít tại nhà vào ngày mồng 4 tết.

  • Lúc sinh thời cũng khó khăn về kinh tế, câu đối sau đây đăng ở Báo Phong Hoá, số tết 1934, phản ánh tâm trạng vui mừng của nhà thơ, có một sắc thái riêng:
Tết tung túng tắng tiền tiêu Tết
Xuân siếc sênh sang sắm sửa Xuân
  • Bố vợ Nguyễn Bính là ông đồ sống vào buổi giao thời nên hiểu cả Tây học, cụ quý chàng rể Nguyễn Bính ham đọc sách và biết ngoại ngữ. Một bữa bắt được con ba ba, định bụng gọi chàng rể đến làm thịt, nấu nướng rồi cùng nhau nhâm nhi. Nhưng thấy con rể vẫn cắm đầu vào quyển sách ngoại ngữ dày cộp, cụ lại thôi. Nấu nướng xong xuôi, cụ sang gọi chàng rể: "Ham đọc sách thế là tốt. Nhưng đọc sách thì phải biết vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Ta ra cho anh một vế đối, nếu đối được thì sang đây đánh chén".
Vế ra: Hầm ba ba đã chín
Câu đối quả là hóc búa, vì “ba ba” là con ba ba nhưng cũng là ba lần ba là chín. Chín vừa là tính từ (đã được hầm chín), lại vừa là số 9. Phải đối sao cho có phép tính nhân với tích số mang hai nghĩa như vế đối ra.
Nguyễn Bính đang bí, bỗng có chiếc xe bò chở cát đi qua, bỗng đối lại: Chở cát cát đầy xe
“cát cát” nghĩa là hạt cát, nhưng tiếng Pháp “cát” (quatre) là số 4, “cát cát” là 4x4=16. Tiếng Pháp đọc 16 là seize, đọc là xe, nên “xe” ở đây vừa là cái xe bò vừa là số 16, tích của phép nhân. Thật tài tình! Vế ra chơi chữ tiếng Việt, vế đối lại chơi chữ cả tiếng Việt-Pháp.
  • Tương truyền, nhà thơ Nguyễn Bính từng ra 2 câu đối khá hóc búa như sau:
vế ra: Tập thể giục tập thể dục tập thể (nghĩa là: tập thể, giục tập thể dục tập thể. Ở đây nhà thơ đã lợi dụng chữ Giục là thúc giục để nếu đọc mà không viết thì đồng âm với chữ dục trong thể dục)
vế đối:Ông bà dỗ ông bà giỗ ông bà (Thiền Long) ( Nghĩa: Ông bà này dỗ dành an ủi ông bà kia vì họ đang buồn trong ngày giỗ của ông bà tổ tiên họ; chữ "dỗ" đồng âm với "giỗ" như yêu cầu vế ra)
vế đối khác: Hợp đoàn ca, hợp đoàn ca hợp đoàn. (Nguyễn Sư Giao)
vế ra: TẬP THỂ TẬP THỂ DỤC TẬP THỂ
vế đối: CÁ NHÂN CÁ NHÂN CÁCH CÁ NHÂN (Cá nhân cách : cá ở đây là cá cược)
vế đối: THẦN TƯỢNG THẦN TƯỢNG HÓA THẦN TƯỢNG (Thiền Long) ("Tập thể dục" là cụm động từ có thể được đối bằng cụm động từ " thần tượng hóa". Mỗi người đều có các thần tượng của mình ở các lĩnh vực, bản thân ngôi sao hay thần tượng nào đó cũng có thần tượng riêng khác có thể là ngôi sao hoặc không, khi thích ai đó họ thần tượng hóa người đó lên bằng cách rất khen, rất thích các ưu điểm...).
  • Năm ấy, Nguyễn Bính đi Chợ Chủ định mua đường (Chợ Chủ ở quê Nhà Thơ). Không mua được đường, đi lòng vòng mãi mới về. Ông ra một vế đối mời các bạn đối mà ngay lúc bấy giờ không ai đối được:
vế ra: ĐI CHỢ CHỦ CHỦ MUA ĐƯỜNG. ĐƯỜNG KHÔNG MUA ĐƯỢC, CHỈ TỔ MUA ĐƯỜNG
vế đối 1: VỀ LÀNG TA, TA BÁN NƯỚC. NƯỚC CÓ BÁN ĐÂY , MÀ ĐÂU BÁN NƯỚC (Nguyễn Đình Tự)
vế đối 2: TỚI CHÙA MƠ, MƠ HỌC ĐẠO. ĐẠO CÓ HỌC ĐÂU, MÀ TOÀN HỌC ĐẠO (Nguyễn Đình Tự) (Chữ Đạo cuối có nghĩa là trộm)
  • Có người ra 1 vế đối hóc búa như sau: Chuồng gà kê áp chuồng vịt (Kê áp là động từ nhưng trong tiếng Hán Việt cũng có nghĩa là gà, vịt)
Nhà thơ Nguyễn Bính là người giỏi tiếng Pháp, bảo: ”Câu này khó, phải dùng tiếng Tây mới đối được”. Và ông đối: Chú chuột ra bớp chú bò (Chuột=rat (tiếng Pháp rat đọc là "ra"), Bò=boeuf (tiếng Pháp boeuf đọc là "bớp")
Một người khác đối: Cá diếc tức phường cá mè
“Kê”, “áp”, “tức”, “phường” (HV), cùng nghĩa với “gà”, “vịt”, “diếc”, “mè” (TV). Trong ngữ cảnh thuận, “kê” là đặt, xếp đặt (vật dụng); “áp” là (đặt) sát vào; “tức” là giận, bực; “phường” chỉ tầng lớp người cùng làm một việc, một nghề (hoặc: lũ, bọn), là những từ TV. Do xuất hiện cùng nghĩa, chúng chuyển thành từ HV, theo cách cùng âm TV–HV.
Nhà báo Thái Hòa An ở Tạp chí Thanh Tra có vế đối như sau: Chú chuột thử mẹo chú mèo (Chuột với mèo vốn là kẻ thù thiên địch và lợi thế luôn thuộc về mèo. Nhưng con chuột trong vế đối này đã thành tinh (đang giỡn mặt mèo), nó biết bắt chước hành vi của mèo (mưu mẹo) để kiếm ăn và tồn tại…)
vế đối khác: Con ngựa kỵ hầu con khỉ (Thiền Long) (Phân tích vế ra: Nghĩa từ "kê": là động từ "đặt" vừa có nghĩa Hán Việt là danh từ "gà". Nghĩa từ "áp": động từ chỉ hành động làm cho bề mặt vật này sát bề mặt vật khác, nghĩa Hán Việt là danh từ "con vịt". Phân tích vế đối: Nghĩa từ "kỵ": là động từ muốn tránh, không thích, không hợp vừa là danh từ hán việt chỉ con ngựa. Nghĩa động từ "hầu": là động từ hầu hạ, phục vụ; nghĩa Hán Việt là danh từ chỉ con khỉ. Ý khái quát của vế đối là: con ngựa không thích hầu, không thích chở con khỉ trên lưng của mình. Con vật thì bình đẳng như nhau)
vế đối khác: Chú gấu hùng hổ chú cọp.
  • Một lần, Nguyễn Bính đi đến Đèo Ngang, chợt nhớ đến bài thơ “Qua Đèo Ngang” nổi tiếng của Bà huyện Thanh Quan, xúc cảm và có hai câu thơ cảm khái về địa danh này như sau:
vế ra: Đèo Ngang một dải đang nghèo, chú tiều xưa vẫn chú tiều ngày xưa (Xã Quảng Đông nằm dưới chân đèo Ngang, từng được coi là xã nghèo nhất tỉnh Quảng Bình. Cái nghèo đeo đẳng người dân dài đến nỗi ai cũng bảo do xã nằm dưới đèo Ngang nên bị “yểm”, vì đèo Ngang là “đang nghèo”)
vế đối: Cao Bằng mấy dặm bao cằn, thợ săn giờ cũng thợ săn hôm nào (Hoài Anh Võ Quang Thạch)

Những câu đối và thơ xướng họa liên quan đến Thanh Long Lương Vĩnh Thuật (1918 - 1982)

Lương Vĩnh Thuật là tác giả, đông y sĩ, cư sĩ đạo Cao Đài, đạo hiệu Thanh Long, bút hiệu Hành Sơn, quê làng Kỳ Lam, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay là xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, sau ngụ tại Sài Gòn. Xuất thân trong gia đình Nho học, sau ông nhập đạo Cao Đài thuộc thánh thất Điện Bàn, Quảng Nam từ những năm 1940. Năm 13 tuổi, ở nhà bảo đi quăng một con chuột chết, Ngài xách chuột đi vừa suy nghĩ về loài chuột: sống vô ích, chỉ đục khoắt vách tường, làm hại đời như bọn Lý Hào, quan lại tham nhũng hại dân, hại nước nên làm câu đối để …điếu chuột:

Sống chẳng làm gì, đục khoắt của đời, đời chán ghét
Chết còn có ích, thịt xương thành đất, đất thêm phân

Lương Vĩnh Thuật là bạn thân của Đồng Tử Bạch Tuyết (tức là Lê Ngọc Trang), ái nữ của cụ Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt. cùng làm nhiệm vụ đồng loan, nên hai người thường gặp nhau trong đạo sự Có lần đang đàm đạo sôi nỗi, Bạch Tuyết đột ngột hỏi Ngài một vế đối:

"Thanh Long du bắc hải, vân vũ hà phương?"

Ngài bất giác thấy hay hay, bèn ghép tên bạn đối lại, không kém phần thâm thúy:

Bạch thố quá Nam San, Tuyết sương mãn địa

Từ đó tình bạn giữa hai con người sứ mạng càng thắm thiết, sau khi Ngài Thanh Long quy tiên để lại niềm tiếc thương cho toàn đạo Hội Thánh Miền Trung! Dưới đây là những liễn đối để biết hơn những tháng ngày phụng sự của Ngài cho Đạo:

Giao hảo khắp Nam - Trung, mở nhịp cầu vạn quốc, hoài bão cao xa, Đạo nghiệp còn ghi trang tuấn tú
Đứng đầu tòa Đại Diện, tạo thành tích ngoại giao, tâm trường quảng đại, thế đồ nay rẽ lối vân du
Từ giáo dục nữ lưu, trau dồi Thánh Đức, Anh lớn đã ra công, quyết chí làm nên danh Đại Đạo
Đến phép khuôn tu kỷ, rèn luyện thân tâm, chúng em thường lĩnh hội, tiền đồ xin nối gót anh linh
Năm mươi năm gánh Đạo nặng hoằng, tài đức hai vai, Sứ Mạng Trung Hưng đà rạng vẻ
Sáu tư tuổi nợ đời dũ sạch, quả công vô lượng, bước đường Tiên cảnh vội dời chân
Gương tiết nghĩa rạng ngời, vì Đại hữu tậm tâm, vì Đại Đạo xả thân, chiếu diệu Quang Minh Thiên Nhãn
Đèn từ lành rạng rỡ, cùng Thanh Long chắp cánh, cùng Bích vân tựu cảnh, hồi vi cựu vị Phụ Hoàng
Bao nhiêu năm góp mặt Tứ Linh, Phổ Hóa Trung Châu, truyền Đạo giúp đời, biển công trình trang Thánh sử
Từ mấy độ xây nền Giáo Hội, phá thạch khai sơn, vun bồi hậu tấn, sông Đạo Nghiệp, bậc tài danh
  • Bài xướng của Ngài Thanh Long (1981):

Xuân về

Sáu mươi ba bận đón xuân về
Nhấp rượu mừng xuân lưỡi đã tê
Cửa Đạo Phái Chi từng bậu bạn
Đường đời Nam – Bắc khắp thành quê
Phong sương tuế nguyệt thân càng vững
Sự nghiệp thăng trầm chí chẳng ghê
Ngồi lại bấm tay suy tính …lại!!
Cổ kim thành bại lọ khen chê

Bài hoạ 1 của Ngài Huệ Thanh Vân – 1981:

Thiên Sứ có đi ắt có về
Mùi đời không nếm lưỡi nào tê
Thầy Tiên Bạn Thánh năng lui tới
Chợ quán đường đời chịu phận quê
Thập tử nhứt sanh, tâm chẳng chuyển
Thiên ma bách chiết, chí nào ghê
Cổ kim xét kỹ không lầm lẫn
Thế sự xem thường mựa trách chê

Bài họa 2 của Minh Nhân – 1981

Ban sơ nguồn cội biết quay về
Hướng ngoại cầu Huyền dạ tái tê
Vó ngựa mỏi mòn theo chí hướng
Cảnh hồng lảo đảo biết hướng quê
Non bồng tiếng nhạn còn văng vẳng
Bão phố tình quyên nhớ bộn bề
Đã biết tuồng đời là ảo mộng
Đường tiên men bước mựa khen chê

bài họa 3 của Đạt Đức – 1982

Ai ngỡ rằng Anh sớm vội về?
Đông tàn cảnh vật lắng buồn tê!
Trọn đời tất cả cho Tân Pháp
Một phút nhẹ nhàng lại cựu quê
Thân đã dấn thân, thân chẳng nệ
Chí toan lập chí, chí nào ghê
Mơ hồn Thục Đế cô miên mộng
Thành, thất lẽ thường mặc chuộng chê

Bài họa 4 của Chim Quyên – 1981

Thêm một lần xuân nữa lại về
Vị đời chưa thấm lưỡi đà tê
Bến tu hoa nở thơm tình bạn
Thuyền Đạo trăng đùa thắm nghĩa quê
Người trước vạch đường Tâm đã vững
Kẻ sau theo lối chí đừng ghê
Thảnh thơi sau trước cùng trông lại
Phơi phới hương thiền chẳng chán chê

Bài họa 5 của Tam Anh – 1982

Mới đó mà Thiên Sứ đã về
Trần gian góp lại nỗi buồn tê
Sáng danh thở trước truyền Tân Pháp
Đắc quả ngày nay chốn cựu quê
Bước Đạo dạn dày, thân đã vẹn
Đường đời kham khổ chí nào ghê
Trải bao thử thách muôn trùng ấy
Người vẫn thong dong lọ chán chê!

Bài họa 6 của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh - 2015:

Luân hồi cát bụi đến lại về
Người khuất mà đời vẫn tỉ tê
Hành thiện dịch, y vang tiếng đức
Tu tâm đạo, nghĩa rạng danh quê
Nhọc nhằn mấy thuở, khi nào ngại?
Loạn lạc bao thời, có lúc ghê?
Sống trọn một đời noi hướng tốt
Cần chi soi xét chuyện khen chê

Câu đối của Thi Sĩ Văn Gia Chế Lan Viên (1920 - 1989)

Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn. Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học. Sau 1975, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, thọ 69 tuổi.

  • Lúc sinh thời, nhà thơ Chế Lan Viên ngoài vai trò là nhà thơ nổi tiếng - ông còn làm câu đối rất giỏi dù ít khi ông xuất hiện trong những trang báo xuân. Ông từng nghe anh em nhà văn, nhân viên làm việc ở Báo Văn nghệ phàn nàn: Nhà văn N.Đ, dạo này thường phát biểu rất dài ’’tra tấn’’ anh em, mỗi khi hội họp. Lại thường trích dẫn Lép Tôxtôi (đại văn hào Sô viết). Chế Lan Viên quyết định tìm cách nhắc khéo bạn. Nhân dịp năm mới, ông đến chúc tết N.Đ...biết N.Đ rất ’’kiêu’’ trong lĩnh vực câu đối. Chế Lan Viên ’’nhử mồi’’: "Nghe nói ông rất thích câu đối, hay là chúng mình nhân tết cùng nhau thù tạc một đôi câu nhé, ông ra vế đi". N.Đ trúng kế, hăng hái hưởng ứng: "Đó là ’’đất’’ của tôi. Nhưng ra vế thì dễ, đối lại mới khó. Tôi chưa bao giờ bó tay trước những vế thách của các bạn, ông ra đề, tôi đối lại!" ’’Cá đã cắn câu’’ - Chế Lan Viên nghĩ, mỉm cười, đáp: "Vậy được".
Dứt lời ông đọc: Chắc tôn ông không bằng Lép Tônxtôi
N.Đ nghe xong ’’toát mồ hôi hột’’. Vì ông đã nghe nhiều phàn nàn của anh em trong cơ quan về mình, về chuyện Lép Tônxtôi (Lev Nikolayevich Tolstoy)... Nhưng cái chính, vế ra của Chế Lan Viên quá đặc biệt: Chắc đối với Lép, Tôn ông đối với Tônxtôi. Trong dân gian, người ta thường coi hạt mẩy – là tốt, chắc, còn hạt xấu, hỏng – là lép. Thể hiện sự tốt xấu trong chọn lựa ngũ cốc (Lạc mẩy, Lạc lép, Thóc mẩy Thóc lép…) Còn "Tôn ông" là đại danh từ khi xưa các trí thức quan trường dùng để xưng hô với nhau tỏ vẻ kính trọng, trong khi Tôn xtôi lại là tên riêng của đại văn hào Nga. Ngoài tính chiết tự ra, câu đối còn là lời tuyên bố: Ông không thể nào bằng Lép Tonxtôi nên đừng làm khổ tai anh em nữa, Kiến thức của ông dù có cao thâm (chắc) đến mấy cũng không bằng kiến thức bình thường (lép) của tôi đâu. Ông đồ - nhà văn N.Đ - không đọc được vế đối, chào thua, cười xòa... lảng sang chuyện khác...
vế đối: Sáng bác cậu chẳng hơn Lu Bác-Tớ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Lu Bác-Tớ = Louis Pasteur, nhà khoa học nổi tiếng người Pháp, là người đi tiên phong trong lĩnh vực vi sinh vật học. Sáng đối với lu (mờ). Hai chữ "bác cậu' là đại danh từ dùng trong xưng hô giao tiếp và cũng là đại danh từ mà bác sĩ nữ dùng để nói với bác sĩ nam nhỏ tuổi hơn (bác là bác sĩ, cậu là cậu em) nên vế đối cũng có ý nhắc nhở các bác sĩ phải rèn luyện y đức, không nên tự cao, tự đại, vì trong ngành y sừng sững tượng đài thiên tài Louis Pasteur. Tại Việt Nam, hiện nay có 3 viện chuyên nghiên cứu về sinh học, vi sinh vật, dịch bệnh và vắc xin được mang tên Ông ở thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang và Đà Lạt. Đặc biệt, những con đường mang tên Ông từ thời kỳ thuộc địa đã không hề thay đổi cho đến hôm nay)

vế đối khác: Giàu đỉnh vạc khó sánh Mạc đỉnh Chi (Nguyễn Sư Giao)

Những câu đối của Thi Sĩ Quân Đội Vương Trọng

Vương Trọng tên thật là Vương Đình Trọng, sinh năm 1943 tại Đô Lương, Nghệ An.

  • Hối lộ, lộ rồi không kịp hối!
Tham ô, ô hết có còn tham?
  • Nhà văn Xuân Thiều ăn mừng tân gia, sau bao nhiêu năm ăn ở chật chội trong khu tập thể, bây giờ khi tuổi đã cao nhà văn mới có được một ngôi nhà riêng. Nhà ba tầng, đẹp về kiến trúc. Đầy đủ về tiện nghi. Không những thế, mặt tiền của ngôi nhà lại chính là đường phố Lý Nam Đế. Thật là cầu được ước thấy! Vì không phải chỉ là ở vị trí ấy, gia đình ông có thể mở một cửa hàng buôn bán nho nhỏ để sinh lợi thêm. Mà cái chính là, từ đây, ông có được một điều kiện tối ưu để sinh hoạt và làm việc. Ông có một căn buồng riêng rộng rãi, có một cái bàn viết mở cửa sổ nhìn ra một vòm trời cây xanh mát mẻ, ríu rít tiếng chim và vi vu ngọn gió lành. Bạn bè đến ăn mừng nhà mới cùng ông thật đông. Ai đến cũng có quà mừng. Một bức tượng Thánh Gióng. Một tấm thảm Ba Tư. Một chiếc gương Tầu. Một bộ ấm chén Nhật Bản. Riêng nhà thơ Vương Trọng đi tay không đến. Bắt tay Xuân Thiều xong, nhà thơ nói: "Anh Xuân Thiều. Anh nổi danh là ông Tú Hói trong làng thơ, tác giả của không ít câu đối tài tình. Vậy em tặng anh một vế câu đối để anh đối lại cho vui thôi".
vế ra: Chả lo gì, chỉ lo già
Xuân Thiều ôm chầm lấy Vương Trọng vô cùng mừng vui và thán phục, thán phục vì anh chàng thi sỹ đồng hương giỏi đường chữ nghĩa này sao mà tinh quái! Anh ta đoán trúng tâm trạng nhà văn, sau bao nhiêu năm sống trong vất vả thiếu thốn, giờ đây khi tuổi đã không còn trẻ, mới có được một cơ ngơi như thế này, thì ước ao sở nguyện không gì khác hơn chính là được sống thật dài lâu để làm việc và hưởng thụ. Vế ra hóm hỉnh nọ được quảng bá trong giới chữ nghĩa, hàng chục câu đối lại ra đời. Riêng Tú Hói, tức Xuân Thiều nổi tiếng hay chữ lúc đó còn đang tìm tòi ý tứ. Thì có một câu đối lại của một tác giả vô danh xuất hiện:
vế đối: Nỏ cần chi, chỉ cần no
Xuân Thiều tiếp nhận ngay nó vì ông hiểu ngay rằng, đây là vế đối hoàn chỉnh nhất, mình không cần phải tìm tòi gì nữa! Duy có điều, đọc cả đôi câu đối lên, nhà văn thấy lòng buồn xỉu. Câu đối, cả hai vế đều nói đúng tâm trạng ông. Tâm trạng của một nhà văn luôn biết lo toan việc đời. Ông buồn vì tuổi tác không đợi ai. Ông buồn vì nhân thế: còn biết bao người đang còn phải lo miếng cơm manh áo hàng ngày!
  • Có năm Tết đến, nhà thơ Vương Trọng mua được pháo Bình Đà về đốt cho vui cửa vui nhà. Ai dè giao thừa pháo nổ to quá làm vỡ cả bình hoa đào. Thế là, tức cảnh sinh tình ông nghĩ ra câu đối hay:
vế ra: Pháo Bình Đà phá bình đào

Tết Giáp Ngọ (2014), giá hoa cúc ở Thành phố Buôn Ma Thuột tăng vọt, vợ chồng nọ trồng trúc để bán nhưng không được chuộng nên mơ ước:

vế đối: Trúc Thành Công trông thành cúc (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Thành Công là phường thuộc thành phố Buôn Ma Thuột tỉnh Đắc Lắc)
vế đối khác: "Bánh Hội An bán hội anh" (Thiền Long) (hội anh là nhóm các anh)
  • Các nhà văn và nhà thơ quân đội ở nhà số 4 Lý Nam Đế, Hà Nội là những "ông vua" câu đối và "đối…lái". Có lần, cơ quan liên hoan mừng nhà văn Hồ Phương được phong quân hàm thiếu tướng. Khi được phong cấp tướng, nhà văn Hồ Phương được nhận tiêu chuẩn nhà mới nên nhường lại căn hộ cũ của mình cho một sĩ quan cấp tá. Nhân chuyện này, Đồ Nghệ Vương Trọng bèn nêu một vế thách đối:
vế ra: Nhà cấp tướng, nhường cấp tá
vế đối 1: Khèn dân vip, khiếp dân quèn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối 2: Sân nhà quan, san nhà quân (Thiền Long)
  • Nhân một chàng sĩ quan cấp úy ở đơn vị bạn có vợ bị “vỡ kế hoạch” nên sinh con thứ ba, “Đồ Nghệ” liền ứng tác một vế đối:
“Tạm ứng đôi sao trên cổ bố
Biến thành hai hạt dưới chim con”
  • Nhà Thơ Vương Trọng còn có một câu đối khó như sau: Cứ Khóa Quá Khứ lại, Thời Gian là Than Giời, Mơ Hão chỉ Hao Mỡ, Đỉnh Cao Đảo Kinh người
vế đối:Ngài may ngày mai còn, tháng năm dẫu thắm nan, thích nhàn cứ thàn nhích, văn chương vương chăn màn (Thiền Long)("thàn" có nghĩa là ung dung, "văn chương vương chăn màn" ý nói sự say mê văn chương ngay cả lúc đi ngủ. Toàn ý câu đối gợi ý sự thong thả, trung dung)
  • Nói tới người tham quyền cố vị, không chống lại với quy luật của tự nhiên, “Đồ Nghệ” đã có những câu thơ: “Răng muốn trắng lại đen, tóc cần đen lại bạc, chức quyền chẳng chịu cao, chỉ toàn cao huyết áp”. Hai câu trên của thơ được lấy ra làm thành 1 vế xuất tương đối khó như sau:
vế ra: Răng muốn trắng lại đen, tóc muốn đen lại trắng (Vương Trọng)
vế đối: Bụng mong nhỏ cứ to, ngực mong to cứ nhỏ (Thiền Long)
  • Trong cơ quan Tạp chí Văn nghệ Quân đội có bốn nhà thơ bậc đàn anh: Dũng Hà, Nguyên Ngọc, Hồ Phương, Xuân Thiều, Nguyễn Trọng Oánh có bề dày tác phẩm và tài năng. Vương Trọng cũng có hai câu thơ mang chất đối, sắp xếp quan hệ trên dưới trong Ban lãnh đạo và các tác phẩm của họ:
“Dưới ánh Sao mai/ Khúc sông nghe lời Biển gọi
Trên nền Đất trắng/ Vùng trời ngán cảnh Rẻo cao”

(Sao mai, Biển gọi, Đất trắng, Rẻo cao là tên tác phẩm của bốn nhà văn kể trên)

  • Một lần thấy nhà văn Lương Sĩ Cầm đi cùng một nhà văn có bà vợ không biết tại sao có thói quen hàng tháng cứ đến ngày lĩnh lương thì nhanh nhảu đến cơ quan lĩnh lương của chồng. Vương Trọng biết chuyện liền ra ngay vế đối:
Vế ra: “Lương Sĩ Cầm chắc phải có họ với Lương Vợ Cầm”
Vế đối:"Lộc Thị Đào hình như chung dòng cùng Lộc Chồng Đào (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Lộc Thị Đào là cung thủ số một Việt Nam)

Những giai thoại hay về hò đối đáp

Giai thoại về Tục Đón Đẳng và câu đối giao duyên ở xứ Nghệ

Tục xưa ở Xứ Nghệ, trong ngày rước dâu, dân làng bên nhà gái thường cử người đem một cái đẳng đặt ngang đường vào làng, bên trên bày trầu cau và rượu mừng chú rể. Khi nhà trai tới gặp cái đẳng thì thường phải cho tiền người đón đẳng mới được đi qua. Gọi là tục “đón đẳng”. Xứ Nghệ là vùng đất nổi tiếng chữ nghĩa, nhà gái cắc cớ muốn thử thách nhà trai, không thực hiện tục “đón đẳng” bằng trầu cau, vòi tiền đám rước, mà giăng giây điều ngang đường treo một vế đối. Gặp trường hợp này, nhà trai phải cử người ra viết được vế đáp thì mới được đi tiếp để rước dâu.

  • Ở Hội Thống (Nghi Xuân) còn lưu truyền giai thoại có đoàn đi đón dâu thì bị nhà gái treo một cái sáo mành đề vế đối:
“Vườn cả ao liền, ruộng sâu trâu đực thiến”

Nhà trai cử người ra đối, hiềm nỗi nắng gắt chẳng nghĩ ngợi được gì, mới phát khùng cự nự “Trai lành đi hỏi vợ lại bảo thiến? coi thường người ta quá, thôi không đối nữa!”. Hiềm nỗi “không đối nữa” thì cả đoàn rước dâu cũng không đi tiếp được nữa. May thay, có anh đồ nho đi đằng sau đám rước, thấy nhà trai bí bách, bèn lẳng lặng tiến lên cầm bút đề:

“Cơi vàng điếu khảm, đàng nhựa ngựa dong cương”
  • Bên Nam Đàn có câu chuyện: đám rước dâu từ làng Trung Cần tới làng Dương Liễu. Lúc đi qua trên đê, nhà gái cho người xướng vế đối:
“Gái Dương Liễu, đi chợ Liễu, mặt hoa mày liễu, trông đẹp như tiên”

Trong đám rước dàng trai lập tức có người ứng khẩu:

“Trai Nam Hoa, đỗ Thám Hoa, áo gấm thêu hoa, ăn nhờ lộc thánh”

HÒ ĐỐI ĐÁP NAM NỮ Ở BÌNH TRỊ THIÊN

Sinh hoạt hò đối đáp nam nữ ở Bình Trị Thiên được thể hiện trong lao động tập thể, trong các hình thức giải trí vui chơi, và ngay trong các ngày hội lễ, mặc dù tính chất trang nghiêm, nhưng không vì thế mà hò đối đáp không được sử dụng. Mở đầu loại hò này là lời thách hò, mời đối thủ, tiếp đến là các tay hò đối đáp các điển cũ, tích xưa, hoặc các hiện tượng đang xảy ra trong xã hội đương thời, dưới đây là cuộc hò của lối hò giã gạo được tổ chức tại hội chợ Huế năm 1939.

Gái: Đêm hăm lăm tháng hai năm Mão, Quanh trường giã gạo giữa chốn ba quân. Bạn mày râu ai giỏi quốc văn, Về đây tranh giải với bạn thoa quần thử chơi
Trai: Gái Tây Thi chẳng ai bì bên nước Việt, Gái Văn Khương lại ở bên nước Tề. Nực cười cô gái nhà quê, Đến đây có dám trổ nghề văn chương
Hình thức hò đối đáp nam nữ cũng có mặt trong ngày “hội cầu mùa” tại làng Hà (xã Bảo Ninh - Bình Trị Thiên) trong ngày hội, dân làng Hà tổ chức “Hò khoan chèo cạn” và múa bông. Nội dung chủ yếu của các câu “hò khoan chèo cạn” là ca ngợi công đức của cá ông voi, nhưng xen kẽ có nhiều câu đề cập đến quê hương đất nước, phô diễn tâm tư tình cảm của người dân. Đoàn hát múa “hò khoan chèo cạn” toàn là nữ, xinh đẹp, chưa chồng xếp thành hai hàng đối nhau. Hai người hò cái, một nam một nữ (không kể đã có vợ hay chồng) cầm cặp sênh giữ nhịp, điều khiển. Tính chất trữ tình trong hát hội “hò khoan chèo cạn” được thể hiện qua câu hò đối đáp nhau giữa hai người hò cái nam và hò cái nữ, liên tục cho đến khi kết thúc buổi trình diễn.
Nữ: Em lên lưng voi em hỏi cái đường vạn tượng, Tay em lại dắt dê hỏi chốn lan dương. Đố anh mà đối đặng em cho soi gương vàng.
Nam: Dây bí ngô trèo trên cây trụ tàu, Cờ thượng mã phất sau đuôi ngựa. Anh đối đặng rồi lật ngửa gương ra.
Trong các câu đối đáp trên các từ cùng nghĩa khác âm được sử dụng là: voi-tượng; dê-dương; ngô-tàu; mã-ngựa.
Nữ: Quan Thừa Thiên thì mang áo địa ,Lính đông Hải đội nón dầu sơn. Trai nam nhi đối đặng, thiếp xin Kết nghĩa tấn tần ngàn năm.
Nam: Gái nước Nam buôn hàng thuốc Bắc, Trai Đông sàng cảm động miền Tây, Anh đã đối đặng, em rày tính sao.
Hai câu hò trên đối nghĩa ở các từ: Thiên - địa; Hải - sơn; Nam - Bắc; Đông - Tây.
Nữ: Liệu mà đát đặng thì đan, Chứ đừng có gầy ra mà bỏ đó thế gian chê cười
Chàng trai Bình Trị Thiên đã dùng những tiếng nhà nghề rất hóm hỉnh mà ngắn gọn: Anh đây đan cũng giỏi mà đát cũng tài, Lận thì nhún trên nhún xuống, nứt thì chui ngoài chui vô

Hò đối đáp ở Bình Nam (Thăng Bình - Quảng Nam)

Đất Thăng Bình vốn từng là kinh đô của người Chăm: “năm 875 khi người Chăm chuyển đô từ Virapura-vùng đất nam Champa ra vùng đất phía bắc, họ đã định đô tại đây với tên kinh đô mới là Inđrapura. TƯƠNG truyền, thời trước, cứ vào những đêm trăng thanh, gió mát, lúc mùa màng rảnh rỗi, ở trước đình làng, nam thanh niên nữ tú lại tụ tập hát hò khoan. Hát để chọc ghẹo nhau, thử tài nhau… Cũng từ những buổi hát hò khoan đáng nhớ ấy, nhiều đôi trai tài, gái sắc đã mến nhau, nên duyên vợ chồng. Đáng chú ý, xung quanh chuyện hát hò khoan ở Bình Nam (Thăng Bình) có một số câu chuyện kể khá thú vị, hấp dẫn. Hồi nửa đầu thế kỷ XX, thanh niên Bình Nam thường qua làm quen với nhóm nữ làng Trà Sơn. Cứ chiều tối, họ rủ nhau năm, ba người băng qua một ngọn núi cũng có tên Trà Sơn để đến làng Trà Sơn. Trong quá trình giao du, họ thường lấy hò khoan để làm quen nhau, chọc ghẹo nhau, rồi kín đáo… tỏ tình nhau. Một lần nọ, không biết ai bày biểu thế nào, trong một đêm hát hò khoan đối đáp, có một cô gái ở Trà Sơn ra câu đố khá độc:

“Hò… ơi!/ Chớ trai Trà Sơn gánh củi Trà Sơn/ Sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt/ Anh đối đặng rày nhật nguyệt giao cho/ Hố hợi là hò khoan…”.

Xưa, chữ Hán hãy còn phổ biến trong tầng lớp nho học. Người có học, học giỏi hay dùng chữ Hán, sử dụng điển tích để đàm đạo, trò chuyện lẫn nhau. Thế cho nên, tiếng Hán cũng len vào… hò khoan đối đáp (còn gọi là hát kiến tại). Trong tiếng Hán, hai chữ “sơn” viết chồng lên nhau thành ra chữ “xuất”. Cho nên, mới có câu “Sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt”. Câu hát đố khó là khó chỗ đó. Nó bắt người giải phải tìm ra chữ nào tương tự để đối lại. Mà, đối được, con gái Trà Sơn mới “…rày nhật nguyệt giao cho”, nghĩa là chấp nhận làm quen với trai xã Bình Nam. Nhưng đối được rõ ràng không phải là chuyện dễ. Dĩ nhiên, đám thanh niên Bình Nam bị bất ngờ,không giải được, hậm hực ra về. Đã thua, họ tức lắm. Mà thua “mưu” con gái thì ra thể thống gì, ăn nói làm sao, rồi… tán tỉnh sao được? Thế nên họ quyết chí “phục hận”. Nói đúng hơn, họ phải nhờ “quân sư” là người học giỏi, thành thạo hát đối đáp, giỏi chơi chữ, để giúp đỡ. Đó là ông thầy Bảy, thầy dạy chữ Hán trong làng. Tối hôm sau, họ rước thầy đến làng Trà Sơn để thầy mách nước. Y như rằng, mấy cô gái kia hát lại câu cũ. Nghe xong, thầy ghé tai nói nhỏ với đám thanh niên Bình Nam. Nghe xong, một anh thanh niên Bình Nam hát hay nhất mới đứng lên cất giọng:

“Hò… ơi!/ Gái nguyệt ba dạo chơi ba nguyệt/ Nguyệt nguyệt bằng quỷ khóc thần sầu/ Anh mà đối đặng thì thiếp làm dâu nhà chàng/ Hố hợi là hò khoan”.
Câu đối quá hay. Khi anh thanh niên hát vừa xong, mọi người vỗ tay rầm rầm. Thì ra, để đối lại câu “Sơn sơn xuất anh hùng hào kiệt”, ông thầy Bảy liền ứng câu “Nguyệt nguyệt bằng quỷ khóc thần sầu”. Trong chữ Hán, hai chữ nguyệt viết liền kề nhau thành ra chữ bằng. Bằng ở đây có nghĩa là bằng hữu. Có thể nói, câu đối lại khá hoàn chỉnh. Đám trai làng hỉ hả vì đối được vế đối của con gái làng Trà Sơn. Nhờ đối được mà họ giữ được thể diện và các “nường” mới chịu kết giao. Từ giai thoại đối đáp này chúng ta liên tưởng đến câu đối của Hồ Xuân Hương và Dương Trí Tản, cũng theo lối bẻ chữ tương tự.
  • Ca dao về tình yêu lứa đôi của các chàng trai, cô gái miền biển hay miền đồi cũng đều chứa chan cảm xúc yêu thương, khát khao hạnh phúc, niềm tin sắt son vào lòng chung thủy, nghĩa đá vàng. :Với cô gái vùng Đông thì: Thương anh ruột sát liền da, Mà anh không biết tưởng là đói cơm
Với chàng trai vùng Tây thì: Hoa thơm xuống đất cũng thơm, Em giòn áo rách, đói cơm cũng giòn

Chuyện rằng thấy đám trai làng bên cứ qua tán hoài, nhóm nữ làng nọ không ưa, liền mượn chuyện hát đối đáp để “tống khứ” mấy anh này đi.

Vậy là một cô cất giọng hát: “Hò… ơi!/ Anh ra làm chi mỗi tháng mỗi ra/ Anh ra một lượt cực em ba bốn ngày/ Hố hợi là hò khoan”.
Chúng ta cũng biết, chị em mỗi tháng có “một kỳ khó ở”. Chuyện hoàn toàn có thực. Nhưng, cái “độc” ở đây là mượn sự việc có thật đó để ám chỉ mấy anh đến chơi làm phiền quá. Quả thật, nhóm nữ làng nọ không phải tay vừa.
Tưởng đám thanh niên thua một bàn trắng. Nhưng không, bỗng có một thanh niên đứng lên, dõng dạc đối lại: “Hò… ơi!/ Tam Kỳ, Đại Lộc, Phú Yên, Khánh Hòa/ Chốn kinh kỳ là chốn nhạc gia qua ở thường/ Không đi thì ổng nhớ bả thương/ Còn phận anh là rể xa đường quản chi/ Đi thời phải sắm lễ nghi/ Có lần ổng trả có kỳ ổng ăn luôn/ Không đi cha ổng nghĩ mẹ ổng buồn/ Ổng có ra thăm cháu em nhớ chống chiếc xuồng cho cha vô/ Cha vô năm ba bữa cha buồn/ Ổng có trở về nhạc mẫu em nhớ chống chiếc xuồng cho ổng ra/ Hố hợi là hò khoan”.
Theo luật đối thì bên gái đọc 1 câu thì đằng trai cũng chỉ đọc 1 câu mới thắng, ở đây lại phải ra đến mấy câu thì rõ là lép vế nếu như ta không nói rằng thua, gần đây có ông Hoài Anh Võ Quang Thạch đã đối lại rất tốt như sau:
Vế đối : " Em ngỏng đợi gì vài ngày vài ngỏng, em ngỏng xíu lần sướng anh năm bảy bữa " (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • Khi đám thanh niên qua hát hò khoan đối đáp với nhóm nữ làng bên lại trêu ghẹo chị em thái quá, một cô gái muốn “dạy” cho đám thanh niên bài học mới cất tiếng hát:
“Hò… ơi!/ Thân em như bộ lư đồng đỏ bên Tàu/ Chở qua Nam Việt lựa nhà giàu bán chơi. Hố hợi là hò khoan...”.
Xưa, nồi đồng, mâm đồng và đặc biệt lư đồng, nhất là lư đồng bên Tàu đem sang rất quý. Nhà giàu có, dư ăn dư để mới sắm nổi. Mượn lư đồng, lại là lư đồng bên Tàu, ý người nữ ở đây đề cao mình, cho mình cao sang, đám trai làng không dễ gì “tán tỉnh” nổi.
May mà trong số đó, có một anh đối lại được: “Hò… ơi!/ Thân anh như thằng ăn trộm cắt rào/ Đụng lê anh cũng bẻ gặp đào anh cũng quơ/ Anh đánh ngạch vô thấu bàn thờ/ Trước anh quơ đồ lặt vặt sau anh rờ bộ lư/ Hố hợi là hò khoan...”.
Xét về luật thơ thì các cô gái ra 1 câu lục bát mà bên nam phải đối tới 2 câu, như thể vẫn phải kể là thua.
vế đối: Hò hơ… ! Phận anh tựa cây đèn vàng xứ Việt / Tọa trên lư Tàu Khựa sao sướng thiệt là tê ! Hò hơ ớ hơ…! (Thiền Long) (Lư đồng bên tàu dẫu quý nhưng về Việt Nam chỉ là cái bệ cho cây đèn Việt tọa lên trên mà thôi. Thực tế bộ lư phải có bộ đèn được gắn trên đầu)

Những giai thoại hò đối đáp ở huyện Tiên Phước tỉnh Quảng Nam

  • Hát hò khoan đối đáp nam nữ ở Tiên Phước xưa thường được lồng vào các buổi lao động tập thể, thể hiện sắc thái lao động ngành nghề đặc thù của địa phương như những đêm kẹp quế, ươm cây, bửa cau, lựa tiêu…Xã Tiên Châu có một phụ nữ tên là Bốn Lư có tiếng là một người, gọi theo ngôn ngữ hiện đại, là rất “chảnh”. Thời xuân sắc, cô Lư thường hay qua chơi ở Tiên Mỹ. Vốn xinh đẹp, lại hát hay, giỏi đối đáp nên cô ta tỏ ra kiêu kỳ, vì thế đám trai làng ở Tiên Mỹ không ưa gì cô ta mà hễ cứ có cơ hội là trêu chọc. Trong một buổi hát hò khoan đối đáp tại Tiên Mỹ, cô ta đã ra câu hát như thách thức đám trai làng Tiên Mỹ:
“Lư này bịt ở bên Tàu, đem qua dạo xóm nhà giàu bán chơi”
Quả là cao ngạo! Cái hay trong câu hát của cô Lư là tuy nói về bộ lư, nhưng chính là để tự ví với mình vốn cao sang thích hợp với những gia đình giàu có và qua đó còn cho đám trai làng Tiên Mỹ biết được tên mình nữa.

Không ngờ vỏ quýt dày có móng tay nhọn, trong đám thanh niên trai tráng có một anh chàng lém lĩnh ứng tác hát đáp lại ngay:

“Tôi là thằng trộm nhất làng, mít với thơm cũng hái lựu với bòng cũng quơ. Đào cái ngạch tới tận bàn thờ, của cải tôi bưng hết chẳng thèm rờ bộ lư!”
Quả là cao tay ấn! Câu đối đáp của chàng trai đã làm cho thói cao ngạo của cô xì xuống như cái bong bóng xẹp. Ngay cái anh khố rách áo ôm phải đi ăn trộm vặt từ mít, thơm, lựu, bòng… đến những đồ thờ cúng trên bàn thờ cũng quơ luôn nhưng “chẳng thèm rờ bộ lư” cũng đủ để cho cô Lư biết cô ấy mất giá như thế nào. Hổ thẹn, cô Bốn Lư chỉ còn biết bỏ buổi hát, quày quả ra về. Từ dạo đó cô Bốn Lư kia ít qua lại Tiên Mỹ và cũng không còn dám cao ngạo nữa.

Tuy nhiên theo luật đối thì cô Lư vẫn không thua, bởi cô ra vế bằng 1 câu lục bát mà anh kia phải đối bằng 2 câu. Năm 2014, có người là Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đã đối lại câu này rất hay như sau:

"Bàn thờ đèn cặp chén đôi, riêng lư dang dở đơn côi cả đời"
Ý trêu cô Lư hay ho thế, ra vẻ đắt giá thế nhưng lại cô độc mà thôi, có Lư nào mà chung một cặp sánh đôi cạnh nhau đâu. Thà làm đèn thường chén thường mà có đôi có cặp còn hơn...
  • Một trường hợp tương tự cũng đã xảy ra ở thôn Đa Tài, xã Tiên Phong. Đó là chuyện về hai mẹ con cô Điểu-chủ một nhà buôn cau. Cô Điểu là con một nhà buôn khá giả trong vùng, đẹp gái lại rất giỏi hát đối đáp. Mẹ cô (do gọi theo tên con theo phong tục ở quê nên cũng có tên là bà Điểu) rất giỏi hát đối đáp, trong các buổi hát vẫn thường hay ngồi bên kèm cặp cho con gái hát. Qua câu hát, cô Điểu luôn tự đề cao mình, thanh niên thôn Đa Tài và các thôn, xã lân cận chịu thua, hát không lại, nhưng trong bụng ghét lắm. Có một chàng trai trong thôn đã từng theo dõi mẹ con cô Điểu nhiều lần trong các buổi hát đối đáp, nhưng do khả năng hạn chế nên chưa bao giờ dám công khai lâm trận đối đầu trực tiếp với mẹ con cô. Sau khi tìm thầy thọ giáo các “ngón nghề”, chàng trai lại đến sân hát, đem theo một chậu hoa nhỏ rất đẹp tặng hai mẹ con cô Điểu. Đến lúc vào buổi hát, sau khi ngồi nghe hai mẹ con đua nhau lên giọng véo von hồi lâu, chàng trai mới bắt đầu hát lại. Đoạn đầu, chàng trai tỏ tình, ca ngợi vẻ đẹp của cô Điểu, qua đoạn sau, anh ta vừa mang ra tặng hai mẹ con cô một cây hoa rất đẹp nhưng thân lại đầy gai có tên là “điểu bất thê”, vừa thâm trầm chốt lại bằng câu hát:
“Sá chi loài điểu bất thê, chim không chỗ đậu, dụng về làm chi”
Câu hát khá độc đáo vì lối chơi chữ mang nhiều ẩn dụ. “Điểu bất thê” có nghĩa là chim chẳng đậu. Chẳng đậu vì loại hoa này thân đầy gai nhọn khác nào ngầm so sánh cô gái đẹp tên Điểu kia cũng độc địa như những gai nhọn nọ nên “dụng về làm chi”. Một tầng nghĩa khác của lối chơi chữ là “điểu bất thê” lại hàm ý cô Điểu không thể cưới về làm vợ được (bất thê: chẳng là vợ). Hơn thế nữa, đây còn là cách nói lái của người Quảng Nam, “điểu bất thê” nói lái lại thành để bất thiu, một lời xiên xỏ cô Điểu nếu mà còn kênh kiệu, cao ngạo thì chẳng có ma nào dám rước nên cũng có lúc cũng bị thiu, bị thối mà thôi. Thật là không có lời chê bai nào độc hơn đối với cô gái!

Đến đây thì mẹ con cô Điểu ngượng tím mặt, bà mẹ vội kéo con gái đứng dậy: “Thôi, khuya rồi! Đi ngủ, để mai làm tiếp”. Và mọi người còn lại thì hả hê, cười thầm trong bụng. Cũng trong năm 2014, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đối đáp là :

"Dở người anh kê bất phu, gà không bắt được gây thù chuốc oan"
Chữ "phu" có nghĩa hán việt là "bắt được" và nghĩa là "chồng" (phu quân). "Kê"nghĩa là con gà. "Kê bất phu" nghĩa là con gà không bắt được (thứ mình muốn). Trêu gái là trêu thế nhưng có khi vì nhắm chừng không chinh phục được nên sinh ra ganh ghét mà chọc phá. Nếu vế ra có nghĩa "bất thê" là "chẳng là vợ" thì ở vế đối đáp "bất phu" còn có nghĩa chẳng là chồng, chẳng phải là đấng trượng phu. Ngoài ra "kê bất phu" khi nói ngược lại thành "cu bất phê" (cu dởm), ý mỉa mai không biết có phải là đàn ông thực sự không. Như vậy "kê" (gà) đối với "điểu" (chim), "thê" (nghĩa là "vợ" và động từ "đậu") đối với "phu" (nghĩa là "chồng" và động từ "bắt được"). Theo Thiền Long, đối vậy là chuẩn đa ý.

Hò đối đáp ở đồng bằng sông Cửu Long

Miền đồng bằng sông Cửu long, vào mùa cấy các thợ cấy nam nữ vừa làm việc vừa vui đùa qua chuyện tiếu lâm, hoặc qua những câu hò đối đáp giữa hai nhóm nam nữ.

Có lần phe nam hát: Thấy em gò má ửng hồng, phải chi em đừng mắc cở thì anh bồng em hun.
Phe nữ bốp chát luôn: Em là cục cứt trôi sông, anh là con chó ngồi trông trên bờ
Hò mí hay hò mép là hò đối đáp, thách thức, dòng do xuôi ngược, nói lái úp mở nói lên cái ẩn dụ của mình, miễn xuống câu ăn vận, đúng điệu là được.
Đằng trai lại hát: Nước Tân Ba chảy ra Trà Cú, em cấy khum lòi vú anh muốn hun
Phe nữ đáp: Phú Điền có chị Tám Hai, thuyền quyên hò mí đối trai anh hùng
Tân Ba, Trà Cú, Phú Điền là những địa danh ở vùng đồng bằng Cữu Long. Mới đọc câu chót ít ai để ý đến tiếng lái vì gái thuyền quyên mà đối "trai anh hùng" thì rất là thuận tai và thuận nghĩa. Nhưng "đối trai" nói lái là đái trôi, vừa có nghĩa đen rõ ràng, khỏi giải thích, vừa có nghĩa bóng là phe nữ có cách hò thắng phe nam một cách dễ dàng.
  • Giai thoại khác cũng ở Miền Tây Nam Bộ:
Đằng trai ra: Xứ Thủ Đức năm canh thức đủ, kẻ cơ thần trở lại Cần Thơ! Tương tư hồn mộng dật dờ, đành nào em nỡ buông lờ quên nơm?
Đằng gái đối: Người Chợ Thủ chuyên nghề thủ chợ, dân hiền ta về xứ Hà Tiên! Bề nào cũng mặt thuyền quyên, thương ai để bụng, chính chuyên phận mình!
  • Đối đáp theo phép chơi chữ:
Bên gái ra: Mấy lời trỏ trẻ trây tra, nỉ non duyên trước dần dà tình sau (câu này ý nói: mấy lời non nớt bây ba để tì tê tâm sự cùng nhau rồi sau này sẽ tiến tới tình ngãi với nhau. Nhưng chỗ làm người ta khó đối nhất là tiếng trẻ, tra, non, dà cùng những tiếng đi cặp đôi với nó)
Bên trai đối: Đừng còn láo lớn tăm tiu, tỉ to chuyện vắn đìu hiu tình dài (Ở đây cũng có các chữ: Lớn đối với Tiu, Vắn đối với Dài)
Đằng gái lại ra: Mấy phen tri kỷ biết mình, trăng nhâm gác ngõ, gà canh gáy dần (Trước hết hãy nói về một chữ kỷ ở nửa trên câu ví. Cùng một âm mà ở trong câu này chữ kỷ đã biến thành ba chữ và ba nghĩa khác nhau. Kỷ là mấy, kỷ là mình, lại còn chữ kỷ thuộc về bộ can chi để cùng đi luôn một chuỗi với nửa dưới câu ví: nhâm, ngọ, canh, dần)
Đằng trai lại đối: Chưa khi hương vị ngát nồng, bóng dần trước dậu sao đông láy đoài (Chữ vị trong câu này cũng gánh đủ ba nghĩa như chữ kỷ của câu ví trên. Vị là chưa, vị là hương (mùi), lại còn chữ vị trong bộ can chi để cùng một chuỗi với dần dậu, đồng, đoài. Mà ý nghĩa của câu ví cũng đã họa lại cùng nhau rất chỉnh)
  • Câu đối nói lái mà đôi trai gái khéo léo gởi gắm tình cảm cho nhau:
Trước hết, người con gái thố lộ: Cam sành nhỏ lá thanh ương, ngọt mật thanh đường nhắm lớ, bớ anh!
Cảm thương vì “thương anh” mà “nhớ lắm” của nàng nên chàng hứa hẹn: Thanh ương là tuổi mong chờ, một mai nhái lặn chà quơ, quơ chà (Có nghĩa: Qua muốn “nhắn lại” với bậu là nếu “thương anh” mà bậu “chờ qua” thì “qua chờ” bậu)
  • Trong một lễ hội dân gian, bên gái có lời hát như sau:
vế ra: "Hò hơ… Con cá đối nằm trên cối đá, con mèo đuôi cụt nằm mút đuôi kèo. Anh mà đối đặng… ơ.. ờ Hò hơ…Anh mà đối đặng, dẫu nghèo em cũng ưng".
Chàng trai đối lại: "Hò hơ… Chim mỏ kiến(g) đậu trên miếng cỏ, chú chim vàng lông đáp dựa vồng lang. Anh đà đối đặng ơ… ờ Hò hơ…Anh đà đối đặng, hỏi nàng có ưng chưa?"
Bản thân các câu đối của cả hai vế trên nó đã là câu đối hoàn chỉnh, được đôi trai tài gái sắc gộp lại làm câu hò đối đáp giao duyên

Bên gái lại xướng:

vế ra: Bánh cả thúng răng gọi là bánh ít, trầu cả khay răng gọi trầu không? Muốn cho cầm sắt hợp đồng, trai nam nhơn đối đặng mới thỏa lòng nữ nhi?
Đằng trai đối lại: Con cá chưa tra răng gọi con cá móm, cá nằm giữa chợ răng gọi cá thu? Trai nam nhơn đối đặng, nàng phải chịu làm du cả đời!
Đằng trai có lời đối khác: Chuối không đi Tây răng gọi là chuối sứ, cây không biết chữ răng gọi cây thông? Trai nam nhơn đối đặng, mau theo chồng về ngay!
“Cả thúng”, “cả khay” (nhiều), trái với “ít”, “không (có)” trong bánh ít, trầu không; “chưa tra” (chưa già: trẻ; trẻ thì không móm miệng”), “nằm giữa chợ” thì ai cũng thấy trái với “thu” (thu lại giấu đi). “Không biết chữ” (dốt), trái nghĩa với “thông”, trong cây thông

Bên gái tiếp tục xướng:

vế ra: Cây săng trên rừng không ai kêu mà cây săng dạ, cây mít dưới khe không ai kiện mà cây mít nài? Trai nam nhi anh đối được, hẹn ngày mai em về?
Đằng trai tiếp tục đối: Cái phên trước nhà không ai mời sao gọi là phên cáo, cái giại sau hè không ai gọi răng cái giại thưa? Trai nam nhi đối được, xin đưa em về.
Các cặp y -> Y (do y mà dẫn tới Y): kêu (gọi) -> dạ, kiện -> nài, mời -> cáo, gọi -> thưa

Bên gái vẫn chưa chịu thua:

vế ra: Nước không chân sao gọi là nước đứng; cá không giò sao gọi là cá leo? Anh mà đáp trúng, em thả chèo đợi anh?
đằng trai cũng chẳng phải tay vừa: Ghe không tay sao kêu ghe vạch; Bánh không cẳng, sao gọi bánh bò? Anh đà đáp trúng, nói ngay giờ em nghe!

Những câu đối có sự tích nhưng khuyết danh

Câu đối xuất hiện thời kỳ Miền Nam đi trước về sau (1858 - 1975)

  • Vào ngày giáp tết, một tên Tây đoan (thuế vụ) dẫn lính về làng lùng bắt rượu lậu. Thấy trong đình làng tụ tập đông người, hắn liền chỉ gậy ba-toong hách dịch hỏi, dân tụ tập làm gì. Một cụ già trả lời rằng đang họp nhau làm câu đối. Mắt tên Tây sáng lên như…đèn pha. Nhìn thấy giữa sân có một cây mít, hắn liền đọc to: Đình tiền định lập vô tri thụ

Các cụ không ngờ thằng Tây thạo cả chữ Hán. Thằng Tây cười đắc chí nhưng đang bận công vụ phải đi, nó hẹn một canh giờ sau trở lại nghe vế đối. Các cụ cũng nhức óc, bí tịt, không biết đối ra sao. Câu đối của thằng Tây nghĩa là: "Trước sân sừng sững một cây không biết (Oái ăm thay hắn lại chơi chữ “cây mít” nó gọi là “cây không biết”, tiếng việt còn có nghĩa là Mít Đặc có ý khinh dân ta dốt)

Một lúc sau thằng Tây quay trở lại, bỗng ở phía sau sân đình một con gà sống (trống) cất tiếng gáy lảnh lót. Một cụ già sáng trí, đứng lên dõng dạc đọc vế đối: Bích hậu tường minh bất tử kê (Nghĩa là sau tường rõ ràng nghe tiếng gáy của con gà bất tử. Cụ chơi chữ thật cừ. “Bất tử kê” là con gà sống (không chết), đối lại với “vô tri thụ” (cây không biết). Thật chỉnh cả ý lẫn lời.

Vế đối khác: Quốc trung, tồn tại bất nhân cẩu (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)(Nghĩa là trong nước nhà đang chứa bọn chó không phải người. "bất nhân cẩu" là con chó không phải người (tất nhiên đã là chó thì không phải người, giống như con gà còn sống đang gáy nghĩa là con gà không chết vậy. Quốc gia nào chẳng nuôi chó, ở Việt Nam làng nào mà chẳng có chó. Mượn chuyện thực tế có chó để chửi quân tây thực dân lúc ấy)
  • Thời Pháp thuộc để mỉa mai thói học đòi, các nhà Nho đã dùng từ ngữ “nửa ta, nửa Tây” trong 1 bài thơ nói về “bồi Tây, me Tây” sau đây:
vế ra: Lạnh lùng một mảnh sơ – mi, Li – ve trằn trọc lơ – li một mình, Loăng – tanh ai có thấu tình, E – me đến nỗi thân hình biềng pan! (Chemise: áo lót. L’hiver: mùa đông. Le lit :cái giường. Lointain: xa xôi. Aimer: yêu thương. Bien pâle: rất xanh xao)
vế đối: Nóng nực tám đứa Tuy-đân, Ê-tê thao thức lê-vân lặng trời, Rét-kê người lại chê cười, Át-si chi lắm cuộc đời Tẹc-rê! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Tuy-đân = Étudiant = sinh viên, Ê-tê = Été = mùa Hạ, Lê-vân = Le vent = gió, Rét-kê = Presque = gần, Át-si = Assidu = siêng năng, Tẹc-rê = Terreux = vàng vọt)
  • Thời Pháp thuộc, còn có 1 vế ra mỗi câu đều độn tiếng Pháp như sau: Sao toa vội gót trở Ăng-phoong, bạc bẽo làm chi hỡi đi-đoòng, chắp cánh bay cao lòng cá-nác, dừng chân đứng lại phận cô-soong, sụt sùi moa những nhìn la-pốt, năn nỉ sừ ơi nỗi lạc-gioòng, một tiếng ô-voa không kể xiết, xa người xa cả cán ba-toong (Ăng-phoong (en France): về Pháp; đi-đoòng (dis-donc): vậy, hãy nói đi; cá-nác (canard): con vịt; cô-soong (cochon): con lợn; la-pốt (la poche): cái túi, cái ví; lạc-gioòng (l'argent): tiền bạc; ô-voa (au revoir): tạm biệt; ba-toong (bâton): cây ba-toong)
vế đối:(Tiếng Anh) Thôi thế vì "Ay-mễ-rí-khềnh", Dở dang đâu nữa lúc cùng "phênh", bại binh về nước sầu "đề-khẹch", mất mộng, lìa đôi thảm "chít-kềnh", than thở "ai" còn mong "hit_lớp", cò kè "du" gắng tặng "đai-mênh", xót xa "gút-bái" sao mà khó, chàng chạy, chạy tiền, chạy cả "ghênh" (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)(Bài thơ nói về những cô gái lấy lính Mỹ chỉ với mục đích tiền bạc thời chiến tranh Việt-Mỹ, "Ay-mễ-rí-khềnh" = American = người Mỹ, "phênh" = fun = vui,"đề-khẹch"=the cat=con mèo (ý châm biếm : mèo mả gà đồng),"chít-kềnh"=chicken=con gà;"ai"= I = tôi; "hít-lớp"= his love = tình chàng ấy; "du"=you=anh, chàng (ngôi số 2); "đai-mênh"= diamond= kim cương, hột xoàn; "gút-bái"= good bye= tạm biệt;"ghênh"=gun=súng (hai nghĩa giống ý cây ba-toong của vế ra; các câu có sử dụng từ láy)
  • Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, ở Tây Bắc, vào một buổi xế chiều có một cán bộ đi họp trên Bộ… Đang đi trong đầu ông chợt nảy ra 2 vế đối như sau:

1 - Câu thứ nhất:

vế ra: Đi bộ lên bộ hỏi bộ, bộ giở bộ, vậy chứ bộ!
vế đối 1: Ông Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối: Gài gà xem gà đá gà, gà lại gà, đúng quáng gà! (gài gà (đối thủ) xem gà đá để đá gà, đối thủ ấy lại gà (gạ gẫm) ngược lại mình, đúng là quáng gà)
vế đối 2: Nhảy cò tìm cò dụ cò, cò lừa cò, thế mới cò! (Thiền Long)

2 - Câu thứ hai:

vế ra: Cán bộ bộ binh, điệu bộ đóng bộ đi bộ lên bộ
vế đối 1: Ruộng nước nước bạn, con nước thiếu nước, mách nước giúp nước (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối 2: Bẫy cò cò ốc, lẫy cò gài cò giương cò đợi cò (Thiền Long)(Bẫy cò có cái lẫy cò được gài vô cái cò, khi con cò đạp trúng cái cò, cái bẫy sẽ bung lẫy làm sập bẫy lại).
  • Năm 1964, không lực Hoa Kỳ leo thang đánh phá miền Bắc. Vì bị bom đạn ngày đêm bắn phá nên buộc lòng quân ta phải đi qua dải Trường Sơn mượn đường nước bạn Lào, bấy giờ có loại thuốc lá Trường Sơn thịnh hành nhất nhưng cũng không đủ để cung cấp kịp cho quân giải phóng nên các chiến sĩ nghiền thuốc đành tạm sài thuốc Lào. Nhân đó có viên sĩ quan đặc công là Hoàng Văn Xưởng (1951 - 1972) đã lấy cảm hứng sáng tạo để ra một vế đối như sau:
vế ra: Bởi vì giặc Mĩ leo thang, nên ta phải vượt Trường Sơn sang Lào
vế đối: Nay thì bia Việt lên lon, sao anh lại bỏ Sài Gòn qua Ken (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Lên lon ở đây có nghĩa là chất lượng nâng cao. Sài Gòn là tên trước năm 1975 của thành phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn cũng là một loại bia của Việt Nam. Ken là tên gọi tắt của nước Cộng hòa Kenya, Ken cũng là tên gọi tắt của bia Heineken)
  • Thời kỳ kháng chiến chống Mĩ, bởi cuộc chiến tranh kéo dài quá khiến nhiều người chán ngán không biết bao giờ mới đến ngày thống nhất non sông để được về với gia đình, có nhân vật tên là Trần Dần (có thuyết khác nói là Hồ Đệ, lại có thuyết nữa nói là của Đỗ Thông Minh) tức cảnh sáng tác ra một vế đối bằng thơ thất ngôn tứ tuyệt nói lái:
vế ra: Chú Phỉnh tôi rồi Chính Phủ ơi, Chú Khiêng đi mất Chiến Khu rồi, Thi Đua sao cứ Thua Đi mãi, Kháng Chiến lâu ngày Khiến Chán thôi!
vế đối: Tướng Thủ binh thôi Thủ Tướng sầu, Tướng La binh tiến Tá Lương hầu, Tranh Đấu kẻo không Trâu Đánh nữa, Trượng Phu lưu tiếng Trụ Phương đầu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)

Một dị bản khác của bài thơ nói lái trên, đưa luôn cả vào để tham khảoKháng Chiến thôi rồi Khiến Chán ôi, Chiến Khu để lúa Chú Khiên rồi, Thi Đua chi nữa Thua Đi quách, Anh Hùng chỉ tổ Ung Hành thôi!

  • Câu đối xuất hiện lúc không lực Hoa Kỳ bắn phá ở Miền Bắc lần thứ nhất:
vế ra: Đêm ba mươi, thương lính phòng không, cô dân quân chống lầy kéo pháo (Cái khó của câu đối này là: “Lính phòng không còn có nghĩa là lính chưa vợ, chống lầy kéo pháo còn có nghĩa là lấy chồng kéo pháo”).
vế đối 1: Chiều hai chín, nhớ chị thủ tiết, anh lái lợn vờ vội hàng heo (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Thủ= đầu, tiết= huyết; nghĩa đen chị thủ tiết là chị bán đầu heo và tiết canh; nghĩa bóng là không tái giá, ở vậy thờ chồng. Vờ ở đây là giả vờ. "Vờ vội" nói lái thành "vòi vợ". Vờ vội hàng heo là vòi vợ hàng heo.
vế đối 2: Ngày hai mốt, mê chuyện đào hoa, anh làm vườn vớ muộn tầm xuân (Thiền Long) (Đào hoa nghĩa là đào cây hoa, và cũng có nghĩa là nam giới được nhiều phụ nữ yêu thương. Tầm xuân là hoa tầm xuân. "Vớ muộn" nói lái thành "muốn vợ". Vớ muộn tầm xuân nghĩa là muốn vợ tầm xuân, tầm tuổi còn trẻ.)
  • Câu đối xuất hiện khi không lực Hoa Kỳ bắn phá ở Miền Bắc lần thứ hai:
vế ra: Mười hai ngày tháng mười hai, hai năm rõ mười, bê năm hai rơi hàng chục. (Cái thú vị của vế đối này là số từ lặp lại (12 ngày, tháng 12). B52 là danh từ riêng, mà hai năm rõ mười (5x2=10), số 10 này lại được lặp lại “hàng chục”).
vế đối: Hai mốt đợt tuần hai mốt, một một là hai, ka một một cấp từng đôi (Thiền Long) (Số từ lặp lại (21 đợt, tuần 21). K11 là danh từ riêng của loại súng trường tấn công của Hàn Quốc. Một một là hai (1+1=2), số 2 được lặp lại "đôi". Vế đối nói về việc cấp súng trong quân đội)
  • Cũng giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhà báo Nguyễn Thành ở ban quân sự báo Quân Đội Nhân Dân từng ra 1 vế: Pháo thủ pháo tầm xa, đánh địch tầm gần, tay thủ thêm thủ pháo
vế đối 1: Công nhân công việc nội, làm công việc ngoại, người nhân cộng nhân công.(Thiền Long)

(căn cứ từ điển Việt Hán : tay = thủ ; người = nhân)

vế đối 2: Dịch thuật dịch tiếng Anh, hiểu nghĩa tiếng Việt, thủ thuật là thuật dịch (khuyết danh)
vế đối 3: Công việc công làm trước, lại để làm sau, loạn việc tư việc công (khuyết danh)

Những vế xuất khuyết danh có nhiều đáp án

Vế xuất của cha con Thầy thuốc

Không rõ tự khi nào, có 2 cha con ông thầy thuốc về quê, trên vai gồng gánh mấy thứ thuốc bắc, tức cảnh sinh tình người cha đưa ra một vế đối:

vế ra: Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh Hồi Hương, Phụ Tử (khuyết danh)
vế đối 1: Vàng bạc nhà nông chuộc đất, trồng đôi hàng Thục Địa, Kim Ngân (Phan Châu Trinh)
Các cặp từ cùng nghĩa TV–HV: “cha con” – “phụ tử”; “về quê”–”hồi hương”; “vàng bạc” – “kim ngân”; “chuộc đất” – “thục địa”. Chúng cùng âm với các tên gọi vị thuốc “hồi hương”, “phụ tử”,... Bên cạnh đó, “hồi hương”, “phụ tử”, “thục địa”, “kim ngân” lập thành một trường về các vị thuốc, phù hợp với nghề thuốc và nhà nông trồng cây thuốc.
vế đối 2: Chị em trồng hoa trông trời, bó hai bó Hướng Dương, Tỉ Muội (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)
vế đối 3: Anh em hội cảnh hóng gió, bình đôi bình Nghinh Phong, Huynh Đệ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh, Nghinh Phong còn có nghĩa là hứng gió cho mát. Hội cảnh là Hội sinh vật cảnh)
vế đối 4:Vua cháu ngự y đi dạo xách hai xách Bách Bộ Vương Tôn(Hoài Anh Võ Quang Thạch)
Đi dạo= Bách bộ "Bách Bộ" là một vị thuốc chữa ho và sát trùng có tên khoa học là Stemona tuberosa Lour. Vua cháu = Vương Tôn; Vương tôn là vị thuốc làm thuốc giảm đau, chữa phong tê thấp, sản hậu mòn, giải các chất độc. Vương tôn là một vị thuốc gắn liền với huyền thoại có một ông vua dắt theo quân lính ngự y và con cháu đi vi hành nhưng đến đoạn đường ngựa xe không đi được đành phải bách bộ nhưng đường xá quá xấu chân của nhà vua bị đau nhức ở giữa vùng đất hiểm trở khó khăn ngự y cũng đành bó tay, may mà có một bà cụ đưa cho một gói thuốc đã sao tẩm cẩn thận bảo ngự y sắc cho vua uống, uống xong bát thuốc vua thấy bớt nhói ở chân liền cho gọi cụ bà đó tới để cám ơn và hỏi là thuốc gì? bà cụ trả lời đó là dây gắm. Vua thấy thuốc quý muốn để cho mọi người biết nên đặt cho một cái tên nghe sang hơn đó là Vương Tôn kể từ đó dây gắm có tên là Vương tôn
vế đối 5: Vợ chồng bán bánh phố vua, xe một xe Kinh Đô, Phu Thê (khuyết danh) (phố vua cũng có nghĩa "kinh đô" tức thành phố nơi vua ở, và vợ chồng (cũng có nghĩa "phu thê". Kinh đô, phu thê (còn gọi là xu xê) đồng thời lại là tên gọi các loại bánh nổi tiếng...)
vế đối 6: Bạn trai phường nhạc phóng ngựa, ca mấy ca Tẩu Mã, Nam Bằng (khuyết danh) (Nam = trai, bằng = bạn; phóng ngựa là tẩu mã. Ngoài ra Tẩu mã, Nam bằng "tức Nam Bình" cũng là tên một số điệu nhạc cổ)
vế đối 7: Chồng vợ diễn viên gặp lại, ca song ca Tái Ngộ Phu Thê (khuyết danh)

Vế xuất về năm Ngọ

Không rõ năm Ngọ nào có một vế xuất mà suốt mấy trăm năm vẫn chưa ai đối được, gần đây có nhiều người đã đối nhưng có câu chuẩn có câu vẫn chưa đúng nghĩa ngữ, vậy liệt kê cả vào để tham khảo:

vế ra: Con ngựa đá con ngựa đá, con ngựa đá không đá con ngựa (khuyết danh)
vế đối 1: Chú chim bo chú chim bo, chú chim bo chẳng bo chú chim (Thiền Long) (nghĩa danh từ Bo là nguyên tố á kim Bo. Nghĩa động từ là boa, thưởng).
vế đối 2: Chú chó thau chú chó thau, chú chó thau chẳng thau chú chó (Thiền Long) (nghĩa danh từ Thau là hợp kim đồng và kẽm (đồng thau). Nghĩa động từ Thau là lau, rửa; ví dụ như: Thau chua rửa mặn trong nghề nông).
vế đối 3: Con heo nọc con heo nọc, con heo nọc không nọc con heo (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
vế đối 4: Thằng mù nhìn thằng mù nhìn, thằng mù nhìn không nhìn thằng mù (khuyết danh - “nhìn1” và “nhìn4” là động từ, “nhìn2” và “nhìn3” là từ tố của từ mù nhìn "bù nhìn").
vế đối 5: Thầy lang băm thầy lang băm, thầy lang băm hăm băm thầy lang (khuyết danh)
vế đối 6: Con gà mổ con gà mổ, con gà mổ không mổ con gà! (Hà Hiển)
vế đối 7: Câu thơ đối câu thơ đối, câu thơ đối ép đối câu thơ! (Huỳnh Long)
vế đối 8: Thằng Bất trị thằng bất trị, thằng bất trị không trị thằng Bất (Quốc Hưng)
vế đối 9: Quan tham chơi quan tham chơi, quan tham chơi chẳng chơi quan tham (Quốc Hưng)
vế đối 10: Con chim chích con chim chích, con chim chích không chích con chim (Nguyễn Cao Minh)
vế đối 11: Chú lính chì chú lính chì, chú lính chì chẳng chì chú lính (Phan Thành Nhơn)
vế đối 12: Đám tướng cướp đám tướng cướp, đám tướng cướp cũng cướp đám tướng (Phan Thành Nhơn)
vế đối 13: Nguyễn Phú trọng Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Phú Trọng không trọng Nguyễn Phú (nhà thơ Đoàn Xuân Hòa)
vế đối 14: Chú trâu tơ Chú trâu Tơ, Chú trâu Tơ chẳng tơ Chú trâu (khuyết danh)
vế đối 15: Con bò cạp con bò cạp, con bò cạp không cạp con bò (khuyết danh)
vế đối 16: Con hổ mang con hổ mang, con hổ mang không mang con hổ (khuyết danh)
vế đối 17: BÁC SAO LA BÁC SAO LA, BÁC SAO LA CHẢ LA BÁC SAO (Ngọc Thanh)
vế đối 18: CHÚ GÀ GÔ CHÚ GÀ GÔ, CHÚ GÀ GÔ CHẲNG GÔ CHÚ GÀ (Ngọc Thanh)
vế đối 19: CHỊ GÀ MƠ CHỊ GÀ MƠ, CHỊ GÀ MƠ CHỚ MƠ CHỊ GÀ (Ngọc Thanh)
vế đối 20: CẬU VÀNH KHUYÊN CẬU VÀNH KHUYÊN, CẬU VÀNH KHUYÊN LẠI KHUYÊN CẬU VÀNH (Ngọc Thanh)
vế đối 21: ĐÁM MÈO GHEN ĐÁM MÈO GHEN, ĐÁM MÈO GHEN CÓC GHEN ĐÁM MÈO (Ngọc Châu)
vế đối 22: Con Rồng che con Rồng Tre, con Rồng Tre không che con Rồng (Nguyễn Thiên Tài) (“Con rồng tre” là tên một vở kịch của Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp năm 1922. Về mặt chữ, có vẻ như đã tạm ổn khi “rồng” đối lại “ngựa”, : “tre” đối lại “đá”. Thế nhưng, đó mới chỉ giải quyết ở phương diện hai từ kia là danh từ, còn hiểu theo nghĩa của động từ, thì từ “tre” chưa đáp ứng được. Ở đây, từ “che” và “tre” khi đọc lên, rất ít người chúng ta để ý tới sự uốn lưỡi, phân biệt “chờ nhẹ” (ch) và “trờ nặng” (tr)”. Hình ảnh con rồng thật che cho con rồng tre)
vế đối 23: Thầy giáo cho...thầy giáo Cho,Thầy giáo Cho nhận cho Thầy giáo (Lê Thúc Hy)
vế đối 24: Bong bóng bay bong bóng bay, bong bóng bay bổng bay bong bóng (Ngọc Châu)
vế đối 25: XÍCH LÔ ĐẠP XÍCH LÔ ĐẠP, XÍCH LÔ ĐẠP PHẢI ĐẠP XÍCH LÔ (Phamanhoa - HCM city)
vế đối 26: LŨ GÀ TRANH LŨ GÀ TRANH, LŨ GÀ TRANH CHẲNG TRANH LŨ GÀ (Nguyễn Đình Minh)
vế đối 27: Bóng dương cười bóng dương cười, bóng dương cười nỏ cười bóng dương (Nguyên Xuân - Đại học Sư Phạm Đà nẵng)
vế đối 28: CHÚ GÀ LÔI CHÚ GÀ LÔI, CHÚ GÀ LÔI CHẲNG LÔI CHÚ GÀ (Gió Bụi - Nha Trang)
vế đối 29: CÁI CẦN CÂU CÁI CẦN CÂU, CÁI CẦN CÂU CÓC CÂU CÁI CẦN (Gió Bụi - Nha Trang)
vế đối 30: Ông thày hù ông thày hù, ông thày hù cứ hù ông thày! (khuyết danh)
vế đối 31: CHÚ GÀ BUỒN CHÚ GÀ BUỒN, CHÚ GÀ BUỒN CHẲNG BUỒN CHÚ GÀ (Ngọc Châu)
vế đối 32: Ả CU GÙ Ả CU GÙ, Ả CU GÙ CHẲNG GÙ Ả CU (Ngọc Châu) (Con chim cu gù con cu khác đang gù nhưng con này không gù vì con chim cu kia)
vế đối 33: Chú Sâm cầm chú sâm cầm, Chú sâm cầm chẳng cầm chú Sâm (Nguyên Xuân)

2 vế đối của Thanh Lê:

Chó con nằm chó con nằm, chó con nằm vẫn là chó con
Kiếp người buồn kiếp người buồn, kiếp người buồn còn đó kiếp người
vế đối của Hoàng Vũ Thuật: Cái xe ủi cái xe ủi, cái xe ủi có ủi cái xe

7 vế đối của Phạm Doanh:

1) “Đôi kính cận đôi kính cận – Đôi kính cận kề cận đôi kính”
2) “Bánh cam vòng bánh cam vòng – Bánh cam vòng chưa vòng bánh cam”
3) “Người khổ cùng người khổ cùng – Người khổ cùng đi cùng người khổ”
4) “Cái bánh bao cái bánh bao – Cái bánh bao chẳng bao cái bánh”
5) “Ông Cả cần Ông Cả Cần – Ông Cả Cần cũng cần Ông Cả”
6) “Người thợ phụ người thợ phụ – Người thợ phụ vừa phụ người thợ”
7) “Khách hàng không khách hàng không – Khách hàng không cho không khách hàng”

Những vế đối khác:

Con chó tơ con chó tơ, con chó tơ cũng tơ con chó
Con vịt bầu con vịt bầu, con vịt bầu cũng bầu con vịt
Ông Nghị gật ông nghị gật, ông nghị gật cũng gật ông Nghị (ông Nghị ở đây là Phạm Quang Nghị)
Anh Tụ đạp anh Tụ Đạp, anh Tụ Đạp ứ đạp anh Tụ (Hồi ấy, Nguyễn Xuân Tụ - tức Hà Sĩ Phu - tự đăt tên cho mình là Tụ Đài, Tụ Đạp vì ông mua đài và xe đạp, nhưng ông cũng là bậc thầy về nói lái.)

Những vế đáp của Hà Hiển:

a) Con dê dê con dê cụ, con dê cụ cũng dê con dê.

Từ câu này có thể phát triển thành vế đối mới có vần điệu hơn mà nghĩa vẫn không khác mấy dù hơi tục, là:

b) Con dê chê con dê đụ, con dê đụ không chê con dê. (“con dê” chê một con dê khác… đụ không ra gì, con dê khác kia thì không chê nên vẫn… đụ, he he),

hoặc tục hơn:

c) Con dê đụ con dê cụ, con dê cụ cũng đụ con dê.

hoặc:

d) Con dê dê con dê cụ, (vì) con dê cụ không phải cụ con dê (ý là vì không phải cụ của nó nên nó mới dám “dê” mà không sợ phạm thượng)
  • Con gà mổ con gà mổ, con gà mổ không mổ con gà!
Vế này nói về một con gà (vẫn còn sống) mổ một con gà đã bị mổ thịt, đây cũng là cuộc chiến một chiều, vì con gà đã bị mổ bụng thì làm sao mổ lại được con gà đang sống. Những chữ “mổ” ở đây, tùy theo vị trí của chúng, có 2 nghĩa khác nhau – nghĩa thứ nhất là hành động dùng mỏ để “mổ” của con gà nói riêng và của loài chim nói chung (như mổ gạo, mổ thóc, và trong trường hợp này là “mổ nhau”), nghĩa thứ hai là bản thân chúng bị mổ thịt. Vế đáp này không hay lắm vì nói “con gà mổ” ở cuối mệnh đề thứ nhất và đầu mệnh đề thứ hai của nó là cách nói tắt. Nói cho đúng ngữ pháp chính thống chắc phải là “con gà bị mổ”. Nhưng với khẩu ngữ bây giờ thì người ta hay nói tắt như vậy, chẳng hạn như người ta nói “con gà thiến” chứ không hay nói “con gà bị thiến”, “con chó thui” chứ không hay nói “con chó bị thui”, hoặc “giống bò thịt” để chỉ giống bò được nuôi để (người) ăn thịt, v.v… Những chữ “thiến”, “thui” hay “thịt”, cũng như chữ “mổ” trong cụm từ “gà (bị) mổ” ở trên có chức năng cú pháp như các tính động từ mang nghĩa bị động (tức là “bị thiến”, “bị thui”, “bị thịt”, “bị mổ”…). Về ý nghĩa, vế đáp này cho thấy sự tàn ác và hèn hạ trong đối xử với đồng loại của… con gà. Điều này cũng xảy ra với con người thời đấu tranh giai cấp (chữ của bác HSP) – khi người ta gặp hoạn nạn, đã không thương cảm vì cũng cùng thân phận với nhau mà lại còn lợi dụng hoàn cảnh nhảy vào “đấu tố” hoặc “đánh đấm” thêm để “dấy máu ăn phần”…

Cô gái và anh thợ mộc

Có 1 anh thợ mộc mồ hôi nhễ nhại, trên vai lỉnh kỉnh những dụng cụ đồ nghề. Khi đi ngang qua làng nọ thấy có giếng nước mát lành, anh ta cúi xuống vục 2 tay làm 1 hơi đã cơn khát đoạn bước hai chân xuống khoắng lấy khoắng để …giải cơn nồng. Sau đó toan vào gốc đa liền đó nghỉ chân cùng với mấy người nông dân đang ngồi đó hóng mát. Một cô gái trong số họ nhẹ nhàng nói:

Giếng nước trong veo, bởi Chạm chân Chàng nên mới Đục
Vế ra có 2 tính từ "trong" đối với "đục", bên cạnh đó lại có 3 chữ trong nghề thơ mộc là: Chạm, Chàng và Đục khiến anh nghĩ mãi không ra vế đối lại nên xấu hổ …chuồn mất
Ông Đào Phong Lưu có vế đối như sau: Chuồng chim cũ nát, hở Gạch chim Thước đã xổng Bay (thợ xây)
Thi sĩ Nguyễn Đức Tùy có vế đối như sau: Áo dài trắng toát, vì Dây kẹo Kéo hết lượt Là (thợ may)
Ông Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối: Thớ gỗ mây cuộn, nhờ Khắc dấu Thiếp bỗng như Sao (Nói về nghề in danh thiếp, thiệp mời, sao chép, khắc dấu.)
Ông Hoài Anh Võ Quang Thạch đối: Khung vẽ trắng tinh, do Cọ bút Ảnh thành ra Chì (Nghề vẽ)
Vế đối khác: Mít mật khô ráo, bị Đóng cây Dùi ra ê Ẩm (Thiền Long) (Nghề vá ruột xe, tính từ "khô" đối với "ẩm")
Vế đối khác 2: Mái tóc bờm sờm, nhưng Cài bằng Kẹp mượt như Tơ (khuyết danh)
Vế đối khác 3: Đường làng nhanh chạy, dao Phay em Tiện có mà Khoan (khuyết danh)
Vế đối khác 4: Lưng nàng thẳng thắn, vì Chìa núm Khóa hóa ra Còng (khuyết danh)

Các vế xuất về môn Sinh vật học

  • Bữa nọ, có 3 người gồm một thương gia, một thầy dạy toán và một thầy dạy sinh vật trên đường đi công tác, bị mắc mưa tầm tã. Cả ba liền tắp vào một quán cà phê cạnh đường, vừa đụt mưa, vừa du dương điếu thuốc bên cốc cà phê phin nóng hổi. Đang ngồi lim dim nhả khói, bỗng thầy dạy sinh vật nói: "Tôi dạy môn sinh vật nhưng nay tôi xin múa rìu, nghĩ ra câu đối này đố anh em, ai đối được tôi sẽ trả tiền cà phê".
Vế ra: Thầy sinh vật vật cô sinh vật, vật rồi lại sinh, sinh rồi lại vật
Suy nghĩa 1 lát, thầy dạy toán đối: Anh bán thịt thịt chị bán thịt, thịt rồi lại bán, bán rồi lại thịt
Anh thương nhân thấy vậy cũng góp vui: Anh tiểu thương thương chị tiểu thương, thương rồi lại tiểu, tiểu rồi lại thương
Anh tiếp viên trẻ, tự nãy giờ tuy đi tới đi lui nhưng vẫn chăm chú lắng nghe, bỗng anh xin đối 1 câu: Anh cà phê thương chị cà phê, phê rồi lại cà, cà rồi lại phê
Tất cả những vế đối đều chuẩn cả, báo hại thầy sinh vật lại tốn tiền đãi cà phê thuốc lá nữa…Còn mấy cô nữ tiếp viên đồng loạt cười vang rồi chạy trốn vào trong vì mắc cỡ…
vế đối khác 1: Ông Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối: Cô sử ký ký thầy sử ký, ký xong thì sử, sử xong thì ký
vế đối khác 2: Chị giao hàng hàng anh giao hàng, hàng xong phải giao, giao xong phải hàng (Thiền Long)
vế đối khác 3: Ả bắn tỉa tỉa gã bắn tỉa, tỉa xong cứ bắn, bắn xong cứ tỉa (Thiền Long)
vế đối khác 4: Anh cứu thương thương chị cứu thương, thương rồi lại cứu, cứu rồi lại thương
vế đối khác 5: Anh quốc ấn yêu chị quốc ấn, quốc (cuốc) rồi lại ấn, ấn rồi lại quốc (cuốc)
vế đối khác 6: Chàng xây dựng dựng em xây dựng, dựng rồi lại xây, xây rồi lại dựng (Lê Quang Phiệt)
vế đối khác 7: Anh chăn nuôi nuôi chị chăn nuôi, nuôi rồi lại chăn, chăn rồi lại nuôi (khuyết danh)
vế đối khác 8: Anh đồ họa họa chị đồ họa, họa rồi lại đồ, đồ rồi lại họa (khuyết danh)
vế đối khác 9: Anh bí thư thư chị bí thư, thư đúng chỗ bí, bí đúng chỗ thư (khuyết danh)
vế đối khác 10: Anh khuân vác vác cô khuân vác, vác xong rùi khuân, khuân xong rùi vác (khuyết danh)

Nghe đâu, sau khi thầy sinh vật về nhà có nghĩ được một câu khác nội dung gần tương tự mà độ khó hóc búa hơn, và đặc biệt thêm 2 vế xuất nữa cũng rất khó nhưng rất tiếc thầy không gặp lại những nhân vật kia để thách đối nữa.

  • vế ra 1: Con bò cạp cạp con bò cạp, cạp rồi lại bò, bò rồi lại cạp, bò bò cạp cạp
vế đối 1: Cậu cua đá đá cậu cua đá, đá xong thì cua, cua xong thì đá, cua cua đá đá (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối 2: Gã nhái bầu bầu gã nhái bầu, bầu đã rồi nhái, nhái đã rồi bầu, bầu bầu nhái nhái (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)
vế đối 3: Gã gà lôi lôi gã gà lôi, lôi đã rồi gà, gà đã rồi lôi, gà gà lôi lôi (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)
vế đối khác 1: Con tắc kè kè con tắc kè, kè xong lại tắc, tắc xong lại kè, kè kè tắc tắc (khuyết danh)
vế đối khác 2: Con dê già già con dê già, già vẫn còn dê, dê rồi lại già, già già dê dê (khuyết danh)
  • vế ra 2: Thầy sinh vật cưới cô sinh vật vật vật sinh sinh
vế đối: Cô dạy lí bồ thầy dạy hóa hóa ra vô lí
  • vế ra 3: Học sinh học sinh học
vế đối 1: Phục binh phục binh phục (Thiền Long) ("phục binh" là quân mai phục;"binh phục" là trang phục nhà binh)
vế đối 2: Lái tàu lái tàu lái (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Tàu lái là tàu hoa tiêu dẫn đường cho các tàu lớn ra vào cảng)
vế đối 3: LÔI XE LÔI XE LÔI (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(Lôi xe là danh từ thường chỉ người điều khiển xe lôi, Lôi là động từ)
vế đối 4: LƠ XE LƠ XE LƠ (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(Lơ xe là danh từ chỉ người phụ xe Lơ là động từ, Xe lơ là xe có màu lơ)
vế đối 5: SINH HỌC SINH HỌC SINH (Nguyễn Hữu Quyên)
vế đối 6: Thái sư thái sư thái (khuyết danh)
vế đối 7: Lừa con lừa con Lừa (khuyết danh)
vế đối 8: Cá mẹ cá mẹ cá (khuyết danh)
vế đối 9: Yêu bé yêu bé yêu (khuyết danh)
vế đối 10: Lắc quả lắc quả lắc (khuyết danh)
vế đối 11: Người ăn người ăn người (khuyết danh)
vế đối 12: Cuốc cái cuốc cái cuốc (khuyết danh)
vế đối 13: Chim bé chim bé chim (khuyết danh)
vế đối 14: Đá ngựa đá ngựa đá (khuyết danh)
vế đối 15: Tàng thư tàng thư tàng (khuyết danh)
vế đối 16: Cá kiếm cá kiếm cá (khuyết danh)
vế đối 17: Dê cụ dê cụ dê hoặc Dê mụ dê mụ dê (khuyết danh)
vế đối 18: Cua càng cua càng cua (khuyết danh)
vế đối 19: Tướng bé tướng bé tướng hoặc Tướng to tướng to tướng (khuyết danh)
vế đối 20: Si đa si đa si (khuyết danh)
vế đối 21: Keo kiệt keo kiệt keo (khuyết danh)
vế đối 22: Phọt mèo phọt mèo phọt (khuyết danh)
vế đối 23: Mê cóng mê cóng mê (khuyết danh)
vế đối 24: Nhớ mèo nhớ mèo nhớ (khuyết danh)
vế đối 25: Diễm kiều diễm kiều diễm (khuyết danh)
vế đối 26: Ăn nhậu ăn nhậu ăn (khuyết danh)
vế đối 27: Dâm bụt dâm bụt dâm (khuyết danh)
vế đối 28: Gật gù gật gù gật (khuyết danh)
vế đối 29: Đi tây đi tây đi (khuyết danh)
vế đối 30: Học mãi học mãi học (khuyết danh)
vế đối 31: Khổ nạn khổ nạn khổ (khuyết danh)
vế đối 32: Lười con lười con Lười (khuyết danh)
vế đối 33: HỌA ĐỒ HỌA ĐỒ HỌA (huypocrisy - Đến từ: Yamaguchi - Nhật Bản)
vế đối 34: HỘ SINH HỘ SINH HỘ (huypocrisy - Đến từ: Yamaguchi - Nhật Bản) (hộ: ủng hộ)
vế đối 35: BUÔN BÁN BUÔN BÁN BUÔN (huypocrisy - Đến từ: Yamaguchi - Nhật Bản)
vế đối 36: HẦU PHÒNG HẦU PHÒNG HẦU (huypocrisy - Đến từ: Yamaguchi - Nhật Bản)
vế đối 37: PHÁO BINH PHÁO BINH PHÁO (giocaonguyen)
vế đối 38: BINH VIỆN BINH VIỆN BINH (giocaonguyen)
vế đối 39: ĐUA THUYỀN ĐUA THUYỀN ĐUA (giocaonguyen)
vế đối 40: BUÔN ĐẤT BUÔN ĐẤT BUÔN (Cao Nghiêm) (Buôn đất: là danh từ chỉ những người làm nghề buôn bán đất. Buôn: là động từ. Đất buôn: đất trong buôn làng, đất của buôn làng)
vế đối 41: CÀ CUỐNG CÀ CUỐNG CÀ (tranlap7623)
vế đối 42: Ca đoàn ca Đoàn ca (tranlap7623)
vế đối 43: CÔNG CHÚA CÔNG CHÚA CÔNG (tranlap7623)
vế đối 44: bằng cấp bằng cấp bằng (Trần Hữu Trung)
vế đối 45: ĐÌNH THI ĐÌNH THI ĐÌNH (THANH LIÊM)
vế đối 46: ĐI CHƠI ĐI CHƠI ĐI (Vũ Hồng Dương)
vế đối 47: Cha mẹ cha mẹ cha (hochat)
vế đối 48: Vòng xoay vòng Xoay vòng (tranduyhanh)(vế này tác giả chợt nghĩ ra lúc đi qua vòng xuyến nơi ngã Tư giao nhau)
vế đối 49: Quan phủ quan phủ quan (Trần Hoành)
vế đối 50: CA SĨ CA SĨ CA (Trần Thị Mỹ Dung)
vế đối 51: CẨU CON CẨU CON CẨU (Minh Diệu) (Cẩu con: chiếc cẩu nhỏ. Cẩu: câu lên, nhấc lên. Con cẩu: con chó)

Vế xuất theo nhiều đề tài khác

1 - gái chưa chồng:

vế ra: Gái tơ chỉ kén ngài quân tử (khuyết danh)
vế đối 1: Ban nhạc bè ca khúc diệu âm (Dương Hồng Kỳ)
vế đối 2: Trai mưu mẹo cách Kế Mỹ Nhân (Thiền Long) (cách còn có nghĩa động từ là ngăn ra)
vế đối 3: Trai tài lơ phụ khách giai nhân (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Xe khách chạy đường dài có tài chính, tài phụ, lơ xe và khách)
vế đối 4: Trai tân ất giáp quý tiểu thư (Hoài Anh Võ Quang Thạch) ("ất giáp" có nghĩa bóng là "đâu ra đấy")
vế đối 5: Trai tráng ít bò gối nữ nhi (Nguyễn Hữu Thăng)
vế đối 6: Đại ca địch trống đàn tiểu nhân (khuyết danh)
vế đối 7: Móng chuồn không chê kẻ khốn cùng (khuyết danh)

2 - địa danh Cao Bằng:

vế ra: Đất đâu cao bằng Cao Bằng? (khuyết danh)
vế đối 1: Chuyện đó thốt nốt Thốt Nốt (Dương Hồng Kỳ)
vế đối 2: Khói nào phả lại Phả Lại (khuyết danh)
vế đối 3: Vùng nào đèo ngang Đèo Ngang? (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)

3 - Vế xuất về Trọng tài và Vận động viên:

vế Xuất: Trọng tài trọng tài vận động viên, vận động viên động viên trọng tài (khuyết danh)
vế Đối 1: Điều dưỡng điều dưỡng giúp bệnh lây, giúp bệnh lây bệnh lây điều dưỡng (Nguyễn Sư Giao)
vế đối 2: Thanh tra thanh tra bộ thông tin, bộ thông tin thông tin thanh tra (Thiền Long)
vế đối 3: Đạo diễn đạo diễn người quay phim, người quay phim quay phim đạo diễn (Thiền Long)
vế đối 4: Trợ lý trợ lý phó giám đốc, phó giám đốc giám đốc trợ lý (Thiền Long)
vế đối 5: Cố vấn cố vấn phòng tuyển dụng, phòng tuyển dụng tuyển dụng cố vấn (Thiền Long)

4 - Vế xuất về Bánh ngọt:

vế Xuất: Bánh ít nhiều đường bánh ít ngọt. (khuyết danh)
vế Đối 1: Cơm không có chả cơm không ngon. (Nguyễn Sư Giao)
vế đối 2: Trầu không có vôi trầu không dở (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối 3: Bánh bao bột thiếu bánh bao xốp
vế đối 4: Trời mưa nắng ráo trời mưa tạnh
vế đối 5: Giò chả lắm ớt giò chả cay
vế đối 6: Canh chua bỏ mắm canh chua vừa
vế đối 7: Thịt nướng nhiều than thịt nướng cháy
vế đối 8: Tào lao lém quá tào lao ta
vế đối 9: Xí xọn nói nhiều xí xọn xỉu
vế đối 10: Bá láp to mồm bá láp đó

Vế xuất tại địa đạo Củ Chi

Một đoàn tham quan tới thăm địa đạo Củ Chi, thấy có tấm biển treo giải cho ai đối hay nhất câu: Cô gái Củ Chi, chỉ cu hỏi củ chi

Ngay lúc đó trong đoàn tham quan có rất nhiều người tham gia đã đối lại câu trên nhưng có câu chuẩn câu chưa chuẩn lắm, không rõ kết quả ai đoạt giải quán quân, vậy đưa tất cả vào đây để tham khảo.
vế đối 1: Chàng trai Thủ Đức, thức đủ xin thủ đức (du khách người Thủ Đức)
vế đối 2: Chàng trai Cần Giờ, giơ cần hỏi cần giờ (du khách người Cần Giờ)
vế đối 3: Cô gái Hải Dương, hưởng giai ngoài Hải Dương (du khách người Hải Dương)
vế đối 4: Chàng trai Đồ Sơn, sơn đồ bán đồ sơn (du khách người Hải Phòng)
vế đối 5: Chàng trai Hàng Chuối, chuồi háng bảo hàng chuối (du khách người Hà Nội)
vế đối 6: Chàng trai Bắc Cạn, bán cặc ở Bắc Cạn (du khách người Bắc Kạn)
vế đối 7: Chàng trai Giải Phóng, phỏng dái khi giải phóng (du khách là cựu chiến binh, tương truyền chiến sĩ này chợt nhớ lại trận đánh ngày 30/04/1975 của mình khi vừa vào giải phóng Miền Nam thị bị thương đúng vùng bộ hạ ở chân cầu Sài Gòn)
vế đối 8: Chàng trai Hoa Kỳ, kỳ hoa hỏi hoa kỳ (du khách người Mĩ gốc Việt)
vế đối 9: Chàng trai Mường Tè, nhè tường bảo Mường Tè (du khách người Lai Châu)
vế đối 10: Cô gái Phú Khánh, phanh vú tìm Phú Khánh (du khách người Phú Yên)
vế đối 11: Cô gái Cù Mông, cùng mu đòi cù mông (du khách người Bình Định)
vế đối 12: Chàng trai Giồng Dứa, trồng dừa giống, trên giồng dứa (du khách người Tiền Giang)
vế đối 13: Chàng trai Láng Hạ, lạ háng người Láng Hạ (du khách khác cũng người Hà Nội)
vế đối 14: Chàng trai Thành Đông, đồng thanh hét thành đồng (du khách người Vĩnh Long)
vế đối 15: Chàng trai Đăk Na đa nắc mà đắt na? (Phú Đa Nguyễn Phước An) (Đăk Na là xã thuộc huyện Sa Thầy tỉnh Kon Tum)
vế đối 16: Chàng trai Cửu Long cõng lu bị lỏng cu (du khách người Trà Vinh)
vế đối 17: Cô gái Gò Me mò ghe hỏi Gò Me (du khách người Tiền Giang)
vế đối 18: Cô gái Móng Cái cóng mái hơ móng cái (Dương Hồng Kỳ)
vế đối 19: Chàng trai Mông Cổ mổ công ăn mông cổ (Dương Hồng Kỳ)
vế đối 20: Chàng trai Hòn Đất hất đòn quăng hòn đất (Dương Hồng Kỳ)
vế đối 21: Chàng trai Cầu Giấy cấu giầy làm cầu giấy (Dương Hồng Kỳ)
vế đối 22: Chàng trai Gò Vấp gấp vò qua gò vấp (Dương Hồng Kỳ)
vế đối 23: Chàng trai Bắc Cực bú cặc than Bắc Cực (khuyết danh)
vế đối 24: Chàng trai Bình Thạnh thành bịnh vì Bình Thạnh (khuyết danh)
  • Những vế đối chuẩn về chữ nghĩa nhưng lại không đúng vì chẳng có tên địa danh nào cả, vậy đưa cả vào để tham khảo:
vế đối 1: Cô gái đang hứa, đưa háng nói đang hứa (khuyết danh)
vế đối 2: Chàng trai bắt cọp, bóp cặc hô bắt cọp (khuyết danh)
vế đối 3: Chàng trai bứt cỏ, bỏ cứt hô bứt cỏ (khuyết danh)
vế đối 4: Cô gái ăn mít, móc đít hô mít đóc (khuyết danh)
  • Các giáo viên ở trường Phả Lại có mấy câu đối lại như sau: Vì ở vùng đất Chí Linh đã có dốc Ba Đèo lại có cả Đèo Trê:
ÔNG LÃO BA ĐÈO, ĐEO BÀ VƯỢT BA ĐÈO
ÔNG GIÀ ĐÈO TRÊ,TRÈO ĐÊ BẢO ĐÈO TRÊ

Pháp Sư Nguyễn Thế Phễ (1894 - 1956) và kẻ hàn sĩ vô danh

Năm 1938, ở làng Si (nay thuộc thôn Cổ Phục Bắc) xã Kim Lương huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương có 1 đám cưới khi người ta đang ăn cỗ thì có 1 kẻ ăn mày ngang qua nói là hàn sĩ nhỡ độ đường và xin bát cơm lót dạ. Pháp Sư Nguyễn Thế Phễ là nhân vật hay chữ thấy vậy ra 1 vế đối, nói rằng đối được thì sẽ cho.

Vế ra là: Người con rể tử tế

Người ăn mày kia đối: Đất Bái van lại lạy

Thầy Pháp Phễ chưa ưng ý lắm vì câu này chưa được chuẩn về chữ nghĩa lắm nhưng vẫn cho kẻ hàn sĩ kia ăn

Ông Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối 2 câu:

Đứa cháu mọn tôn ti
Cậu cháu út tôn quý

Ông Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đối 2 câu:

Chàng người yêu nhân ái
Đời người sau nhân hậu

Vế đối khác: Đức ông chồng công phu

Tương truyền, Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến có ra một vế đối na ná câu của thầy Pháp Phễ sau này, nhưng thêm 1 vài câu từ, không rõ thầy Pháp Phễ nọ có lấy ý từ câu đối của Tam Nguyên Yên Đổ ngày trước hay không...?

vế ra: Con rể nết na xem tử tế
vế đối 1: Cháu mọn chững chạc nom tôn ti (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối 2: Cháu út đàng hoàng trông tôn quý (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối 3: Người yêu thật thà trông nhân ái (Thiền Long)
vế đối 4: Người sau hiền hòa trông nhân hậu (Thiền Long)
vế đối 5: Ông chồng cay đắng kể công phu (khuyết danh)

“Tử tế”, “tôn ti”, “tôn quý”, “nhân ái”, “nhân hậu”, “công phu” (HV, cấu tạo theo ngữ pháp tiếng Việt), cùng nghĩa với “con rể”, “ông chồng”, “cháu mọn”, “cháu út”, “người yêu”, “người sau” (TV). “Tử tế” (có đủ theo yêu cầu, không lôi thôi; có lòng tốt), “tôn ti” (chững chạc), “tôn quý” (đàng hoàng), “nhân ái” (thật thà) “nhân hậu” (hiền hòa), “công phu” (sự hao tổn sức lực, thời gian) dùng theo ngữ cảnh thuận, là những từ có gốc HV, chuyển thành từ ngữ HV cùng âm, do xuất hiện các yếu tố TV cùng nghĩa với chúng.

Trai Hóc Môn và gái Gò Công

Trong một lễ cưới tại Tân Thuận Đông. Sui gia hai họ, đàng gái thì gốc Gò Công còn đàng trai là người quận Hóc Môn, Gia Định. Số là, sau khi đi rước dâu từ khuya và sau phần nghi thức hôn lễ, hai họ và thân bằng quyến thuộc được nhà trai khoản đãi long trọng tại tư gia. Mà khi rượu vào thì lời phải ra như ông bà ta xưa nay thường nói. Thấy các cậu đi họ nhà trai vừa liếng thoắng vừa vui vẻ, một cô gái Gò Công, không những xinh xắn mà lại có máu tiếu lâm, bị kích động, cả gan “chọc ghẹo” các cậu trai quê 18 Thôn Vườn Trầu. Cô nói: "Trai Hóc Môn thật là danh bất hư truyền, chơi rắn mắt không ai chịu nổi!" Có ai đó lớn tiếng đòi cô giải thích. Cô thản nhiên đáp: "Chứ không phải Trai Hóc Môn vừa hôn vừa móc đó sao? Hóc Môn là hôn móc chứ còn gì nữa!"

Mọi người vỡ lẽ cười vang lên làm các cậu đi họ nhà trai đỏ mặt vì mắc cỡ (hay vì nhậu quá trớn không chừng). Cũng may, trong đám di họ nhà trai lại có một nhân vật cừ khôi thuộc loại “tứ chiến giang hồ, võ lâm cao thủ” trong làng tếu.
Mặt đỏ gay vì men rượu, cậu khoan thai đứng dậy chào hai họ rồi ung dung trả lời: "Thưa quí chị quí cô, nhờ con trai Hóc Môn chơi bạo như vậy nên mới có chuyện: Gái Gò Công vừa gồng vừa co đó mà"! (Gò công nói lái là gồng co)
vế đối khác 1: Gái Đà Nẵng vừa đằng vừa nã (Phú Đa Nguyễn Phước An)
vế đối khác 2: Gái Đà Rằng vừa đằng vừa rà (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
vế đối khác 3: Gái Đồng Dù vừa đù vừa giồng (khuyết danh)(Đồng Dù thuộc huyện Củ Chi thành phố Hồ Chí Minh, sát Quốc lộ 1, cách thành phố 30 km về phía tây bắc)
vế đối khác 4: Gái Bắc Ninh, vừa binh vừa nắc (khuyết danh)
vế đối khác 5: Gái Hà Đông, vừa hồng vừa đa (khuyết danh)(lấy ý ở câu trong sách tướng: "Hồng Diện đa dâm thủy" nghĩa là con gái má hồng thường thường rất đa dâm)

Vế xuất về gấu ngựa

vế ra: Gấu ngựa gấu hơn ngựa gấu!
vế đối 1: Dê lười dê quá lười dê! (Con lười=danh từ, lười biếng=tính từ chỉ tính cách)
vế đối 2: Thơ tình thơ sánh tình thơ!
vế đối 3: Dê Tây dê kém Tây dê! (Nguyễn Văn)
vế đối 4: Lừa la lừa thắng la lừa! (Phan Tự Trí) (la: vật lai giữa lừa và ngựa)
vế đối 5: Mùi dần mùi khắm dần mùi (Ngọc Châu)
vế đối 6: Yêu quỉ yêu quá quỉ yêu (Diên Minh) ("yêu" là động từ)
vế đối 7: Gà lợn gà mãi lợn gà (Diên Minh)
vế đối 8: Bèo cám bèo thua cám bèo (Diên Minh) (Bèo cám: bèo vụn; Cám bèo: cám rẻ; bèo: vừa làm Danh từ vừa làm Tính từ)
vế đối 9: mập voi mập vượt voi mập (Thiền Long) (cá mập voi)
vế đối 10: rắn rồng rắn thua rồng rắn (Thiền Long) (rắn=chắc)

Vế xuất năm Giáp Ngọ (2014)

vế ra: Xuân Ngọ, đội nón ngựa, cưỡi tuấn mã, tới thôn Phù Mã, xuống ngựa vào đền Hạ Mã, lễ Phù Đổng thiên vương
vế đối: Tết Thìn, tô râu rồng, giong thiên long, gặp cụ Hồng Long, lên rồng về thành Thăng Long, vái Hồng Hà nữ sĩ
vế đối khác 1: Tết Thìn, mặc áo rồng, coi múa long, đến huyện Càng Long, theo rồng thăm xã Nhị Long, cúng Quan Thánh Đế Quân (Thiền Long) (xã Nhị Long thuộc Huyện Càng Long tỉnh Trà Vinh)
vế đối khác 2: Tết Mùi , tỉa râu dê, uống ngọc dương, qua xóm Tảo Dương*, ăn dê ở xã Hồng Dương, thăm Miếu Đức thánh mẫu (Diên Minh) (Hồng Dương thuộc Thanh Oai - Hà tây: có 7 thôn xóm là: Hoàng Trung, Tảo Dương, Ba Dư, Mạch Kì, Phương Nhị, Ngô Đồng, Ngọc Đình)

Vế xuất tại các quán Phở

  • Đối đáp tại quán Phở Minh ở Sài Gòn thời kỳ Việt Nam Cộng Hòa:
"Nổi tiếng gần xa khắp thị thành;
Trần Minh phở Bắc đã lừng danh;
chủ đề: tái, chín, gầu, gân, sách;
"gia vị: hành, tiêu, ớt, mắm, chanh…"

Đô thành Saigon thời kỳ Việt Nam Cộng Hòa chỉ có một tiệm duy nhất ở đường Võ Tánh, gần Ngã Sáu, có món tái sách tương gừng và phở tái sách : tiệm Y. Thịt tái mềm, sách ròn nhai gau gáu, chấm với tương Cự Đà thì tuyệt cú mèo. Sau cuộc đảo chính của Dương Văn Minh, trong làng báo có hiện tượng “trăm hoa đua nở”, hễ có tiền là có quyền làm chủ một tờ báo. Thế là ông chủ tiệm phở Y bèn ra báo. Từ tái, chín, nạm, gầu, sụn, nhảy sang địa hạt chữ nghĩa, ông hoàn toàn bỡ ngỡ. Cho nên báo của ông chỉ có thể đến với độc giả bằng con đường ve chai, dĩ nhiên nó phải chết, và ít lâu sau ông cũng chết theo nó. Người vợ góa trẻ đẹp kế tục ”sự nghiệp” của ông chồng quá cố, Tiệm Y phát đạt trở lại. Những người bạn văn nghệ của ông Y vẫn lui tới ăn phở như xưa, nhưng mục đích chính của họ là… ngấp nghé ngôi vị chủ tiệm. Sau mấy năm trời theo đuổi mà chẳng đi tới đâu, một người trong bọn họ, tức cảnh sinh tình, bèn mượn danh nghĩa bà quả phụ để ra một vế câu đối như có ý thách thức thiên hạ rằng : “Nếu ai đối được thì em xin nguyện lấy làm chồng”.

vế ra: Nạc Mỡ nữa làm chi, em nghĩ Chín rồi không Tái Giá!
Cái tài tình của câu trên là đã dùng rất nhiều từ trong cái nghề hàng ăn mà vẫn nói đúng được ý nguyện của cô chủ, tuy nhiên khách ăn cũng có những tay không vừa.
  1. Một anh thợ cắt tóc đối: Tóc Tơ đâu phải giỡn, tớ liều Kéo lại chuyện Dao Đầu!
  2. Còn anh làm nghề chọc tiết lợn thì viết: Hành Tỏi vừa thôi chứ, khách hăng Tiết đấy đủ Răm Mùi!
  3. Đến lượt thầy lang, cũng góp thêm một tiếng nói: Thuốc Thang chưa đỡ hử, thầy còn Bốc nữa phải Bóp Xoa!
  4. Một ông ở chợ cá góp lời: Cá Nước vui đi chứ, tớ lên Sốt sẵn để Kho Tôm!
  5. Một ông thầy bói đối: Càn Khôn đâu cũng mặc, lão xin Gieo lại chẳng Can Chi
  6. Một bác hủ nho tính ngay chuyện trăm năm: Thịt Xương tìm chốn gửi, mỗ xin Tô nữa, thử Giao Tranh (dao-chanh)
  7. Một đại gia đã đứng tuổi nhưng goá vợ cũng tham chiến: Muối Tiêu chi đáng ngại, lão còn Gân chán tát Gầu Dai
  8. Sau cùng thì một cụ đồ tuyên bố: "có một bông hoa thôi mà bấy nhiêu con bướm lượn, thiết tưởng để nàng được tiết hạnh trăm năm là hơn, vậy nên xin đứng ra ngỏ lời phương tiện": Tiết Sương (xương) thôi giữ vẹn, lão không Hành nữa chẳng Tranh (chanh) Lèo!
vế đối khác 1: Kim Chỉ thêm làm gì, ta kết Đôi lại đặng Se Tơ (kim, chỉ, se tơ chung ngành dệt may đối nạc, mỡ, tái giá thuộc lĩnh vực nấu phở. Số từ "đôi"(hai) có ý nghĩa như "kết đôi" đối lại số từ "chín" còn có nghĩa là chín (phở chín) (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)
vế đối khác 2: Then Khóa lắm được gì, mình quyết Chốt đi còn Động Phòng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối khác 3: Gân Cổ chẳng được gì, nàng thấy Nhừ quá nên Thủ Tiết (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
vế đối khác 4: GÂN GẦU còn cả đấy! Anh nghe MÙI lắm! Hãy cho anh dịp TRẦN HÀNH (Dương Hồng Kỳ)
  • Nguồn gốc câu đối Phở của Khuất Đẩu:

Khuất Đẩu, sinh 1940 tại Bình Định, Tên thật: Trương Đẩu. Sau ngày đi tù về, mỗi ngày Khuất Đẩu đều ra phụ với bà mẹ kế và các em “ bán phở “. Người Sài Gòn, phần lớn là gốc miền Nam, ăn phở bò hay ăn hủ tíu heo đều thích ăn với giá (sống hoặc chín). Vậy là, bà hàng phở bèn hô to: "tái giá cho chị . . . trước mặt đi" ! Câu đối này phát xuất từ một câu chuyện “một anh bạn chọc bà hàng phở. Anh ấy hỏi : Còn “gân” không?, bà ây bảo: Hết rồi chỉ còn tái thôi!“. Về nghĩa bóng, thì “Cái ẩn ý của vế xuất ở chữ gân vừa là món gân bò vừa là hãy còn “sung”, còn “ham” cái chuyện “ấy”. Tái giá vừa là thịt tái vừa giá, nhưng cũng là tiếng chỉ người đàn bà đi bước nữa... “ Theo Khuất Đẩu, thì “hai chữ tái giá hơi gượng vì tái nạm, tái gân, tái sách chứ không ai kêu tô tái giá. Nhưng miền nam, giá là thứ ăn kèm với nhiều món trong đó có phở.”

vế ra: "Đã hết gân rồi còn tái giá " (Hai chữ tái giá hơi gượng vì tái nạm, tái gân, tái sách chứ không ai kêu tô tái giá. Nhưng miền nam, giá là thứ ăn kèm với nhiều món trong đó có phở. Cái ẩn ý của vế xuất ở chữ gân vừa là món gân bò vừa là hãy còn “sung”, còn “ham” cái chuyện “ấy”. Tái giá vừa là thịt tái vừa giá sống, nhưng cũng là tiếng chỉ người đàn bà đi bước nữa)
Hiên Viên đối: Đặc biệt tái xơi lại hành trần (đối được nghĩa đen, chưa được nghĩa bóng)
Vũ Hoàng Thư đối: Chưa xong đùi lại vướng hành trần (cũng chưa đối được cái ý trêu chọc ỡm ờ. Kiểu như hết xíu quách rồi mà còn lấy chồng nữa thì làm ăn được gì!)
vế đối của Lão Chim có vẻ đạt nhất về từ và tiết điệu: Đâu ham pín nữa cạn hành trần (Nhưng hai chữ hành trần vẫn không nói được cái nghĩa tái giá)
vế đối khuyết danh: Thì đem xíu quách trộn rau thơm (Rau thơm thì làm sao mà “ghẹo” được bà hàng phở)
Câu “ đáp “ của Đỗ Xuân Tê như sau: Chưa có gầu sao muốn nước thêm (cảm khái từ: "hồng diện đa dâm thủy", gầu=loại thịt nấu phở/ dụng cụ tát, múc nước, nước là nước phở, khách hay đòi thêm nước)
vế ”đáp” của Trần Công Anh Dũng: Dù còn sách đó hết tương hồi! (Cũng là tình hình “cập nhật” của gánh phở, đồng thời kể lại chuyên một đôi lứa bị đổ vỡ vì lý do gì đó, bây giờ dù vẫn còn phương sách hàn gắn che mắt người đời được, nhưng chén nước tình cảm đã đổ rồi thì không thể nào múc lên cho đầy để cùng quay lại với nhau được.“)
Vế đối khác: "Vừa gãy kim vậy vẫn se tơ" (Thiền Long) (Ở vế đối, gãy kim (kim chỉ) còn ám chỉ trường hợp "gãy kim", "gãy kiếm" (tên bệnh gãy dương vật, gãy có thể điều trị lành lại). Se tơ ngoài nghĩa "se tơ tằm" còn là cách nói khác của "kết hôn". Câu đối nói về trường hợp "gãy kim" là sự cố ngoài ý muốn nhưng vẫn tiến hành kết hôn. "Hết gân" hay "gãy kim" là những chuyện ngoài ý muốn nhưng vẫn "tái giá" (lấy chồng lần nữa) hay "se tơ" (kết hôn)."Gân" với "giá" chung bộ "phở", "kim" với "tơ" chung bộ "nguyên phụ liệu may mặc")

Những bài viết khác trong cùng thể loại

  1. Câu đối sử dụng trong từng trường hợp cụ thể và Thơ xướng họa Việt Nam
  2. Câu đối sử dụng chung và một số giai thoại đối đáp hay của người Trung Quốc
  3. Câu đối chưa rõ sự tích và nguồn gốc xuất xứ
  4. Câu đối liên quan đến Phật giáo
  5. Câu đối liên quan đến Thiên chúa giáo ‎
  6. Câu đối về thời đại Hùng Vương, An Dương Vương và nước Nam Việt
  7. Câu đối về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng
  8. Câu đối về cuộc khởi nghĩa Lý Bí và nhà nước Vạn Xuân
  9. Câu đối về các danh nhân thời Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý (938 - 1225)
  10. Câu đối về các nhân vật lịch sử thời Trần, Hồ, Hậu Trần (1225 - 1414) ‎
  11. Câu đối về các danh nhân thời Lê, Mạc (1428 - 1621)
  12. Câu đối về các danh nhân thời Trịnh Nguyễn Phân tranh, Tây Sơn và Nguyễn (1621 - 1858)
  13. Câu đối về các danh nhân thời Pháp thuộc (1858 - 1956)
  14. Câu đối về các danh nhân Đương đại ‎
  15. Câu đối khắc tại các Đình, Chùa, Đền, Miếu, Phủ, Điện khu vực Bắc Bộ
  16. Câu đối khắc tại các Đình, Chùa, Đền, Miếu, Phủ, Điện khu vực Bắc Trung Bộ
  17. Câu đối khắc tại các Đình, Chùa, Đền, Miếu, Phủ, Điện khu vực Nam Trung Bộ
  18. Câu đối khắc tại các Đình, Chùa, Đền, Miếu, Phủ, Điện khu vực Nam Bộ
  19. Câu đối khắc tại phủ, điện, đình, chùa, đền, miếu xưa và nay ở thủ đô Hà Nội
  20. Câu đối khắc tại Từ Đường của các dòng họ Việt Nam
  21. Câu đối giao hữu trong Cơ quan đoàn thể và những tổ chức Phi chính phủ
  22. Câu đối truyền miệng không có danh tính nhân vật cụ thể
  23. Câu đối trong giai thoại dân gian có danh tính nhưng chưa rõ tiểu sử nhân vật
  24. Câu đối ghi chép tại sách vở, gia phả hay ban thờ tại một số tư gia Việt Nam
  25. Câu đối cùng giai thoại đối đáp về đại thi hào Nguyễn Du và Truyện Kiều
  26. Câu đối và những giai thoại đối đáp của các vị vua chúa triều Nguyễn
  27. Câu đối và giai thoại đối đáp của Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835 - 1909)
  28. Câu đối và giai thoại đối đáp về Sào Nam Phan Bội Châu (1867 - 1940)
  29. Câu đối và giai thoại Thơ xướng họa về Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 - 1969)
  30. Câu đối của những nhân vật định cư ở Hải ngoại
  31. Câu đối của Giáo sư Anh hùng lao động Vũ Khiêu

Những câu đối liên quan đến ban biên tập và các cộng sự trên wikiquote

Những câu đối về ban biên tập

  • Ngày 25/11/2015, đại tá Hải quân là Phạm Thanh Cải tình cờ truy cập vào trang câu đối trên wikiquote thấy nó quá đồ sộ nên copy lại để chia sẻ cho bạn bè thưởng thức, nhân đó có người là Trankhau cảm nhận: "Công trình của thày PHẠM THANH CẢI sưu tầm và sáng tạo quá đồ sộ! Chưa thể đọc nhiều! Nhưng đã nể sợ! Vậy, Trần mạo muội Kính biếu Thày 1 vế đối để tỏ lòng ngưỡng mộ":
Vế ra: "Phục tài! PHẠM trù văn chương thâm hậu, thày tinh tường THANH lọc, hoán CẢI" (TK)
Vế đối: "Ghi đức! HOÀNG kim thời kỳ chuyên sâu, bác miệt mài TRẦN tình, tu TƯ” (Thiền Long) {theo từ điển: "tu tư" có nghĩa nguyên văn là "sửa sang câu văn cho hay cho đẹp"; nghĩa vế ra là ghi nhận công đức lúc bác đang làm tốt nhất việc trình bày (trần tình) và sửa sang câu văn cho hay cho đẹp} (Vế đối nhắc đến tên một thành viên chuyên sưu tầm một cách thầm lặng và nhiệt thành các câu đối, các giai thoại câu đối...và trình bày đầy đủ ở trang wikiquote này để chia sẻ với mọi người cùng thưởng thức và copy nguồn thông tin cần thiết từ trang. Nhóm biên tập gồm các thành viên như: Trần Việt Hà, Vũ Quang Long, Đỗ Đình Bao, Hoàng Trần Tư, Hoàng Thành Ân, Nghiêm Mạnh Hùng, Trần Đức Thắng, Đỗ Minh Đạt, Nghiêm Thị Thu Hà, Hoàng Vũ Minh Thư...).
  • Vế ra: 雄 龍 達 河 書, 私 恩 何 包 勝 Hùng long đạt Hà Thư, tư ân hà bao thắng? (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nghĩa là: Rồng mạnh được sách Hà Đồ và Lạc Thư, nhớ ơn riêng biết bao là điều tốt đẹp. Vế ra dùng tên riêng của nhóm gồm 10 vị tham gia góp phần biên tập trang "Câu đối và thơ đối đáp")
Vế đối: 光 福 長 文 賦, 多 懷 英 蟬 隆 Quang phúc trường Văn Phú, đa hoài anh thiền long! (Trần Việt Hà) (Nghĩa là: Tấm lòng sáng chói bao la cùng Văn chương thi Phú, chứa đựng nhiều sự tinh anh làm cho liền lối liên tục, ngày càng tươi đẹp thịnh vượng lớn mạnh...vế đối sử dụng 5 tên hiệu của 5 thành viên của nhóm cộng sự là Quang Phúc Phạm Đình Trung, Trường Văn Nguyễn Phước Thắng, Phú Đa Nguyễn Phước An, Hoài Anh Võ Quang Thạch và Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh để đối với 10 người trong ban biên tập)
  • Vế ra: Bèo nước gặp nhau, Nặng nghĩa mến tình, Ngàn Dặm giao lưu Trong nể Trọng (Đỗ Đình Bao)
vế xuất này ý nói rằng 2 bên vô tình giống như cánh bèo trôi lang thang trên dòng nước...ban biên tập gặp được những cộng sự nhiệt tình như: Phú Đa Nguyễn Phước An, Trường Văn Nguyễn Phước Thắng, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh, Hoài Anh Võ Quang Thạch, Quang Phúc Phạm Đình Trung và cả nhân vật có biệt danh Cò Con nữa...những cộng sự đắc lực đã hỗ trợ cho ban biên tập xây dựng dự án về trang câu đối và thơ đối đáp đồ sộ này...Từ duyên bèo nước rồi tiếp xúc lâu này biết được tính cách và nghĩa cử của nhau cho mến cảm thấy quý mến...cho dù cách xa hàng ngàn dặm (kẻ ở phương Nam người ngoài đất Bắc) vẫn kết nối giao lưu với nhau trong sự nể phục và quý trọng. Tuy nhiên câu đối này có độ khó là mang tính chiết tự ở cả 2 góc độ chữ Hán và chữ Quốc Ngữ, câu này chiết tự chữ Trọng...chữ  Trọng được ghép bởi chữ  Thiên (có nghĩa là 1 nghìn) và chữ  Lý (có nghĩa là Dặm)...Hai chữ này ghép vào nhau thành chữ Trọng có nghĩa là Nặng, đó là về phía chiết tự chữ Hán...Ngoài ra, chữ Trong thêm dấu Nặng sẽ thành Trọng...như vậy chữ Nặng ở đây lại mang 2 nhiệm vụ, 1 là nặng nhẹ là nghĩa của chữ chiết tự chữ Nho, còn 2 là dấu nặng của chiết tự chữ Quốc Ngữ.
Vế đối: Ý lời đối ngẫu, Ngang câu đảo chữ, Tám Trò phân tích Bình ra Bình (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
Vế đối ý nói rằng: Trong cặp đối (gồm vế ra và vế xuất) hoàn chỉnh thì ý và lời phải đối nhau tương xứng, câu chữ nhiều lúc phải suy luận nghĩ xuôi nghĩ ngược tìm đáp án tốt nhất. Thậm chí phải kết hợp nhiều người có kiến thức (Tám Trò) để cùng phân tích, bình phẩm thấu đáo vấn đề thuộc về nội dung, hình thức, nghệ thuật trong câu đối nhằm mục đích đối chỉnh, tức là "Bình cho ra Bình". Về chiết tự chữ Hán: chữ Bình (bằng, ngang) nếu quay ngược 180 độ thì có thể tách thành 2 chữ gồm chữ Bát (Tám) và chữ Sĩ (trò, học trò). Về nghĩa Việt thì chữ Bình có nghĩa là Ngang, ở đây có nghĩa là thanh Ngang (không dấu) để đối thanh Nặng, ngoài ra chữ Bình khi không thay đổi thanh (6 thanh trong tiếng Việt: Sắc, hỏi, ngã, nặng, huyền và ngang) thì vẫn là chữ Bình. Chữ Bình ở đây còn có nghĩa: thật ra, nhóm cộng sự gồm Phú Đa, Trường Văn, Thiền Long và Hoài Anh chỉ đáng là "học trò", năng lực "Bình thường" mà được quý bác trong Ban biên tập quý trọng thì thật là không dám! Vì vế ra quá khó, nên vế đối buộc phải chiết tự theo hướng nghịch (kiểu như chữ Phúc treo ngược) mới đảm bảo đối được câu đối dạng chiết tự bao gồm cả Tiếng Việt và chữ Hán (phải nói đó là một dạng chưa có trong tiền lệ xưa nay). Đây là một sáng tạo độc đáo trong câu đối nước ta! Từ những câu đối phối hợp ăn ý kiểu này, mới thấy Tiếng Việt của dân tộc ta giàu có, sâu sắc và sang trọng hẳn lên, nhất là khi kết hợp chiết tự cả phần Việt và Hán, hơn nữa nó lại được thể hiện dưới dạng thơ lục bát - một bản sắc tuyệt vời của văn chương nước nhà.
  • Vế xuất tặng bạn Đào Văn Sáu của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh: "Văn sáu sử mười địa mười hóa chín" (Nghĩa 1/ là bảng điểm các môn. Nghĩa 2/ là môn văn điểm sáu, nhưng vấn đề "sử" (nghĩa như khiến, thuyết phục ai đó) được mười, "địa" (nghĩa như "suy đoán", "nhận ra" vấn đề ) được mười, "hóa" nghĩa là "thành ra"; "chín" là "chín chắn", "cứng cỏi", "đủ". Tạm dịch nghĩa thoát lên là: Văn sáu điểm và giỏi thuyết phục, giỏi suy đoán thành ra đủ cứng cỏi)
vế đối: Trần Tư tường nhất gác nhất thành đôi (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (vế đối này xin kính tặng bác Hoàng Trần Tư cùng các Bác Trần Việt Hà, Vũ Quang Long, Đỗ Đình Bao, Hoàng Thành Ân, Nghiêm Mạnh Hùng, Trần Đức Thắng, Đỗ Minh Đạt, Nghiêm Thị Thu Hà, Hoàng Vũ Minh Thư...vv trước hết là bảng chỉ số kỉ thuật xây dựng gồm: trần 4 lớp,tường 1, gác 1 và thành 2 lớp. Trần tư có nghĩa là trần tình tu tư, tường nhất là hiểu biết am tường nhất, gác nhất là giữ gìn bảo tồn sưu tầm nhất , thành đôi là kết quả tốt đẹp)

Xướng họa giao lưu giữa Ban biên tập trang câu đối Wikiquite và các cộng sự

  • Bài xướng của Nghiêm Mạnh Hùng (1932 - 2016):
Trần gian khổ lắm mọi người ơi
Biết nói chi đây chỉ trách trời
Căm cụi cơ cầu vì cuộc sống
Tất bật lo toan bởi tiếng đời
Hăng say phấn đấu nhiều mơ ước
Lọ mọ miệt mài ít nghỉ ngơi
Ôm đàn ai nỡ làm dây đứt
Theo nhịp ta cùng dạo nhạc chơi...!

Bài họa của Hoài Anh Võ Quang Thạch:

Cõi tạm lo gì mấy bác ơi
Buồn vui cuộc sống trách chi trời
Chải bươn bận bịu tròn gia đạo
Rảnh rổi thong dong trả nghĩa đời
Đối ngẫu mài câu không lúc nghỉ
Họa thơ chuốt ý chẳng khi ngơi
Lỡ mê thơ nhạc thôi thì nốt
Chót tuổi trần đời cứ việc chơi
  • Bài xướng của Trần Việt Hà:
Cuộc sống kể ra cũng nhố nhăng
Như sợi dây đàn kéo thật căng
Chôn rau cắt rốn thì bỏ bễ
Đất khách quê người lại siêng năng
Xa mẹ xa cha tuy trống trải
Vì vợ vì con vẫn phải hăng
Có được cái này thôi cái khác
Ông trời thấu hiểu cảnh tình chăng...?

Bài họa của Hoài Anh Võ Quang Thạch:

Đừng buồn cuộc sống nhố hay nhăng
Già néo nên chùn chớ để căng
Cầu thực xứ người không được biếng
Trả ơn Quê mẹ nhớ mà năng
Lo tròn hiếu đạo cần nên gắng
Vun đắp nghĩa tình phải cố hăng
Thấu hiểu lòng người trời tặng cả
Hiếu tình khỏi hỏi có hay chăng

Bài họa của Trường Văn Nguyễn Phước Thắng:

Trường đời danh lợi lắm lăng nhăng
Ta giữ lòng ta chớ để căng
Bồi mãi chẳng thừa là đức độ
Vun hoài vẫn thiếu ấy tài năng
Nước đi trăm ngả nhờ buông xả
Sừng gãy đôi đàng do cố hăng
Có hiếu có trung thì có cả
Không chầy ắt chóng nhớ giùm chăng
  • Bài xướng của Vũ Quang Long:
Trăm khe ngàn suối đổ vào sông
Cuốn trôi ra biển nợ tang bồng
Thị phi thanh bại theo dòng nước
Danh tiếng mất còn cũng tan không
Một dải núi non nguyên vẻ cũ
Mấy độ xuân thu bóng xế hồng
Ba sáu nghìn ngày là mấy chốc
Lao lực cơ cầu chỉ uổng công

Bài họa Trường Văn Nguyễn Phước Thắng:

Hạt nước về nguồn nhớ biển sông
Đời như mây trắng vắt non Bồng
Nhờ trăng soi bước thăm miền thẳm
Ơn gió đưa tình dạo cõi không
Ngọc quý hiến mình xanh đất thắm
Băng thanh giữ tiết rạng trời hồng
Sạch trong lại sáng ngời anh khí
Vui lẽ vô thường đỡ nhọc công!
  • Bài xướng của Hoàng Thành Ân tự Trọng Khoa:
Một chuỗi ngày đêm nối tiếp nhau
Cuộc đời chỉ thấy những thương đau
Lẳng lơ cũng hóa người Thiên Cổ
Đứng đắn đâu thành khối Vàng Thau
Vợ con ắt hẳn từ nghiệp trước
Cha mẹ thôi thì trả nghĩa sau
Ngán nỗi đoạn trường thêm khổ hận
Chỉ trách thời gian chạy quá mau

Bài họa Trường Văn Nguyễn Phước Thắng:

Duyên định bao giờ lại có nhau
Mà san câu sướng sẻ vần đau
Sen vàng ngan ngát thơm lòng giếng
Trăng ngọc ngạt ngào rạng bóng thau
Chút nghĩa gắng tròn từ buổi ấy
Khối tình mong vẹn đến mai sau
Kìa gương Khương Tử ngời muôn thuở
Hoa nở đúng thì chẳng chậm mau!
  • Bài xướng của Trần Việt Hà:
Xa quê thoắt đã chục năm trường
Cay đắng ngọt bùi nhuộm gió sương
Mua đất xây nhà nơi xứ lạ
Bỏ ruộng vứt vườn ở cố hương
Chữ Hiếu thôi đành xin gác lại
Nợ Tình chấp nhận mối tơ vương
Vợ con là cả niềm an ủi
Động lực tiến thân giữa đời thường

Bài họa của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh:

Thương trường vốn dĩ tựa sa trường
Nào ngại mưa dầm hay khói sương
Tín nghĩa không sai cùng đất hứa
Nhân tâm chẳng thẹn với quê hương
Đầu xanh còn rộng đường thời thế
Tay trắng đâu dài mộng bá vương
Dẫu biết đời người nhiều thử thách
Xin tròn đạo lý với cương thường
  • Bài xướng của Đỗ Đình Bao:
Đố ai đuổi kịp được thời gian
Ngăn lại không cho nó chạy tràn
Vặn ngược trở về thời quá khứ
Đẩy xuôi theo nhịp mấy cung đàn
Giúp kẻ sai lầm thôi ân hận
Cứu người nỡ bước khỏi kêu than
Xã hội chẳng còn tranh đoạt nữa
Thiên hạ thanh bình hết trái oan

Bài họa của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh (Tạm đặt tên là Mộng):

Thơ túi rượu bầu dạo thế gian
Thảnh thơi tiên cảnh uống say tràn
Vườn thơm tri kỷ vui nâng chén
Hoa đẹp tri âm hứng dạo đàn
Trăng sáng râm ran câu tiếp chuyện
Đêm khuya tí tách lửa hừng than
Giật mình, giấc mộng trưa tan biến
Gà gáy bên thềm như trống oan
  • Bài xướng của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh (Bài có tên là Hiếu - viết tặng anh là Trường Văn Nguyễn Phước Thắng):
Cha yếu tuổi cao, mẹ khuất xa
Chăm chiều già khó chẳng nề hà
Anh em cảnh vắng nhiều thưa thớt
Con cháu tuổi non quá thiệt thà
Lắm sóng chao thuyền từng đợt... lướt
Nhiều đà nặng cột mấy năm ...qua
Đời người trăm nết, đầu là hiếu
Hồn mẹ cười vui, ấm chén trà...

Bài họa của Hoàng Thành Ân tự Trọng Khoa:

Bởi vì cuộc sống phải đi xa
Danh lợi bon chen lắm phiền hà
Dời quê Bình Định lòng... không nỡ
Đến đất Sóc Trăng bụng... chẳng thà
Chim Việt chọn cành nhoằng chốc lát
Ngựa Hồ lựa hướng thoáng vù qua
Hiếu trung giữ vẹn tình son sắt
Chạnh nỗi niềm riêng uống ngụm trà

Bài xướng của Vũ Quang Long với tựa đề Vịnh Ấm Chén:

Khen ai khéo léo tạo nên mày
Có người thêm tỉnh kẻ thêm say
Chòng chành nghiêng ngả tuôn dòng nước
Lúc bị vơi đi, lúc lại đầy

Bài họa của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh:

Lúc trưng tiên nữ đẹp mi mày
Có lúc thì trưng hảo hớn say
Một mẹ nhiều con quanh lố nhố
Mẹ khi vơi bụng ắt con đầy

Câu đối khắc tại đình Phú Đa xã Nhơn An huyện An Nhơn tỉnh Bình Định

Xã Nhơn An huyện An Nhơn tỉnh Bình Định có chợ Phú Đa thuộc thôn Tân Dân. Thời trước nơi này có đình làng, chợ búa và chùa chiền rất sung túc, tập trung nhiều phú hào địa phương sống xung quanh khu chợ này. Sau bao nhiêu thời gian và sự tàn phá của chiến tranh bây giờ đình làng đã hầu như biến mất chỉ còn hai cây cột đình lẻ loi mang đầy thương tích và đang tàn lụi. Câu đối trên hai câu cột đã bể nát gần hết giờ chỉ còn một chữ "Phú". Năm 2014, khu chợ này được quy hoạch thành một công viên và người dân muốn phục chế hai cây cột đình kia và cả cặp câu đối mà chữ đầu một bên là chữ "Phú" chữ đầu một bên khác là chữ "đa". Sau khi chọn lọc các câu đối gửi về thì họ đã quyết định chọn câu đối của cụ Như Bích Nguyễn Đình Chi, một nhà Nho cự phách trong vùng. Tuy sức khỏe của cụ Như Bích đã yếu nhưng ý tưởng còn khá minh mẫn, tinh thần khá phấn chấn. Bên cạnh là sự tư vấn thường xuyên của Trường Văn Nguyễn Phước Thắng và các góp ý của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đều là con trai cụ:

Phú đức thiên gia sinh thịnh vượng (tạm dịch nghĩa: có nhiều đức nên hàng nghìn hộ được đón nhận sự giàu sang)
Đa ân bá tánh phát vinh hoa (tạm dịch nghĩa: có nhiều ơn nghĩa nên mọi người được đón nhận niềm vinh dự)
Câu đối có ý khuyên sống ở đời phải có đạo đức tốt và phải làm việc có ơn có nghĩa.

Các câu đối khác:

Phú quí cát tường do đức tổ (giàu sang may mắn là do ông bà ăn ở có đức)
Đa tài an lạc ý linh thần (có được nhiều người tài giỏi và bình an vui vẻ là vì được ý thần linh phù hộ)

và:

Phú an bá tánh linh thần trợ (nhân dân được giàu có và bình an là do thần linh trợ giúp)
Đa hảo thiên tài vượng địa sinh (tài năng nhiều và tốt là nhờ vùng đất vượng mà sinh ra)
Tất cả mấy câu đối trên chữ đầu đều xuất phát bởi chữ Phú ở vế trên và chữ Đa ở vế dưới

Nhân dịp này, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh có cảm hứng làm 1 bài thơ:

Chợ cũ Phú Đa tái lập đình
Đại tòa lục giác phát uy linh
Bạch lân oai vệ chầu giương vuốt
Xích thố nghiêm trang hí trổ mình
Chánh điện hào quang hòa diệu chiếu
Ngoài sân thế thái thuận an sinh
Bảo tồn tín ngưỡng theo truyền thống
Hướng thiện cầu tài đắc hiển vinh
Trước đây, Trường Văn có bài thơ "Nhớ Phú Đa" được bà con trong làng rất yêu thích, nay xin giới thiệu với quý tao nhân mặc khách:
NHỚ PHÚ ĐA
(Em về Đập Đá quê cha
Gò Găng quê mẹ Phú Đa quê chàng)
(Ca dao Bình Định)
Mai về đốt đuốc đi soi cá
bẻ đọt măng vòi nấu mắm cua
Từ khi lòng biết về xa vắng
nhớ Phú Đa thôi đã mấy mùa
Mây trắng trời xa dang cánh phụng
sân đình lân đứng dãi gió sương
Tiền sao mua nổi tình thôn nữ
đi chợ ngang hồ soi nhớ thương
Người đi có nhớ câu Nam Khách
vọng giữa hội cờ trong nắng xuân
- Hỡi cô quân chốt đầu sông đó
chờ ta diễn thảo rước sang ngang
Ta gieo sao sáng trên đồng cạn
ta gặt trăng vàng dưới ruộng sâu
Lụa tằm hong nắng bờ sông trúc
là áo ta về chăm luống dâu
Sớm khuya yên ả dòng chuông đổ
cánh cò liệng trắng mấy chiều không
Nhà ai mời rượu mà trăng nước
nghiêng ngả lưng trời say gió đông
Trải bao khói lửa mờ phai nét
Đầm Nghiên ngọn Bút gọi hồn văn
Câu ca chảy ngát lời ru mẹ
ru mãi hồn tôi trên võng trăng...

Những giai thoại và câu đối của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh

Những câu đối phản ánh tình hình thời sự và các câu tự làm cả 2 vế

  • Năm 2012, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh cùng bạn thân là Đặng Thế Vinh đi máy bay sang Trung Quốc công tác. Trong chuyến đi của đoàn đang ngồi bàn tán phong cảnh rôm rả, người thầy dạy tiếng Hoa kiêm thông dịch viên tên Xuyên đang nói về các địa danh núi của TQ như núi Thái Sơn, Võ Đang...Và cảnh đẹp với hình tượng mây và núi cao quấn quýt nhau, Thiền Long mới thốt lên tứ thơ: "núi ấp ôm mây, mây ấp núi" và định làm một bài tứ tuyệt. Lúc đó Đặng Thế Vinh cũng đưa vế ra đối: "Núi Võ Đang còn đang e ấp"...do lúc đó đang ở trên máy bay, sức khoẻ cũng hơi kém nên Thiền Long chưa nghĩ ra vế đối lại, khất bạn vào một dịp khác. Sau đó, do công việc tất bật nên quên bẵng chuyện này đi. Đến năm 2014, người Trung Quốc lắp đặt trái phép dàn khoan Hải Dương-981 ("HD-981") trong phạm vi chủ quyền lãnh hải của Việt Nam. Chính quyền Việt Nam sử dụng biện pháp mềm dẻo bao nhiêu thì cách hành sử của người Trung Quốc ngược lại bấy nhiêu, hung hãn dùng vòi rồng phun vào các tùa của Việt Nam bất chấp dư luận quốc tế. Thế là Thiền Long nhớ lại câu chuyên đó liền nhắn tin cho bạn đề xuất chỉnh sửa phần đuôi cho phù hợp với thời cuộc mà nảy ra vế xuất này dựa vào ý trong câu nói của người bạn thân Đặng Thế Vinh:
Vế ra: Núi Võ Đang người đang múa võ (Ở đây dùng hình "đang múa võ" chứ không phải "đang luyện võ" rất hay. Võ mà múa thì đúng là chỉ để ra oai, hù dọa, chứ trong mắt người luyện võ chân chính không bao giờ đem công phu mình ra múa, làm trò. Nếu đang luyện võ thì lại mang ý nghĩa hoàn toàn khác. Liên hệ với tình hình thời sự hiện nay, trong khi China đang dương oai, hống hách và gây hấn ngoài Biển Đông, lòng dân ta tuy sôi sục nhưng vẫn giữ sự điềm tĩnh, cố gằng hòa giải bằng các biện pháp ngoại giao theo luật pháp Quốc Tế. Không vì nóng giận mất khôn mà sa vào bẫy của giặc. Trước đây Quang Trung đã khôn ngoan trong ngoại giao với phương Bắc như thế nào hôm nay quân dân ta cũng sẽ làm vậy. Người có công phu chân chính, nếu không động thì thôi, một khi động vậy thì trời long đất lở. Lịch sử đã chứng minh rằng: người phương Bắc càng hống hách kiêu căng bao nhiêu thì càng chuốc lấy thất bại thảm hại bấy nhiêu. Những bài học lịch sử còn sờ sờ ra đó, nếu chúng quên vậy ta không ngần ngại dạy cho chúng 1 bài học nữa để chúng nhớ rằng chính người Việt ta đây là chủ đất trời Nam. Chúng múa may quay cuồng ngoài biển vậy ta phê bình chúng trước. Phê bình không phải là "phê và tự phê giả dối" mà ở đây là răn dạy chúng, cảnh báo chúng về những bài học trong quá khứ trước khi làm cho chúng phải sợ hãi đúng với câu Tiên Lễ hậu Binh)
Vế đối: " Nhạc Văn Cao ta cao giọng văn " (Trần Việt Hà) (Phân tích vế xuất và về đối: Núi Võ Đang là danh từ riêng nhắc đến 1 ngọn núi bên Trung Quốc trên đó có phái võ do Trương Tam Phong sáng lập, đối với Nhạc Văn Cao cũng là danh từ riêng chỉ về những tác phẩm nhạc của nhạc sĩ Văn Cao (1923 - 1995) ở Việt Nam ta mà khi nhắc đến nhạc sĩ Văn Cao thì giai điệu nổi tiếng của ông là Tiến Quân Ca đã được Bác Hồ lựa chọn làm quốc ca của Việt Nam ta. Vậy người đang múa võ có nghĩa họ đang tập võ trên núi Võ Đang và nghĩa thứ 2 là họ đang diễu võ dương oai, đối lại cụm từ đó là ta cao giọng văn rất hợp lý vì họ múa võ trên núi Võ Đang thì ta cũng cất cao bài quốc ca của chúng ta, nếu họ dương oai diễu võ theo kiểu Võ Biền thì ta dùng biện pháp ngoại giao (Văn đối với Võ) bằng biện pháp hòa bình mềm dẻo theo luật pháp quốc tế và những công ước biển không hề gây hấn để khẳng định chủ quyền lãnh hải và thềm lục địa của mình. Các hàm ý vế đối đều tương xứng vế ra. Vế ra, vế đối hay là các vế bao hàm nhiều ý nghĩa một cách tự nhiên, không suy diễn riêng. Điều đáng ghi nhận hơn là câu đối diễn tả tính thời sự. Đó là một cặp vế ra vế đối tương xứng)
Vế đối khác 1: Quân Giặc Mãn trời mãn vận giặc (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh) (Ý nhắc hàng chục vạn giặc Mãn Thanh sang xâm lược nước Đại Việt đã bỏ thây trong trận Ngọc Hồi Đống Đa. Giặc vẫn là giặc, bất chấp đạo lý (ý trời). Từ "Mãn" cũng có nghĩa là "hết" ,"kết thúc". "Mãn vận giặc" nghĩa là kết thúc thời vận của giặc. Hiện tại họ đang dương oai giễu võ nhưng họ nên nhớ những bài học thất bại năm xưa để tôn trọng ý chí và sức mạnh bảo vệ chủ quyền của người Việt. Riêng người Mãn ở Trung Quốc một thời oanh liệt Triều Thanh giờ cũng đã bị đồng hóa hoàn toàn với dân tộc khác, tiếng Mãn hầu như không còn nữa)
Vế đối khác 2: Dân Bình Định ta định phê bình (Đặng Thế Vinh) (Đất Bình Định có tiếng là đất võ, người dân yêu võ nhưng là luyện võ để tráng kiện thân thể và rèn trí lực. Và trên hết là để bảo vệ người thân, bảo vệ quê hương đất nước chứ không phải để dương oai hay cậy mạnh hiếp yếu. Chẳng phải với một thân áo vải cờ đào, quân dân Tây Sơn Bình Định với người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ đã đánh tan 20 vạn quân Thanh hay sao? Tuy vậy sau cuộc chiến, Quang Trung ra lệnh thu nạp và nuôi dưỡng hàng vạn tù binh Mãn Thanh. Ông sai thu nhặt xương cốt quân Thanh tử trận, chôn thành những gò đống, lập đàn cúng tế và sai Vũ Huy Tấn soạn văn tế, biểu thị sự thương xót với những quân, dân Trung Quốc chết xa nhà. Võ Đang có Trương Tam Phong, Bình Định có anh hùng áo vải Quang Trung ứng đối.Địa danh Võ Đang đối với vùng đất Bình Định cũng đều liên quan đến võ. Tình cờ Đặng Thế Vinh và Thiền Long đều là dân Bình Định, thế nên thấy người đang diệu võ dương oai thì có ý định phê bình. Thế thì thấy người đang "múa võ", dân bình Định ngứa mắt nên có ý định "phê bình", âu cũng là rất tự nhiên. Tuy vậy cũng hơi đáng tiếc là vì đang ngồi máy bay nhìn xuống nên chỉ có thể "định" phê bình mà không phê trực tiếp được)
  • Từ ngày 6/4/2016, các hộ nuôi trồng thủy sản ở vùng Cảng Sơn Dương (Khu Kinh tế Vũng Áng) phát hiện cá chết bất thường. Hiện tượng này nhanh chóng lan ra các vùng biển lân cận khác tại Kỳ Lợi, Kỳ Hà, Kỳ Phương, Kỳ Nam (thị xã Kỳ Anh) với thiệt hại thống kê được khoảng 70 tấn, trong đó có 7 tấn tôm nuôi, 60 tấn nghêu và 2,1 tấn cá các loại. Riêng về cá tự nhiên, chưa thể thống kê đầy đủ nhưng theo kinh nghiệm của người dân địa phương những loại cá chết trôi dạt vào bờ chủ yếu nằm ở tầng đáy. Nhân tính thời sự nóng hổi của vùng biển Hà Tĩnh, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh nảy ra 1 vế xuất như sau:
vế ra: "Cá chết trắng bờ, ngư dân trắng tay sống ngất ngư" (Vế ra có vài lưu ý nhỏ : + "Cá"="ngư"; Có 2 chữ "ngư" trong danh từ ghép "ngư dân" và tính từ ghép "ngất ngư"; Cặp đối lập: "chết"><"sống"...2 chữ "trắng", một trong tính từ ghép "trắng tay". Theo từ điển, "ngất ngư" còn có nghĩa là "éo le, oái ăm...")
Vế đối: BIỂN SẦU ĐEN SÓNG,HẢI TẶC ĐEN MẶT LO HỚT HẢI (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
Vế đối khác 1: NGƯỜI ĐAU ĐỎ MẮT, SĨ THƯỢNG ĐỎ VẬN HOÀNH VÔ SĨ (Minh Tran)
Vế đối khác 2: MĂNG NGẬM LƯU HOÀNG, QUAN PHỦ BÀNG HOÀNG PHUN NGẬP PHỦ (Hải Yến) (Vế đối bàn về một chủ đề thời sự cũng rất nóng khác là an toàn VSTP, tuy nhiên về yếu tố chữ nghĩa còn nhiều khía cạnh chưa được chuẩn chỉnh lắm)
Vế đối khác 3: TRÂU KỀNH ĐEN RUỘNG, ĐỘC QUẢN ĐEN SỐ SẦU CÔ ĐỘC (Tạ Văn Hoành) (犊 độc: Từ điển phổ thông: Con nghé, Con trâu non. P/S: Cụm từ Độc Quản (Người quản trâu, người chăn trâu) thấy còn hơi gượng ép vì trong văn phong, chỉ thấy nói Quản Tượng (Quản Voi) mà chưa nghe "Quản Trâu")
Theo quan điểm giao lưu của các thi hữu như: Nguyễn Hữu Quyến và Tạ Văn Hoành, người ra đối cũng nên tham gia đối đáp cùng cả nhà cho vui. Cho nên Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh cũng xin đưa ra vế đối của mình: NGỰA NẰM ĐẦY BÃI, ĐÀ TỬ ĐẦY TÚI NGỒI ĐẪY ĐÀ (Tình trạng trục lợi xe công)(Ngư dân thì nghèo đói hoang mang, còn kẻ trục lợi béo tốt thì ngồi vơ tiền đầy túi. Chú giải: "đà" có nghĩa Hán Việt là ngựa thồ. "Đà tử" là người có ngựa, lừa... đi chuyên chở cho người khác)
  • Nhân sự kiện động thổ hầm đèo Cả trên tuyến quốc lộ 1A, Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đưa vế ra nhắc đến khúc cua Đá Đen là một trong những khúc cua nguy hiểm nhất của đèo Cả thuộc khu vực giáp ranh hai tỉnh Phú Yên-Khánh Hòa. Bởi địa thế hiểm trở, nơi đây từng là chiến trường khốc liệt của các cuộc chiến giữa hai nước Đại Việt và Chiêm Thành, giữa hai chế độ Nguyễn Ánh và Tây Sơn và giữa hai lực lượng Pháp và Việt Minh... Hiện giờ chúng ta đã có hầm đường bộ qua đèo an toàn hơn, và có lẽ mọi người sẽ rất hiếm khi đi ngang cua Đá Đen này nữa. Nhưng đây là một địa danh ấn tượng đã in sâu trong tâm trí bao nhiêu thế hệ người đi đường ngang qua, những người từng sống và chiến đấu tại khu vực này từ khi Pháp xây dựng đường đèo Cả. Được khởi động từ năm 2010, tổng chiều dài toàn tuyến của dự án Hầm đường bộ Đèo Cả dài trên 13 km với tổng mức đầu tư dự án gần 11.400 tỉ đồng. Riêng Hầm Đèo Cả chính thức thi công từ đầu tháng 1-2014, được ngày 4 nhà thầu tham gia thi công. Sáng 31-7-2016, Bộ Giao thông Vận tải và Công ty CP đầu tư Đèo Cả tổ chức lễ thông hầm đường bộ qua Đèo Cả. Ngày 31/8/2016 vế xuất này mới được công khai tới các độc giả và thi hữu:
vế ra: "QUA CUA QUA CUA ĐÁ ĐEN, BẮT CON CUA ĐÁ ĐỎ LẠI ƯỚP ĐÁ" (Thiền Long)(chữ "qua" đầu tiên là có nghĩa "ta, tôi" huynh. Vế ra có các khóa trong đó trước hết ở khóa 1 thì chữ "cua" có 3 nghĩa, chữ "cua" thứ nhất (chữ có vị trí số 2) có nghĩa động từ "rẽ qua...". Chữ "cua" thứ hai (chữ số 4) là danh từ như " khúc cua" của con đường. Chữ "cua" thứ 3 (chữ số 9) là danh từ "con cua". Chữ "qua" (số 1) có nghĩa đại từ, nghĩa "qua" (số 3) có nghĩa trạng từ (từ chỗ này sang chỗ khác). Chữ "đá" có hai nghĩa: chữ "đá" (chữ số 5) là như "hòn đá"trong "đất đá" và chữ "đá" số 14 là "đá lạnh" (nước lạnh đông thành đá). "Cua Đá Đen" là danh từ riêng chỉ địa danh có tính từ chỉ màu sắc "đen". "Cua đá đỏ" là danh từ chung có tính từ màu sắc "đỏ" (đối lập màu "đen"). cặp đối lập "qua" >< "lại")
vế đối 1: BẬU THÁP BẬU THÁP ĐỒNG DƯƠNG, LÀM CÂY THÁP ĐỒNG ÂM SANG CÚNG ĐỒNG (Hoài Anh Võ Quang Thạch) ("THÁP ĐỒNG DƯƠNG" còn có tên là phật viện Đồng Dương, ở làng Đồng Dương huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam cách Đà Nẵng khoảng 65km về phía tây nam, nơi đây khi xưa đất đai khô cằn lớp đất chỉ khoảng 20cm còn lớp dưới chỉ toàn đá ong việc canh tác đồng áng khó khăn nên người dân hay tới tháp cầu Bồ Tát phù hộ. "BẬU" vừa là đại từ phương ngữ để người con trai gọi người yêu hay khi nói với vợ ví dụ: "tìm Bậu Bậu đã lấy chồng, Bậu thương như thế mặn nồng làm sao." Và Bậu cũng là một động từ đậu vào bám vào. "THÁP" là động từ ghép hoặc tháp tùng đi theo "CÂY THÁP ĐỒNG ÂM" là cây tháp tiền âm phủ người dân thường làm để cúng người âm trong dịp tết hoặc cầu mưa thuận gió hòa mùa màng tươi tốt, "CÚNG ĐỒNG" Là cúng ở ruộng đồng mong được mùa. Vế xuất hơi hóc vì có nhiều từ đồng âm khác nghĩa với lại địa danh "Cua Đá Đen" lại khó tìm ở vế đối chữ "Tháp" đầu tiên là động từ tháp tùng đi theo; chữ "Tháp" thứ 2 là danh từ chỉ cả tòa tháp hoặc cả quần thể tháp Đồng Dương; chữ "Tháp" thứ 3 là danh từ chỉ cây tháp tiền. Chữ Tháp tuy đồng nghĩa một chút, nhưng cấu trúc khác nhau. Cây tháp tiền có 2 loại: 1 loại người ta dùng tiền giấy thật kết vào tạo nên một cây tháp dùng để chưng trong ngày tết người bán gọi là cây tháp tài lộc. Và 1 loại người ta dùng tiền giấy giả hay còn gọi là tiền âm phủ để kết chúng lại rất đẹp người làm ra và bán nó gọi cây này là cây tháp tiền âm hay là" cây tháp đồng âm cây này người ta dùng để cúng "Mỗi dịp tết đến ở sài gòn bán rất nhiều thậm chí họ còn bán trên mạng nữa. Còn chữ Đồng 1 là nguyên tố đồng, đồng 2 là đồng tiền đồng 3 là đồng ruộng. Cặp tính từ dương âm; tháp 1 là động từ có nghĩa là ghép hoặc theo; cặp bậu bám sang. Danh từ vòng cua và con cua với danh từ tòa tháp và cây tháp)
vế đối 2: THỊ LỤC THỊ LỤC ĐẦU THỦY, THƯƠNG KẺ LỤC ĐẦU XƯA HẬN VÒ ĐẦU (Tạ Văn Hoành)(Lục Đầu Giang là một địa danh nổi tiếng ghi dấu ấn 3 lần thắng quân Nguyên trong lịch sử; Nơi diễn ra Hội nghị Bình Than, Trần Quốc Toản vì nhỏ tuổi không được vào họp đã bóp nát quả cam trong tay mà không hay...P/S: Lục đầu: Lục Đầu Giang; Đầu xanh - Còn trẻ. THỦY: Ngoài nghĩa là Nước, nó còn có nghĩa là Chỗ bắt đầu, là Mới...)
vế đối 3: ĐẾN ĐỘNG ĐẾN ĐỘNG TIÊN NỮ, XEM QUẺ ĐỘNG TIÊN DUYÊN MÀ CHỜ TIÊN (Lý Hồng Đức)(trong thuật đối ngoài những vế đối cân về từ loại được ưu tiên đứng đầu khi có sự chọn lựa...ngoài ra còn những vế đối cân về nghĩa vẫn là lựa chọn tiếp theo. Đến động không phải là từ lặp lại mà cũng không tối nghĩa. ( Đến thì động, đến động tiên nữ )
vế đối 4: LẠI LẠCH LẠI LẠCH SÔNG NẬY*, CÂU LẠCH SÔNG NHỎ, VỀ QUĂNG SÔNG (Minh Tran)(Sông Nậy là một nhánh của sông Gianh( sông Linh Giang). Là nới cuộc chiến Trịnh, Nguyễn ác liệt nhất. Sông Gianh có hai dòng đổ theo hình chữ v, một dòng là Sông Son, một dòng là sông Nậy.kết lại ở gần cửa Gianh (cửa biển). LẠI tên chức quan nha lại, LẠCH là ý chỉ hành động luồn lách như cái lạch nước, luồn qua luồn lại. LẠI thứ hai là ghé lại, ghé lại cái lạch của con Sông Nậy, LẠCH SÔNG là một loài có ở thượng nguồn, đến mùa mưa chúng đi giao phối thường bị nước thượng nguồn cuốn trôi về phía hạ du. NẬY đối với NHỎ = ĐEN, ĐỎ. Câu LẠCH SÔNG nhưng chỉ được những con nhỏ nên lại quăng xuống sông, tuy nhiên chữ SÔNG thứ 3 thì chưa thỏa đáng với đá lạnh)
vế tự đối của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh: Y CUNG Y CUNG ĐIỆN TRẮNG, ĐẶT CÂY CUNG ĐIỆN VÀNG RỒI LẮP ĐIỆN (Rất khó khăn để tìm ra các khóa chính, nhất là liên quan đến màu sắc vì số lượng màu sắc chỉ đếm trên đầu ngón tay. Địa danh riêng có tính từ màu sắc "Cung Điện Trắng" là nơi ở của tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ. Danh từ chung có tính từ màu sắc "Cung điện vàng" là tên một loài cây cảnh. "Cung" có nghĩa dt như "cung cấm", nghĩa động từ là "cung cấp". "Điện" có nghĩa dt như "cung điện", nghĩa khác là dt "dòng điện". "Y" là đại từ "anh ấy", nghĩa thứ hai là "giống như" ("y như")}. (Nghĩa vế đối là về người cung cấp dịch vụ trang trí: Anh ấy cung cấp y như (dịch vụ ở) Cung Điện Trắng, cũng đặt cây cung điện vàng và lắp điện sáng trang trí. Theo quan điểm chung, những vế thách dài quá 7 chữ và ko phải thơ thì chỉ cần xét thanh ở những điểm dừng và ở chữ cuối của các từ ngữ khóa là được ạ. Ở đây có 3 điểm dừng : 1/chỗ chữ "đen" ( vị trí thứ 6), 2/ chỗ chữ "đỏ" (vị trí thứ 11), 3/ chỗ cuối câu chữ "đá". Như vậy xét rõ thì vế đối thỏa được hai điểm (1,2) mà lỗi một điểm (3) và xét các khóa chính danh từ riêng, danh từ chung đều thỏa thanh. Chữ "cua" có ba nghĩa ở ba dạng rõ ràng như chữ "cung" mới rõ hai nghĩa, còn nghĩa thứ ba trong dt chung "cây cung điện vàng" vẫn còn tìm hiểu nguồn gốc tên gọi cây này. Chữ "qua" thứ hai không phải động từ trong trường hợp này mà là một trạng từ đứng cạnh động từ "cua" để bổ nghĩa. Chữ "y" thứ hai là một tính từ nhưng trường hợp này sử dụng trong chức năng của trạng từ bổ nghĩa cho động từ "cung". (ví dụ: từ điển về chức năng trạng từ của tính từ "nhẹ": "Chiếc thuyền lướt nhẹ trên sông" thì tt nhẹ đc sd như một trạng từ bổ nghĩa cho động từ "lướt")

Những câu đối khác của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh

  • Câu đối vịnh 2 chữ Song Hỷ:
"Kim bảng đề danh vinh bái tổ" (tên được ghi trên bảng vàng thi đỗ, vinh dự về bái tổ tiên)
Lương duyên kết phận hỷ lai gia" (bản thân được kết duyên lành , vui sướng sum họp tổ ấm)
Câu đối này 2 chữ đầu được ghép lại là Kim Lương (tên xã thuộc huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương)
  • Câu đối tự nhắc nhở rèn luyện:
Tu nhân tích đức, quyết chí lập công danh hiển đạt
Luyện trí rèn tài, thành tâm vun phúc lộc vinh hoa
  • Câu đối nói về chủ trương luôn chủ động giao thiệp khi tham gia hoạt động kinh doanh:
" TU TÂM RÈN TRÍ NĂNG GIAO THIỆP "
" TÍCH ĐỨC HOẠCH TÀI TRỌNG TRIỂN KHAI "
cặp đối đơn giản nói về chủ trương luôn chủ động giao thiệp, phát triển mở rộng ra (nghĩa từ "triển khai") khi tham gia hoạt động kinh doanh, chữ "tài" ở đây nhiều nghĩa là tiền tài, nhân tài. Chữ "hoạch" nghĩa từ điển là định rõ, tính toán rõ
  • Câu đối mừng xuân Ất Mùi (2015):
Xuân đến cảnh vui, khai bút đề thơ, vận tốt lẹ làng vào trong cửa
Tết về hoa thắm, xuất hành hái lộc, điều hay mau mắn lại khắp nhà
  • Câu đối kính dâng đức Phật Thích Ca:
"Thoát tục tu hành duyên phổ độ (thoát khỏi cuộc đời trần tục đi tu hành cái duyên nghiệp là cứu giúp tất cả chúng sinh)
Nhập thiền giác ngộ triết luân hồi" (vào vùng tĩnh tâm để tìm ra những quy luật bao quát thế giới về sinh tử nối tiếp của con người và sự vật, hiện tượng)
  • Câu đối về những vật có cùng chủng loại:
vế ra: Anh Ba Khía đi Cua Ghẹ, Cua Còng lưng mà lại công Dã Tràng (Thiền Long) (Ba Khía là một loài trong họ nhà cua, có từ chỉ số lượng "ba").
vế đối 1: Chị Ba Lá về lục sữa, lục ráo nước đành chịu cảnh cạp nong (Thiền Long) (họ rắn đối họ cua)
vế đối 2: Chị Tứ Sắc dạo cò gà, cò vạc óc cũng là việc cồng cộc (Thiền Long) (Tứ sắc là chim đẹp phổ biến ở Đà Lạt, cồng cộc là chim cốc)
vế đối khác: Chị Bảy Mẫu ghen Phá Đầm, Phá Bể bạc chỉ mong tình Nhất Dạ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Đầm, Phá, Bể là vùng chứa nước; Bảy Mẫu và Nhất Dạ là 2 hồ ở miền Bắc nước ta. Chữ Đầm còn có nghĩa phụ nữ Tây, bồ. Ví dụ: nịnh đầm. Tình Nhất Dạ có nghĩa như tình Chử Đồng Tử và Tiên Dung, hoặc có nghĩa là tình một đêm)
  • Mỗi lần về quê nội là ta lại có cái cảm giác bình yên thư thả tột cùng. Cái khung cảnh êm đềm, hiền hòa nơi quê cha đất tổ quả như một liều thuốc có thể phục hồi những vết trầy xước trong tâm hồn sau những va chạm trong cuộc sống. Và nữa, dù ta có nhiều tuổi hơn bao nhiêu, có từng trải sương gió bao nhiêu theo thời gian thì khi đứng trước khung cảnh của hàng rào chè, lũy tre xanh, ao cá nhỏ... vốn đã in sâu trong ký ức, ta tự cảm thấy vẫn luôn là một đứa trẻ tội nghiệp trong khu vườn mát lành của ông bà tổ tiên mình. Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh tập tành sử dụng đường thi "bát láy", vần "e", ý diễn tả sự hòa nhịp dần vào cái chầm chậm, thư thả của các sự vật quá đỗi quen thuộc ở khu vườn nhà nội. Dù vẫn chưa đủ tài thơ để diễn đạt hết tâm trạng như mình muốn nhưng cũng phần nào vơi bớt cảm giác nhớ quê: Bài thơ được viết vào ngày 11-09-2016 có nhan đề "Vườn Nhà Nội":
Trời thu nắng dịu gió se se
Bên bếp gà giò gáy tẻ te
Vườn mát tre ru lời kẽo kẹt
Hoa thơm ong bận tiếng vo ve
Dây trầu quấn quýt vươn mơn mởn
Chú cún loanh quanh trố rụt rè
Kí ức ùa về lòng nhẹ nhõm
Êm đềm say giấc, khẽ khò khè...
ở trung bộ, gà giò là cách gọi phổ biến gà trống mới lớn

Bài họa của Vô Thường mang tên Đêm Thu:

Đêm thu trăng sáng rọi sau hè
Gọi đò văng vẳng , gió se se
Quân tử dùng dằng chân chẳng bước
Quần hồng e ấp, ngó qua khe
Năm canh sương lạnh buông mờ sáng
Nửa hồi tỉnh mộng, gáy te te
Trằn trọc niềm thương người lỡ bước
Mình ở nơi đây, ngóng ai về

Bài họa của Hoài Anh Võ Quang Thạch:

Mái dột đầu hồi anh... sẽ se
Cho em ngon giấc khỏi ... tò te
Nắng rơi sao xuống đùa... bao bị
Mưa rớt nước tràn giỡn... vỏ ve
Ai biểu lúc yêu câu... bóng bỗng
Nên lời khi ở nghẹt... rung rè
Bài thơ gắng họa hâm... ba bữa
Cũng đủ em no chớ ... khổng khè

Bài họa của Lý Hồng Đức:

Duyên nợ ông trời đã xỏ se
Chồng tâm vợ phúc ngẩn tò te
Vài anh trống chọi mơ màng muốn
Ít chị cua càn vọng vãn ve
Tự thuở cầm xuân câu đắm đuối
Vừa khi hạnh lão chữ khiên khè
Trăm năm nghĩa đượm tình vun vén
Tặng cả đời nhau nọ rãi rè...!!!

khiên cưỡng vợ chồng đến khi già gò ép những thói hư tật xấu để sống với nhau

Những vế xuất đã có người đối và các vế đối lại vế xuất của người khác

Những vế xuất
  • Ở tỉnh Hải Dương có huyện Kim Thành, trong huyện Kim Thành có xã Kim Lương, dưới xã Kim Lương có thôn Cổ Phục (hiện đã được chia thành Cổ Phục Bắc và Cổ Phục Nam). Gần đây có 1 vế xuất khá hóc búa mang tên những địa danh này:
vế ra: 用古服食金糧居金城古今希何人也得 Dụng Cổ Phục , thực Kim Lương, cư Kim Thành, cổ kim hy hà nhân đắc giả (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)
Nghĩa là: mặc đồ cổ, ăn cơm bát vàng, sống ở thành bằng vàng, xưa nay hiếm người được như vậy. Có cái khó là chữ Kim (vàng) và Kim (ngày nay) đồng âm nhưng khác chữ nghĩa.
vế đối: Quan Tiền Lý, tư Hậu Trần, ái Hậu Lê, tiền hậu đa chí sĩ lưu danh (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
Nghĩa là: 1. Xem dặm đường phía trước, nghĩ về đời sau, yêu dân có chí khí, trước sau có lắm bậc chí sĩ lưu danh 2. Xem nhà Tiền Lý, nhớ nhà Hậu Trần, yêu nhà Hậu Lê, trước sau có lắm bậc chí sĩ lưu danh. Trong lịch sử Việt Nam có nhà Tiền Lý (544-602), sau nhà Tiền Lý có nhà Hậu Trần (1407-1413), sau nhà Hậu Trần có nhà Hậu Lê (1427-1789) 3. Lý: dặm đường. Trần: thế gian, cõi đời. Lê: dân chúng, chí khí)
  • Vế ra: CAO THẾ CAO THẾ (Thiền Long) (Ý nghĩa của vế ra có thể sử dụng cho ba ngữ cảnh sau : 1/" Điện cao thế có mức hiệu điện thế cao thế";2/" Trụ điện cao thế được đặt ở vị trí cao thế";3/" Đánh nước cờ cao thế ! hay thế !").
Vế đối: TRƯỞNG CHI TRƯỞNG CHI (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (1.Ông (bà) trưởng chi (nầy)lớn nhất trong các chi cục, chi nhánh. 2.Ông (bà) trưởng chi làm to lớn mà chi 3. To lớn mà chi, to lớn mà chi (lời than, hoặc ý khiêm nhượng, thoái thác).
  • vế ra: Cô cả cổ ca ca cổ (Thiền Long). Cô cả: danh từ chung, Ca Cổ cũng là danh từ.
vế đối 1: Má mơi mới ma ma mới (Hoàng Đình Phương) (Trâm Nhị-Vân Du-Ân Thi-Hưng Yên)
Ở đây "má mơi" là danh từ riêng.Vế đối được hiểu la môt tú bà đang mắng môt tú bà mới vào nghề.
vế đối 2: Tay tổ tảy tô tô tảy (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nói về công đoạn vẽ, tráng men trong nghề gốm. Tay tổ: người có nghề nghiệp, uy tín bậc thầy, bậc cao hơn hết. Tảy: Người ấy, tay ấy. Tô tảy: Tô của tay ấy)
  • vế ra: Tết tới, tinh thần thật thân tình tiếp tình thân (Thiền Long) (vế ra này viết vào dịp tết Giáp Ngọ 2014)
vế đối: Thơ thăm, thiên tư thảo tiên thư tựa thư tiên (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Đồng đạo đắc đạo đàm đạo đại địa đạo (Thiền Long)(Nghĩa các từ láy theo từ điển: "Đồng đạo": danh từ chỉ người theo cùng một đạo; động từ "đắc đạo": đạt tới chỗ cao thâm của đạo; động từ "đàm đạo":trò chuyện thân mật cùng nhau; danh từ "địa đạo": đường hầm trong lòng đất, vd: địa đạo Củ Chi; ý khái quát vế ra là: những người uyên thâm có chung đạo đang trao đổi thân mật dưới lòng đường hầm lớn)
vế đối: Thuận thời thức thời thảo thời thái thiên thời (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Thảo ở đây có nghĩa như thảo luận)
  • vế ra: Anh Cu Li thật Cù Lần. Lười như Khỉ Gió ít mần nhiều ăn (Thiền Long) (Culi, Cù Lần, Lười, Khỉ Gió đều là tên của con vật thuộc loài Culi)
vế đối: Chú Trâu Sắt đúng Công Nông, Cày như Cành Cạnh ít công nhiều lời (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Trâu Sắt, Công Nông, Cày và Cành Cạch đều chỉ máy cày)
  • vế ra: Mặt sáng óc sáng tâm tối thành tăm tối (Thiền Long) (Ý phê phán người học thức nhưng làm việc xấu)
vế đối 1: Thầy trẻ, trò trẻ học già nên học giả (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối 2: Quê nghèo, nhà nghèo chí giàu nên chi giàu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chi ở đây là chi phái của một dòng họ)
  • vế ra: Cu đồng cườm cổ vàng au (Thiền Long) (Cu là ký hiệu của nguyên tố Đồng, Cu Đồng là cách gọi khác của chim Cu Cườm, Au là kí hiệu nguyên tố Vàng; theo từ điển: au là tính từ nghĩa màu sắc tươi ửng, thường là đỏ au hoặc vàng au. Ví dụ từ điển: quả cam vàng au).
vế đối: Li đá thạch chè tím i (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Li là ký hiệu nguyên tố Liti, xuất phát từ tiếng Hy Lạp "Lithos" có nghĩa là "đá". I là ký hiệu nguyên tố I ốt, xuất phát từ tiếng La Tinh "Iodes" có nghĩa là "tím". Thạch trong chữ Hán có nghĩa là đá)
  • vế ra: Lãnh chúa dẫn các đầu lãnh xâm nhập lãnh thổ chúa công, bắt cóc công chúa về giam trong lãnh cung của phủ chúa. Chúa công bằng bản lãnh cầm quân đã lãnh đạo các tướng lãnh lãnh binh vào lãnh địa lãnh chúa, tấn công thành lãnh chúa thành công, giải cứu công chúa, diệt lãnh chúa và tất cả thủ lãnh của hắn (Thiền Long)
vế đối: Quốc sư mời cả tướng quốc viếng thăm quốc duệ sư thái, cung thỉnh thái sư ra trị ngoài quốc ngoại thuộc mẫu quốc. Sư thái cùng khai quốc đại thần đang quốc hữu mấy bang quốc quốc bảo tặng quốc chương quốc sư, an thái vận quốc sư vận thái, hổ trợ thái sư, giúp quốc sư cùng một số dân quốc thuộc ông (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Yêu cha mẹ chồng, ông cha mẹ chiều (Thiền Long)
vế đối: Ghét anh em vợ, ghệ anh em quét (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ghệ đọc như ghợ, có nghĩa như ghẹ là bồ nhí)
  • vế ra: Xuân mới, người cũ áo mới người mới áo mới, thế mới mới! (Thiền Long).
vế đối: Tế xưa, người nay áo xưa người xưa áo xưa, thật xưa xưa! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Ní ná na ná nấn ná (Thiền Long) (Nghĩa từ láy: "ní ná" là cách gọi "anh em kết nghĩa thân thiết" của người miền tây nam bộ; "na ná" (tính từ)có nghĩa là gần giống nhau; "nấn ná" (động từ): cố ý nán lại; nghĩa của vế ra miêu tả là: anh em kết nghĩa nhìn cũng hơi giống nhau đang cố nán ngồi lại với nhau)
vế đối: Đai đẳng đồng đẳng đeo đẳng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Đai đẳng: Từ chỉ anh em học võ gọi nhau, đồng đẳng: đẳng cấp như nhau, đeo đẳng: theo đuổi mãi, không dứt ra được)
  • vế ra: Đối sĩ cân đối chữ, đối cân câu đối nặng cân (Thiền Long) (Chữ "cân đối" là động từ ghép nghĩa là làm cho tương xứng; chữ "cân" trong "đối cân" là tính từ, "đối cân" nghĩa là đối cho tương đương giữa vế ra và vế đối, chữ "nặng cân" là tính từ ghép đồng nghĩa với từ "nặng ký" nghĩa là "khó"; chữ "đối" trong chữ "đối cân" là động từ. "Câu đối" là danh từ ghép)
vế đối: Ca nhi đồng ca nhạc, ca đồng bài ca xanh đồng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Đất Lào Cai lài lài cao cao, lên Lào Cai cai thuốc lào, uống lài vùng cao (Thiền Long)
vế đối: Đường Sông Cầu cồng cồng sâu sâu, xuống Sông Cầu cầu thần sông, nghe cồng miền sâu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • Vế ra: " Lo đục khoét đến loét đục kho, kho đã đục loét càng thêm loét" (đục có hai nghĩa: động từ đục khoét và tính từ đục (nghịch nghĩa với "trong") (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)
vế đối: Sợ thâm thụt qua sụt thâm thợ, thợ đang thâm sụt đâu bớt sụt (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • Vế ra vui xuân Ất Mùi 2015: Tết Mùi, thân thể tốt mã, kê bàn thắp đèn cầy cúng thần, sao Kim Ngưu xa trông tí tị, thố thịt lợn chín dần dần . (Thiền Long) (Chú thích: 12 con giáp: {Mùi: dê / thân: khỉ / mã: ngựa / kê: gà / cầy: chó / thần: rồng (nghĩa hán việt thần là thìn chi thứ 5 trong 12 chi) / Ngưu: trâu / tí: chuột / tị: rắn / thố: mẹo, thỏ ( con giáp "thố" tương đương "mẹo"); thố còn là cái nồi nấu ăn / lợn:heo/dần:cọp;)
vế đối: Xuân Mão, dậu giỏ chắc xà, cẩu đá xây nhà rồng thờ hổ, chợ Cát Thử gần nghe hi hi, ly sữa dê ấm thư thư (Hoài Anh võ Quang Thạch) (12 con giáp: (Mão: Mèo/ Dậu: gà/ Xà(rắn): tỵ/ Cẩu(chó): tuất/ Rồng: thìn/ Hổ(cọp): dần/ Thử(chuột): tí/ hy(trâu): sửu/ Hi(lợn): Hợi/ Ly(ngựa đen): ngọ/ Dê: mùi/ thư(khỉ): thân. Dậu là vật dụng đan bằng tre có hai quai để xỏ cây xà vào khiêng, chợ Cát thử thuộc xã Cát Tiến huyện Phù Cát tỉnh Bình Định, "hi hi" là tiếng cười nghe nho nhỏ, thư là con khỉ "thư thư" là từ từ)
vế đối khác: Năm Khỉ tâm chí hồi dương, dần nư đội áo mão mừng khách, tuổi Giáp Ngọ thích vẽ rồng rắn, mâm cơm gà hâm tí tí (Dương Hồng Kỳ)
  • Vế ra: Sông Hàn ở Hàn Quốc nước lạnh (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)
vế đối: Lẩu Thái ngay Thái Lan nồi lớn (Dương Hồng Kỳ)
Những vế đối có điển tích cụ thể
  • Tương truyền, khi bước vào tuổi 85, trong một dịp khuyên vua Càn Long nên hạn chế việc chu du thiên hạ, một lão quan ngự y ra câu đối:
“Quốc bất khả nhất nhật vô quân” (Nước không thể một ngày không vua)
vua Càn Long đối: “Quân bất khả nhất nhật vô trà” (Vua không thể một ngày thiếu trà) Câu đối không chỉnh, nhưng thể hiện rất rõ cá tính một vị vua mang máu giang hồ này.
Thiền Long có vế đối khác: "Dân vô cận bách niên thất sách" (Nghĩa: không gần dân để hiểu dân thì trăm năm toàn ra sai sách)
Hoàng Đế Càn Long có thể mượn vế đối này để có thể "chữa" cho việc rong chơi như là một hành động vi hành để hiểu tình hình dân tình, để từ đó phục vụ việc trị quốc hiệu quả thiết thực hơn.
  • Câu đối chưa có đáp án của người Trung Quốc:
vế ra: Du Tây Hồ, đề tích hồ, tích hồ tiêu Tây Hồ, tích hồ, tích hồ! (Tích hồ là cái bình thiếc, tích hồ cũng là lời than tiếc thay. Có nghĩa là: Chơi Tây Hồ, xách bình thiếc, bình thiếc rơi mất vào Tây Hồ, tiếc thay bình thiếc!)
vế xuất này chưa rõ nguồn gốc, chỉ biết rằng đã có từ mấy trăm năm nay, chuyện kể rằng 1 thư sinh xách bình thiếc đi chơi thuyền trên Hồ Tây, do bất cẩn đánh rơi bình xuống hồ, rồi từ đó anh ta nghĩ ra vế xuất này
vế đối: Đến Ba Sao, ngắm vì sao, vì sao sáng Ba Sao, vì sao, vì sao ?! (Thiền Long){(Thị trấn "Ba Sao", Huyện Kim Bảng, Hà Nam là danh từ riêng đối với danh từ riêng "Tây Hồ". Từ ghép "vì sao" vừa có nghĩa danh từ "ngôi sao" (đối với danh từ "bình thiếc") vừa có nghĩa vì sao (thực tế được dùng làm câu hỏi (?), hoặc cảm thán (!):lời than, lời vui...Vd: "vì sao","vì sao vậy trời?!" (trường hợp biết lý do vì sao mà vẫn mừng reo hoặc than thở như thế). Nghĩa thán từ này có thể đối với lời than (từ ghép)"tiếc thay"(tích hồ))}
  • Câu đối đồng âm của người Trung Quốc:
童子打桐子,桐子落,童子乐 Đồng tử đả đồng tử, đồng tử lạc, đồng tử lạc
丫头啃鸭头,鸭头咸,丫头嫌 Nha đầu khang áp đầu, áp đầu hàm, nha đầu hiềm

Phiên âm tiếng Bắc Kinh

Tóngzǐ dǎ tóngzǐ, tóngzǐ luò, tóngzǐ lè
Yātou kěn yātóu, yātóu xián, yātou xián
Trong câu này dùng danh từ tóngzǐ, yātóu4 lần, với các nghĩa khác nhau. ( chữ 落,乐 trước đây đọc giống nhau – theo TQ)

Dịch nghĩa:

Thằng bé đập hoa gạo, hoa gạo rụng, thằng bé vui
Cô hầu gặm đầu vịt, đầu vịt mặn, cô hầu chê
Vế đối khác 1: Đại gia chúc đại gia, đại gia chúc, đại gia chúc (Nghĩa là: Ông đại gia (thế lực, giàu có) chúc mừng ông bác ruột, ông bác ruột nhìn kỹ, ông bác ruột dặn dò)(Thiền Long). Đây là dạng câu đối đồng âm đa nghĩa , điều đáng chú ý của vế đối khác là toàn câu chỉ sử dụng ba chữ thôi nhưng ngoài thỏa mãn vế ra ở điểm là chữ "đại gia" được lặp 4 lần như chữ "đồng tử" thì còn có nét riêng là chữ "chúc" lặp ba lần với ba nghĩa khác nhau. Vế ra chỉ lặp hai lần chữ "lạc". (Nghĩa: "Đại gia" nghĩa là bác ruột và là người có thế lực và giàu có . Chữ "chúc" có ba nghĩa hán việt là : chúc mừng, nhìn kỹ (ngắm), dặn dò).
Vế đối khác 2: Tượng nhân tạc tượng nhân, tượng nhân hoàn, tượng nhân hoàn (Người thợ tạc tượng người đi tạc tượng người, tượng tạc xong, người tạc tượng trở về)
  • Trong giai thoại dân gian, có chuyện một ông Thầy Đồ ra cho mấy cậu học trò một vế đối như sau:
vế ra: Thần Nông giáo dân nghệ ngũ cốc
Các cậu học trò này cũng vừa được học qua về phép đối, họ bèn vận dụng những nguyên tắc đối theo kiểu lý sự như sau: Thần thì đối với thánh; nông thì đối với sâu; giáo thì đối với mác; dân thì đối với quan; nghệ thì đối với gừng; ngũ thì đối với tam; cốc thì đối với cò. Sau đó họ ghép các chữ lại và được một vế đối lại như sau:
vế đối: Thánh sâu mác quan gừng tam cò (Không ngờ sự vận dụng máy móc nguyên tắc lại làm hỏng câu đối)
vế đối khác: Thầy Toán dạy trò bảng cửu chương (Thiền Long) (Toán học là một môn học cơ bản và rộng khắp)
  • Một lần, cụ Như Bích Nguyễn Đình Chi ở làng Phú Đa thôn Tân Dân, xã Nhơn An, huyện An Nhơn tỉnh Bình Định có ngẫu hứng gửi 1 vế ra nhẹ nhàng vui vẻ cho người con trai út là Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh đang định cư trong Sóc Trăng:
Vế ra: "Sóc Trăng vượng địa năng sinh lộc
vế đáp: "Bình định tài nhân trọng dưỡng tâm" (Thiền Long)
  • Có ba anh học trò nọ cùng say một cô hàng chè xanh xinh đẹp. Xem chừng đã khuya mà chẳng anh nào muốn đứng lên. Cô hàng bèn nói: "Ba thầy những còn có lòng muốn ở lại chơi, chẳng nhẽ em lại đem chuyện hàng quán ra để nói, thôi thì mạo phạm nhờ ba thầy đối hộ em vài vế đối làm quà được không ạ?" Ba học trò hưởng ứng, cô đọc: "Bây giờ". Anh học trò thứ nhất nhanh nhảu: "Lúc nãy". Cô lại đọc: "Gà gáy". Anh học trò thứ hai: "Chó kêu". Cô hàng: "Canh tàn". Anh học trò thứ ba: "Cây lõng". Và hỏi cô gái: "Chúng tôi đối chỉnh đấy chứ cô?" Cô gái không nói gì, mà đọc tiếp và ba anh học trò lần lượt đối lại: “Chàng ơi! – Thiếp hỡi!”;“Thức dậy – ngủ đi”;“Tính toan – Lo liệu”;“Đồng tiền – Hạt gạo”. Rồi ba anh học trò hí hửng hỏi: "Còn gì nữa không cô?" Cô gái trả lời: "Dạ thưa đã hết. Bây giờ em xin đọc lại để ba thầy duyệt."
Vế ra của em là: Bây giờ gà gáy canh tàn, chàng ơi thức dậy tính toan đồng tiền

Ba thầy đã đối lại là: Lúc nãy chó kêu cây lõng, thiếp hỡi ngủ đi lo liệu hạt gạo

Lúc này ba anh học trò mới chợt hiểu ra là cô hàng thì ranh mãnh đuổi khéo họ về, còn họ thì mắc lỡm thành ra đối đáp thật vụng về…

Vế xuất này không dùng các câu chữ gây khó lắt léo mà thiên về gợi ý đối ý, quả thật vế xuất không khó nhưng cũng không dễ. Ngày 17/8/2014 có người là Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh xin đối là:

Lúc này nước nóng trà xanh, ly trà đón nhận tâm tình bình trao" (từ "tâm tình" vừa là có nghĩa danh từ vừa có nghĩa động từ. Nước thì nóng như lòng các chàng trai mà cô bán trà thì lòng vẫn xanh "dờn" như trà, cần có một sự chan hòa giao lưu với nhau để được một bình trà tâm tình. Mượn hình ảnh thuộc nghề nghiệp của cô gái như "nước nóng" "trà xanh", bộ "bình" "ly" uống trà để gợi ý tứ kết thâm giao...)
  • Có 1 gia đình ở Nghệ Tĩnh, đứa con trai hư hỏng chỉ lêu lổng chơi bời khiến nhà cửa phá tán. Bữa nọ, có mấy đồng chí bộ đội hành quân qua ghé vào trú chân, buổi tối các anh đang ngủ tự nhiên nghe tiếng quát mắng của bà mẹ:
Đồ mi là đồ mi phá, mi phá là đố mi la (Chữ ĐỐ ở đây được nghe nhầm từ chữ BỐ, câu chửi trên có nghĩa mày là đứa con phá phách, mày phá thế chả trách bị bố này la mắng. Mấy đồng chí bộ đội lấy làm lạ, họ nghĩ rằng gia đình nhà này chửi con mà cũng có vần điệu nốt nhạc đàng hoàng)
vế đối: "Anh em y anh em quờ, em quờ y cờ em đờ" (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)(sử dụng bộ chữ cái phát âm tiếng Việt: n, m, y, n, m, q, m, q, y, c, m, đ. Nghĩa vế đối: "Chê chàng em trai (anh em) đang chậm chạp, quờ quạng ví như là lúc chơi cờ mà tình huống quân cờ của em bị bế tắc (đờ) (lúc chơi cờ thất thế, chưa biết đánh tiếp như thế nào). Ở vế ra chữ "đố" chưa chuẩn nghĩa là "bố" (danh từ) có thế đối bằng danh từ "cờ". Chữ "y" cũng có nghĩa "như")
  • Năm 1989, báo Lao động có đăng một vế thách đối:
vế ra: Sai đâu sửa đấy, sai đấy sửa đâu, sửa đâu sai đấy

Đây là một vế thách đối hắc búa, mấy năm liền chưa ai đối được. Mãi sau tám năm (1997), giáo sư Nguyễn Tài Đại (nguyên trưởng ty giáo dục Nghệ An) được nghe Tỉnh ủy Nghệ An nói chuyện về tình hình kinh tế, thu chi ngân sách của tỉnh nhà. Thế là thầy sáng tác ngay vế đối lại:

vế đối: Lấy thu bù chi, lấy chi bù thu, bù thu lấy chi? (Cái tuyệt tác của vế đối lại của thầy ở chỗ nghĩa bóng của nó, thầy đã vận dụng ngôn ngữ Nghệ Tĩnh: Bù chi-có nghĩa là bù sự chi tiền, còn có nghĩa như bù cái gì, (ngôn ngữ Nghệ Tĩnh), lấy chi- lấy sự chi tiền còn có nghĩa là lấy cái gì mà bù thu, (ngôn ngữ Nghệ Tĩnh), muốn bù thu thì lấy cái gì mà bù ...?! Vế đối của thầy khiến mọi người đều trầm trồ thán phục)
vế đối khác: Đúng nào thưởng đó, đúng đó thưởng nào? thưởng nào đúng đó! (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)
  • Một lần, nhà thơ Vân Đài Đào Thị Nguyệt Minh có gửi đến câu đối chúc Tết Thế Lữ vừa hóc hiểm vừa dí dỏm:
vế ra: Thế Lữ mừng xuân hai thứ lễ, một quả Lê ta, một quả Lê tây (vế ra oái ăm ở chỗ có cả tên thật và bút danh của nhà thơ: Thứ Lễ (tên thật) Thế Lữ (bút danh), Lê ta (bút danh), đã thế sau lại còn kèm cả lê tây mới hóc)
Thế Lữ nghĩ mãi không ra vế gì để đối lại
vế đối: Bùi Giáng đón Tết một Bàn Dúi, nửa bàn Vân Mồng, nửa bàn Vân Mộng (Thiền Long) (Bùi Bàn Dúi, Vân Mồng, Trung Niên thi sĩ, Đười Ươi thi sĩ là các bút danh khác của Thi sĩ Bùi Giáng)
  • Ở Báo An ninh thế giới có biên tập viên Nguyễn Trung Đản, nhà thơ Phan Quế và nhà văn Nguyễn Như Phong. Ba vị này cũng biết lỗ mỗ chữ Hán và hay nói chuyện về thơ Đường, từ Tống, về Tứ thư, Ngũ Kinh… Vì thế anh em gọi là ba ông đồ. Một hôm, nhà văn Nguyễn Như Phong ra vế thách đối:
vế ra: Đồ Đản, đồ Quế, đồ Phong, ba đồ ấy đều là đồ… dởm?

Vế thách đối quá hiểm hóc bởi lẽ có 13 chữ, những lại tới 5 chữ “đồ” mà lại có hai nghĩa khác nhau. (Đồ (chữ Hán) – có nghĩa là thầy đồ dạy học và đồ (chữ Việt) nghĩa là loại ấy.

Vế đối: " Lý Phong, lý Đản, lý Quế, mấy lý trên toàn ra lý ...sự " (Thiền Long)
Xin lỗi các bác Phong, Đản, Quế, chỉ là tình huống ghép tên để đối vui phù hợp vế ra (Phân tích vế ra: nghĩa từ "đồ": ông thầy đồ và loại ấy. Vế đối: nghĩa từ "lý": ông hương lý và lý lẽ. Theo từ điển, "lý sự" nghĩa là lí lẽ đưa ra chỉ cốt để tranh cãi. Cũng có thể thay "lý sự" thành "lý thông" để tăng tính hóm hỉnh)
  • Trong một buổi sinh hoạt Câu lạc bộ thơ trào phúng Hà Nội, nhà thơ Yên Thao (sinh 1927) đưa ra câu thách đối như sau:
vế ra: THỬ CHUỘT MỘT TÝ, XEM MÀY TỐT XẤU
vế đối 1: CỌP DẦN MẶT HỔ MỚI THẤY THỰC HƯ (một cựu chiến binh)
vế đối 2: KÊ GÀ VƯỚNG DẬU, BAY ĐƯỢC THẤP CAO (một viên chức bị giảm biên chế phải về hưu non)
vế đối 3: THÂN HẦU LOÀI KHỈ, MỚI THẤY NHỤC VINH (một nghệ sĩ xiếc huấn luyện khỉ)
vế đối 4: HỔ CỌP THẤT DẦN, ĐẾM NÓ NHIỀU ÍT (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh) (Vế ra: Từ "Thử" có hai nghĩa: động từ "làm thử" và chỉ danh từ "chuột"; "Một" là số từ phải tìm số từ để đối; vế sau vế ra: "xem (động từ) mày (đại từ ngôi 2) tốt (tính từ) xấu (tính từ)" được đối bởi vế sau của vế đối: "đếm (động từ) nó (đại từ ngôi 3)nhiều (tính từ) ít (tính từ)" / Ở vế đối: Nghĩa từ "hổ":động từ "hổ thẹn" và nghĩa danh từ chỉ con cọp; từ "thất" nghĩa là mất và nghĩa số từ là 7; số 7 có thể đối số 1. Thoát đại ý vế ra là: chúng ta hổ thẹn vì để loài cọp đang dần mất đi đến gần tuyệt chủng, cần phải đếm số lượng nhiều ít để bảo vệ)
  • Năm 2000, xẩy ra sự kiện cựu nữ dân biểu Việt Nam Cộng Hòa Trần Thị Kim Thoa (né-tìn) vừa “tái đắc”...cử ở liên bang của AZ thì bị ám sát tại Tucson, may mà giai nhân này chỉ bị trọng thương, thoát tử trong đường tơ kẽ tóc. Nhân lúc đang viết 1 bài nghiên cứu về cách nói lái trong Tiếng Việt, Cựu Giáo Sư Kiểu Mẫu Thủ Đức Nguyễn Hữu Phước tức cảnh nảy ra 1 vế đối hiểm hóc như sau:
vế ra: Giai nhân tái đắc giai nhân tử, anh hùng khai đống anh hùng tiêu

Câu đối trên mới nghe thì thấy thật là đầy chữ nho, tuy có vẽ không chỉnh nhưng nghe hay hay vì có dùng vài từ Hán Việt nghe kêu quá. Ta hãy tìm được những từ nói lái trong hai câu trên thì mới thấy cái thú vị của nóGian nhân tắc đái giai nhân chết, anh hùng không đái anh hùng tiêu

Vế đối vui của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh: Má hồng khai động má hồng tuyệt, hảo hán bại đất hảo hán vong (Tiểu = tiểu tiện = đi đái, đi tiểu ; đại = đại tiện; "khai động" nói lái lại thành "không đại", "bại đất" nói lái thành "bất đại" . "không đại" = "bất đại" = không đại tiện, chữ "tuyệt" ở đây có nghĩa là "tuyệt vời" hoặc nghĩa là "hết", có thể đối với chữ "tử")
  • Ngày 27-3-2006, bệnh trọng, nhà thơ Tú Sót thanh thản về với tiên tổ, ông có để lại một vế "thách đối" như sau:
vế ra: Ông chủ đói cho meo, đầy tớ vẫn vênh vênh vui đầy tớ. Vui đầy tớ, vơ đầy túi, túi đã đầy vơ vẫn cứ vơ (chữ thứ 3,4,5 có nói lái )
Vế đối của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh: Thanh liêm đủ mà thơm , đục khoét cứ lom lom lo đục khoét. Lo đục khoét, loét đục kho, kho cứ đục loét càng thêm loét
  • Ở Bình Định có nghệ sĩ nhân dân Võ Sĩ Thừa, một nhà văn ở đất võ đùa, tặng lão nghệ sĩ tuồng vế thách đối:
vế ra: Võ Sĩ Thừa hát bội không thừa, thừa võ sĩ nên đi hát bội

Vế này ra cách nay đến hơn 20 năm nhưng chưa có ai đối lại, cho đến năm 2014 mới có 1 người Bình Định định cư tại Sóc Trăng đối được như sau:

Vế đối: Trang Văn Thành làm thơ chưa thành, đã thành trang văn nên thêm làm thơ (Trang Văn Thành là cầu thủ bóng đá đội Đồng Tháp, vô địch quốc gia năm 1989, 1996) (Thiền Long)
  • Để chào đón năm Canh Dần (2010), nhà thư pháp Lâm Thanh Sơn có đưa ra vế xuất như sau:
vế ra: ĐÊM BA MƯƠI, NĂM HÙM, GIỜ DẦN, HỔ SINH ĐÔI CỌP
Có người là Lê Bá Hạnh từng đối: NĂM THÁNG NĂM, ĐOAN NGỌ, GIỮA TRƯA, NGỰA PHI TỨ MÃ

Tuy nhiên Lâm Thanh Sơn nhìn từng con chữ phân tích như sau: “Đêm ba mươi”, đối lại là: “năm tháng năm” (ngày giết sâu bọ) chưa hay nhưng tạm được; “năm Hùm” đối lại là: “Đoan Ngọ” là được; “giờ dần” đối là “giữa trưa” tạm được. Nhưng “hổ sinh đôi cọp” đối “ ngựa phi tứ mã” thì không ổn. Chữ “SINH” phải đối với chữ “TỬ” mới đắt. Còn bất cứ chữ nào cũng gượng ép.

vế đối khác: Chiều mười một, tháng khuyển, ngày tuất, chó chết chín cầy (Thiền Long)(Tháng khuyển là tháng 09 âm lịch. Số đề con dê là 35 (phổ biến), số đề con chó là 11; chữ "chết" đối với "sinh" là chỉnh như yêu cầu vế ra)
  • Vế thách đối của Bảo Sơn nói đến các cán bộ, công nhân viên Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam:
vế ra: Người Dầu Khí, vượng chí khí, quyết chí vạn dặm tìm dầu, để nước giầu khí vượng! (Bảo Sơn)
vế đối: "Trẻ trí thức, nhiều học thức, ham học năm châu biết trí, cho dân trí thức thời " (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh) (Tri thức, trí thức là tài sản vô giá, vô biên. Theo từ điển, " thức thời" là có nhận biết sáng suốt về thời cuộc. Chữ "năm châu" ý nhắc câu dạy khuyến học của bác Hồ  :"...dân tộc Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu...")
  • Một gia đình làm nghề bán tiểu sành mời sư thầy đến tụng kinh siêu độ, tụng xong một tuần nhang nhà sư mót đái quá bèn lần ra phía sau vườn đái bậy. Đúng lúc đó, có 1 vị khách của gia chủ vừa tìm ra đó giải quyết nỗi buồn, nhà sư giật mình quay lại khiến nước đái văng tung toé ra cả đống tiểu sành được đặt gần đó.
Vị khách buột miệng đọc: Ông sư thầy đái vãi vào tiểu (sư=thầy, tiểu=đái, tiểu cũng là loại quan tài nhỏ dùng để chuyển hài cốt khi cải cát ở Miền Bắc và cũng có nghĩa là chú tiểu, vãi có nghĩa là vương vãi nhưng cũng có nghĩa khác là bà vãi. Vế ra hóc búa khiến sư thầy nhất thời không đối lại được đành cúi mặt ngại ngùng đi vào nhà trong tiếp tục hành lễ)
vế đối: Cán nồi niêu chĩa vung trúng chõ (Thiền Long) (nồi= niêu (nồi nhỏ); chõ có nghĩa động từ là chĩa (vd: chõ gậy vào...), "chĩa vung" là chĩa vun vẩy lung tung; chõ còn có nghĩa danh từ là cái nồi; "vung" có nghĩa là cái nắp nồi, "vung" còn có nghĩa là giơ lên; "nồi", "niêu", "vung", "chõ" đều chung bộ nồi nấu đối với "sư", "thầy", "vãi", "tiểu" đều chung họ nhà sư "tiểu" nghĩa là tiểu tiện)
  • Bài thơ "Lỗi thề" của Toại Khang, mỗi câu đều có 1 điển cố hoặc một địa danh của Việt Nam và Trung Quốc:
vế ra: Vùi oan bạc mệnh sóng Tiền Đường. Ngọn đuốc Chiêm Thành dở nhớ thương. Chắp cánh đẹp gì câu Thất Tịch. Ôm cầm say mãi gái Tầm Dương. Lỗi thề Chung Tử sầu tri kỷ. Hoen mái Tây Hiên lệ đoạn trường. Hồ Hán ngậm ngùi mây cách biệt. Ngân Hà mưa gió nẻo cầu sương
Câu thứ nhất nói đến chuyện Thúy Kiều trầm mình ở sông Tiền Đường, câu thứ 2 nhắc tích công chúa Huyền Trân phải sang lấy vua Chiêm Thành, câu thứ 3 là điển Đường Minh Hoàng và Dương Quý Phi đêm 7 tháng 7 âm lịch thề cùng nhau" sống làm vợ chồng, chết làm chim liền cánh cây liền cành". Câu thứ tư nói về Bạch Cư Dị, thi hào đời Đường, đêm đậu thuyền ở bến Tầm Dương viết nên bài Tỳ Bà Hành xót thương cho một người ca nữ tuổi về chiều. Câu thư 5 là giai thoại Chung Tử Kỳ - Bá Nha: chuyện Bá Nha đập đàn đi, không khảy nữa, khi hay tin Tử Kỳ chết. Câu thứ 6 lấy ở Tây Sương Ký đoạn Trương Quân Thụy và Thôi Oanh tình tự dưới mái Tây hiên, câu thứ 7 nhớ lại cảnh Chiêu Quân nhà Hán sang cống Hồ, câu kết nói đến thần thoại Ngưu Lang và Chức Nữ đứng 2 bên của sông Ngân Hà nhớ nhau khóc thành mưa ngâu trong tháng bảy Âm lịch
vế đối: Tiết trung tình lụy hạt Minh Châu. Bi kịch Hữu Cung nhuốm đẫm sầu. Rút kiếm còn vang hồn Trắc Nhị. Soạn văn cứ nhớ Tế Văn Hầu. Không về Lầu Hạc người bay mãi. Xa tại Quảng Lăng bạn vắng lâu. Ngô - Việt đổi dời hoa vẫn nở. Vườn Đào xưa nghĩa trọng tình sâu (Thiền Long) (Câu 1 nói về Mỵ Châu. Câu 2 nói về Ngọc Hân Công Chúa. Câu 3 nói về Trưng Nữ Vương. Câu 4 nói về Nguyễn Trãi, bị oan vụ án Lệ Chi Viên. Tế Văn Hầu là tước hiệu của Nguyễn Trãi. Câu 5 nói về tích người cưỡi hạc bay đi từ Hoàng Hạc Lâu. Câu 6 nói về chuyện Lý Bạch tiễn Mạnh Hạo Nhiên. Câu 7 nói về Tây Thi giữa mối thù hai nước Ngô-Việt xưa. Câu 8 nói về cuộc gặp kết nghĩa của Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi).
Những vế đối thông dụng
  • vế ra: Con mèo đuôi cụt ngậm cái đuôi kèo (khuyết danh)
vế đối: Chú cáo lông sọc nhả mớ lông sáo (Thiền Long)
  • vế ra: Anh Tiễn đưa Sơn đi dạo núi (khuyết danh) (Tiễn và Sơn ở đây là tên riêng của người, ở đây có 2 cụm từ "tiễn đưa" và "đi dạo" còn Sơn thì có nghĩa là núi trong Hán Tự)
vế đối: Chị Thúc giục Giang băng qua sông (Thiền Long)
  • vế ra: Kiến còm bò lom khom (Lê Anh Chí) chữ "Kiến" âm Hán Việt nghĩa là "thấy", chữ "lom"="nom" chữ nôm nghĩa cũng là "thấy", chữ "còm" = "khom".
vế đối: Cò hom đứng ốm nhom (Thiền Long) (chữ nôm: "hom" = "nhom" = gầy yếu;"hom" còn có nghĩa là cái bẫy được đan bằng tre , cò hom là con cò bị nhốt trong hom (như chim lồng), ốm như cò)
  • vế ra: Con thầy huấn luyện xiếc Sư Tử thông gia với con thầy dạy múa Sư Tử (Trần Việt Hà)
vế đối: Mèo quan bảo dưỡng khu Linh Miêu giao lưu cùng mèo quan nuôi bầy Linh Miêu (Thiền Long) (Theo hán tự, linh còn có nghĩa là quan, Miêu là mèo. Khu Linh Miêu là khu bảo tồn động vật Linh Miêu; mèo còn có nghĩa bóng là người tình)
vế đối khác: Ông vua chỉ huy lập Quân Công ký ước cùng ông vua lệnh thưởng Quân Công (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Trong chữ Hán, Công còn có nghĩa là Ông, Quân còn có nghĩa là Vua; Ông Vua ở đây có nghĩa là ông của vua)
  • vế ra: Rắn săn chuột rình chuột trên xà, canh ba chuột thử sà vào, rắn nuốt chuột không còn tí tỵ (vế đối khuyết danh toàn chuột và rắn)
vế đối: Dê sợ cọp dò cọp có mùi, giờ: bốn, cọp kễnh mò tới, dê chạy cọp chẳng kịp dần dương (Thiền Long) ( nghĩa hán việt chữ dương ở đây là "con dê" và "quanh co"; kễnh = cọp; "giờ: bốn" là giờ dần)
  • vế ra: Chợ tuy gần, cận thị hóa xa (khuyết danh)
vế đối: Gương dẫu xa, viễn cảnh thấy gần (Thiền Long)(Cảnh có nghĩa Hán Việt là gương. Gương còn có nghĩa là cái tốt đển noi theo hoặc cái xấu để tránh; "viễn cảnh" là cảnh tượng trong tương lai)
  • vế xuất: Công phu vợ giúp ông chồng phụ (khuyết danh)
vế đối: Tài tử cháu tạo thằng con tôn (Thiền Long) {"tôn" có nghĩa cháu và nghĩa "tôn lên" (tôn tạo)}
  • vế ra: Giao thừa Canh Thìn - Tân Tị, lính Hắc Hổ dùng binh Mẹo, thả Chó săn đánh Mùi, lùng bắt loài Chuột Lợn nhủi trong bờ Dậu, Dần cho lũ Trâu Ngựa một trận đòn nên Thân (vế ra khuyết danh có đủ cả 12 con giáp - Chuột Lợn là loài thuộc dòng họ nhà chuột nhưng lại béo ú như lợn, một động vật gặm nhấm có trọng lượng ước tính từ 45 – 54 kg đã được phát hiện trong thời gian gần đây, và chúng thường xuyên lui tới nhà máy xử lý nước thải ở Paso Robles)
vế đối: Trừ tịch Quý Sửu - Giáp Dần, chàng Bạch Tý tiễn lính Hầu, kiểm Dê núi nhớ Mèo, dạo thấy con Rắn Rồng chạy dưới đèn Cầy, Thử thăm bầy Heo Gà mấy chú còn tốt Mã (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh) (Trừ tịch cũng là tên gọi khác của đêm giao thừa; Vế ra sử dụng các từ có hai nghĩa. Ở vế đối: hầu=khỉ,người hầu; mèo=mèo, bạn gái;cầy=chó,đèn cầy;Thử=chuột,làm thử; mã=ngựa,vẻ mã ngoài; "tốt Mã" ở đây nghĩa là khỏe khoắn tốt tướng chưa bị rắn tấn công; Rắn rồng là tên một loài rắn)
  • vế ra: Xuân con Khỉ cô bé Tiều giắt chú Bú Dù, mặc áo tứ Thân, đi cãi với Vượn, mãi chẳng rát Hầu (Bùi Tiến)
vế đối: Tết năm Thìn, ông lão Ngư đến nhà Hai Sáu, thỉnh tượng lưỡng Long, thờ cúng thêm Rồng dù không thiếu Thần (Thiền Long) (Nghĩa "thần" : Thần=thìn=rồng và thần thánh; "Tiều" có nghĩa tiều phu, các nghĩa khác cũng không liên quan đến các tên thuộc Khỉ; người chơi số đề nói số 35 là biết con dê, nói số 26 là biết con rồng, ở đây ý nói nhà số 26)
  • Vế ra: Đêm thu đông khách văn nhân, hạ tình tưởng đến gái xuân liệu lời ( 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông, ngoài ra còn có nghĩa đề cập của vế ra: "đêm thu" là danh từ, "đông" là tính từ "đông đúc", "hạ" là động từ "hạ xuống", "gái xuân" là danh từ )
Vế đối: Trai trung nam tính cao tay. Bắc cầu tán tỉnh nàng tây ngỡ ngàng (Thiền Long){(4 miền: Tây, Bắc, Trung, Nam. Ngoài ra còn có nghĩa đề cập của vế đối:"Trai trung" là danh từ chỉ con trai miền trung, "nam" là tính từ "nam" (giới tính khác "nữ"), "bắc" là động từ "bắc qua" (kết nối), "nàng tây" là danh từ chỉ cô gái tây, phụ nữ tây phương)}
  • vế ra: Tết tung tăng, xuân xúng xính, hội hè...sum họp... (Vũ Đình Tuân)
vế đối: Hoa hớn hở, lễ la liệt, quây quần...quấn quít... (Thiền Long)
  • vế ra: Bác Đỗ Quyên cầm chim cuốc đi cuốc chim cuốc, cuốc cả đêm mà chẳng bắt được chim (Trần Việt Hà)
vế đối: Anh Cu Gáy mang cu mồi dạo mồi cu mồi, mồi suốt ngày vẫn không tìm ra cu (Thiền Long)
  • vế ra: Trong quần anh có em học khá (khuyết danh)
vế đối 1: Về vai vế bao chỗ thấy hay (Thiền Long) (những người có "vai vế" là những người quan trọng, có vị trí cao có thể đối với "quần anh" là hội gồm các anh tài; vai vế cũng là bộ phận của cơ thể con người, câu đối có hai ý nghĩa.
vế đối 2:Mấy then chốt toàn điểm ẩn kín (Thiền Long) (Then chốt là quan trọng mang tính quyết định. "Then chốt" còn có thể được hiểu nghĩa ẩn dụ là khuy, nút quần áo)
vế đối khác: BÊN CU BA ĐƯỢC CHÁU MÚA HAY (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • vế ra: Mua hàng rẻ, mãi mãi mua hàng rẻ (khuyết danh - trong Hán tự "Mãi" có nghĩa là mua)
vế đối: Nếm món ngon thường thường nếm món ngon (Thiền Long) (Theo Hán Tự: Thường có nghĩa là nếm)
vế đối khác: Dắt ngựa hay lâu lâu dắt ngựa hay (Chữ Lâu trong Hán tự còn có nghĩa là dắt, dắt đi) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Lão Dương vác Điếu đi Câu, bị bẻ gẫy Cần, mất biệt danh Dê Cụ (khuyết danh)
vế đối: Nhóc Kê mang Súng tập Săn, chợt quên mất Đạn, thiệt cái tên Gà Đồng (Thiền Long) (Gà=kê; Đồng=đứa trẻ, nhóc; "Gà đồng" trong nghĩa "mèo mả gà đồng")
  • vế ra: Báo chí ngựa tiêu cực, mã truy phong, tiêu cực chưa tiêu, ngọ hồi đầu Nhà báo cực (Nguyễn Đình Minh)
vế đối: Người đối mẹo hiểm hóc, miêu tẩy diện, hiểm hóc vẫn hiểm, mèo tróc thử mọi người hóc (Thiền Long) ("Miêu tẩy diện" (mèo rửa mặt) và "mèo tróc thử" (mèo bắt chuột) là hai thế võ mèo. "chí" còn có nghĩa là "gí" (vd: gí ngón tay vào thái dương), "báo chí ngựa" còn có nghĩa là "báo gí ngựa")
  • vế ra: Bí mật: không bật mí, khi bị mất (Trần Việt Hà)
vế đối: Khai báo: sẽ khao bái, đại khái bao (Thiền Long)
  • vế ra: Con chim cánh cụt bị cụt cánh (khuyết danh)
vế đối: Chú sếu đầu đỏ nhìn đỏ đầu (Thiền Long)
  • vế ra: Thương nhau mà sống, thông nhau mà sướng (khuyết danh)
vế đối: Tố cùng đến khản, tán cùng đến khổ (Thiền Long)
  • vế ra: Chợ Đông Ba đông ba buổi (Nội dung biểu đạt của câu trên là chợ Đông ba cả ba buổi sáng, trưa, chiều đều đông đúc kẻ mua người bán. Điều thú vị là sự lặp lại liên tiếp của hai âm tiết “Đông Ba”)
vế đối:Dân Phú Đa phú đa đời (Thiền Long) (Phú Đa thuộc xã Nhơn An, huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. "Phú quý có thể đối Đông đúc, "đa (nhiều)" có thể đối với số từ "ba")
  • vế ra: Người Cần Thơ cần thơ, đất Cần Thơ cần thợ (khuyết danh)
vế đối:Sông Cầu Kè cầu kè, dân Cầu Kè cầu kế (Thiền Long) (Huyện Cầu Kè tỉnh Trà Vinh; "cầu kè" là mong muốn có bờ kè chống sạt lở; "cầu kế" là mong muốn có chiến lược đột phá đúng đắn để phát triển địa phương)
  • vế ra: Tàu của Tàu vào Vũng Tàu đón ba Tàu về Tàu (khuyết danh)
vế đối: Phòng thuộc Phòng tọa Hải Phòng tiễn cai Phòng trả Phòng (Thiền Long) (Phòng ở thuộc cơ quan cấp phòng (vd phòng giáo dục) ; "cai" có nghĩa là người cai quản, "cai" còn là từ Hán-Việt chỉ con số có các giá trị 10²⁰, 10³², 10⁶⁴)
  • vế ra: Cao Bằng cao mà không bằng, không đâu cao bằng Cao Bằng (khuyết danh)
vế đối:Đèo Ngang đèo tất chẳng ngang, chẳng có đèo ngang Đèo Ngang (Thiền Long)
  • vế ra: Uống cạn ly đầy, rót đầy ly cạn, không say không về (khuyết danh)
vế đối: Ăn nhiều món ít, cất ít món nhiều, chưa no chưa đi (Thiền Long)
  • vế ra: Sinh sự, sự sinh (khuyết danh) (Gây nên điều không hay, thì chính điều ấy sẽ làm liên lụy đến bản thân)
vế đối: Láo lính, lính láo (Thiền Long) (dạng ý "thượng bất chính hạ tất loạn")
vế đối khác 1: Tán gái, gái tán (Quách Trung Thành)
vế đối khác 2: Ca hay, hay ca(Quách Trung Thành)
  • vế ra: Gái Đồng Nai giữa đồng nai nịt (khuyết danh)
vế đối: Trai Sơn La hạ sơn la lối (Thiền Long)
  • vế ra: Sáng sớm mùa đông, qua cửa phía đông, đến chợ người đông, mua cục thịt đông (khuyết danh)
vế đối:Chiều muộn trời Tây, ra cổng hướng Tây, lại khu phố Tây, chọn gói khoai Tây (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)
vế đối khác: Xế chiều tiết hạ, thăm đồng vùng hạ, nghe lúa giá hạ, chạnh lòng thiên hạ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Vợ cậu đã chửa chửa, vợ tôi vẫn chửa chửa (Vũ Quang Long)
vế đối: Ý ông vừa bác bác , ý chú thì bác bác (Thiền Long) (bác cũng có nghĩa không chấp nhận)
vế đối khác 1: Kỳ trước chả bầu bầu, kỳ này ắt bầu bầu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ bầu trước là bầu cử, bầu sau là bầu bạn. Bầu bầu: từ tượng hình chỉ cái bầu phụ nữ)
vế đối khác 2: Bà ngoại thì đẻ đẻ, bà nội không đẻ đẻ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (đẻ cũng có nghĩa như mẹ)
  • vế ra: Quan tham đi tham quan, càng quan càng tham, càng tham lại càng quan (Trần Huy Thuận)
vế đối: Thú lạc tìm lạc thú, thêm thú thêm lạc, thêm lạc cứ thêm thú (Thiền Long) (Lạc thú là chỉ các thú vui không tốt nói chung, ý phê phán)
  • vế ra: Cơm chẳng có canh, chỉ có cơm, cá cơm, cốt cá cơm, cá chấm cá (Vế ra tả một bát cơm, một bát mắm cá và một đĩa cá gồm bốn chữ cơm và bốn chữ cá)
vế đối 1: Chè không thấy đậu, mỗi thấy chè, bột chè, bánh bột chè, bột lẫn bột (Thiền Long)
vế đối 2: Bánh chả thấy nhưn, mỗi thấy bánh, hình bánh, màu hình bánh, hình lồng hình (Thiền Long) (nhưn=nhân bánh)
  • vế ra: Nem chả ngon, chả ngon (câu đối có nghĩa là nem không ngon nhưng chả thì ngon)
vế đối: Ếch cóc xấu, cóc xấu (Thiền Long) (Nghĩa là con ếch không xấu, con cóc mới xấu)
  • vế ra: Ngựa đá đâu, rồng che đấy (Nguyễn Thiên Tài) (vế này nghĩa đen là con Ngựa đá vào chỗ nào thì con Rồng sẽ chắn ở chỗ đó, nhưng lại có nghĩa khác là không phải là con Ngựa Đá đâu mà đó là con Rồng Tre, lúc này chữ Che sẽ được phát âm thành chữ Tre, đó là cái hay của Tiếng Việt)
vế đối 1: Trâu bo nào, bò chúc đó (Thiền Long) (Nghĩa đen là con trâu bo (thưởng)vào lúc nào thì con bò sẽ chúc (cảm ơn) ở lúc đó ("bo" còn là kí hiệu của nguyên tố hóa học Bo có thể đối với "đá"), "bò chúc" có nghĩa khác là con "bò trúc", lúc này chữ "chúc" sẽ được phát âm thành chữ "trúc"; cây trúc cùng họ với cây tre).
vế đối 2: Chó thau nào, mèo chảy đó (Thiền Long) (thau nghĩa là hợp kim đồng và kẽm, thau còn có nghĩa là lau, chùi; theo tinh thần vế ra thì "trảy" còn có nghĩa là "chảy". Cây trảy cũng cùng họ cây tre)
  • vế xuất: "ĐẾN HẢI DƯƠNG ĂN THỊT DÊ VỀ NHÀ VẪN CÒN MÙI ", "NHẤM RƯỢU NGỌC DƯƠNG SOI GƯƠNG THẤY VẦNG DƯƠNG" (Nguyễn Trác Hùng)
vế đối: "VỀ CHUÔN NGỌ NHẢY LƯNG NGỰA CHỤP HÌNH SAO ĐẸP MÃ","CÚNG NGÀY ĐOAN NGỌ SOẠN LỄ DÂNG GIỜ NGỌ" (Thiền Long)(Tên địa danh "Hải Dương" được đối bởi địa danh "Chuôn Ngọ" là tên làng thuộc xã Chuyên Mỹ, huyện Phú Xuyên,Tp.Hà Nội)
  • vế ra: MONG ẤT MÙI, DÊ VÀNG LƯU LINH DÂNG RƯỢU LÊN BÀN RƯỢU, DƯƠNG ĐĂNG THẮNG LỢI (Phạm Thanh Cải)
vế đối: ĐỢI BÍNH THÂN, KHỈ TRẮNG BẠCH VIÊN LO CHỒNG DƯỚI NHÀ CHỒNG, HẦU HẠ CHU ĐÁO (Thiền Long)(Theo Truyện xưa nổi tiếng "Bạch Viên Tôn Các" thì Bạch Viên là tiên nữ xuống kết duyên với người phàm dưới trần gian nên dùng từ ngữ "dưới nhà chồng", ngoài ra "lo dưới = hầu hạ" có thể đối với "dâng lên = dương đăng";"Thân+Khỉ+Viên+Hầu" đối "Mùi+Dê+Linh+Dương")
  • vế ra: BIỂN THƠ ĐẤT CẢNG: CẢNG - BIỂN - ĐẢO - NÚI - SÔNG - ĐỒNG (Phạm Thanh Cải)
vế đối: NHÂN TÂM NGƯỜI NGHĨA: NGHĨA - NHÂN - LỄ - TRÍ - TÍN - DŨNG (Thiền Long)
  • vế ra: Nhớ năm Ngọ xưa, các kị sĩ hân hoan cưỡi ngựa, xông thẳng vào vòng vây địch chẳng hề đơn thân độc mã (năm Bính Ngọ 1426: Vào tháng 10, khi nhận thấy quân Minh ở cả Nghệ An và ở ngoài Đông Đô không còn bao nhiêu, Bình Định Vương (Lê Lợi) bèn sai tướng Lý Triện, Phạm Văn Xảo, Trịnh Khả, Đỗ Bỉ tiến đánh vùng Quốc Oai, Quảng Oai, Gia Hưng, Quy Hóa, Đà Giang, Tam Đái (Bạch Hạc) Tuyên Quang để chặn đường viện binh của quân Minh từ Vân Nam sang. Quân Minh vừa đến Tốt Động thì bị phục binh của quân ta bốn mặt đổ ra đánh chém. Quan Thượng Thư là Trần Hiệp, Nội quan là Lý Lượng cùng 50.000 quân lính nhà Minh phải bỏ mạng, hơn 10.000 tên bị bắt sống)
vế đối: Nghĩ niên Tuất ấy, đội khuyển binh tấp nập luyện chó, giúp diệt nhiều quân Phát xít là lũ lòng lang dạ sói (Thiền Long)
  • vế ra: Hết năm Thìn, đã hợp long xong cầu Hàm Rồng (Cao Nghiêm)
vế đối: Qua giờ Ngọ, rồi thượng mã vượt đèo Yên Ngựa (Thiền Long) (Phân tích: 1/Sử dụng từ ngữ chỉ hai con giáp xây dựng câu đối nhau: Ngọ, mã, ngựa đối Thìn, long, rồng. 2/ Động từ“thượng mã” (lên ngựa) đối động từ“hợp long” (thông đường) 3/Danh từ riêng“Yên Ngựa” (đèo ở Yên Bái) đối danh từ riêng“Hàm Rồng” (cầu ở Thanh Hóa) 4/Qua, rồi, vượtđốihết, đã, xong)
  • vế ra: "Mai dùng mai bứng cây mai đưa lên chậu" (Cao Nghiêm)
vế đối 1: "Mốt mặc mốt mua đồ mốt khoác khắp mình" (Thiền Long) (Phân tích: Nghĩa từ "mai": có hai nghĩa liên quan ở ngữ cảnh này là "cây hoa mai" (danh từ) và "ngày mai" (trạng từ )được đối bởi từ "mốt" có nghĩa là "kiểu mốt" (danh từ) , vd: mốt thời trang; và "ngày mốt" (trạng từ). Sử dụng từ hai nghĩa làm câu có thể được đọc theo nhiều cách)
vế đối 2: Cổ dạy cổ làm kiểu cổ ráp đủ đồ (Thiền Long) (Phân tích: + Theo từ điển thì chữ "mai" ở vế racó 3 nghĩa liên quan là : "ngày mai" (thời gian), "cây hoa mai" và "cái mai" (giống cuốc, thuổng). Vậy nghĩa vế ra là : Ngày mai dùng cái mai bứng cây mai đưa lên chậu

+ Theo từ điển thì chữ "cổ" ở vế đối có 3 nghĩa liên quan ở đây là: "thời cổ, thời xưa, hồi trước" (thời gian), "cô ấy" và "cái cổ" (cổ áo...). Vậy nghĩa vế đối là: Thời xưa đã dạy cô ấy làm kiểu cổ (áo) ấy ráp đủ dạng đồ)

  • vế ra: XUÂN VỀ PHÚ QUÝ BÌNH AN ĐÁO (Bùi Đức Thịnh)
vế đối: TẾT ĐẾN VINH HOA PHÚC ĐỨC HƯNG (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)
Những vế đối bẻ chữ cắt nghĩa[sửa]
  • Vế ra: Thi Ân mà chả tiếc Xu, trái mùa lòng vẫn vi vu Xuân về (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Xuân = Xu + Ân)
Vế đối: Nghĩa U luôn mãi tôn thờ (TH), nhớ người hè hết vỗ về THU qua (Thiền Long)
  • Vế ra: Thiện kia hơn bạc hơn vàng, như Thiên sâu Nặng thế gian sao bì? (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Thiện = Thiên + dấu nặng(.))
Vế đối: CHÍ này bằng núi bằng sông, vướng CHI tửu SẮC cho lòng đa mang! (Thiền Long)
  • Vế ra: Đem Tình soi dưới nắng Tinh, thấy người xưa hóa lung linh diệu Huyền (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Tình = Tinh + dấu huyền(-))
Vế đối: Cầu TÀI về với nhà TA, làm công việc nhớ chẳng cho sức Ì (Thiền Long)
  • Vế ra: Mang Lê cũng Ngã mũ chào, đúng người biết Lễ anh hào tôn vinh(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Lễ = Lê + Dấu ngã)
Vế đối: Thỉnh KINH sâu SẮC thiện lành, thành tâm thành KÍNH răn mình tránh sai (Thiền Long).
  • Vế ra: Dao kia muốn Sắc nhớ mài, Tin mà muốn Tín chớ sai với người (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Tín = Tin + Dấu sắc)
Vế đối: Gặp người xô NGÃ thân ta, DUNG người mới DŨNG mới là từ bi (Thiền Long).
  • Vế ra: Đao kia mang Nặng làm gì, sống cho phải Đạo lo chi oán thù (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Đạo = Đao + Dấu nặng)
Vế đối: TRI nhân sâu SẮC nhân tâm, hiểu nhiều mới TRÍ chẳng lầm người gian (Thiền Long)
  • vế ra: Con Nhỏ cõng ở sau lưng, chính là cháu nội đến mừng tuổi ông (Vũ Quang Long)(chiết tự chữ TÔN 孙 (tử + tiểu)
vế đối: Người (亻) tu lưu chốn tịnh thanh, đó nơi núi (山) tĩnh luyện thành tiên (仙) nhân (chiết tự TIÊN = NHÂN+SƠN )(Thiền Long)
  • vế ra: Con ai đội Đất bùn ao, vun bề Hiếu thảo cắm sào chẳng ngay (Vũ Quang Long) (Câu này chiết tự chữ Hiếu , gồm bộ chữ Tử  'nghĩa là con' ở bên dưới, chữ Thổ  'nghĩa là đất bùn' nằm bên trên. Ngoài ra còn có nét Phẩy 丿nằm nghiêng trông giống hình cọc sào, đây là hình ảnh tượng trưng biểu hiện rằng chữ Hiếu rất khó vẹn toàn cũng như ta cắm cây sào giữa vùng đất bùn lầy thì nó không thể đứng thẳng được như ở đất bằng, chữ Hán tượng hình người con cố đẩy mà kết quả cũng chẳng có cách gì làm cây sào đứng thẳng lến được vì đơn giản nó được cắm dưới bùn)
vế đối: Tâm người giữ Miệng bên trên, quyết lòng Trung hậu cặm xiên giữa vùng (Thiền Long) {Vế đối chiết tự chữ Trung , gồm chữ Tâm  bên dưới, chữ Khẩu  (nghĩa là miệng) nằm bên trên. Ngoài ra còn có nét xổ  như cây xiên cặm ngay chính giữa chữ khẩu. Trung phải từ tâm mới chính trung}
  • vế ra: Mười Miệng người tuổi Giáp Thân, cấy chung một Ruộng chuyên cần tự Do (Trần Việt Hà) (Câu này chiết tự 4 chữ  Điền,  Giáp,  Thân,  Do. Bốn chữ này đều do chữ  Thập (số 10) bên trong và chữ  Khẩu (cái miệng ăn) bọc ngoài, khác nhau 1 chút...khi là chữ Điền (thửa ruộng) thì nằm gọn thì chữ Thập trong chữ Khẩu, khi thành chữ Giáp thì nét sổ kéo dài xuống phía dưới, khi thành chữ Thân thì nét sổ kéo dài cả phần trên xuống phần dưới còn khi thành chữ Do thì chỉ dài ở phần trên còn phần dưới bằng mặt với chữ Khẩu. Câu này có thể hiểu rằng, có 10 người cùng tuổi Giáp Thân cấy chung 1 thửa ruộng, làm việc rất chuyên cần chăm chỉ tự do thoả mái)
vế đối: Một Hàng năm tinh Mậu Tuất ở cùng toàn Quân được bộ ngũ Nhung (Thiền Long) {Vế đối nói về "một 一(nhất) hàng năm 戊 (bộ qua có hai chữ "mậu", chữ "mậu này có hai nghĩa : can Mậu và nghĩa là hàng thứ năm) người cầm tinh Mậu 戉 Tuất 戌 ở cùng với toàn quân 戍 (thú = lính thú= quân) và có chung một bộ ngũ nhung 戎" {nhung=binh khí, ngũ nhung là bộ năm binh khí (cung, nỏ, giáo, mác, kích)}.Tất cả các chữ chính là sự kết hợp của một nét ở các vị trí khác nhau và chữ mậu 戊, trong đó có nét ngang như chữ nhất 一ở chữ Tuất 戌 và chữ nhung 戎 . Tuy nhiên vẫn còn chữ Mậu 戉 thì là một nét hất và chữ thú 戍 thì như là một nét chấm dài)
  • vế ra: Hai Người thề với đất Trời, kết làm Chồng vợ trọn đời Theo nhau (Hoàng Trần Tư) (Câu này chiết tự 3 chữ  Thiên,  Phu và  Tòng...Chữ Thiên có nghĩa là Trời được ghép bởi chữ  Nhị (số 2) và chữ  Nhân (người)...chữ Phu nghĩa là chồng cũng được ghép tương tự nhưng có điều chồi đầu lên cao hơn chữ Nhị 1 chút...còn chữ Tòng - chữ Tòng này là chữ Tòng đơn - nghĩa là Theo thì được ghép bởi 2 chữ Nhân, tượng hình 2 người theo nhau)
vế đối: Một Cây trái ngọt cội Nguồn, ăn vào Ngọn lưỡi vị đường Tê mê (Thiền Long){(các cách ghép bởi chữ Nhất(một) "一" và chữ Mộc (cây) 木}.(Một 一 Cây 木 trái ngọt cội Nguồn 本, ăn vào Ngọn 末 lưỡi vị đường Tê 木 mê; Có thế ghép hai chữ mộc 木 (cây) thành chữ lâm 林 để đối lại chữ Tòng 从 gồm hai chữ nhân 人 nhưng tương ứng logic (02 người) của vế đối là Một 一 Cây 木 nên vẫn phải dùng lại một chữ mộc 木 với nghĩa khác là "mất cảm giác"="tê"}
  • vế Xuất: Đêm lạnh nhìn trăng, trăng sắc trắng (Nguyễn Văn Nam)
vế Đối: Bé chơi bắn bi, bi nặng bị (Nguyễn Sư Giao)

Vế đối trên có dị bản như sau:

vế ra: ĐÊM TRĂNG, NHÌN TRĂNG SẮC TRẮNG (Nguyễn Văn Nam)
vế đối: LỄ CỜ , THƯỢNG CỜ AM CAM (Thiền Long){Lễ kéo(thượng) cờ ở cái am (danh từ; nghĩa là miếu thờ);ghép tự "C+AM=CAM"; cách hiểu cờ màu cam hay am màu cam đều hợp lý)}

Những câu đối để đời của Trường Văn Nguyễn Phước Thắng[sửa]

Các vế xuất[sửa]

  • vế ra: Ở một mình, anh Hai ba bốn năm nay vẫn đi xe Sáu Bảy đến chị Tám chín mười lần mà tình vẫn như không! (xe Sáu Bảy là xe máy hãng Honda nhập sang Việt Nam năm 1967) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối:Trụ nhất ấp, lão Nhị tam tứ ngũ tân đồng thẩm gian Lục Thất hồi sư Bát cửu thập phiên nhi lý đồng hư vô (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Ngũ là đơn vị hộ tịch thời xưa, cứ một ngũ gồm 5 hộ gia đình, "tam tứ ngũ tân" có nghĩa là ba bốn ngũ mới, "gian Lục Thất" là luật của trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm)
  • vế ra: Cô Bầu ướt mắt Bồ Câu, thư Bồ Câu biết tìm đâu Câu Bồ! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối:Lá Cóc chung lẩu Cá Lóc, mồi Cá Lóc giao cho nhóc Lóc Cá (Thiền Long)
  • vế ra nhân dịp xuân Giáp Ngọ (2014): Xuân Giáp Ngọ mừng trang giáp bảng, ngựa vinh quy, mã đáo thành công (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối: Đông Quý Tỵ giao ban quý niên, rắn hồi hương, xà mãn hóa long (Thiền Long)
  • vế ra: Anh Cu Ba mua Mông Cổ bò hòng ăn tết Công Gô, giờ nằm Mốc Ra bên Ma Rốc (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)(Nước Cộng hòa Dân chủ Công Gô (Congo Kinshasa) hầu như không có Tết, vì 50 năm mới ngắm pháo hoa 1 lần)
vế đối: Chị Ba Tư kiếm Ga Bông bếp định nấu heo Iran, đang đứng La Mãi ở Mã Lai (Thiền Long) (Đạo hồi không ăn thịt heo, gần 99% dân số Iran theo đạo Hồi, kiếm Ga Bông bếp là kiếm Gaz nấu bếp và bông hoa đặt trong bếp, Ga Bông là tên tiếng việt của quốc gia Gabon)
  • vế ra: Mai Nhơn An mốt An Nhơn, mốt mai Bình Định lừng danh trong mai mốt (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nhơn An là xã thuộc thị xã An Nhơn tỉnh Bình Định. Làng nghề Hoa mai Nhơn An nổi tiếng, đem lại thu nhập khá cho người trồng)
vế đối: Cổ Long Phước kim Phước Long, kim cổ Bình Phước có tiếng từ cổ kim (Thiền Long) (Phường Long Phước thuộc TX. Phước Long tỉnh Bình Phước. Câu đối nói về Phụ kiện thời trang các kiểu kim gài cổ áo; Nghĩa từ "cổ" : cổ áo, thời xưa... có thể đối nghĩa từ "mai": cây mai, mai sau...; Nghĩa từ "kim": cái kim, thời nay... có thể đối nghĩa từ "mốt": kiểu mốt (mode), ngày mốt (tương lai)...;Cây mai cũng được trồng ở nhiều nơi, phụ kiện cũng được tạo từ nhiều vùng)
  • vế xuất: Học già ra học giả (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối: Đồ nhỏ hóa đồ nho (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • vế ra: Tý Chuột máu có Mùi Dê, Thân Khỉ cũng chán mà mê Mẹo Mèo! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (4 trong 12 con giáp - Tý Chuột là tên người, mẹo mèo là mưu mẹo mèo mỡ bồ bịch)
vế đối: Hợi Heo tay mó Dậu Gà, Tỵ Rắn chưa đã bị sa Cọp Dần (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • Vế ra: Muốn Trí thì phải có Tri, thông minh Sắc bén ngại gì thấp cao (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Trí = Tri + Dấu sắc)
Vế đối: Trong Dũng thường có tính Dung, giỏi giang Ngã ngựa chẳng chùn thắng thua (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • Vế ra: Nhân kia còn mãi cõi trần, chắc vì hoa lá Nhờ Ân cội nguồn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Nhân = Phụ âm đầu Nh (Nhờ) + Ân)
Vế đối: Công này giữ chốt bến sông, cũng do pháo chốt Cờ Ông ngược dòng (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(Chiết tự: Công = Phụ âm đầu Cờ (C) + Ông)
  • Vế ra: Phật như phảng Phất mai đào, bỏ đi Sắc dục, thêm vào Nặng nhân (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Phật = Phất - Dấu sắc + Dấu nặng)
Vế đối: Trời cũng trăn Trở hạn khô, bớt giùm Hỏi sấm cộng vô Ì ầm (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(Chiết tự: Trời = Trở - Dấu Hỏi (?) + Ì)
  • Vế ra: Nước là cuộc sống của Anh, Ước sao trăm họ an lành giàu sang (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Nước = Phụ âm đầu Nờ (Anh Nờ gọi tắt còn Anh)+ Ước)
Vế đối: Mưa là mong ước của Em, Ưa cho thiên hạ êm đềm ấm no (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Mưa = M+ Ưa)
  • Vế ra: Làm Giàu chớ đợi đến Già, trước tiên hiếu kính ông bà thầy U (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Giàu = Già + U)
Vế đối: Thoát Nghèo sao ngóng cống Nghè, phải ham học hỏi bạn bè bác O (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Nghèo = Nghè+ O)
  • Vế ra: Muốn Giầu phải biết làm Gì, người ta thường bại cũng vì lắm Âu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Giầu = Gì + Âu)
Vế đối: Đã Nghèo mà vẫn nghi Ngờ, đành cam chấp nhận mà vơ lấy Hèo (Vũ Quang Long) (Chiết tự: Nghèo = (NGỜ: Ng + hèo, thường những người nghèo hay ngờ vực đổ cho số phận hẩm hiu long đong lật đật mà không nhìn vào chí tiến thủ cộng với năng lực bản thân, do đó chỉ có cách tốt nhất là vơ lấy cái Hèo "tức cái gậy" mà đi ăn xin ăn mày thôi)
  • Vế ra: Thánh như Ánh sáng cõi trần, mai sau thoát tục nhân dân tôn Thờ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Thánh = Phụ âm đầu Thờ (TH)+ Ánh)
Vế đối: Ma nơi A tỳ tối tăm, muôn đời địa ngục quanh năm mịt Mờ (Hoàng Trần Tư) (Chiết tự: Ma = M (Mờ) + A)
vế xuất nhắc đến 1 bậc siêu phàm có công với nhân dân, khi mất sẽ được phụng sự đến trăm đời sau thì vế đối nói về 1 thế lực mờ ám chuyên làm điều xấu, lúc chết sẽ bị đày xuống địa ngục A tỳ mãi mãi không bao giờ siêu thoát
  • Vế ra: Lòng Tiên tĩnh lặng như Tờ, giúp thuyền vượt bão cập bờ bình Yên (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Tiên = Phụ âm đầu Tờ (T)+ (iên=yên)
Vế đối: Bụng Người lắm lúc ngần Ngừ, khi lại quả quyết bù trừ à Ơi (Hoàng Trần Tư) (Chiết tự: Người = Ngừ + Ơi, dấu huyền được hoán vị chuyển lên trên chữ Ư để phù hợp với ngữ nghĩa của câu đối, đại ý là con người ta lúc thì chần trừ khi lại quả quyết tuỳ theo hoàn cảnh thực tại của cuộc sống vậy)
  • Vế ra: Thuyền Quan chớ lái quạng Quờ, kẻo không sóng dậy vỡ bờ bất An (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Quan = Phụ âm đầu Quờ (Qu)+ An)
Vế đối: Lê Dân chất phác dậm Dờ, chớ để tức nước oán mờ hết Ân (Hoàng Trần Tư) (Chiết tự: Dân = Dờ tức chữ D + Ân, đại ý câu này nói lên "lê dân" là lớp người thấp cổ bé họng tính tình chất phác pha chút dậm dờ, nhưng chớ có để tức nước lúc đó thì tất cả những ân huệ sẽ chẳng còn mà chỉ thấy oán hận mà thôi...vì đẩy thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng chính là dân đúng theo cổ ngữ vậy)
  • Vế ra: Cái Nhà chẳng phải cái Nha, nên Quyền sai vặt phải là chị em! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Nhà = Nha + dấu Huyền (Quyền))
Vế đối: Cây Súng khác hẳn cây Sung, giữ Chắc bảo vệ non sông thanh bình (Hoàng Thành Ân tự Trọng Khoa) (Chiết tự: Súng = Sung + dấu Sắc (Chắc))
  • Vế ra: Sướng như Tiên lại tham Quyền, cho nên mới bị thằng Tiền nó sai (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự: Tiền = Tiên + dấu Huyền (Quyền))
Vế đối: Đã là Thánh chớ háo Sắc, vậy sẽ giữ chắc danh Thanh muôn đời (Vũ Quang Long) (Chiết tự: Thánh - dấu Sắc = Thanh, đại ý câu này nói rằng đã gọi là bậc Thánh hiền thì không được háo sắc, như vậy thì cái danh thanh khiết mới giữ vẹn tới muôn đời sau)
  • vế ra: THƠ chàng ý thiếp đã ƯNG, vì đâu còn bảo chàng đừng có THƯƠNG (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự chữ Thương, hoán vị chữ ư và ơ)
vế đối: Ghê bọn gặp người là Hét, cần xả xì chét chúng cho bõ Ghét (Đỗ Đình Bao) (Chiết tự chữ Ghét: G (đọc là Ghê) + Hét, đại ý vế đối là ghê tởm những bọn hễ thấy người là la hét mắng mỏ hạch sách nhiễu nhương, thế nên cần phải xả xì chét tức là mắng chửi nguyền rủa chúng nó để cho bõ ghét, mà chỉ đến vậy chứ có ghét thế chứ ghét nữa cũng chẳng làm gì được. Vế xuất có 2 chữ chàng là đại từ nhân xưng, vế đối khó dùng 1 chữ nên bắt buộc phải lấy chữ Bọn và chữ Chúng thì mới đáp ứng được yêu cầu của vế ra)
  • vế ra: Lời THỀ sau trước như IN, tham chi cũng chẳng chỉ xin tham THIỀN (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự chữ Thiền, hoán vị chữ i và ê)
Vế đối: Tế ĐỘ phải trái khỏi NGỜ, sống đẹp một giờ đời thêm sống ĐỘNG (Hoàng Trần Tư) (Chiết tự chữ ĐỘNG: ĐỘ + NG (Ngờ)...ở đây ý của vế đối là làm việc tế độ thì khỏi cần nghi ngại ngờ vực gì cả bất kể phải hay trái, cứ theo cái tâm của mình là được, mặc dù xã hội lắm kẻ lợi dụng những việc hành thiện để lách luật lươn lẹo lọc lừa...ta cứ sống đẹp được giờ nào thì bức tranh xã hội sẽ sống động thêm lúc đó, đối ý ở đây dùng Động để đối với Thiền là tĩnh vậy)

Các vế đối có sự tích sử dụng tên người hoặc địa danh[sửa]

  • Ở Quận Đại Lộc thuộc tỉnh Quảng Nam có anh Trần Hàn xấu trai, mặt thì rỗ, lại thêm chột hết một mắt, nhưng anh ta hát hay nổi tiếng. Nhưng “Cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị”, vì khi anh xuống làng La Qua, quận Điện Bàn, gặp một cô gái hát chỉ hai câu mà không tài nào đối được, đành bỏ nghề hát, tuyệt tích giang hồ. Câu hát rằng:
Trần ai gặp lúc cơ Hàn, rổ đan mặt mốt xuống ngàn đổi khoai
Cái chữ khó của câu hát là chữ “Rổ”. Đan mặt mốt, nghĩa trắng là nghèo quá phải đan rổ tre long mốt để đựng khoai, nghĩa đen lại là mặt rỗ hoa mè lại đui một mắt (mặt mốt nói lái là một mắt).
vế đối: Nguyễn đâu trước buổi thái Bình, mốc hoa tương trúng muối tinh thơm làng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Vế đối nói về Nguyễn Bình (1906 - 1951) là Trung tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, lãnh đạo quân dân miền Nam Việt Nam kháng chiến chống Pháp, hy sinh năm 1951. Ông quê ở Hưng Yên, quê hương của món Tương Bần nổi tiếng. Ông là vị tướng anh hùng một mắt (Mắt kia bị địch đâm mù khi bị tù), là niềm tự hào của quê hương Hưng Yên. Mốc hoa làm từ nếp, đỗ tương và muối là 3 nguyên liệu chính để chế biến nên món tương. "Tương trúng" nói lái thành "Trung tướng" để đối với "mặt mốt' nói lái thành "một mắt". Chữ "Nguyễn" dùng ở đây là họ của tướng quân, "nguyễn đâu" ở đây có ý khẳng định là không phải vẽ vời (vì "nguyễn" đọc trại thành "nghiễn" có nghĩa là "vẽ vời" (ví dụ như nguyễn chuyện= nghiễn chuyện), mà là người thật, việc thật. Tương trúng nghĩa là tương bán vừa được giá vừa được lượng, chẳng hạn "được mùa" tức là "trúng mùa". Vế đối ý nói: Không nên chê bai, thiếu tôn trọng người nghèo, người khuyết tật vì "tinh" "hoa" của đức độ và tài năng của họ làm rạng danh quê hương đất nước)
  • Tỉnh Nam Định có vùng đất Lạc Quần, nơi có chợ, có sông tấp nập, đồng thời lại có xứ Quần Lạc cách Lạc Quần không xa, cũng trù phú không kém. Làng Quần-Lạc và làng Lạc-Quần là hai làng khác nhau, cách nhau con sông Ninh-Cơ. Ngày nay có lẽ nhiều người trẻ sống tại nơi đó cũng không biết đến tên Quần-Lạc, vì đã bị chính quyền xóa sổ và sáp nhập. Vậy cái Làng Quần-Lạc (thành-lập cách nay khoảng 400 năm, còn có tên là Village Kwan-Lak thời thập-niên 30) nằm ở đâu? Bên tả-ngạn sông Ninh-Cơ, một chi-lưu của sông Hồng, cách tỉnh-lỵ Nam-Định khoảng 26 km về phía đông-nam, bên phải đường số 21. Ngày ấy, lũ con gái làng Quần Lạc sang bên Lạc Quần mò cua bắt ốc, tụ tập nô nghịch tắm nhảy ở bờ sông, do mải chơi nên lúc về tối muộn bọn họ ào lên bờ lấy lẫn lộn quần áo của nhau, vừa chạy vừa mặc, âu cũng là chuyện vô tình cho nên vì vậy mới có câu thách đối nêu ra các địa danh này như sau:
Vế ra: Cô gái Quần Lạc, đi chợ Lạc Quần, bán lạc mua quần, trở về Quần Lạc (“Lạc Quần”, “Quần Lạc”, hai địa danh có tên gọi theo lối đảo trật tự từ của nhau, cùng âm với “lạc quần” (lạc mất cái quần), hàm ý trêu đùa, lại cùng âm với lạc (đậu phộng), ‘‘quần” (quần áo) ở dạng tách rời (về âm thanh, không phải về chữ viết, và ngoài ra quần lạc còn có nghĩa là nhiều người vui đùa với nhau)
vế đối 1: Chàng trai Cu Ba, thăm xứ Ba Cu, theo ba chọn cu, bay lại Cu Ba (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ba Cu là thủ đô nước Cộng hòa Trung Á Azerbaijan)
Vế đối 2: Đàn ông Bình Châu, tới thôn Châu Bình, trao Châu lấy Bình quay lại Bình Châu (Hoài Anh Võ Quang Thạch) Thôn "Châu Bình" thuộc xã "Bình Châu" huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi. Bình vừa là danh từ chỉ vật dụng bầu ra ở khúc giữa dùng để đựng chất lỏng,vừa là động từ bình phẩm một vấn đề hay một vật nào đó.Đối Với "Quần" (vừa là danh từ chỉ cái quần áo vừa là động từ quần nhau)."Châu" vừa là danh từ chỉ ngọc trai vừa là động từ châu chụm lại đối với "Lạc" vừa là danh từ chỉ đậu phụng vừa là động từ chỉ sự lạc mất xa ra."Châu" chụm lại "lạc" xa ra.
vế đối 3: Chàng trai Sơn La, vào động La Sơn, đổi La lấy Sơn, quay ra Sơn La (Sơn La là tỉnh Sơn La, còn La Sơn là tên cũ của huyện Đức Thọ thuộc tỉnh Hà Tĩnh thời Phong kiến)
vế đối 4: Chàng trai Đông Hà, tới quận Hà Đông, tra Đông khảo Hà, có phải Hà Đông (Đông Hà là thị xã thuộc tỉnh Quảng Trị, Hà Đông trước là thị xã thuộc tỉnh Hà Tây là quận nay thuộc thủ đô Hà Nội)
vế đối 5: Chàng trai Hoa Nguyệt xuống xóm Nguyệt Hoa, mua Nguyệt bán Hoa, đã đời Hoa Nguyệt! (Hoa Nguyệt ám chỉ những người hay cợt nhả ong bướm không phải tên địa danh, còn nguyệt hoa chỉ là tên dân gian gọi những nơi lầu xanh chớ không phải tên chính thức)
vế đối 6: Cậu bồi Lộc Xuân, đến đường Xuân Lộc, du xuân hái lộc, quay lại Lộc Xuân (VĂN CƯỜNG - Tây Hà) (Lộc Xuân chỉ là tên một số quán ăn, Xuân Lộc là tên thị trấn thuộc tỉnh Đồng Nai)
  • Tỉnh Hà Nam có xã Như Trác nằm trong huyện Lý Nhân, dân gian vẫn lưu truyền một vế đối sau:
vế ra: Gái Như Trác xấu như ma, người ta thiết tha như ma như trác (“Như Trác” cùng âm với “như trác” (HV: như giũa); “như ma” (TV: giống như con ma) cùng âm với “như ma” (HV: như mài). “Như giũa như mài” (như ma như trác) nói về cách tu luyện của mỗi người).
vế đối: Trai Như Cố dữ như yêu, chị em nâng niu như yêu như cố (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Như Cố là xã thuộc huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn. Theo tự điển Hán Việt của Đào Duy Anh, "yêu" còn có nghĩa là xin, cầu; "cố" còn có nghĩa là thuê)
  • Thôn Cổ Luỹ thuộc xã Nghĩa Phú huyện Tư Nghĩa tỉnh Quảng Ngãi tương truyền có câu đối sau:
vế ra: Cổ Lũy cô thôn, cô thôn nữ tình tang câu hát cổ (khuyết danh)
vế đối: Ông Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối: Lao Bảo lão quan, lão quan già nắn nót chữ cù lao (Lao Bảo là cửa khẩu (ải quan) giữa Việt Nam và Lào, thuộc tỉnh Quảng Trị)
  • Thời Hậu Lê, Văn Miếu chiếm một khu vực rất rộng ở giữa địa phận hai làng Cổ Giám và Văn Chương. Bên tả là khu học xá ở thôn Minh Giám, nơi trú ngụ của các cống sĩ về học ở Quốc Tử Giám. Phía trước có một hồ nhỏ gọi là Văn Hồ, tu sửa thành một cảnh khá đẹp. Có bài thơ sau: "Thoi đưa tay mỏi canh chày, tiếng ai xin lửa là thầy cống Sen, thầy rằng đang học tắt đèn, cậy tình lân lý dám phiền đêm hôm". Đó chính là bài dân ca tình tứ vẫn được truyền tụng nói lên cái cảnh tượng chung quanh Văn Hồ, ngày đêm luôn luôn rộn lên những tiếng ngâm thơ, đọc sách của các "quan nghè" dự bị xen lẫn tiếng thoi đưa lách cách nhịp nhàng của các cô gái đảm đang. Tương truyền, một người ở thôn Minh Giám là Phủ Hào có lập một toà nhà ở phía đông Văn Hồ, gọi là Nho sinh quán để đón mời các sĩ tử ở xa về kẻ chợ trọ học. Những ai không có nơi quen biết, hoặc nghèo túng không có tiền thuê nhà, vào đó ở đều được đối xử tử tế. Vì vậy người ta cũng gọi quán ấy là quán ông đồ. Phủ Hào còn dựng một cái dinh con trên một gò nhỏ giữa hồ, làm theo hình chiếc hồ rượu, gọi là Nhất hồ đình. Đôi khi Phủ Hào vẫn mời các danh sỹ chèo thuyền ra đó, uống rượu, làm thơ. Có lần Phủ Hào treo giải, ra một câu đối để thách các bạn làng văn đối chơi cho vui, câu đối ấy như sau:
vế ra: Nước Văn Hồ tha hồ tắm mát, rượu Hồ Đình thơm ngát đón làng văn
vế đối: Lửa Võ Tánh bá tánh tô hồng, tiêu Tánh Linh cay nồng mời khách võ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Võ Tánh là trung thần võ tướng nhà Nguyễn; Ông sinh ra ở huyện Phước An, tỉnh Đồng Nai (Biên Hòa cũ). Tánh Linh là huyện trước thuộc Đồng Nai Thượng, năm 1900 vua Thành Thái sáp nhập vào Bình Thuận. Tiêu Tánh Linh là đặc sản nổi tiếng với vị cay thơm nồng)
  • Một người đi chợ Đồng Đăng vào đúng ngày hè nóng lực oi bức, chợt nảy ra một vế đối hay:
vế ra: Nắng đằng đông, nóng Đồng Đăng (khuyết danh)
vế đối: Gió vào nam, mát Vàm Nao (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Vàm Nao là tên con sông thuộc tỉnh An Giang, nối liền sông Tiền và sông Hậu. Xưa kia, sông Vàm Nao là nổi ám ảnh của những ai đi qua đây; bởi đây là con sông dữ với xoáy nước to và sóng lớn, cùng các loài thủy quái. Ngoài ra, Vàm Nao còn nổi tiếng vì là nơi xảy ra trận thủy chiến khốc liệt giữa quân Việt và quân Xiêm vào cuối năm 1833, và còn vì các đặc sản như cá hô, cá bông lau. Ngày nay, Vàm Nao có vai trò quan trọng trong thủy lợi, giao thông, thủy sản và du lịch)
  • vế ra: Con gái La Qua, qua đường qua chọc, qua biểu em rằng, đừng có la qua (La Qua là tên 1 địa danh ở xứ Quảng Nam Đà Nẵng, “Qua” trong “qua đường” là động từ; “qua” trong “qua chọc”, “qua biểu” là từ xưng hô địa phương (cùng nghĩa với tôi, tao). “La qua” ở cuối dòng thứ tư có nghĩa là “la rầy tôi” và cùng âm với địa danh “La Qua”)
vế đối: Con trai La O, o tiền o ghẹo, o nói anh à, sao chẳng la o (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (La O là xã thuộc huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai. O có nghĩa là cô gái. O tiền là o bế tiền bạc)
  • vế ra: Nếu chịu Bà Chở, Bà Chở sẽ chở xuống Chợ Bà Chiểu (khuyết danh) ("Chở" vừa là tên của một bà vừa có nghĩa là đem đi bằng một phương tiện gia thông (chuyên chở). "Chịu Bà Chở" cũng có hai nghĩa : Thích bà có tên Chở hoặc, hoặc "đồng ý cho bà đó chở đi". Tiếng lái của chịu Bà Chở là chợ Bà Chiểu một địa danh rất quen thuộc ở vùng Sài Gòn)
vế đối:Như cúp Ông Bầu, Ông Bầu đã đẩy lên Cầu Ông Búp (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Cầu Ông Búp ở quận Bình Tân, Tp. Hồ Chí Minh)
  • vế ra: Vượt Sông Đuống Xuống Đông lên bắc, trèo Đèo Ngang trong lúc Đang Nghèo (khuyết danh)
vế đối: Lướt Vàm Nao Vào Nam sang Chấn, về Cầu Giấy nuôi mộng Cấy Giầu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Vàm Nao: sông ở Nam bộ. Chấn: Phương Đông)
  • vế ra: Vú Nàng đã bén tay anh, qua hòn Xương Kiến thì Xanh bắc cầu (“Vú Nàng” là tên một hòn đảo nhỏ (tương tự Xương, Kiến, Xanh, thuộc vùng biển Diễn Châu) được dùng với nghĩa như “vú của nàng” theo cách cùng âm)
vế đối: Đinh Ba đã thấm lòng qua, vượt điều Lớn Nhỏ nhờ Hoa gửi tình (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Đinh Ba, Lớn (Đá Lớn), Nhỏ (Đá Nhỏ), Hoa (Đá Hoa) là những đảo trong quần đảo Trường Sa.“Qua” là đại từ ngôi thứ nhất, dùng riêng rẻ là từ xưng hô của người lớn tuổi với người nhỏ tuổi, nghĩa là tôi, ta (cô, chú, bác, anh, chị)
  • Từ Thành phố Hồ Chí Minh về miền Tây, qua khỏi Long Định (Tiền Giang) một quãng sẽ qua một cây cầu có tên Cầu Rượu và cách không xa lắm là xã Giồng Dứa. Dân gian vẫn truyền tụng câu đối hóc búa như sau: Đi Giồng Dứa tìm mua dừa giống, ông cụ qua Cầu Rượu làm bà cụ rầu
vế đối:Bỏ Cai Lậy học ghép cậy lai, anh vợ sang Chợ Quê mà em vợ chê (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Cai Lậy là thị xã thuộc tỉnh Tiền Giang, Cậy là giống cây ăn quả cùng họ với hồng, Chợ Quê là tên nhà hàng ở 01 ngõ 163 Hoàng Ngân - Trung Hòa - Cầu Giấy - Hà Nội)
  • Phường Điện Dương, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, có một cây cầu bắc qua sông Cổ Cò (nối từ thượng nguồn sông Hàn ra Cửa Đại) và gần đó có một cái chợ. Chợ mang tên cầu và cầu mang tên chợ, một vế ra đối được cho là của một ông đồ:
vế ra:“Qua cầu Chợ đến chợ Cầu, chờ cậu”.
vế đối:" Rời chùa Đồng về đồng Chùa, đùa chồng" (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
Chùa Đồng còn gọi là Thiên Trúc tự ở Yên Tử. Đồng Chùa là cánh đồng gần chùa Sóc Lớn thuộc ấp Sóc Lớn xã Lộc Khánh huyện Lộc Ninh tỉnh Bình Phước
  • Giáo Sư Toán Học Văn Như Cương là người tài hoa, uyên thâm nhiều lĩnh vực, vì thế sinh viên tôn vinh ông bằng một vế ra:
vế ra: Văn Như Cương, Toán cũng Như Cương (câu đối này liên quan đến giáo sư toán học Văn Như Cương, ở đây có cả họ tên ông, ông họ Văn nhưng lại là giáo sư Toán Học)
vế đối: Lương Định Của, Nông càng Định Của (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (vế đối lại này nói đến giáo sư tiến sĩ nông học Lương Định Của (16/8/1920 - 28/12/1975) là một nhà nông học, nhà tạo giống của Việt Nam. Ông họ Lương (chữ Lương còn có nghĩa là lương thực, lúa gạo) và lại là giáo sư Nông Học)

Vế ra này có 1 dị bản khác hóc búa hơn:

Vế ra: "Văn Như Cương, Toán như Cương, Lý như Cương, Hóa vừa nhu vừa Cương!"
Vế đối:Lương Định Của, Nông định Của, Y định Của, Sinh lắm đức lắm Của! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Ông Cai Mây ở xóm Cây Mai, mang vài nhánh mai vàng đi chúc tết (Nguyễn Hoè ở An Nhơn - Bình Định) (xã Nhơn An thời trước có một nhân vật trứ danh tên là Mây, đi lính được đóng Cai nên gọi Cai Mây)
vế đối: Bà Giấu Cầy thăm quận Cầu Giấy, giơ mấy chậu giấy mơ ra đón xuân (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Vì chồng hứa đãi bạn nhậu thịt cầy nhà mình, nhưng tiếc con cầy khôn ngoan nên bà vợ đem giấu nó đi. Từ đó, Bà có tục danh "Bà Giấu Cầy" do bạn nhậu ông xã bà "mến tặng". Tết nay bà ra thăm con ở Hà Nội. Nhà chẳng có gì, chỉ có mấy chậu bông giấy! Thôi thì cũng gọi là Xuân!)
  • vế ra: Con cò lửa đậu ở Cửa Lò (khuyết danh)
vế đối: Cây Bo Rừng không về Bưng Rò (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Bo Rừng là cây thuộc họ Mua, có tên khoa học là Blatus borneensis var. eberhardtii. Bưng Rò là ấp thuộc xã Hòa Hội huyện Châu Thành tỉnh Tây Ninh)
  • Cám cảnh trước sự xuống cấp của hồ Xuân Hương, một thắng cảnh nổi tiếng của thành phố hoa Đà Lạt trên cao nguyên, một nhân vật khuyết danh đã thốt lên: Một mai mai một Xuân Hương, Đà Lạt còn gì...là đạt?
vế đối: Hiện sinh sinh hiện Vân Anh, Lam Kiều biết có...làm kiêu! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) ("Hiện sinh" là cuộc sống hiện tại đối với "một mai" là tương lai. "Sinh hiện" có nghĩa là sinh ra hiện nay đối với "mai một" là mất đi. Điển tích "Lam Kiều" chỉ nơi người đẹp ở, hoặc nói đến nhân duyên tốt lành.Chuyện rằng vào đời Đường có thư sinh tên là Bùi Hàng. Một hôm chàng xuống đò, định tìm đến Ngọc Kinh, nơi tiên ở. Cùng đáp chuyến đò có nàng Vân Kiều sắc nước hương trời khiến chàng xao xuyến làm một bài thơ, tìm cách đưa người đẹp. Khi thuyền sắp cập bến, Vân Kiều cho thị nữ đưa chàng một bài thơ, trong có ý nói: chàng đến Lam Kiều sẽ gặp tiên. Chàng còn đang ngẩn ngơ thì nàng Vân Kiều đã biến mất, khi thuyền vừa cập bến.Bùi Hàng hỏi thăm Lam Kiều, đó là nơi có một cái cầu bắc qua sông Lam, thuộc tỉnh Thiểm Tây. Chàng lần tìm đến Lam Kiều, ghé ngôi nhà bên đường, xin nước uống. Bà chủ nhà gọi thiếu nữ tên Vân Anh mang nước ra. Chàng ngạc nhiên nhìn mãi người con gái đẹp tuyệt trần. Bà chủ thấy vậy, bảo chàng: "Con bé này là em gái của Vân Kiều, chớ lấy làm lạ; hai chị em nó giống nhau như đúc". Bùi Hàng mừng lắm, có lẽ duyên trời đã định; một lát sau, chàng kể với bà chuyện gặp Vân Kiều trên thuyền. Bà tươi cười bảo chàng "Chắc Vân Kiều muốn se duyên em gái nó cho chàng", rồi bà thong thả nói tiếp "Hiện tôi có một cái cối ngọc mà thiếu chày ngọc để giã thuốc. Bao giờ chàng tìm được chày ngọc, mang về đây, tôi sẽ gả Vân Anh cho chàng". Bùi Hàng nhận lời. Chàng đi khắp nơi, đi mãi, vượt núi băng rừng mà chẳng tìm được chày ngọc. Quá thất vọng, toan trở về nhà, thì may sao, chàng gặp tiên ông cho chàng cái chày ngọc. Bùi Hàng lạy tạ, băng băng trở về Lam Kiều. Bà chủ nhà vui mừng gả Vân Anh cho Bùi Hàng. Chẳng bao lâu, đôi trai gái hoá thành tiên, bay lên trời.Trong Truyện Kiều, hai lần Nguyễn Du nói đến tích này: Sau khi gặp Kiều trong buổi Thanh Minh, Kim Trọng tưởng nhớ người đẹp và "xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang". Và trong cảnh dưới trăng thề ước, Kim Trọng rụt rè nói: "Chày sương chưa nện cầu Lam...". Trong truyện Phan Trần có câu: "Chốn Lam Kiều cách nước mây, Bùi Hàng chưa dễ biết đây chốn nào...")
  • Có một Việt Kiều định cư ở bang California thuộc Hợp Chủng Quốc Châu Mĩ, tức cảnh sinh tình đưa ra câu đối sau đây:
vế ra: Xuân Cali lạnh lẽo, nghe gọi heo, gọi lợn, gọi chó, gọi cờ tây, chạnh thèm bát giả cầy (khuyết danh)
vế đối: Tết Bình Định ấm áp, thấy kêu cây, kêu hoa, kêu mộc, kêu cẳng ró, bỗng nhớ cành thiệt thảo (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Thiệt thảo là gọi tắt cây Bạch hoa xà thiệt thảo, còn có tên gọi khác là: Giáp mãnh thảo, Xà thiệt thảo. Tên khoa học của cây là: Hedyotis diffusa, họ Cà phê, là loài cỏ nhỏ, mọc bò lan sống hàng năm. Cây thường gặp ở cả ba miền đất nước. Cây dùng để chữa viêm ruột thừa, u bướu, ung nhọt, ho, viêm amidal, viêm tiết niệu, chữa rắn cắn...)
  • Có 2 anh em nhà nọ (không rõ tên, chỉ biết là anh trai và em gái - Việt Kiều định cư tại hợp chủng quốc Châu Mỹ) rất mê văn chương, thường ngày thường hay xướng họa thi phú và câu đối. Một hôm, nhân đọc cuốn tiểu thuyết "Ỷ thiên đồ long ký" của nhà văn Kim Dung, người anh cao hứng ra 1 vế đối: Tạ Tốn Vô Kỵ Thành Khôn
Điểm thứ nhất đây là tên của 3 nhân vật trong Cô Gái Đồ Long, điểm thứ hai cần đối là chữ Tốn và Khôn là 2 quẻ bát quái, điểm thứ 3 Tạ Tốn Vô Kỵ Thành Khôn nghĩa là Tạ Tốn không sợ Thành Khôn, điểm thứ 4 là điểm khó nhất và thâm thuý nhất: Tạ Tốn vô kỵ thành khôn có nghĩa nữa là Tạ Tốn không sợ gì để trở thành người khôn, nói Tạ Tốn là người có chí.
em gái suy nghĩ 1 lát rồi đối: Chu Hợi Bất Vi Vô Tuất
Ba nhân vật này trong tiểu thuyết Đông Châu Liệt Quốc. Đối rất chuẩn về tên, Tạ Tốn, Thành Khôn là nguyên họ tên thì đối với Chu Hợi Vô Tuất, Vô Kỵ chỉ là chữ lót và tên (bỏ chữ Trương là họ) thì Bất Vi cũng chỉ là chữ lót và tên (bỏ chữ Lã là họ). Dùng Hợi và Tuất là 2 chi trong 12 chi để đối lại là rất chuẩn. Nói câu Chu Hợi bất vi Vô Tuất có nghĩa là Chu Hợi không làm giống Vô Tuất, dùng tên người giữa đễ điểm gạch giữa 2 nhân vật 2 bên. Còn Chu Hợi bất vi vô tuất thì có nghĩa khác là Chu Hợi không làm gì mà không có lòng thương xót, ý nói Chu Hợi là người hiền lành (Tuất có nghĩa là thương xót, chẩn cứu người nghèo khổ). Thâm ý của hai câu đối là ở đó, nói về 2 đức tính tốt của con người.

Cô em gái cũng không phải tay vừa, đối xong lập tức ra 1 vế thách anh trai đối: Hà Túc Đạo, Thuyết Bất Đắc (Cái khó đây là tìm tên 2 nhân vật là Hà Túc Đạo và Thuyết Bất Đắc cùng một chuyện (nguồn gốc ở bộ tiểu thuyết Ỷ Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung) và có tới 4 nghĩa: Cách hiểu thứ nhất: "Hà Túc Đạo không nói được". Cách hiểu thứ hai: "Hà túc đạo" có nghĩa là "nói đến làm gì" (chữ đạo là đàm đạo), câu này hiểu là: "Nhắc đến gã Thuyết Bất Đắc làm gì". Cách hiểu thứ ba, đạo là đạo nghĩa: "Hà Túc nói đạo nghĩa cho Bất Đắc". Cách hiểu thứ tư, Hà Túc nói đạo nghĩa không được (bất đắc)

Người anh nghĩ nát óc mà không tài nào tìm ra được vế đối lại, đành chịu thua cô em gái
vế đối: Văn Thái Lai, Lý Khả Tú (Văn Thái Lai và Lý Khả Tú là 2 nhân vật trong tác phẩm Thư Kiếm Ân Cừu Lục của Kim Dung. Câu này có 4 nghĩa: 1." Văn Thái Lai quê nhưng đẹp" vì Lý = Quê mùa, Khả = Có, Tú = Đẹp. 2."Văn Thái Lai" có nghĩa là Nghe tương lai an vui, thông suốt, câu này nghĩa là Nghe tương lai an vui thông suốt đối với Lý Khả Tú, vì Văn = Nghe, Thái= Thông suốt, an vui; Lai = Về sau, Tương lai. 3. Văn Thái đến làng Khả Tú, vì Lai = Đến, Lý = Làng, chỗ ở. 4.Văn Thái đến chỗ ở (làng) xinh đẹp) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Chạy vào nhà Thổ - kiếm Chú Kim, xem phim con heo - nhớ Cậu Chó (cái khó của vế ra: khó là Chú Kim và Cậu Chó là tên 2 cuốn truyện, và tất cả có sự tương quan đến nhà thổ và phim con heo)
vế đối: Mang ra đồ Mộc - sang Bà Hỏa, dọn khu ổ chuột - ước Con Mèo (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) ("Đồ mộc" ngoài nghĩa là dụng cụ nghề mộc còn có nghĩa là thức ăn mà nguyên liệu chủ yếu là thực vật ăn được như dưa, củ, măng, giá...thường dùng trong đám giỗ. Mộc >< Thổ, Hỏa >< Kim, 4 hành cùng thuộc Ngũ Hành. Heo, chó, chuột, mèo đều thuộc 12 con Giáp. Bà Hỏa và Con Mèo là tên riêng 2 núi. Núi Bà Hỏa ở Quy Nhơn, trước đây có nhiều khu ổ chuột nay đã chỉnh trang quy hoạch xây dựng khang trang. Núi Con Mèo là thắng cảnh du lịch ở xã Yên Đức huyện Đông Triều - Quảng Ninh, Bài thơ "Vịnh núi Mèo" (có thuyết cho rằng của vua Trần Nhân Tông) khắc trên núi rất nổi tiếng:
"Đứng thốc trên sông một đọi đèo.
Vặn hình ra thể dáng con Mèo.
Đá xương đất thịt, da không mốc.
Cỏ vện hoa vằn, dạ chẳng meo.
Cáo thỏ kinh hơi, rừng vắng ngắt.
Kình nghê tăm bặt, nước trong veo.
Xanh trì vũ trụ chân ngoèo vững.
Ắt hẳn ngàn năm kín chẳng nghèo."

Các vế đối theo thể thơ lục bát[sửa]

  • Một lần, đại thi hào Nguyễn Du đi trẩy hội vô ý bị trượt chân ngã ngửa xuống đất. Các cô gái quanh đó nhìn thấy thế cười hô hố tỏ vẻ chế nhạo.
Ông liền ứng khẩu đọc một câu:Đất đâu có đất lạ lùng, bấm chân chẳng chịu nằm cùng thì cho (Bấm: đi đường trơn, mình phải cố bấm hai ngón chân cái cố bám vào đất. Ý Nguyễn Du nói mấy cô cũng vậy, khác gì đất này đâu)
vế đối: Trời nào mà trời xa xôi, bắc thang không tới mộng thời lại lên (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • Thời kỳ kháng chiến chống Pháp, có đồng chí bộ đội người thôn Cổ Phục xã Kim lương huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương tên Phạm Khoa Học (1930 - 1999) một lần đi công tác lên mạn ngược, trên đường gặp một cô gái người dân tộc Lô Lô. Mặt cô bịt kín nhưng bàn tay trắng trẻo đang đứng rửa mặt dưới suối, đồng chí này đến gần tán tỉnh rồi cũng giả vờ trượt chân va vào cô rồi cầm vào cổ tay để kéo cô khỏi ngã.
Bất chợt cô gái đọc: Người đâu vô ý vô tâm, chửa trông thấy mặt đã cầm cổ tay. Truyện Kiều có bốn câu hay, chàng mà nói được thiếp theo ngay về nhà

Đồng chí bộ đội của chúng ta vắt óc nghĩ nhưng không ra 4 câu gì gọi là hay, vì Truyện Kiều có mấy ngàn câu mà câu nào chẳng có ý nghĩa, sau cùng đành buông xuôi đánh trống lảng rồi chuồn thẳng.

vế đối: Người đâu gặp gỡ làm chi, ngày xuân lắm lúc đi về với xuân, ngỏ lời nói với băng nhân, kiếp này ai lại còn cầm gặp đây (Trích Truyện Kiều - Nguyễn Du) (Câu đầu là câu thứ 181, kề tiếp đoạn Kiều gặp Kim. Câu thứ hai là câu 1294, đoạn Kiều gặp Thúc Sinh. Câu thứ ba là câu 2207, đoạn Kiều gặp Từ Hải. Câu cuối là câu 3022, đoạn Kiều gặp lại Kim Trọng sau 15 năm đoạn trường xa cách. Câu đầu lấy 2 chữ "Người đâu" trong câu 1 của vế ra; ý nói cô gái đã có tình cảm khi gặp anh bộ đội. Câu 2 ý nói cô vẫn chưa có người yêu. Câu 3 ý nói anh bộ đội nếu yêu cô hãy nhờ người làm mai đến nhà thưa chuyện với ba mẹ của cô chứ đừng cầm tay cô giữa suối mà thiên hạ cười chê. Câu cuối ý nói cô luôn một lòng chung thủy và chờ đợi anh về sau ngày chiến thắng. Câu cuối lấy gợi ý từ "cầm cổ tay" của câu 2 vế ra. Chọn 4 câu trên vì liên quan đến 3 người đàn ông hết lòng yêu Thúy Kiều, nhằm nói hộ tấm lòng cô gái mong anh yêu cô với một tình yêu chân tình, cao quý và bền vững trước mọi thử thách của cuộc đời) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • Sau chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử, Thi Sĩ Bút Tre đã làm câu thơ ca ngợi công đức của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp như sau:
vế ra: Hoan hô đại tướng Võ Nguyên, Giáp ta đánh trận Điện Biên lẫy lừng (vế ra tuy không có gì đặc biệt nhưng khó ở chỗ tên của đại tướng được tách ra thành chữ đầu của vế sau)
vế đối: Vinh quang Thái úy Lý Thường, Kiệt thơ thần vọng Đền Trương huy hoàng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà cuả Ông được đọc vang trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát (thuộc địa phận sông Như Nguyệt, khúc sông Cầu, huyện Yên Phong, lộ Bắc Ninh, nay là huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh). Bài thơ như một bản tuyên ngôn độc lập hùng tráng đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta)
  • Ngày 13 tháng 02 năm 2014, nhà văn NGUYỄN QUANG SÁNG từ trần, có người là Thanh Tâm cảm động sáng tác ra vế đối sau:
vế ra: Cha cho con CHIẾC LƯỢC NGÀ…, bao MÙA GIÓ CHƯỚNG nghĩ mà yêu thương. Giàn BÔNG CẨM THẠCH đẫm sương…, NGƯỜI QUÊ HƯƠNG tận biên cương…nhớ hoài! (BÔNG CẨM THẠCH, MÙA GIÓ CHƯỚNG, NGƯỜI QUÊ HƯƠNG, CHIẾC LƯỢC NGÀ đều là tên 4 tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng)
vế đối: Đời ban ta CON CHIM VÀNG, một THỜI THƠ ẤU nhớ tràn ước mong. Tiếng DÒNG SÔNG HÁT cạn lòng, MÙA NƯỚC NỔI quặn ruột đồng sầu dâng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (CON CHIM VÀNG là tên 1 tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Quang Sáng; MÙA NƯỚC NỔI, DÒNG SÔNG HÁT, THỜI THƠ ẤU là tên 3 kịch bản phim của Ông)
  • vế ra: Cô Công nói với cậu Rùa, Rồng ở dưới đất còn Cua trên trời. Ốc gào Nhện hỡi Nhện ơi, Ếch bơi phố núi Nhộng chơi ao làng. Gió chiều nhẹ thổi mênh mang, tao nhân mặc khách lang thang bên đường (khuyết danh) (Con Cua con Rồng nói lái là Con Công con Rùa, con Ốc con Nhện nói lái là con Ếch con Nhộng)
vế đối: Chị Cáo thưa cùng anh Bò, Báo đi xuống biển riêng Cò về non, Trăn rên Rái ỉ Rái on, Rắn leo sao hỏa, Trai lòn đường quan, mưa mai nặng đổ lan man, mày râu bồ liễu ngổn ngang trong lòng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Con Cáo con Bò nói lái là con Cò con Báo, con Trăn con Rái nói lái là con Trai con Rắn)
  • vế ra: Nếu mà chỉ biết yêu ta, ai ai cũng vậy ai mà yêu ai (khuyết danh)
vế đối: Dù gì xin hãy thương đời, người người như một người ơi thương người (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Mời cô mời bác ăn cùng, Sầu Riêng mà hóa Vui Chung một nhà (Phạm Hổ)
vế đối: Thưa anh thưa chị tình là, Mơ Tây nhưng lại Yêu Ta suốt đời (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Thầy Tu mà cũng Thù Tây, Thằng Tây cũng chẳng thích Thầy Tăng đâu (Phường Vải - Nghệ An)
vế đối: Tham Nương còn biết Thương Nam, Tông Nam càng phải trọng Tam Nông nhà (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Hay Nôm gặp bạn Hôm Nay, Thấy Chàng có một Tháng Chầy không đi (Phường Vải - Nghệ An)
vế đối: Ngừa Say tình tận Ngày Xưa, Đưa Trời vào mộng Đời Trưa trật về (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối khác: Đi rông gặp hội Đông Ri, Thì Đường bông vải Thường Đi lối này (khuyết danh)
  • vế ra: Cha Chài mẹ Lưới con Câu, chàng rể đóng Đáy con dâu ngồi Nò (Phường Vải - Nghệ An)
vế đối: Ông Thắt bà Bủa chị Thêu, em gái xếp Lợp người yêu ra Chằm (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nghề làm nón ngựa ở Phú Gia - Cát Tường - Phù Cát - Bình Định)
  • vế ra: Giường Đông thiếp Bắc sẵn sàng, buồng Tây mở khóa đợi chàng Nam nhi (Phường Vải - Nghệ An)
vế đối: Rừng Thu lá Hạ võ vàng, đêm Đông thắp nến ngóng nàng Xuân xanh (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • Ca dao có câu: "Tay cầm bầu rượu nắm nem, mảng vui quên hết lời em dặn dò". Câu này về đến Phường Vải, nó phải biến dạng đi một chút, thành 1 câu đối hóc búa:
vế ra: Tay cầm bầu Rượu nắm Nem, mảng Lòng Chả nhớ lời em dặn Dò (Phường Vải - Nghệ An)
Phường Vải đã gò thêm hai món đồ nhắm “lòng, chả” vào câu ví cho đủ bộ với “bầu rượu, nắm nem” và “giò”. Lối chơi tiếng này làm lợi thêm hai món ăn ngon lành, chắc các tửu đồ phải vui lòng lắm lắm.
vế đối: Mắt trông ngọn Bút trang Thơ, sáng Đèn Lọ tiếc quân cờ ngả Nghiêng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nghiêng đọc như Nghiên, Lọ = Lọ mực, cũng có nghĩa là chẳng, không như từ Chả)
  • vế ra: Đã Cam quấn Quýt má Đào, Cậy ai tin Nhãn mái trao lầu Hồng (Phường Vải - Nghệ An)(vế ra có các thứ quả: Cam, Quýt, Đào, Cậy, Nhãn, Hồng)
vế đối: Chẳng Đồng bội Bạc lòng Vàng, Đá phường mặt Sắt thỏa gan lính Chì (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Sắt son đanh Đá vững Vàng, đã không phụ Bạc lại càng Đồng tâm (Phường Vải - Nghệ An)
vế đối: Kéo cưa đẽo Đục chững Chàng, vẫn chẳng bổ Búa mà ràng Keo sơn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nghề Mộc)
  • vế ra: Đêm khuya gió dục mây đi, phong phanh nhớ dạng vân vi nhớ lời (Phường Vải - Nghệ An)(câu này hay nhất là hai tiếng phong phanh và vân vi. Hai âm của chữ Hán phong vân với cái nghĩa mây, gió)
vế đối: Chiều tà trời ủ rừng sầm, thiên thanh thương áo lâm thâm thương người (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Dần dà một Tý can chi, Quý ra khỏi Ngọ Vị chi đến nhà (Phường Vải - Nghệ An)(chỉ một câu giản dị, bình thường như thế, ta thử lượm xem: dần, tý, ngọ, vị và quý đó là những tiếng thuộc về bộ can – chi. Chữ Ngọ có nghĩa là ngõ, theo giọng phát âm nặng tiếng của người Nghệ An - Hà Tĩnh)
vế đối: Mộc mạc đôi Ly quái hành, Khôn vào tâm Khảm Cấn trành sang thân (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Quái hành: Bát Quái (Càn Khảm Cấn Chấn Tốn Ly Khôn Đoài) và Ngũ Hành (Kim Thủy Mộc Hỏa Thổ)
  • vế ra: Ra về thiếp dặn thiệt nha, mai răng cũng lại đàng nhà thiếp chơi (Phường Vải - Nghệ An)(ở đây có bốn tiếng thiệt nha và răng lại (chữ Hán: thiệt là lưỡi, nha là răng)
vế đối: Đi xa chàng hứa thiên tinh, mốt sao vẫn đến quê mình chàng thăm (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ở miền Nam Trung bộ, cụm từ "Thiên tinh quỷ tế" có nghĩa là nói cuội, nói dối)
  • vế ra: Quanh năm gió thổi bốn bề, thu đông tây bắc xuân hè đông nam (Phường Vải - Nghệ An)(ở đây bao gồm 4 hướng “đông tây nam bắc” và cả 4 mùa “xuân hạ thu đông”, ở Nghệ Tĩnh mùa thu đông có gió tây bắc còn mùa xuân hè thì có gió đông nam)
vế đối: Cửa nhà hướng chỉ tám vì, càn khảm cấn chấn tốn ly khôn đoài (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Ước gì anh hóa thành bèo, em hóa thành nước anh trèo lên em (khuyết danh)
vế đối: Mong sao em biến ra ghe, anh biến ra biển em đè trên anh (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối khác 1: Muốn rằng em biến thành lò, anh biến thành củi anh thò vào em (khuyết danh)
  • vế đối khác 2: Vậy thì em hoá thành cau, anh sẽ là bẹ ôm nhau suốt ngày! (khuyết danh)
vế đối khác 3: Đã thế anh biến ra trâu, em là con đỉa em bâu vào đùi! (khuyết danh)
  • vế ra: Ấm thân Hồ hởi Chai lơ, Bàn hoàn Chung Chén nhắm chờ ai đây? (Phường Vải - Nghệ An)(nghĩa chính của câu này là: Thân phận của con người đã đầy đủ, hả hê, say say, tỉnh tỉnh rồi, bây giờ còn rắp ranh nhòm ngó ai đây? Nhưng chỗ dụng công ở đây lại là ấm, hồ, chai, bàn, chung, chén và còn thêm cả nhắm thì thật là đầy đủ về tửu soạn lẫn tửu hứng)
vế đối: Sung tiền Thơm thảo Cầu tài, Xài xiếc Dừa Đủ ơn ngài thần linh (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Mâm ngũ quả cúng bàn thờ gia tiên trong dịp Tết: Cầu (mãng cầu) Thơm Dừa Đủ (đu đủ) Xài (xoài), ngoài ra còn thêm chùm Sung để cầu sung túc)
  • vế ra: Muốn cho nhật nguyệt đồng minh, ngày Nghiêu tháng Thuấn thái bình âu ca (Phường Vải - Nghệ An)(câu này ý muốn mặt trăng, mặt trời được tỏ rạng như nhau và ngày tháng nào cũng được thái bình, vui vẻ như đơi Nghiêu, Thuấn. Nhưng dụng công của câu này rắc rối ở chỗ chiết tự: chữ nhật ghép với chữ nguyệt thành chữ minh, lại còn có nghĩa chữ nhật là ngày, nguyệt là tháng)
vế đối: Mong sao ngôn tự hòa thi, lời Nôm chữ Việt quang huy giao tình (Phường Vải - Nghệ An)(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)(Chữ ngôn ghép với chữ tự thành chữ thi, chữ ngôn là lời, tự là chữ)
  • vế ra: Muốn cho một tháng đôi trăng, muốn cho lưỡng nguyệt tác bằng cho vui (Theo luật tuần hoàn thì mỗi tháng chỉ có một tuần trăng. Nhưng ở đây lại muốn có một tháng có hai tuần trăng và còn muốn hai tuần trăng ấy hòa hợp nhau cho thêm vui vẻ. Vấn đề ở chỗ nguyệt là tháng, nguyệt là trăng lại lưỡng nguyệt là đôi trăng và hai chữ nguyệt ghép lại là thành chữ bằng)
vế đối: Không mong mỗi ngày hai dương, cho dù song nhật kiến xương vẫn buồn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Dương dùng ở đây với ý là mặt trời ̣(Thái Dương), song nhật là hai mặt trời, hai chữ nhật ghép thành chữ xương là sự thịnh vượng)
  • vế ra: Muốn cho tử tế nhất môn, nhị văn khẩu vấn rể con một nhà (Phường Vải - Nghệ An)(Ý của câu này muốn nói: nếu muốn được tốt lành trong gia đạo, khi ước định lương duyên với nhau phải tai nghe miệng hỏi phân minh, về sau rể con mới có thể chung chạ với nhau một nhà được. Nhưng cái điểm trọng yếu của vế ra lại ở chỗ: chỉ một chữ môn mà thêm chữ nhị vào sẽ thành chữ văn. Mà nếu thêm chữ khẩu sẽ thành chữ vấn. Lại còn “tử tế nhất môn” cũng có nghĩa là “rể con một nhà”)
vế đối: Mong sao tôn ti đồng tâm, sĩ chí đao nhẫn hèn sang chung lòng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Tôn là sang, quý; ti là hèn, tiện. Tôn ti đối với tử tế. Chữ Tâm nếu thêm chữ sĩ thành chữ chí, nễu thêm chữ đao thành chữ nhẫn. Tôn ti đồng tâm nghĩa là người giàu sang cho chí người nghèo hèn đều chung một lòng)
  • vế ra: Cửa song dựa ỷ viết thư, thân mình liệu tính đợi chờ ai thương (Phường Vải - Nghệ An)(Nửa trên thấy rõ ràng nghĩa rồi tiếp đến chữ (song, ỷ, thư). Nửa dưới thì chữ rồi tiếp đến nghĩa (thân, liễu, đợi, ai)
vế đối:Quê hương gặp hội thơ thi, tâm tim hoài nhớ biệt ly sầu buồn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • Địa danh “Xuân Liễu” ở huyện Nam Đàn, Nghệ An được tách ra tạo ra cách hiểu như hai nhân vật trữ tình có tên là “Xuân” và “Liễu” trong câu sau:
vế ra:Anh Sơn phủ bạc thếp hoè, gió Nam Đàn thổi Liễu về với Xuân (Phường Vải - Nghệ An)(Anh Sơn là tên 1 huyện nằm ở phía Tây tỉnh Nghệ An, ở đây cũng có nghĩa khác là tên riêng của một người)
vế đối: Ma Lâm nhân giống giúp đời, mưa Bắc Bình gọi Giang vời sang Đông (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ma Lâm là thị trấn huyện lỵ của huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận. Trại giống lúa Ma Lâm là nơi tạo ra các giống lúa năng suất khá được nhân rộng trong sản xuất nông nghiệp như Ma Lâm 48, Ma Lâm 202...Bắc Bình là huyện thuộc Bình Thuận. Đông Giang là xã thuộc huyện Hàm Thuận Bắc, tỉnh Bình Thuận)
  • Vế ra: Trắng trong giữ giá nhà vàng, Răng đen má đỏ đợi chàng đầu xanh (khuyết danh)(Trắng, Vàng, Đen, Đỏ, Xanh)
Vế đối: Lam nham gìn giới áo nâu, lòng cam gan tím chạnh câu má hồng (Lam, nâu, cam, tím, hồng) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • Vế ra: Bà già mặc áo bông chanh, Ngồi trong đám hẹ nói hành nàng dâu. (khuyết danh)(Chanh, Hẹ, Hành, Dâu)
Vế đối: Ông lão nhặt vỏ ống bơ, nằm ngoài gốc mận ngủ mơ ả đào (Bơ, mận, mơ, đào) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • Vế ra: Giả đò neo chiếc thuyền tình, Bạn bè mối lái tơ mành gấp ghe (khuyết danh)(Đò, Neo, Thuyền, Bè, Lái, Mành, Ghe)
Vế đối:Khôn lanh nhiễu chuyện gấm hoa, phòng the thỏa dạ lơ là nhớ nhung (Lanh, Nhiễu, Gấm, The, Dạ, Là, Nhung) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • Vế ra: Mừng chàng khí khái anh hùng, Tiếng tăm hùm hổ vẫy vùng nước non. (khuyết danh)("khái","hùm", "hổ" (tách ra từ các tổ hợp) để chỉ: "chúa sơn lâm . Mục đích của việc tạo cùng nghĩa ở đây là hình tượng hóa các tính chất được nêu, khiến lời Mừng chàng vừa sinh động vừa chân thật, chứ ko phải khen ngợi lấy có.)
Vế đối: Quý nàng danh giá trung trinh, tấm lòng băng tuyết lung linh biển trời (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (giá, băng, tuyết để chỉ ba trạng thái của nước khi đông lạnh; nêu lên phẩm giá cao quý của người phụ nữ son sắt thủy chung)
  • Vế ra: Trăng bao nhiêu tuổi trăng già, Núi bao nhiêu tuổi gọi là núi non? (khuyết danh)
Vế đối: Dòng bao nhiêu nước dòng pha, Giống bao nhiêu nước mà ra giống nòi! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nòi ở đây ngoài ý nghĩa là danh từ chung là nòi giống còn có nghĩa tính từ chỉ chất lượng tốt, có nhiều đặc tính di truyền ưu việt, chẳng hạn: con nhà nòi)
  • vế ra: Nhớ anh nhất nhật một ngày, Đêm tơ tưởng dạ lòng rày nhớ trông (khuyết danh)
vế đối: Chờ em tam nguyệt ba trăng, Trưa lang thang Ngọ ngựa oằn chờ mong (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ngọ: buổi trưa, ngoài ra còn chỉ cửa Ngọ môn hoặc hướng Nam. Ý nói: Chàng trai đợi cô gái đã 3 tháng, chàng mãi cỡi ngựa lang thang ở cửa Ngọ môn (hoặc phương Nam) đến nỗi con ngựa oằn lưng vì chở chàng cũng như "chở nỗi đợi chờ ngày càng tăng theo nỗi nhớ của chàng". Nỗi nhớ tuy vô hình nhưng lại có thật. Ở đây, ngựa chở nỗi nhớ cũng như thuyền chở tiếng chuông trong bài "Phong Kiều dạ bạc", một danh tác tứ tuyệt của Trương Kế thời Đường:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên,
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Bản dịch của thi hào Tản Đà:

Trăng tà, chiếc quạ kêu sương
Lửa chài, cây bến, sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
  • vế ra: Chờ em nữa tháng ni rồi, Ôm đàn bán nguyệt dựa ngồi cung trăng (khuyết danh)
vế đối:Xa nhà bốn mùa rồi răng? Nhìn mai tứ quý ngỡ rằng út em (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Mai là một loài hoa quý (người Trung Quốc xem là Quốc hoa). Hoa mai chịu được gió tuyết mùa đông nên thể hiện sức sống tự cường mãnh liệt, luôn trau giồi tài đức trước nghịch cảnh cuộc đời. Trong bộ tứ quý «tứ quân tử» Tùng Trúc Cúc Mai, người xưa gọi Tùng, Trúc và Mai là ba người bạn mùa lạnh (Tuế Hàn Tam Hữu). Tranh phong thủy Hoa mai là biểu tượng của sự cao thượng, vinh hiển cao sang. Nhà thơ Cao Bá Quát, một vị Thánh Thi (Văn như Siêu Quát vô tiền Hán, Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường - thơ Vua Tự Đức) tài hoa ngang tàng khí phách, vậy mà yêu thích hoa mai đến mức phải viết rằng: "Thập tải luân giao cầu cổ kiếm, Nhất sinh đê thủ bái mai hoa" Dịch là: Mười năm lặn lội tìm kiếm cổ. Một đời chỉ biết lạy hoa mai)
  • vế ra: Con gà cồ mổ bông kê, Ngựa ăn cồn mả rồng về Hạ Long. Dương đi dê lại có vòng, Cá lên khỏi nước cá hòng ngất ngư (khuyết danh)
vế đối:Chú khỉ đực trêu chị hầu, Phượng mổ đậu phụng mèo chầu Bồng Miêu. Hổ sang cọp vẫn không chiêu, ngỗng ra gặp bạn ngỗng dìu ngân nga (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Phượng: Phượng hoàng trong Tứ Linh "Long Lân Quy Phụng", con trống là phượng, con mái là hoàng, Đậu phụng = Đậu phộng = Lạc)
  • vế ra: Sao rua gọi suốt ngày đêm, lòng anh mến mãi dạ em mê hoài (khuyết danh)(ở đây có bốn chữ tiếng Pháp: rua (jour): ngày; em mê (aimer): mến)
vế đối: Ban mai soi rõ sức thành, tình em khảm chặt tim anh lay nhiều (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Tiếng Anh: mai (might): lực, sức; anh lay (inlay): khảm, dát, cẩn) (vế đối ý nói: Tin chắc vào khả năng ứng chiến của thành lũy, quyết tâm chiến đấu bảo vệ tình yêu)

Các vế đối đa dạng thông thường[sửa]

Ông Phạm Cường ở Biểu Chánh, Phước Hưng, Tuy Phước, Bình Định có kể lại một vế đối từ thời xưa (có thuyết cho rằng vế ra này của Ông Nghè Đào Thiên, một vị Tiến sĩ rất giỏi câu đối và cũng là người cùng làng Biểu Chánh) như sau:

  • vế ra: Mang vịt cuốc trùn lừa cá ngựa (Mang còn có nghĩa là con mang trên rừng, vịt còn có nghĩa là cái vịt đan bằng tre có hình giống con vịt dùng để đựng cua, ốc, cá; cuốc còn có nghĩa là con cuốc, lừa còn có nghĩa là con lừa).
vế đối 1: Bê ve trút két sẻ tôm hùm (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối 2: Gà nai câu mối chích chim sâu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối khác 1: Dúi chim mồi nhái câu rắn hổ (Thiền Long) (theo từ điển: mồi là Đồi Mồi, câu là Bồ Câu. Dúi là động vật gặm nhấm. Người Miền Nam mồi nhái, ếch câu rắn hổ trong hang rất phổ biến)
Vế đối khác 2: GIẢI CÒNG CẮT ỐC VẠC CHIM HEO (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Giải vừa là con rùa nước ngọt vừa là động từ giải đem đi, Còng vừa là con còng vừa là cái còng bằng kim khí

Cắt vừa là con cắt vừa là động từ cắt. Vạc là con vạc vừa là động từ vạc, phát, phang. Nghĩa vế đối là đem cái còng cắt ốc vít làm dụng cụ để đuổi phang chim heo đi vì chim heo là điềm không may mắn)

  • vế ra: Nhường luôn hết cả nhà xe, nhè luôn hết cả xương, nhường luôn miếng đất, nhất luôn cả miếng đường, nhường tới tận rau, nhàu luôn tới tận rương, nhường tới cái túi, nhúi tới cái tường (khuyết danh)
vế đối: Cho thêm một chút tấm lòng, chong thêm một chút lò; cho thêm chuyện nghĩa, chia thêm chuyện ngõ; cho một ít nghề, chê một ít ngò; cho tình lẽ lý, chí tình lẽ lo (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Trầu Không có, Dò Chả có, Ếch Cóc có, ba thứ này có mà đếch có (Vũ Quang Long)
vế đối: Giàu Có không, Bút Lọ không, Cung Nỏ không; trăm điều lo không lại chẳng không (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Kinh tế, Giáo dục, Quốc phòng)
  • vế ra: ông Năm nghiền thuốc lá Năm Năm Năm, từ năm năm năm tuổi cho đến khi tạ thế (vế ra có nghĩa là ông Năm nghiện thuốc 3 số 5 từ tuổi 55 cho đến lúc chết, suy ra ông này thọ 110 tuổi, chữ Năm Năm Năm trước còn có nghĩa là năm mươi nhăm năm tính từ thời gian ông Năm bắt đầu nghiện thuốc 3 số 5 đến khi ông từ bõ cõi trần) (Trần Việt Hà)
vế đối: Bà Chín mê vàng cây Chín Chín Chín, được chín chín chín lạng mà vẫn chưa thỏa lòng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Vàng 999 là vàng 24K, 99,9)
  • vế ra: Ba bà mặc áo Bà Ba, đến nhà bà bà Ba, xem ba bà Ba bắt ba ba con Ba Ba (Trần Việt Hà)
vế đối: Bốn bố cá đề bố Bốn, sang quầy bố bố Bốn, bảo bồ bố Bốn ghi bốn bốn ngàn Bốn Bốn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Anh Lao, lao theo ngọn lao, trên đồi phi lao, gió thổi lao xao

Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối 5 câu:

câu 1: Chị Kèn, kèn cựa cái kèn, cạnh hoa loa kèn, răng nghiến kèn kẹt
câu 2: Chú Lục, lục tìm rắn lục, dưới đàn thập lục, gậy gõ lục tục
câu 3: Cô Rào, rào lại hàng rào, giữa trận mưa rào, mồm la rào rạo
câu 4: Bác Rối, rối như con rối, trước đoàn múa rối, miệng gọi rối rít
câu 5:Chị Lắc, lắc như quả lắc, sau Siu Bờ Lắc, nhạc vang lắc cắc
  • vế ra: Một nghề học sao cho chín, còn hơn chín nghề mà chẳng ra sao (Trần Việt Hà)
vế đối: Vạn quân mưu kém thua không, lại bại không quân nhưng có diệu kế (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nói về kế Không Thành của Khổng Minh dùng khi đánh với Tư Mã Ý ở thành Dương Bình thời Tam Quốc)
  • vế ra: Tự luận đầu năm ra trắc nghiệm, trắc nghiệm cuối kỳ thấy tự luận (Linh Thảo - Đà Nẵng)
vế đối:Kiểm tra giữa tháng hỏi lý thuyết, lý thuyết mãn khóa viết kiểm tra (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Con quê ở đất nhà quê, quê của quê người quê cả thói
vế đối: Kẻ thị ăn vàng xứ thị, thị điều thị nhiễu thị luôn gương (Lấy ý ca dao: Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Chùa Một Cột ở số một đường Chùa Một Cột (khuyết danh)
vế đối: Nhạc Không Lời được tặng không quán Nhạc Không Lời (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nhạc Không Lời là tên riêng album nhạc không lời)
  • vế ra: Nghi nhân mạc dụng, dụng nhân mạc nghi (Nghi người thì chớ dùng, dùng người thì chớ nghi)
vế đối: Si tình tất lụy, lụy tình tất si (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Sầu Riêng ai khéo đặt tên, ai Sầu không biết Riêng em không Sầu (khuyết danh)
vế đối: Mơ Tây bậu nỡ ghẹo tình, bậu Mơ chẳng tỏ Tây mình chẳng Mơ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Riêng Tây có nghĩa là Riêng Tư như trong câu " Đồ tế nhuyễn của riêng tây, sạch sành sanh vét cho đầy túi tham" (Truyện Kiều)
  • vế ra: Con cào cào đứng cào cào trên cái cào (khuyết danh)
vế đối:Cái le le nằm le le dưới bụi le (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Tiếng Việt thuần việt ưu việt. Người Việt cố gắng việc phát triển tiếng Việt Nam
vế đối: Người nam hát nam giọng Nam. Tiếng Nam vươn lên làm tiến bộ người Nam Việt. (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: "Nhân Vô Luật Bất Thành Nhân, Luật Bất Nhân Vô Thành Luật" (Nhất Vương)
vế đối: "Đạo hữu Hành khả đạt Đạo, Hành khả Đạo hữu đạt Hành" (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Con gái bên Đông, lấy chồng bên Tây, cứ ở lòng ngay, chớ hề Nam Bắc (khuyết danh)
vế đối: Tình trai tiết Hạ, buồn vợ tiết Đông, vẫn gắng tâm đồng, chẳng chút Xuân Thu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Xuân Thu là tên gọi một giai đoạn lịch sử từ 722 đến 481 TCN trong lịch sử Trung Quốc. Tên của nó bắt nguồn từ cuốn Kinh Xuân Thu (Biên niên sử Xuân Thu), một cuốn sử mà theo truyền thống thường được coi là của Khổng Tử. Ở giai đoạn Xuân Thu, xảy ra rất nhiều trận chiến giữa các nước)
vế đối khác: Chàng trai thôn Trước, yêu nàng thôn Sau, dám ăn trước kẻng chẳng nề Phải Trái (khuyết danh)
  • vế ra: Đàn ông phận Cấn, cưới vợ phận Tốn, không nên cãi lộn, trái đạo Càn Khôn (khuyết danh)
vế đối: Đàn bà mệnh Âm, lấy chồng mệnh Dương, chẳng được gạt lường, lỗi đường Nhật Nguyệt (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Cóc Me Xoài Ổi, cóc có tiền mua, Ô Mai ai mua, xin tiền me mà trả (Cóc, Me, Xoài, Ổi và Ô Mai là tên 5 thứ quả. Chữ Cóc thứ 2 có nghĩa là không, chữ Me thứ 2 có nghĩa là Mẹ, Ô Mai nói lái là Ai Mua)
vế đối: Nỏ Qua Thương Kích, nỏ chút quân địch, Bạch Đả bã địch, lấy quân qua ra bịch (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nỏ, Qua, Thương, Kích và Bạch Đả (Tay Không tức Quyền Thuật) là 5 trong 18 ban võ nghệ. Chữ Nỏ thứ 2 có nghĩa là không, chữ Qua thứ 2 có nghĩa là Anh, Bạch Đả nói lái là Bã Địch. Nỏ chút quân địch là không có quân, không có 4 môn Nỏ, Qua, Thương, Kích để đối địch. Chữ bịch có nghĩa là đánh nhau)
  • vế ra: Tên tôi là Lễ, con nhà Thi Thư, gặp đời Xuân Thu thì phải Dịch (khuyết danh)
vế đối 1: Ông ta lâm Bệnh, học đạo Lão Tử, đến ngày Ly Biệt chào tiên Sinh (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Theo đạo Phật, ngũ khổ đời người là: Sinh, Lão, Bệnh, Ly Biệt và Tử)
vế đối 2: Danh nó là Mũi, làm nghề Tai Mắt, nể tình Tay Chân, chớ miệng Lưỡi (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ngũ quan: Năm bộ phận con người: mắt chủ về nhìn (thị giác), tai chủ về nghe (thính giác), mũi chủ về ngửi (khứu giác), lưỡi chủ về nếm (vị giác) và tay chân chủ về sờ mó (xúc giác).
  • vế ra: Hai vợ chồng anh Ba, con đầu cụ Bốn, Năm nay cấy Sáu sào Bẩy lúa Tám, Chín giữa tháng Mười (khuyết danh)
vế đối: Thu thẻ hội chị Tri, cháu út bác Pho, Phai mã tên Suýt Sợ Quên cô Ấy Nài người Bà Thẻn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Tiếng Anh: Thu=Two, Tri=Three, Pho=Four, Phai=Five đọc như File, Suýt=Six, Sợ quên=Seven, Ấy= Eight, Nài=nine, Then=ten, Bà Thẻn=Pà Thẻn, 1 trong 54 dân tộc Việt Nam. Nài ở đây có nghĩa là nài nỉ. Ý nói: Thu thẻ hội viên chị Tri vì hoạt động công ty chị không đạt yêu cầu, chị ấy nài nỉ ưu tiên chị là người dân tộc ít người)
  • vế ra: Hẹ cậu Nghệ khóc Gừng, rức lác láng Diềng ỏn Tỏi (khuyết danh)
vế đối:Quận ông Xã cười Tỉnh, xĩn mời hàng Xóm la Làng(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Quận: ngoài nghĩa đơn vị hành chính, còn có nghĩa "đến lượt" mời những người khác trong bàn rượu, chiếu rượu)
  • Vế ra: Ngựa kim ăn cỏ chỉ, chó vá cắn thợ may (Khuyết danh)
vế đối: Ốc sên nuốt cá tăm, kỳ nhông nhai xúc xích (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Cá tăm (còn gọi là cá tăm xỉa răng) được xem là loài cá nước ngọt đáng sợ nhất. Chúng ký sinh trong mang của những con cá lớn hơn tại vùng Amazon)
  • vế ra: Chim đại bàng bay ngang qua chợ Đệm, thức ông Lưu Bị bàn luận chiêm bao (Chợ Đệm: chợ ở huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh, xưa chuyên bán đệm. Câu này chủ về việc "chơi chữ": bàng, đệm, bị, bao. Có ý nhắc đến nghề đươn đệm bằng cỏ bàng ở vùng Đồng Tháp Mười)
vế đối:Bầy Ô Thước lượn tròn quanh tháp Bút, nhớ chàng Thi Sách học hành chuẩn mực (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ô thước = quạ, tháp Bút ở Hà nội, Thi Sách là chồng Trưng Nữ Vương)
  • vế ra: Học trò đi học khéo bầy trò, viết chữ lên quạt mo có mò đến tối! (khuyết danh)
vế đối:Lái đò vòi giá khá giả đò, ném sào xuống lều cỏ rồi cò tận trưa!(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (cò: cò kè)
  • vế ra: Trời mưa trời gió, vác đó đi đơm, trở về ăn cơm, trở ra mất đó. Kể từ ngày thương đó đó ơi, đó chưa thưa được một lời đây nghe (khuyết danh)
vế đối: Đất khô đất ải, ngậm ngãi tìm trầm, đi ra sụp hầm, đi về lụn ngãi. Tính trọn năm mê ngãi ngãi hời,ngãi nào chỉ giúp mỗi người này mong! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Mèo mướp lang thang tìm mùi Mẽo, gặp toàn thứ Meo mốc, về Méo mặt, đành Mẹo vặt một Mẻo... (khuyết danh)
vế đối: Gà ô buồn bã kiếm tí Ga, đụng mãi loại Gá gàn, lại Gạ mối, thôi Gả đại mấy Gã... (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • Vế ra: "Đơn giản như đang giỡn" (khuyết danh)
Vế đối: Đại giả sao đã dại (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (1. Bậc lớn sao đã dại? 2. Đại đối với đơn, giả tạo đối với giản lược. Giả dối lớn thế ngỡ không ai biết cứ tiếp tục làm càn thì quả là đã dại rồi!)
  • vế ra: Đừng cố quá mà sớm quá cố (khuyết danh)
vế đối: Muốn thọ trường hãy tập trường thọ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Tình như giấc mộng tan, tàn như giấc mộng tinh (khuyết danh)
vế đối: Đời tựa đám mây bay, đày tựa đám mây bơi (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Thưa cô rằng, răng cô thừa (khuyết danh)
vế đối:Níu thầy thi, ni thầy thiếu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Níu = Nếu)
  • vế ra: Đấu tranh tức là đánh trâu, nhưng đánh trâu rủi bị trâu đánh thì biết tránh đâu (khuyết danh)
vế đối: Quyết tâm chớ ngại vấp tiên, nếu vấp tiên lo xử tiên vấp để hậu tâm quyết (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Yêu nhiều thì ốm, ôm nhiều thì yếu (khuyết danh)
vế đối:Oánh lắm hết mập, ấp lắm hết mạnh (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Cây sầu đông, trồng đồng sâu, chuyển lên đầu sông, mùa đông sầu tránh lụt (Tia La-de)
vế đối: Củ bán hạ, sống bá hạn, đổi thăng hạng bá, tiết hạ bán phòng mưa (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Bán Hạ là cây thuốc, loại thân củ. Thu hoạch vào mùa hè, chọn củ đào về rửa sạch đất cắt bỏ vỏ ngoài (màu vàng tro) và rễ tơ phơi khô. Bán hạ là một vị thuốc dùng theo kinh nghiệm dân gian để chữa phụ nữ có thai bị nôn mửa hoặc chữa nôn trong trường hợp viêm dạ dày mãn tính. Nó còn lạ một vị thuốc chữa ho (làm cho long đờm), chữa nhức đầu, đau dạ dày mãn tính. Nay mai, một hướng phát triển kinh tế cho cây Bán hạ vì nước ta sản xuất chưa nhiều, có năm còn phải nhập từ Trung Quốc)
  • vế ra: Con Cá Đâu anh ngồi Câu Đó, biết Có Không mà Công Khó anh ơi
vế đối: Chim Ó Đây tui chờ O Đấy, mặc Mất Còn chẳng Mòn Cất công tui (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Bứt Cỏ Ngựa ngồi đầu Cửa Ngọ, bắn Con Nai ngồi gốc Cây Non (nói lái theo giọng Nghệ Tĩnh, Cửa Ngõ phát âm nặng tiếng thành Cửa Ngọ thành từ nói lái của Cỏ Ngựa, Con Nai phát âm nặng tiếng thành Con Nây trở thành từ nói lái của Cây Non)
vế đối: Nhắn Vợ Mèo sang cuối Giờ Mẹo, lót Cái Dạ chờ đàn Cá Dại (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Tiếng Nam Trung Bộ và miền Nam: Vợ = Dợ, Vợ Mèo = Dợ Mèo nói lái thành Dờ Mẹo = Giờ Mẹo)
  • vế ra: Má Cúc Múc Cá đem đi bán, Má Cắt ống quần cao hơn Mắt Cá (khuyết danh)
vế đối: Tổ May Mổ Tay đưa lên mạng, Tổ Cay lai áo thấp xa Cổ Tay (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Thằng em bà chỉ thèm ăn bì chả (khuyết danh)
vế đối: Cậu nhí ông mo ký nhậu o mông (Trường văn Nguyễn Phước Thắng) (mo ở đây có nghĩa là số không, không được gì; thua trắng tay. Ký ở đây có nghĩa là ghi nợ. Ý vế đối: Cậu nhỏ của ông ấy bị thua trắng tay, hết tiền nên phải ghi nợ tiền nhậu thịt o (nọng heo)và thịt mông)
  • vế ra: Anh Quý chê những qui chế của chị Quế Chi thật chí quê (khuyết danh)
vế đối: Ông Điền thương mấy thiên đường của bà Thiền Đương nên thường điên (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Đàn ngỗng bay ngang rừng phi lao (Ngỗng=Ngan "tiếng Nam Bộ đọc là ngang" và Bay=Phi)
vế đối:Chiếc cộ đi xế đám hành tím (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (xế nghĩa là chếch một bên so vị trí được xem là chuẩn hoặc thẳng, ngoài ra xế cũng được gọi thay cho xe. Hành tím là một loại hành dùng để ăn, "hành" trong chữ Hán có nghĩa là "đi" trong tiếng Việt)
  • vế ra: Thằng hầu khỉ gió, vừa thấy nó voọc viên nem vượn (hầu=khỉ, viên=vượn, khỉ=voọc=vượn cùng một họ, voọc có nghĩa là ăn trộm lấy ý ở câu "vắng chủ nhà gà voọc niêu tôm". Câu đối có nghĩa là thằng hầu tính tắt mắt đã ăn trộm mất miếng nem vượn, trong một bữa tiệc thịnh soạn có người vô tình chứng kiến cảnh đó nên thốt ra câu đối trên)
vế đối: Gã báo beo lửa, mới nghe hắn cọp hổ oai hùm (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (báo= beo, hổ=cọp=hùm, cọp còn có nghĩa là ăn trộm. Câu đối lại nói về một người hành nghề báo chí nhưng phẩm hạnh,tư cách không đàng hoàng)
  • vế ra: Mời bác Mão thử tý thịt chuột (khuyết danh)
vế đối: Nghe anh Thìn cọp dần xương hổ hoặc Nghe anh Thìn hổ dần xa cọp (Chữ hổ còn có nghĩa là bỏ đi, trốn đi, tránh đi. Chữ cọp còn có nghĩa là ăn trộm, ăn cắp) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối khác 1: Nhờ chú Tị kê dậu chuồng gà (Vũ Quang Long) (ý nói kê dậu cột chuồng cho gà khỏi chạy)
vế đối khác 2: Ngắm em Thân dần kễnh hang hùm (Nguyên Xuân)
vế đối khác 3: Kệ thằng Kê hầu viên thân tườu (Ngọc Châu)
  • vế ra: Đêm thu trăng sáng, Hằng ôm đàn Nguyệt, ngâm nga bài Trăng Thu Dạ Khúc (chú ý Hằng là tên riêng nhưng ở đây còn có nghĩa là chị Hằng ở trên cung trăng, Trăng Thu Dạ Khúc có nghĩa là "khúc hát đêm trăng thu" còn gọi là Hoài Lang Khúc là một điệu nhạc trong sân khấu ca kịch cải lương Nam Bộ) (Vũ Quang Long)
vế đối: Yến xuân ngày rạng, Phụng mừng sinh Nhật, tấm tắc câu Ngày Xuân Con Én (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ở đây Phụng là tên riêng nhưng cũng có nghĩa là một con vật thiêng trong Tứ Linh: Long Lân Quy Phụng. Theo Wikipedia: "Phụng có mỏ diều hâu dài, tóc trĩ, vẩy cá chép, móng chim ưng, đuôi công... Các bộ phận của phụng đều có ý nghĩa của nó: đầu đội công lý và đức hạnh, mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, lưng cõng bầu trời, cánh là gió, đuôi là tinh tú, lông là cây cỏ, chân là đất. Như vậy nó tượng trưng cho bầu trời, khi nó bay hoặc múa (phụng vũ) là tượng trưng cho sự hoạt động của vũ trụ". "Ngày xuân con én đưa thoi, Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi" là 2 câu thơ viết về mùa xuân nổi tiếng của Đại thi hào Nguyễn Du. Vế đối cũng có thể dử dụng đàn Nhật (cách gọi khác của đàn tứ hay đàn đoản) thay chữ sinh nhật: Yến xuân ngày rạng, Phụng nâng đàn Nhật, réo rắt câu Ngày Xuân Con Én. Hoặc có thể thay chữ Phụng bỡi chữ Quạ (Mặt Trời=Kim Ô):Yến xuân ngày rạng, Quạ nâng đàn Nhật, réo rắt câu Ngày Xuân Con Én)
  • vế ra: Tân tháng Tân Dậu, đàn gà rù thôi rù, bới nát kê non (Nguyễn Thanh Tuyên - Hải Phòng)
vế đối: Canh ngày Canh Thân, lũ khỉ mốc hết mốc, quấy rối hầu tơ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Anh Tẩu Mã cùng chị Lưu Thủy phi ngựa đến bên dòng nước chảy, vừa ngắm mây bay vừa hòa tấu giao lưu những khúc nhạc: Lưu Thủy Đoản, Lưu Thủy Trường, Lưu Thủy Tẩu Mã và Lưu Thủy Hành Vân (Tẩu Mã và Lưu Thủy là tên riêng của 2 nhân vật trong vế đối, 4 khúc nhạc trên đều thuộc giàn nhạc Tài Tử Cải Lương Nam Bộ) (Trần Việt Hà)
vế đối: Đoàn Tấn Binh với đội Phi Tượng tiến quân sang cạnh đàn voi chạy, cùng xem pháo kết cùng thi đấu kết nghĩa mấy ván cờ: Phi Tượng Cổ, Phi Tượng Tân, Phi Tượng Tấn Binh và Phi Tượng Liễm Pháo (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Bốn ván cờ trên thuộc thế trận Phi Tượng Cục trong nghệ thuật cờ tướng)
  • vế ra: Vào vụ Đông, trường Nam bón phân Bắc trồng khoai Tây; sang Xuân, Hạ quyết tâm Thu hàng tấn củ
vế đối: Vừa thắng Xe, lão Tướng đến nhà Bồ thi sức Ngựa; thế Tốt, Pháo ta đây Sĩ gánh ba đào! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
vế đối khác 1: Đến thôn Đoài, thợ Khôn tìm rượu Tốn uống tuần Ly, say Càn, Chấn tinh thần Khảm bao bộ tủ (bát quái) (Thiền Long)
vế đối khác 2: Lúc phân Ly, hồn Quy cửu tuyền Long dời xa Phượng; nghĩa Càn Khôn thôi đành Khảm lại trong tim (Vũ Quang Long)
Vế ra đi theo 2 chiều hướng là tứ phương gồm Đông, Tây, Nam, Bắc và tứ quý là Xuân, Hạ, Thu, Đông trong khi chữ Đông có 1 nhưng lại giữ vai trò then chốt của vấn đề vì nó mang 2 nghĩa là mùa Đông và hướng Đông. Cho nên ông lấy Tứ linh gồm: Long, Ly, Quy, Phượng kết hợp với nửa Bát Quái là: Càn, Khôn, Ly, Khảm để đối lại thì mới đủ 2 chiều để theo sát vế ra. Chữ Ly (có phiên âm khác là Lân tức con Kỳ Lân) của ông Long cũng có 2 nghĩa là phương Ly và Ly trong tứ linh. Nghĩa của cả câu là đến lúc phân ly (tức lúc lìa trần), khi hồn quy cửu tuyền cũng là lúc "long" phải dời xa "phượng", long và phượng tượng trưng cho vợ chồng, vậy thì cái nghĩa "càn khôn" (trời đất) chỉ còn biết giữ lại trong tim mà thôi
  • vế ra: Ngậm tiền thì hám, ngậm hàm thì tiến (Phạm Xuân Phụng)
vế đối: Hở mùi thì liệng, hở miệng thì lùi (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Em là con gái Nghi Xuân, em đi chợ Hạ, mua cá Thu về, chợ hãy còn Đông (khuyết danh)

Ông Trường Văn Nguyễn Phước Thắng đối 2 câu:

câu 1: Anh là con trai Miễu Đông, anh lên lầu Tây, hóng gió Nam sang, cơm thì chưa Bắc
câu 2: Ảnh là con trai Hà Đông, ảnh học bên Tây, vào miền Nam ở, giọng thì hơi Bắc
  • vế ra: Khi biết thì đã già, ăn được cà cũng chẳng còn răng (Nghiêm Mạnh Hùng)
vế đối: Lúc hay là đang trẻ, chẻ đặng rẻ lại không có rựa (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (rẻ như nan, chẳng hạn như rẻ quạt)
  • vế ra: Vợ có Công thì Chồng không Phụ (khuyết danh) (lấy câu thành ngữ "gái có công thì chồng chẳng phụ" sửa chữ gái thành chữ Vợ, để đối chữ cho vế xuất...Vợ chữ Hán là Phụ, ở đây chữ phụ còn mang nghĩa phụ bạc. Công chữ Hán có nghĩa là chồng như Tướng Công, Công ở đây còn mang nghĩa là công sức. Ngoài ra chữ "có" còn đối với chữ "không")
vế đối: Chồng được Thiếp là Vợ mất Phu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Thiếp ngoài nghĩa là Vợ Lẽ còn có nghĩa như Thiệp, Phu ngoài nghĩa là Chồng còn có nghĩa là người làm việc nặng như đi "phu". Ý 1. Khi chồng mà có vợ lẽ thì xem như vợ mất chồng! Ý 2. Chồng nhận thiệp là vợ phải cho nghỉ bớt phu (để lấy tiền thuê công ấy đưa cho chồng làm quà dự tiệc!) Cảnh dở cười dở khóc của những người "bị" nhận thiệp mời đám cưới, tân gia...hiện nay rất phổ biến. Chẳng bà con, không thân thích, chỉ chào hỏi xã giao trong đôi lần gặp mặt, vậy mà cũng "vinh dự" được mời!! Dự thì bẳn hẳn khó chịu trong lòng, không dự thì cũng áy náy. Khổ nhất là những gia đình kinh tế chật vật gặp phải cảnh ngộ éo le này! Phải chăng đây là một kiểu "làm tiền" mới ẩn dưới mỹ từ "lễ nghĩa"?
  • vế ra: Người dân TỈNH Hà TĨNH, TÍNH TÌNH rất thanh TỊNH, như tờ giấy trắng TINH (Hoàng Trần Tư) (Tỉnh, Tĩnh, Tính, Tình, Tịnh, Tinh và địa danh Hà Tĩnh...đại ý câu đối nói rằng người dân của tỉnh Hà Tĩnh bản chất rất đạm bạc, đơn giản không cầu kỳ diêm dúa chẳng khác chi tờ giấy trắng chưa vẩy mực vậy)
Vế đối: Vùng vua ĐINH Nam ĐỊNH, ĐỈNH ĐÌNH rạng nhật ĐÍNH, tựa hào quang vàng ĐĨNH (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ý nói: Trong quần thể di tích thờ Vua Đinh ở Nam Định, trên nóc đỉnh của đình có Lưỡng Long Triều Nhật trông như Mặt trời đính vào tỏa hào quang sáng chói mà mỗi tia sáng là một nhánh thỏi vàng rực rỡ)
  • vế ra: Đêm ba mươi, chơi với cọp, bóp lưng hổ, nhổ răng hùm, túm “tai-gơ”, tu cạn dần, gần ông mãnh (ông ba mươi, cọp, hùm, dần, ông mãnh đều là những tên gọi khác của hổ. Tai-gơ: tiếng Anh Tiger, con hổ)(câu đối Tết Mậu Dần (1998) của nhạc sĩ Trọng Bằng)
vế đối: Xuân ba lăm, nằm cùng dê, mê hàng dương, thương tóc "thầy", thấy "ma-kết", mết hơi mùi, khui "sư phụ" (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ma Kết (capricomus - tiếng La tinh) là chòm sao biểu tượng con dê. 35, sư phụ, thầy là những từ khác để chỉ dê. Xem " Năm Quý Mùi nói chuyện dê" của Hoàng Anh Tài trong Google. Khui sư phụ là khui chai rượu Ngọc Dương Tửu)
  • vế ra: Làm đại Khái qua loa, nói như Hùm như Cọp, ông Ba Mươi đã lên giọng lão, chẳng sửa Dần càng thêm Hổ miệng (câu đối tết Canh Dần (2010) của nhạc sĩ Trọng Bằng)(ở đây có 6 danh từ chỉ tên chúa sơn lâm là: khái, hùm, cọp, ông ba mươi, dần, hổ. "Khái" theo Đặng Thanh Hoà là phương ngữ miền Trung (Từ điển phương ngữ tiếng Việt, nxb Đà Nẵng, 2005). Tác giả dẫn chứng bằng câu ca dao: Núi Ngũ hổ hình như năm khái. Theo Thiều Chửu, Khái (bộ Thạch) nghĩa là cúi lạy. Tục gọi dập đầu lạy là khái đầu, theo nghĩa này thì Khái là con hổ được thờ, được tín ngưỡng dân gian vái lạy. "Hùm" đến từ chữ Hùng (bộ Chuy), nghĩa là mạnh, Tiếng Việt có từ kép "hùng hổ". "Dần" người tuổi Hổ, 1 trong 12 địa chi, thuộc con giáp thứ 3 tượng trưng cho loài Hổ)
vế đối: Nghe du Dương bậu đài, rằng "Sư Phụ" sư Dê, tuổi Ba Lăm sớm phong chức cụ, muốn thử Mùi cứ gọi "Thầy" râu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Dê còn được gọi là sư phụ hoặc thầy, số 35 cũng tượng trưng cho con dê - xem bài "Năm Quý Mùi nói chuyện dê" của Hoàng Anh Tài trong Google)
  • vế ra: Tối ba mươi, giết hổ, hầm xương cọp ăn dần (khuyết danh)(Hầm cũng có nghĩa như Hùm)
vế đối: Tuổi ba lăm, thả dê, dương rượu mùi khai vị (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Theo Từ điển Hán Việt Đào Duy Anh, "mùi" còn gọi là "vị")
  • Câu đối chơi chữ Việt - Trung - Anh - Pháp của Giáo Sư Tiến Sĩ Nguyễn Xuân Lạc:
vế ra: Quần thủng đít đã chục ngày nay, hiệu thợ may cửa đóng then cài, ta đành đứng thập thò ngoài cửa (“đít”: dix, tiếng Pháp, số mười; “then”: ten, tiếng Anh, số mười; “thập”, tiếng Hán, cũng là số mười)
vế đối: Sông vỡ đê từ hai tháng trước, lòng bài thơ nước đổ thu về, ai còn chờ nhị nhân trong ý? (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (“đê”: deux, tiếng Pháp, số hai; “thu”: two, tiếng Anh, số hai; “nhị”, tiếng Hán, cũng là số hai)
  • Tương truyền ngày xưa ở làng Sào Long (chưa rõ thuộc địa phương nào) có vị Lý Trưởng tên là Chuối rất tàn bạo, nổi danh cường hào ác bá. Hôm đó, không biết tại sao ông ta gọi 1 vị thầy đồ của làng đến sai quân nọc cổ ra đánh cho 1 trận. Thầy đồ rất cay cú nhưng không làm sao được, bèn nghĩ ra 1 vế thách đối rất hóc búa như sau:
Vế ra: Bến Sào Long có tổ rồng rồng, phải anh Chuối ra tình nheo nhóc (Theo Hán tự, Sào Long có nghĩa là tổ rồng, Tổ rồng rồng là đàn cá mới nổi lên mặt nước như đàn kiến đen. Chuối là cá lóc lớn, Nheo và Nhóc cũng là tên 2 loại cá có ngạnh trên đầu, sống trong các hang hốc bên bờ sông)
vế đáp: Xứ Thái Bình ưa món ve ve, qua buổi Ruồi thoát vuốt bọ ong (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Hán Việt: Thái có nghĩa là món ăn, thức ăn. Chẳng hạn: "Xuyên thái" là món ăn Tứ Xuyên, "tố thái" là món ăn chay. Bình có nghĩa là cái ve (bình, lọ). Tiếng Việt: Thái Bình là tỉnh Thái Bình,. Ve ve là con ve sầu, người Mỹ gọi là ruồi khô. Chữ ruồi ở đây còn có nghĩa là suy, yếu, ế ẩm; như trong câu tục ngữ "ruồi bu kiến đỗ". Ruồi, ong, bọ đều là côn trùng. Ong bắp cày và bọ ngựa là hung thần đối với ve sầu. Nghĩa vế đáp: Ngày nay xứ xứ thái bình, đời sống kinh tế khá lên nên nhiều món ngon vật lạ được ưa chuộng, trong đó có món ve sầu (rang lá chanh hoặc tẩm bột chiên).

Các vế đối chiết tự thuần tuý[sửa]

  • vế ra: Cô Lan bán giấy cửa Đông; kẻ Nam người Bắc, chưa vừa lòng cô! (chiết tự chữ Lan, tên cô gái, ta được chữ “môn – cửa” và chữ “Đông”. Vế đối nêu lên ba hướng Đông, Nam , Bắc, mà không nêu hướng Tây. Ấy là tác giả muốn ám chỉ cô Lan này chỉ vừa lòng... Tây!).
vế đối: Chàng Thung tạo dáng cây Xuân; ngọn Thu gốc Hạ, chửa ưng ý chàng! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự chữ Thung gồm chữ Mộc (cây) và chữ Xuân (mùa xuân). Thu ở đây có nghĩa là thu ngọn lại cho nhỏ, hạ ở đây có nghĩa là làm cho đế gốc thấp xuống theo nghệ thuật cây cảnh Ngọa Long Phi Phụng. Câu này chỉ nêu 3 mùa: Xuân, Thu và Hạ, không có chữ Đông; ý nói anh chỉ ưng người con gái tên Đông hoặc ở phương Đông)
  • vế ra: Con Chim Chích choè, dù nó bay khắp Mười phương Bốn hướng, cuối cùng vẫn phải quay về với Một chữ Tâm, đó chính là Đức (câu đối chiết tự, lấy ý từ câu đố chữ Đức trong Hán Tự "chích choè mà đậu cành tre, thập trên tứ dưới nhất đè chữ Tâm". Chữ Đức gồm bộ Chim Chích bên trái, bên phải thứ tự từ trên xuống có các chữ Thập Tứ Nhất Tâm chồng lên nhau. Vế ra có nghĩa là: dù ai có tài giỏi bằng mấy, dẫu đi khắp nơi mà không có tâm thì cũng chẳng làm nên trò trống gì, như Bác Hồ đã nói người có tài mà không có đức thì vô dụng, mà muốn có đức thì trước tiên phải có tâm vậy) (Đỗ Đình Bao)
vế đối: Mặt trời cuộc sống, cả đời sáng giữa Một đất Một trời, dưới trên xuyên suốt chan hòa trong Một đạo Nhân, ấy đúng là Xuân (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Xuân gồm 3 chữ Nhất, một chữ Nhân và một chữ Nhật. Con người sống phải có Đức cũng như thiên nhiên tồn tại bắt đầu từ mùa Xuân. Đức là gốc của người, Xuân là gốc của bốn mùa. 3 vạch tượng trưng cho Thiên, Địa và Nhân, và có tấm lòng Nhân ái xuyên suốt 3 cõi. Sống trên đời phải có khát vọng tươi sáng cũng như tự nhiên phải có Mặt trời soi sáng, sinh ra, nuôi dưỡng đến khi trưởng thành cho vạn vật)
  • vế ra: Lục mộc sâm sâm: Đào, Mai, Trúc, Tùng, Bách, Liễu (có nghĩa là sáu cây xum xuê: Đào, Mai, Trúc, Tùng, Bách, Liễu. Nhưng lại có nghĩa khác về mảng chiết tự là sáu chữ Mộc gộp lại thành hai chữ Sâm)
vế đối: Lục nhật tinh tinh: Đạo, Đức, Trí, Nghĩa, Tâm, Nhân (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Sáu mặt trời soi sáng làm sáng trong tinh túy cho Đạo, Đức, Trí, Nghĩa, Tâm và Nhân. Về mặt chiết tự thì 3 chữ Nhật hợp thành chữ Tinh)
Trước đây có người đã đối làNgũ kinh kinh điển: Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân ThuVế đối chưa chuẩn về mảng chiết tự nhưng cũng đưa vào để tham khảo
Một câu khác nội dung tương tự nhưng được chuyển thể thành thơ lục bát như sauQuế Hoè Tùng Bách Liễu Mai, sâm sâm lục mộc anh tài đối đi? (Trường Đông Giang) (câu đối chiết tự: 6 chữ “quế 桂, hòe 槐, tùng 松, bách 栢, liễu 柳, mai 梅”, mỗi chữ đều có một chữ “mộc 木”. Ngoài ra 2 chữ “sâm 森” được ghép bởi 6 chữ “mộc 木”, vế ra ở trên chưa chuẩn bởi chữ Trúc không có bộ mộc bên cạnh, tuy nhiên ta có thể xem đây là một vế ra khác)
vế đối: Xuân Huyên Thần Trí Cảnh Tình, tinh tinh lục nhật thư sinh đáp về! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Trong 6 chữ Xuân, Huyên, Thần, Trí, Cảnh, Tình đều có chữ Nhật; 2 chữ Tinh do 6 chữ Nhật ghép thành)
Trong một bài ca dao khác, người con gái nơi thôn dã đã ra vế đối hóc búa để thử tài chữ nghĩa của chàng trai: "Quế, hòe, tùng, cúc, liễu, mai...Sum sum lục mộc, chàng tài đối đi." Vế thách đố của cô gái đưa ra sáu loại cây: Quế [桂], Hòe [槐], tùng [松], cúc [菊] liễu [柳] mai [梅] “Sum sum lục mộc” [森 森 六 木] ý muốn nói sáu loại cây này sum xum xuê, rậm rạp. Đặc biệt, chữ “Sum” cũng đọc là “Sâm” nên “Sum sum” tức “Sâm sâm” [森 森 Từ đó, ta có thể hiểu được hàm ý của cô gái: “Sum sum lục mộc” nghĩa là trong sáu loại cây có sáu chữ mộc [木] và hai chữ “Sum sum” [森 森] cũng có sáu chữ Mộc [木]
Chàng trai cũng tỏ ra thua kém: Chữ rằng diễm thảo quy hoang, Viêm viêm tứ hóa nay chàng đối cho.
Câu trả lời rất thông minh: Chàng dùng “Diễm thảo quy hoang” [艷草歸荒] (cỏ đẹp trở thành hoang dã) để có thể “Viêm viêm tứ hỏa” [炎炎四火] (lửa cháy bốn bề) hàm ý phủ định lục mộc bộn bề của vế thách. Đặc biệt, trong hai chữ Viêm viêm [炎炎] có bốn chữ Hỏa [火] (tứ hỏa) đối lại với “Sum sum” [森 森] có sáu chữ mộc [木] (lục mộc)
  • vế ra: Tưởng là nhớ: Tựa cây (木) mỏi mắt (目) chờ mong, hỡi người viễn xứ trong lòng (心) có hay? (các chữ Mộc, Mục và Tâm ghép vào thành chữ Tưởng 想 nghĩa là nhớ; câu này vừa mang tính chiết tự, vừa diễn tả nỗi niềm nhớ nhung của một cô gái khi chồng phải đi biền biệt nơi xa xứ)
vế đối:Thệ là thề: Dấu rìu khắc chữ nào phai, ngày mai ly khách thành tài đẹp duyên! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Các chữ Cân (rìu), Ngôn (chữ, lời nói) và Tài (tài năng) ghép thành chữ Thệ nghĩa là Thề (Thề nguyền, Ước thề)
  • vế ra: Mưa tuôn ngập khắp Ruộng đồng, tạo ra tiếng Sấm hư không giữa trời (Vũ Quang Long)(chiết tự chữ LÔI (雷): Sấm chớp nổi lên khi trời đổ cơn mưa (VŨ 雨) khắp trên đồng ruộng (ĐIỀN 田). Lôi là Sấm Sét, đứng hàng thứ 3 trong có các yếu tố quan trọng cần thiết trong sản xuất nông nghiệp, cho nên người miền Bắc có xây đền thờ Tứ Pháp : Pháp Vân - Pháp Vũ - Pháp Lôi -Pháp Điện...! Nhằm cầu mong cho nhân dân được mưa thuận gió hoà, để nhân dân chúng ta yên tâm lao động sản xuất...!!!)
vế đối: Ghế nghiêng theo tiếng côn trùng, ai đưa làn gió mông lung bên đời? (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Các chữ Kỷ (ghế, bàn nhỏ), Trùng (côn trùng) ghép thành chữ Phong nghĩa là gió)
  • vế ra: Làm Vua Tai phải lắng nghe những điều ngay lẽ phải, Miệng phải ban bố những sắc lệnh không trái với đạo lý luân thường, thế mới xứng đáng bậc Thánh quân (Trần Việt Hà) (Chiết tự chữ Thánh: 聖 gồm các chữ Nhĩ và chữ Khẩu ở trên ghép với chữ Vương ở dưới)
vế đối: Là Tôi Quý ở rèn luyện bao đức trọng tài cao; Lặp ở thi hành bao sách lược thật đúng ích nước lợi dân, vậy nên rạng rỡ đạo Hiền nhân. (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự chữ Hiền gồm các chữ Thần (bề tôi đối với vua) và chữ Hựu (lặp lại) ở trên ghép với chữ Bối (quý báu) ở dưới)
  • vế ra: Lãi to con chẳng quên lời, căng buồm chở của giữa trời sáng trăng (chiết tự chữ Doanh (贏) nghĩa là thắng lợi, lãi to. Đại ý: con một thương gia không quên (Vong) lời (Khẩu) cha dặn, nên đã thắng lợi trở về, mang theo một thuyền (Phàm) của cải (Bối) dưới trăng (Nguyệt) vàng lấp lánh. Ở đây chữ Lãi và chữ Lời cũng là từ đồng nghĩa)
vế đối:Ứng biến người nói tùy quyền, nhớ cây vững trụ trong miền cỏ xao (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Quyền (có nghĩa Đạo dùng khi biến), gồm chữ Mộc, bộ Thảo, Khấu đôi (2 chữ khẩu), chữ Nhân và chữ Trụ)
  • vế ra: Trăm Người trú một Mái nhà, gọi là tá Túc cũng là Tú tinh (chiết tự chữ Túc có nghĩa là đỗ lại hay dừng lại nghỉ ngơi, có âm khác là Tú "có nghĩa là các vì sao" bao gồm bộ Miên giống hình cái nón cái mũ tượng trưng cho mái nhà phía trên, bên dưới gồm bộ Nhân đứng và chữ Bách)
vế đối: Mắt Cây ai gửi bóng hình, kể chi khanh Tướng mất tình Tương giao (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Mục (Mắt) ghép với chữ Mộc (Cây) tạo thành chữ Tướng hay còn gọi là chữ Tương)
  • vế ra: Cô kia đội Nón chờ ai, sao cô An phận đứng hoài thế cô (khuyết danh)(chiết tự chữ An, gồm bộ miên trông giống cái nón phía dưới là chữ Nữ có nghĩa là cô gái)
vế đối: Trời mưa ghé Chùa gặp anh, lạy trời Thời khắc đừng nhanh nhé trời

(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Nhật (Mặt Trời) ghép với chữ Tự (Chùa) tạo thành chữ Thời)

  • vế ra: Trước Cửa nhà là cái Chợ Náo nhiệt (Vũ Quang Long)(chiết tự chữ Náo 闹 gồm chữ Môn là cửa và chữ Thị là chợ)
vế đối:Trong Tranh quê có dòng Nước Tịnh lặng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (chiết tự chữ Tịnh gồm chữ Tranh là bức tranh và bộ Thủy là nước)
  • vế ra: Tiếng Khuyển Hai Mồm nghe thảm Khốc, Thiên không sáo Trúc Tiếu trần gian (vế 1 chiết tự chữ Khốc (哭) gồm chữ Khuyển (犬) là chó và hai chữ Khẩu (口) là 2 cái mồm, vế sau chiết tự chữ Tiếu (笑) gồm chữ Thiên (天) và bộ Trúc (竹) là cây tre)
vế đối:Dáng Ngựa Lớn Cao trông dõng Tuấn, Lời vui Cả Khắp Hài thế nhân (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Vế trước chiết tự chữ Tuấn (ngựa hay)gồm chữ Mã (ngựa) và chữ Tuấn (cao lớn), vế sau chiết tự chữ Hài (vui cười) gồm chữ Ngôn (lời nói) và chữ Giai (đều khắp, cả khắp))
  • vế ra: Cây chôn dưới Ruộng vẫn ra Quả, Lửa đốt đáy Sông sẽ gặp Tai (Vũ Quang Long) (vế trước chiết tự chữ Quả (果) gồm chữ Điền là ruộng ở trên và chữ Mộc là cây ở dưới, vế sau chiết tự chữ Tai (災) gồm bộ Xuyên là dòng sông ở trên và chữ Hoả là lửa ở phía dưới)
vế đối:Người không ở Hai lòng sinh Nhân, Trời soi gặp Vua ắt phát Vượng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Vế trước chiết tự chữ Nhân (lòng nhân ái) gồm chữ Nhân (người) và chữ Nhị (hai); vế sau chiết tự chữ Vượng gồm chữ Nhật (Mặt Trời)và chữ Vương (Vua))
  • vế ra: Lửa mà đốt dưới gốc Cây, anh hùng hào Kiệt ra ngay giúp đời (Vũ Quang Long) (chiết tự Kiệt 杰 bao gồm chữ Mộc là cây ở trên và chữ Hỏa là lửa ở dưới)
vế đối:Mặt Trời sáng giữa lương Tri, trượng phu tài Trí giải nguy cứu người (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (chiết tự chữ Trí gồm chữ Nhật (Mặt Trời) và chữ Tri (biết))
  • vế ra: Bên Trong Một tấm lòng vàng, Của tiền coi nhẹ xứng hàng Quý nhân (Đỗ Đình Bao) (chiết tự chữ Quý 貴 bao gồm chữ Trung nghĩa là bên trong, chữ Nhất nghĩa là một đè lên chữ Bối nghĩa là của cải)
vế đối:Dưới Mái Một Miệng ban lời, Đất tổ giữ vững truyền đời Phú gia (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (chiết tự chữ Phú gồm bộ Miên có hình như mái nhà, chữ Nhất, chữ Khẩu và chữ Điền)
  • vế ra: Nhà Yên Hai Chục Miệng ăn, Lửa đun hướng Bắc khó khăn chất chồng (Hoàng Trần Tư) (chiết tự chữ Yên 燕 gồm chữ Trấp trên cùng có nghĩa là Hai Mươi, đúng của nó là bộ Thảo ghép với chữ Nhất nhưng được viết liền nên thành chữ Trấp. Dưới chữ Trấp có chữ Khẩu là cái Miệng, chữ Khẩu lại nằm lọt giữa chữ Bắc là phương Bắc, dưới cùng có bộ Hỏa nghĩa là lửa vậy)
vế đối: Nước Chu chỉ Một Miệng ban, Tường xây hành Thổ hân hoan trùng trùng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (chiết tự chữ Chu gồm chữ Vi (tường rào), chữ Khẩu và chữ Thổ)
  • vế ra: Biên Cương có Đất hình Cung, cạnh bên hai Ruộng be chung Ba bờ (Hoàng Trần Tư) (chiết tự chữ Cương 疆 gồm chữ Thổ là đất nằm gọn trong chữ Cung nghĩa là cái Cung tên, bên cạnh gồm chữ Tam là Ba xen giữa là 2 chữ Điền có nghĩa là Ruộng)
vế đối: Thành Lũy Hai dây Cỏ mây, phủ lên ba Đất che dày một Cây(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (chiết tự chữ Lũy (loài cây mây bò leo) gồm bộ Thảo (cỏ), 3 chữ Điền (đất) và 1 chữ Mộc (cây))
  • vế ra: Ra đường chẳng hỏi tính danh, thấy Không Quần Áo biết anh họ Bùi (Hoàng Trần Tư) (chiết tự chữ Bùi 裴 gồm chữ Phi có nghĩa là không ở trên và chữ Y có nghĩa là Y Phục bên dưới, vậy ra ngoài đường hễ gặp ai không mặc quần áo chắc chắn là người họ Bùi hoặc người tên là Bùi rồi)
vế đối 1: Mở miệng không nhả ngọc châu, chia ba nhân khẩu ai sầu tâm tư (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Khẩu là miệng, khi chia làm 3 vẫn là 3 chữ khẩu, nhưng ghép lại thành chữ Tứ tức là Tư (bốn)
vế đối 2: Tỏ Mắt nhìn thấy ngọc vàng, ngã còn ý Tứ rõ chàng thứ tư (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Mục là mắt, khi quay ngang thành chữ Tứ là bốn)
  • vế ra: Tay em làm gối ÊM ghê, thiếu EM đêm đến anh Ê cái đầu. Rờ RÂU râu rụng phát rầu, không RỜ râu rụng anh ÂU lo nhiều (khuyết danh) (chiết tự EM + Ê, R + ÂU)
vế đối: Lời anh dẫn lối AN nhà, mất ANH đời ghẹo em A bờ cờ. Thờ THƠ thơ phát bất ngờ, chẳng THỜ thơ quạnh em Ơ hờ hoài (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Mẹ đội thúng me, em e nặng mẹ (khuyết danh) (câu này hay ở chỗ vừa tức cảnh, nhưng từ ngữ lập đi lập lại và vế sau là đánh vần chữ "mẹ". Em tức M ghép với E dưới có dấu Nặng thành chữ Mẹ)
vế đối: Nứa mọc vườn nưa, anh ưa sắc nứa (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Nưa là cây chột nưa vì giá trị sử dụng của cây nưa chủ yếu ở phần chột. Khi chột nưa (tức là tước vỏ từ gốc lên đến ngọn) đem chế biến với cá đồng hay chim sẻ, thịt heo, trở thành món ẩm thực dân dã được nhiều người ở Thừa Thiên - Huế rất ưa chuộng. Nứa là loại cây cùng họ tre có màu xanh rất đẹp. Anh tức N ghép với ƯA, trên có dấu Sắc thành chữ Nứa. Trước đây, ở Bình Định và một số tỉnh miền Trung, chữ N đọc là anh nờ, rút gọn lại thành "Anh", cũng như chữ M đọc là em mờ, rút gọn lại thành "Em". Ví dụ: Bài thuộc lòng về đánh moóc (morse): Tạch tè (. -) tiếng gọi chữ a, nhưng mà tè tạch (- .) hóa ra anh nờ (N). "Tạch" ký hiệu là dấu chấm (.), "tè" ký hiệu là dấu ngang (-))
vế đối khác: Cô giặt áo cố, ốc trố nhìn cô (Thiền Long) (chữ "cố" đảo chữ cái thành "ốc" có thể đối chữ "me" đảo chữ cái thành "em" ; các chữ "cô", "cố", "trố" cùng vần có thể đối với "mẹ", "me", "e")
  • vế ra: Ba Sắc thuốc giùm Bá, đổ Bã ra Ngã Ba (Đỗ Đình Bao) (Chiết tự 2 chữ: Ba + dấu Sắc = Bá và Bã bỏ dấu Ngã = Ba, đại ý câu này nói rằng Ba "tức Bố" sắc thuốc cho Bá "anh Bố hoặc chị Mẹ" uống, uống xong đem Bã ra ngoài ngã Ba mà đổ đi)
Vế đối 1:Cô Sắc nét hơn Cố, phá Cỗ ngoài Ngã Cô (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Cô+ dấu sắc = Cố, Cỗ phá dấu ngã = Cô. Ngã Cô là gọi tắt Ngã ba Cô đơn, một trong 3 ngã có đường dẫn về Tàpao (Tánh Linh, Bình Thuận). Hai ngã còn lại là Ngã ba căn cứ 6, ngã ba Ông Đồn. Ngã ba Cô đơn đón các đoàn khách từ Đà Lạt, Bảo Lộc, Phương Lâm, Định Quán xuôi về Tàpao. Ý vế đối nói rằng Cô đẹp hơn Cố của cô và đang tổ chức phá cỗ bánh Trung thu ở Ngã ba Cô đơn.
Vế đối 2:Cô Hỏi vợ thay Cổ, bỏ Cồ dưới Huyền Cô(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Cô+ dấu hỏi = Cổ, Cồ bỏ dấu huyền = Cô. Cổ là cô ấy. Huyền Cô là trăng non cô độc. Cồ là bồ, người yêu nam giới, Mái là người yêu nữ giới. Ý vế đối: Cô ta bận đi hỏi vợ cho cháu thay cho người cô khác nên không đến điểm hẹn với người yêu đang chờ dưới ánh trăng non cô đơn)
  • vế ra: Ruộng hương hỏa của cha ông, làm Trai gắng Sức cố công duy trì (Vũ Quang Long) (câu này chiết tự chữ  Nam có nghĩa là người con trai, bên trên gồm chữ  Điền có nghĩa là Ruộng, bên dưới có chữ  Lực nghĩa là Sức...đại ý nói: "phần ruộng hương hoả của tổ tiên để lại thì người con trai phải có trách nhiệm để nối dõi duy trì nòi giống vậy")
vế đối: Con hiếu hạnh rạng tổ tiên, phận Gái nết Tốt sinh duyên lưu truyền (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Hán: Hảo (tốt) = Tử (con) + Nữ (gái))
  • vế ra: Mười Một Sĩ tử đi thi, thề cùng Đất mẹ quyết ghi bảng vàng (Vũ Quang Long) (câu này chiết tự 2 chữ  Sĩ có nghĩa là người có danh phận trong xã hội, ở đây Sĩ tử là học trò và  Thổ có nghĩa là Đất...2 chữ này đều được ghép bởi chữ Thập là số 10 và chữ Nhất là số 1 cộng vào thành 11...ở đây chỉ có 1 chi tiết khác nhau rằng ở chữ Sĩ thì chữ Nhất nằm dưới ngắn hơn nét ngang chữ Thập ở trên còn ở chữ Thổ thì ngược lại nét ngang chữ Thập ngắn hơn nét ngang nằm dưới...đại ý câu này nói rằng có 11 anh học trò cùng quê hương rủ nhau đi thi, trước khi lên đường đã tuyên thệ với đất mẹ rằng sẽ quyết tâm ghi tên vào bảng vàng)
vế đối: Mười Hai Chủ tướng tấn công, giữ nguyên Ngọc tỷ thỏa lòng dân đen (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết chữ Chủ gồm bộ Chủ (đứng trên đầu) cùng chữ Thập và hai chữ Nhất; chữ Ngọc cũng gồm bộ Chủ (đứng trong bụng dưới) cùng chữ Thập và hai chữ Nhất)
  • Vế ra: Đêm rừng hành quân đói và KHÁT, nghe lời CA HÁT ÁT tiếng bom (Đỗ Đình Bao) (Chiết tự chữ Khát theo 2 cách: K (Ca) + HÁT hoặc K (Ca) + H (Hát) + ÁT...vế xuất này lấy ý từ câu "tiếng hát át tiếng bom" nói về giai đoạn kháng chiến chống Mĩ cứu nước, bộ đội hành quân vất vả vừa đói vừa khát nhưng nghe lời ca hát của các văn công mà quên đi những gian khổ, thậm chí lấn át cả tiếng bom đạn của quân thù)
Vế đối: Ngày quán đánh độ dụ với CHỜ, đi nước CỜ HỜ Ờ qua chuyện (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chiết tự chữ Chờ theo 2 cách: C(Cờ) + HỜ hoặc C(Cờ) + H (Hờ) + Ờ)
  • Bài thơ Chiết tự viết về mùa Thu của Bảo Minh Trang (1 thành viên của Việt Nam Thi Đàn). Trong bài thơ này, mỗi câu đều có một chữ Hán được sử dụng phương thức chiết tự rất độc đáo:
vế ra: Thu (秋) đến ươm Sầu (愁) ướp đượm tâm (心), Mục (目) pha thảo (艹) tịch (夕) Mộng (夢) duyên ngầm, Kiến (見) Vương (王) chợt Hiện (现) lời ca hát, Kim (今) Khẩu (口) như lừng khúc nhạc Ngâm, Nhân (亻) ghép Sơn (山)Tiên (仙) màu ảo diệu, Môn (門) giăng Nhàn (閒) Nguyệt (月) sắc thâm trầm, Điền (田) thêm lực (力) mạnh ra nam (男) tử, Nhẫn (忍) bỏ Đao (刀) rồi khoan thứ Tâm (心)

Câu 1 bộ Thu và bộ Tâm ghép lại thành chữ Sầu, câu 2 bộ Mục và Thảo + Tịch ghép lại thành chữ Mộng, câu 3 bộ Kiến và bộ Vương ghép lại thành chữ Hiện, câu 4 bộ Khẩu và Kim ghép lại thành chữ Ngâm, câu 5 bộ Nhân và bộ Sơn ghép lại thành chữ Tiên, câu 6 bộ Môn và bộ Nguyệt ghép lại thành chữ Nhàn, câu 7 bộ Điền và bộ Lực ghép lại thành chữ Nam, câu 8 bộ Đao và bộ Tâm ghép lại thành chữ Nhẫn

vế đối: Nhật tỏa thiên Thanh thắm cảnh Tình, Tâm ghi Mục Mộc Tưởng như hình, Cô Phương thân Lữ đời mưa gió, Nhật Nguyệt chan hòa tâm trí Minh, Kim tỏa Vương Cầm câu nghĩa khí, Thi trao Ngôn Tự phát anh linh, Thảo qua Ương sáng trang Anh tuấn, Tông tổ Hỏa ngời rạng tiếng Vinh(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Câu 1: chữ Nhật và chữ Thanh ghép lại thành chữ Tình, câu 2: chữ Tâm + Mục + Mộc ghép lại thành chữ Tưởng, câu 3: chữ Cô và chữ Phương ghép lại thành chữ Lữ, câu 4: chữ Nhật và Nguyệt ghép lại thành chữ Minh, câu 5: chữ Kim và bộ Vương ghép lại thành chữ Cầm, câu 6: chữ Ngôn và chữ Tự ghép lại thành chữ Thi, câu 7: chữ Thảo và chữ Ương ghép lại thành chữ Anh, câu 8: chữ Tông và bộ Hỏa ghép lại thành chữ Vinh)

Những vế đối chiết tự cả Hán Ngữ lẫn Quốc Ngữ[sửa]

  • vế ra: Mặt Trời Sinh những ánh Sao, như Tờ giấy trắng In bao bài Hờ (Trần Việt Hà) (câu này đại ý nói Mặt Trời toả sáng khắp vũ trụ, sở dĩ ban đêm mắt thường ta có thể nhìn thấy được ngàn sao lấp lánh chính là do ánh sáng của mặt trời tạo ra hiệu ứng như vậy. Cũng ví như Tờ giấy trắng tinh chẳng có gì, nhưng nếu in trên đó những bài hát thì nó sẽ có giá trị, làm có cuộc sống sôi động hơn...đúng như câu ngạn ngữ phương Tây "Cuộc sống không có âm nhạc khác chi thế gian không có ánh mặt Trời". Tuy nhiên, vấn đề của vế xuất này vẫn xoay quanh mảng chiết tự ở cả góc độ Hán Tự và Quốc Ngữ. Ở đây, chữ  Tinh có nghĩa là ngôi sao, vì sao...được bẻ thành chữ  Nhật có nghĩa là Mặt Trời nằm ở trên phối hợp với chữ  Sinh có nghĩa là phát sinh, tạo ra, đẻ ra...ở phía dưới. Chữ Tinh viết theo phiên âm La Tinh được cấu tạo bởi chữ T (Tờ) + In + H (Hờ), chữ H còn có cách đọc khác là Hát, do đó ở đây là bài Hát, bởi vế ra là Thơ lục bát nên phải ghi thành bài H để đọc cho xuôi vần, bài H chính là bài Hát vậy. Như vậy câu trên chiết tự chữ Tinh theo Hán tự còn câu dưới cũng chiết tự chữ Tinh theo chữ Quốc Ngữ, cái đó gọi là 2 trong 1)
Vế đối: Hạt Nước Công góp dòng Sông, từng Giờ vàng bạc An thông thác Gờ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Hán:  Giang = bộ  Thủy +  Công (công việc, người thợ), Giang nghĩa là Sông. Tiếng Việt: Giang = Giờ (Gi) + An + G).
  • vế ra: Kìa Ba cô Gái Gian tà, Gia đình chẳng có chuyên rà các Anh (Trần Việt Hà)(câu này trước hết phải nói về con số 3, theo cách gọi số từ thì cứ 3 trở nên sẽ được tính là số nhiều...ví như 1 người hát gọi là đơn ca, 1 người đàn là độc tấu...đến 2 người hát thì gọi là song ca song tấu, nhưng đến 3 người thì đã gọi là tốp ca, hoà tấu rồi..vậy nên có câu thành ngữ "quá tam 3 bận"... Gian tà ở đây hiểu theo góc độ gian giảo và tà dâm, như vậy nghĩa của câu này đã rõ, đại ý nói những cô gái làng chơi (ngày xưa gọi là lầu xanh hay cô đầu nhà thổ, ngày này gọi là gái gọi hoặc ca ve) rất là gian giảo dâm đãng, không chịu thành gia lập thất ổn định gia đình làm ăn lương thiện mà chỉ mang cái vốn tự có trời cho chuyên đi mồi chài các anh (ở đây chữ rà có nghĩa là rà soát tìm kiếm các đại gia giàu có, lục ví, mõi tiền của những người đàn ông phong lưu đa đình) để nuôi bản thân, không hề chịu lao động chân chính...đương nhiên độ khó của vế đối này vẫn thuộc về mảng chiết tự ở cả 2 khía cạnh Hán Ngữ và Quốc Ngữ, về phần Hán Ngữ sẽ chiết tự chữ  Gian có nghĩa là gian dâm được ghép bởi 3 chữ  Nữ có nghĩa là 3 cô gái...về phần chữ quốc ngữ, thì cũng là chiết tự bởi chữ Gian luôn được ghép bởi chữ Gia + N (anh)...rõ ràng không có gia đình mà chỉ chuyên đi rà các anh để lấy tiền của tiêu sài thì không là Gian thì là gì)
Vế đối: Này Ba cái Nhất Tam hành, Ta lo giàu, dạy, việc dành mấy Em (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Hán: Chữ  Tam do ba chữ  Nhất hợp thành. Tiếng Việt: Tam = Ta + M (em mờ). Ý vế đối: Thật ra tệ nạn mua bán dâm không chỉ một chiều là do các cô gái, vả lại cũng do hoàn cảnh đưa đẩy cho nên có người vì chữ Hiếu mà phải đành chịu sa vào lầu xanh (như nàng Kiều). Để giải quyết vấn đề này, nhà nước, xã hội, gia đình và mỗi cá nhân cần có 3 điều thực hành là: 1.làm sao cho dân giàu. 2. Phải dạy dỗ chu đáo các thế hệ hậu sinh; và 3. Tạo đủ công ăn việc làm cho dân chúng).
  • vế ra: Gái Chưa Xuất Giá là Em, đợi người Xuất Sắc buông rèm Nhập Gia (Trần Việt Hà)(Câu này ý nói 1 cô gái chưa lấy chồng, đang chờ đợi người xuất sắc - tức là tài giỏi, ưu tú - để sẵn sàng theo về nhà làm vợ...tuy nhiên độ khó của nó nằm ở mảng chiết tự. Thứ nhất là chữ  Muội có nghĩa là người em gái, được ghép bởi chữ  Nữ có nghĩa là con gái và chữ  Vị có nghĩa là chưa. Thứ 2 chiết tự chữ  Giá có nghĩa là lấy chồng, chữ này được ghép bởi chữ  Nữ có nghĩa là con gái và chữ  Gia có nghĩa là nhà. Như vậy chữ Gái ở vế ra có 2 nhiệm vụ, 1 để ghép vào chữ Vị để thành chữ Muội và 2 để ghép vào chữ Gia để thành chữ Giá...Đặc biệt câu này còn có chiết tự chữ Quốc Ngữ đó là chữ Giá, bỏ dấu Sắc đi sẽ thành chữ Gia, chữ xuất sắc hiểu theo nghĩa đen là trên cả tài giỏi nhưng nghĩa chiết tự lại là vứt dấu sắc đi, trong Hán tự chữ Xuất cũng có nghĩa là vứt bỏ...và điểm lưu ý cuối cùng là chữ Xuất có nghĩa là ra đối với chữ Nhập có nghĩa là vào)
vế đối:Nước Dừng Vô Lãng chính Anh, chờ trang Vô Ngã thả mành Hữu Lang (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (1. Về nghĩa: Chàng trai có tấm lòng bao la như nước nhưng không bao giờ dậy sóng và cũng chẳng phải là lãng tử (vô lãng) đang chờ trang má hồng không nặng riêng tư (vô ngã) se duyên chồng vợ (hữu lang: có chồng). Ngoài chữ Anh có nghĩa là cao rộng, sâu thẳm mênh mông, còn có chữ Anh có nghĩa là người tài giỏi xuất chúng (đồng âm khác nghĩa) 2. Về chiết tự: a. Chữ Hán:  Anh = bộ  Thủy +  Ương (dừng);  Lãng (tên sông ở Hà Nam - Trung Hoa) = bộ  Thủy +  Lang (cỏ Thiên Tiên Tử, gồm bộ Thảo và chữ Lương)b. Tiếng Việt: Lãng bỏ dấu Ngã (Vô Ngã) = Lang. Vô >< Hữu.)
  • vế ra: Gái thời Cổ cũng là Cô, cũng cưới Hỏi cũng Cờ Ô rước về (Trần Việt Hà) (Câu này ý nói con gái thời xưa người ta cũng gọi là Cô (ví như: cô nương...mẹ chồng, mẹ vợ, chị em gái của bố đều được gọi là Cô) chẳng khác con gái thời nay, muốn rước họ về cũng phải đầy đủ thủ tục như: cưới, hỏi, cờ quạt, lọng ô...tóm lại phải tổ chức linh đình theo đúng các thủ tục nghi lễ cần thiết. Theo quan điểm "trọng Nam khinh nữ" của Nho giáo thì đàn bà chỉ được xếp vào hạng tiểu nhân, chẳng được học hành hay làm quan (trừ 1 vài trường hợp cá biết do quá xuất chúng). Thế mới có những câu như: "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô" hoặc "100 đứa con gái không bằng hột dái thằng con trai". Tuy nhiên, bản thân đức Khổng Tử cũng phải có mẹ sinh ra, và 1 loạt các thánh nhân, các vị lãnh tụ vĩ đại kiệt xuất nổi tiếng thế giới khác chẳng phải từ trên trời rơi xuống. Vì vậy, xã hội phong kiến vẫn phải có những nguyên tắc nhất định giành cho phụ nữ, thời hiện đại nam nữ bình đẳng thì việc cưới hỏi là bình thường, thời xưa với tư tưởng miệt thị phụ nữ như vậy mà trong lễ giáo vẫn phải giành riêng việc này để thành 1 nghi lễ thì chứng tỏ tầm quan trọng của người phụ nữ cũng không hề bị coi nhẹ. Câu này vẫn chiết tự về cả chữ Hán lẫn chữ Quốc Ngữ, ở chữ Hán chính là chữ  Cô có nghĩa là đàn bà nói chung, được ghép bởi chữ  Nữ là người con gái và chữ  Cổ tức là thời xưa. Về phần Quốc ngữ có 2 chữ Cổ và Cô, Chữ Cô = C (Cờ) + Ô và chữ Cổ thì có Cô + dấu Hỏi. Ở đây có 1 điểm lưu ý nữa là cụm từ "Cổ cũng là Cô" mang hàm ý 2 chữ này cùng 1 nghĩa, vì Cổ là tiếng phát âm của người dân Nam Bộ nói về đàn bà con gái, do vậy Cổ cũng chính là Cô)
Vế đối: Người bạn Thân vẫn như Thân, vẫn hiên Ngang vẫn Thờ Ân cội nguồn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Hán:  Thân (bày tỏ) gồm chữ  Nhân đứng và chữ  Thân (cũng có nghĩa là bày tỏ), Tiếng Việt: Thân = Th (thờ) + Ân) (Ý nói: Đã là tri âm tri kỷ thì bạn mình chẳng khác chi mình, từ tính cách cho đến tâm tình. Như Bá Nha - Tử Kỳ hoặc Quản Trọng - Bảo Thúc Nha. Như hai chữ Nguyệt ghép thành chữ Bằng (nghĩa là bạn) thì có chữ Nguyệt nào khác chữ Nguyệt nào đâu?)
  • vế ra: Chơi CÂY giữa CỬA rõ NHÀN, EM ƠI năm MỚI đã tràn SẮC xuân (Đỗ Đình Bao) (Một năm mới bắt đầu từ mùa xuân, theo phong tục truyền thống của người Việt Nam thì mọi nhà thường có những cây cảnh như Quất, Đào, Mai...đặt giữa cửa nhà để đón xuân và đặc biệt là hái lộc đầu năm. Tết đến xua tan đi mọi sựu mệt nhọc, mọi người như rũ sạch được những lo toan tất bật thường nhật để hội họp gia đình, gặp nhau hàn huyên sau những ngày tháng bon chen cả năm trời. Vậy nên câu đối này toát nên ý rằng: khi mọi nhà đã chơi cây cảnh giữa cửa thì báo hiệu sự nhàn nhã nghỉ ngơi bắt đầu, sự nghỉ ngơi này khác hẳn với sự nhàn nhã của ban đêm khi ánh trăng rọi xuống, mà đây là sự nhàn rỗi để đón năm mới, đón mùa xuân đang đâm trồi nảy lộc vậy. Ở đây việc chiết tự được tách làm 2 mảng riêng biệt, vế trước của câu đối chiết tự chữ Hán là chữ Nhàn có nghĩa là rảnh rỗi, chữ này đồng nghĩa với chữ Nhàn có bộ nguyệt trong chữ môn nhưng tính chất nhàn nhã của 2 chủ thể khác nhau. Chữ  Nhàn này được ghép bởi chữ  Môn có nghĩa là cửa, là cổng và chữ  Mộc có nghĩa là cây. Vế sau câu đối chiết tự chữ Mới của Quốc Ngữ, chữ Mới được ghép bởi M (em) + ơi và dấu Sắc...em ơi mùa xuân phải có sắc thì mới ra năm mới được, mà cái sắc của mùa xuân chính là cây nảy lộc giữa của nhà vậy)
Vế đối: Để LÒNG dưới RUỘNG khiến TƯ, ANH ÔI niềm NỖI bấy nhừ NGÃ đông (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Hán:  Tư =  Điền +  Tâm. Tiếng Việt: Nỗi = N (anh nờ) + Ôi + dấu Ngã) (Ý nói: Trong chuyện tình cảm, nhiều khi vì đặt nặng vấn đề vật chất mà bao đôi lứa phải xa nhau, thậm chí là tan rã đến nỗi ngã hẳn (hoặc chuyển hướng) về mùa Đông giá lạnh)
  • vế ra: Tâm vốn trong trắng sạch Tinh, có Sắc Sinh Tính Huyền Tình bởi Thanh (Trần Việt Hà) (Vế xuất này ý nói cái Tâm của con người bản chất là trong sáng không vẩn đục đúng như câu mở đầu Tam Tự Kinh "nhân chi sơ, tính bản thiện", nhưng khi lớn lên va chạm xã hội thì bắt đầu nảy sinh ra tính cách. Chữ Sắc ở đây có nghĩa là màu, là vẻ như: sắc thái, sắc độ, sắc dục..v..v..nói tóm lại là từ tờ giấy trắng pha màu vào sẽ phát sinh ra những tạp niệm chớ không còn vô thức nữa, và tính cách cũng từ đó mà bột phát tuỳ theo hoàn cảnh. Huyền là sợi dây đàn, ngày xưa tình cảm vợ chồng thường ví như sợi dây đàn Cầm đàn Sắt nên góa vợ gọi là đoạn huyền, tái giá gọi là tục huyền. Do đó huyền tình ở đây nói đến sợi dây tình cảm, tốt xấu hay dở cũng xuất phát từ âm thanh, tình cảm được thắt chặt hay sứt mẻ cũng do sự thông cảm hiểu biết lẫn nhau qua cử chỉ hành động và quan trọng nhất là ngôn ngữ tiếp xúc. Như vậy toàn câu nói nên cái tâm tuy rất trong sáng, nhưng qua cọ sát với cuộc sống và sẽ dẫn đến cái Tính cách và Tình cảm vậy, từ không mà sẽ biến thành có. Tuy nhiên câu này vẫn xoay quanh mảng chiết tự, phần Hán tự thì gồm 2 chữ Tính và Tình. Chữ  Tính có nghĩa là tính nết, tính cách được ghép bởi bộ Tâm đứng có nghĩa là tim, là lòng người và chữ  Sinh có nghĩa là phát sinh, sinh ra. Chữ  Tình có nghĩa là tình cảm, tình duyên được ghép bởi bộ Tâm đứng và chữ  Thanh có nghĩa là màu xanh, là tuổi trẻ. Ở đây không dùng các nghĩa này mà mượn từ đồng âm để chỉ ra thanh là tiếng nói thì mới cắt nghĩa được vế đối theo mảng Quốc Ngữ, chữ Thanh ở đây chỉ có nhiệm vụ để chiết tự Hán Ngữ. Như vậy chữ Tâm đứng chỉ có 1 nhưng phải gánh vác 2 nhiệm vụ, ghép với chữ Sinh để ra chữ Tính đồng thời ghép với chữ Thanh để thành chữ Tình. Phần chiết tự chữ Quốc Ngữ ở đây trọng tâm chuyển sang chữ Tinh, chữ này nếu có dấu Sắc sẽ thành chữ Tính mà thay vào dấu Huyền lập tức đọc là Tình...vậy nên có Sắc sinh Tính Huyền Tình bởi thanh bao quát cả chiết tự chữ Quốc Ngữ 2 chữ này và chiết tự chữ Hán cũng là 2 chữ này, một đằng lấy ở chữ Tâm còn 1 đằng lấy ở chữ Tinh)
Vế đối: Thành nầy vuông vắn nhã Thanh, sâu Nặng Ngày Thạnh Huyền Thành giữ Ngôn (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ  Thành đầu câu chỉ về cái thành vuông 10 dặm. Chữ  Thành gần cuối câu chỉ lời nói thành thật, do chữ  Ngôn và chữ Thành đầu câu ghép lại. Chữ Thành ghép chữ  Nhật thành chữ  Thạnh có nghĩa là ánh sáng Mặt Trời rực rỡ. Thanh + dấu nặng = Thạnh. Thanh + dấu Huyền = Thành. Ý vế đối: Người dân thành này chú trọng đến thời kỳ phát triển rực rỡ đời sống và tính chân thành của tấm lòng người dân thể hiện qua lời ăn tiếng nói.)
  • vế ra: Thế Gian thiếu ánh Mặt Trời, Cửa nhà tăm tối Sắc đời thảm Thê (Đỗ Đình Bao) (Câu này rất dễ hiểu, nếu như Thế Gian không có ánh Mặt Trời thì rõ ràng nhà cửa thì tối tăm mà cuộc đời cũng sẽ thê thảm vì không còn màu sắc của sự sống nữa, tóm lại là xã hội sẽ thôi tồn tại. Ở đây chữ Hán được đem ra chiết tự chính là chữ  Gian có nghĩa là không gian, thời gian được ghép bởi chữ  Môn có nghĩa là Cửa và chữ  Nhật có nghĩa là Mặt Trời. Còn chữ Quốc Ngữ gồm chữ Thế mà không có dấu Sắc thì sẽ hóa ra chữ Thê)
Vế đối: Thần Tiên biệt dấu ngàn Non, Người đâu mà điệu Huyền còn thiết Thân (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Hán tự:  Tiên =  Sơn (Núi Non)+  Nhân (Người). Tiếng Việt: Thần = Thân + dấu Huyền. Ý vế đối: Lấy điển tích Lưu Thần và Nguyễn Triệu lạc Thiên Thai được kết duyên cùng Tiên nữ. Vì nhớ quê hương gia đình mà hai chàng xin về thăm. Chẳng ngăn cản được, Tiên nữ đồng ý để hai chàng về trần giới. Về đến quê, người thân gia đình hai chàng đã hóa ra người thiên cổ, vì một ngày cõi tiên bằng một năm cõi trần. Không còn ai thân thích, hai chàng trở lại núi Thiên Thai nhưng các Tiên nữ đã biến mất vì hết duyên tương ngộ!)

Nhà thơ Thế Lữ - vị Chủ Soái của phong trào Thơ Mới - có bài thơ Tiếng Sáo Thiên Thai sống mãi trong lòng những người yêu Lục Bát Việt Nam:

Ánh xuân lướt cỏ xuân tươi,
Bên rừng thổi sáo một hai Kim Đồng.
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng,
Buồn ơi! Xa vắng, mênh mông là buồn...
Tiên Nga tóc xoã bên nguồn.
Hàng tùng rủ rỉ trên cồn đìu hiu;
Mây hồng ngừng lại sau đèo,
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi.
Trời cao, xanh ngắt. - Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai.
Theo chim, tiếng sáo lên khơi,
Lại theo dòng suối bên người Tiên Nga.
Khi cao, vút tận mây mờ,
Khi gần, vắt vẻo bên bờ cây xanh,
Êm như lọt tiếng tơ tình,
Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không.
Thiên Thai thoảng gió mơ mòng,
Ngọc Chân buồn tưởng tiếng lòng xa bay...
  • vế ra: Ít Nước Cát ắt nổi lên, Cá sẽ Tê liệt Sa trên mé bờ (Trần Việt Hà) (Câu này chiết tự chữ Sa có nghĩa là Cát và chữ Cát viết theo lối Quốc Ngữ, chữ  Sa được ghép bởi bộ  chấm Thuỷ tức là Nước và chữ  Thiếu (hoặc Thiểu) có nghĩa là số Ít. Rõ ràng khi nước Ít (tức nước cạn) thì Cát sẽ nổi lên tạo ra các cồn cát chẳng hạn hoặc giả Cát lộ ra nhiều hơn lấn chiếm diện tích của lòng sông lòng suối, cái đó là 1 hình ảnh rất thực tế. Lúc ấy các loài Cá gần như bị Tê liệt vì không còn chỗ bơi lội, nhiều con bị Sa (sa lầy, mắc cạn) nằm quằn quại giãy dụa trên mé bờ Cát, đương nhiên đó là nghĩa gốc còn chữ Cát được ghép bởi Cá+T (tê). Tóm lại câu đối này phản ảnh việc thiếu nguồn nước trầm trọng, vấn đề hạn hán rất nan giải ngay đến con người còn không chịu nổi huống chi là con Cá. Ở đây mảng chiết tự mang tính chất cả từ gốc Hán (Sa) và từ dịch ra nghĩa Việt (Cát)...Sa có nghĩa là Cát)
Vế đối: Liền Cỏ Sen tất nở ra, Se lòng Anh đợi Liên tòa bên sông (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Hán tự:  Liên (liền) + bộ  Thảo (cỏ) =  Liên (hoa sen). Tiếng Việt: Se + N (anh) = Sen. Ý vế đối; Môi trường nước tốt, cỏ phát triển được thành đám nối dài liên tục thì sen cũng phát triển được để ra hoa tạo nên cảnh đẹp. Lòng chàng se lại vì nỗi nhớ thương, mong đợi nàng đến; đợi nàng cũng như đợi trăm đóa sen liên tòa tỏa hương thanh ngát bên sông)
  • vế ra: Tên Tre Trương Trước Cung Dài, Trường Sơn Huyền thoại đuổi loài ngoại xâm (Trần Việt Hà) (Câu này phải giải thích bắt đầu từ Cây Tre Việt Nam, đã được nhà thơ Nguyễn Duy mô tả chi tiết trong bài Tre Việt Nam nổi tiếng. Thời bình cây tre được sử dụng làm nhà cửa như trong bài hát "Cô Gái Vót Chông" - nhưng mai đây giặc chạy rồi, tre rừng ta làm nhà, làm chòi cao... Còn thời chiến lại là 1 thứ vũ khí sắp bén, có thể vót thành chông để đặt bẫy quân thù hoặc chế tạo thành mũi tên để ngăn chặn bước tiến của chúng. Thơ du kích của Bác Hồ có đoạn: "không có súng, ta dùng dao, ta dùng cuốc, ta dùng cào, ta lấy đòn gánh, ta nhổ cọc sào"...đòn gánh, cọc sào ở đây đều là những đồ vật làm bằng Tre vậy. Trong truyền thuyết dân gian, khi kiếm sắt bị gãy, Thánh Gióng đã nhổ tre nên quật tan tác giặc Ân, đó là điển hình về việc chiến tranh du kích. Như vậy vế xuất ở đây chúng ta có thể hiểu nôm na rằng: "mũi Tên bằng Tre lúc nào cũng giương sẵn ở vành cung, tức là quân đội và nhân dân ta luôn sẵn sàng ứng phó với mọi tình thế, giặc đến lập tức ta sẽ tổ chức kháng chiến để đánh đuổi ngay lập tức, Trường Sơn huyền thoại ở đây nói về cuộc "Trường kỳ kháng chiến xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước". Dải Trường Sơn ở phía Tây khác nào cái dây dung, chứa đựng bao nhiêu mũi tên lúc nào cũng "nhằm thẳng quân thù mà bắn". Nhìn trên bản đồ Thế Giới, nước Việt Nam chữ S uốn lượn theo hình vành cung, điểm nhô ra cực đông thuộc vùng Bình Định - Phú Yên - Khánh Hoà. Trông chẳng khác nào chiếc cung đang căng dây giương ra biển Đông, sẵn sàng chống trả kẻ thù nhòm ngó non sông gấm vóc mà cha ông ta đã mở mang xây dựng tự ngàn xưa. Tuy nhiên sự lắt léo của câu đối này lại nằm ở mảng chiết tự...thứ nhất là chữ  Trương có nghĩa là giương ra, phình ra được ghép bởi chữ  Cung có nghĩa là cái Cung - một thứ vũ khí dùng để triệt hạ các vật từ xa - và chữ  Trường có nghĩa là Dài. Thứ 2 ở đây chiết tự chữ  Tiễn có nghĩa là mũi tên, được ghép bởi bộ  Trúc có nghĩa là cây Tre ở phía trên và chữ  Tiền có nghĩa là Trước ở phía dưới. Bên cạnh đó, còn có phần chiết tự chữ Quốc Ngữ là chữ Trương, thêm dấu Huyền vào sẽ thành chữ Trường. Huyền trong Hán tự còn có nghĩa là dây cung, ngoài ra chữ Dài của vế trên câu đối và chữ Trường của vế dưới câu đối là âm Hán Việt cùng nghĩa)
Vế đối: Lòng Binh Bạch Chí Thuyền Không, Bạch Đằng Ngang dọc biển Đông du tuần (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Hán:  Chí =  Sĩ (binh) +  Tâm (lòng).  Bạch (thuyền lớn) =  Chu (thuyền nhỏ, đò) +  Bạch (trắng, không (không có gì)). Tiếng Việt: Bạch + dấu Ngang (không dấu)= Bạch. Thanh "Ngang" tức là thanh "Không" dấu, Không tức là Bạch trong Hán Việt). Ý vế đối: Lòng binh sĩ bộc bạch ý chí: Biển Đông là tập hợp của những dòng Bạch Đằng đan xen chảy ngang dọc khắp nơi trong lãnh hải của nước Việt. Dùng thuyền (tương lai khoa học phát triển, có thể dùng thuyền không, tức là thuyền không người lái) nghiêm ngặt du tuần là một biện pháp góp phần bảo vệ biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc ta.)
  • vế ra: TRĂNG soi trước CỬA NHÀ ANH, ÁNH TRĂNG SẮC TRẮNG đêm thanh thư NHÀN (Trần Việt Hà) (Đại ý câu này nói đến 1 đêm trăng sáng, ánh trăng soi trước cửa nhà tạo ra không khí tĩnh lặng nhàn rỗi vào ban đêm. Con người ta ban ngày tất bật với những lo toan, đêm đến là lúc rảnh rang nhất, lúc được nghỉ ngơi nạp năng lượng để chuẩn bị một ngày mới lao động cống hiến cho xã hội...Tất nhiên, nếu chỉ có vậy thì vế xuất này sẽ nhiều người đối được một cách dễ dàng...nó vẫn loằng ngoằng ở mảng chiết tự với 2 góc độ là Hán tự và Quốc ngữ. Thứ nhất câu này chiết tự chữ Nhàn ở cả 2 khía cạnh, về mặt Hán tự chữ  Nhàn có nghĩa là rảnh rỗi được cấu tạo bởi chữ  Môn có nghĩa là cửa ra vào (hoặc cổng) có chữ  Nguyệt có nghĩa là Mặt Trăng nằm gọn trong đó. Cổ ngữ có câu "vạn sự bất như nhàn" tức là muôn việc không gì sướng bằng Nhàn hạ rảnh rỗi, nhưng đấy là nhàn tuỳ lúc chứ ngày nào cũng vậy sẽ thành "Nhàn cư vi bất thiện" ngay. Thế nên Nhàn ở đây chỉ là lúc rảnh rỗi sau 1 ngày tất bật, xả hơi để hôm sau tiếp tục bon chen thì mới thấy giá trị của nó. Về phần chữ Quốc Ngữ thì chữ Nhàn được ghép bởi chữ Nhà + N (anh). Ngoài ra còn có 2 chữ khác được chiết tự cùng 1 lượt là chữ Anh + dấu Sắc = Ánh, chữ Trăng + dấu Sắc = Trắng...như vậy chữ Sắc ở đây chỉ có 1 nhưng phải gánh vác 2 nhiệm vụ, để tạo thành 2 chữ Ánh và Trắng trong vế xuất đối này. Tóm lại vế ra này độ khó của nó là chiết tự 1 chữ Hán và 3 chữ Quốc Ngữ: Nhà+n, Anh=Ánh, Trăng=Trắng)
Vế đối: TAI nghe lòng THÔNG THỜ ÔNG, ỐNG TAI SẮC TÁI rộng dòng tinh THÔNG (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Chữ Hán:  Thông (sáng suốt, tinh thính) =  Nhĩ (tai) +  Thông (gấp, nhanh). Tiếng Việt: Thông = Th (thờ) + Ông. Ống = Ông + dấu sắc. Tái = Tai + dấu sắc)

Những câu đối của Hoài Anh Võ Quang Thạch[sửa]

Vế xuất[sửa]

  • Có hai bố con người thợ sửa xe máy, trên đường đi lấy phụ tùng về thì gặp trời mưa,sợ ướt cái bao bố đựng bố thắng ông bố liền lấy bao bao lại,cậu con trai không biết nên hỏi. Bố đang làm gì đấy? Ông bố liền đáp:
Vế ra: BỐ BẢO BỐ BAO BAO BỐ BỐ (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Bao bố là loại bao gai to có nơi gọi là bao sọc xanh)
Vế đối: ME MOI ME MỒI MỒI ME ME (Thiền Long) (Theo từ điển chữ "me" có nhiều nghĩa trong đó có 3 nghĩa liên quan ở đây : "me"="mẹ"; "me"= "con bê"; "me"=" trái me hoặc cây me". Chữ "mồi" có nghĩa danh từ là "mồi để ăn, nhậu" và có nghĩa động từ là "cho, cung cấp...". Nghĩa vế đối là: mẹ lấy (moi) ra rồi mẹ cho mồi thịt bê có gồm me chua (có món thịt bò xào me chua, gỏi bò tái me cũng phổ biến trên mạng). Toàn vế đối đều sử dụng một phụ âm đầu "M". Các từ loại của vế đối đều logic với vế thách)
vế đối khác: Mấy phút im lặng trôi qua mà chẳng thấy cô con gái nói gì, ông ta quay sang: "Con đang loay hoay cái gì vậy hả?" Cô con gái thản nhiên trả lời: CON COI CON CÓC CÓC CON CON... (Nguyễn Hữu Quyến)
  • vế ra: Nàng Hai bắt cá nàng hai, hái lá nàng hai đem từ La Hai vào chợ Phạm Văn Hai, bán được hai triệu hai (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (La Hai là thị trấn ở Phú Yên, Chợ Phạm Văn Hai ở TP. Hồ Chí Minh. Nàng Hai là danh từ riêng nàng ấy có tên là Hai. Cá Nàng hai là danh từ chung, là loài cá thuộc dòng thát lát, Lá Nàng hai là danh từ chung ,đó là cây nàng hai chữa được rất nhiều bệnh)
vế đối: Ba Ba chạy xe ba ba, mua bầy ba ba, chuyển chỗ Ngã Ba về vùng Quân Khu Ba, tốn hết ba trăm ba (Thiền Long) (Xe ba ba chỉ các xe mang biển số 33 Hà Tây; Ngã Ba là ga xe lửa Ngã Ba thuộc TP.Cam Ranh tỉnh Khánh Hòa; Quân Khu Ba ở Hải Phòng)
vế đối khác: Bác Tám, chôm đồ Bác Tám, qua mồ Bác Tám, đi tắt Quận Tám đến nhà Người Thứ Tám cầm đỡ tám ngàn tám (Dương Hồng Kỳ)
  • vế ra: Chả nướng chả chứ chả chả nướng chả (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (nghĩa là chả (hắn) nướng chả (thịt) chứ hắn không nướng chính hắn)
vế đối: Lọ dính lọ chứ lọ lọ dính lọ (nghĩa là cái lọ dính lọ (nhọ nồi) chứ không dính cái lọ khác ; lọ cũng có nghĩa phủ định như chả)(Thiền Long)
  • Đúng 8h30 ngày 21/8/2016 đường lên đỉnh Olymbia được khởi hành chặng cuối về đích. Bạn Tiến Tùng học sinh trường chuyên Nguyễn Du Đaklak được vào chung kết. Hứng khởi trước sự kiện lần đầu tiên đaklak có cầu truyền hình trực tiếp Hoài Anh có đưa ra một vế xuất hầu động viên bốn chàng trai về đích:
Vế ra: Nắng sớm nghiêng BÓNG, in DÁNG ẢNH qua cầu truyền HÌNH (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
Vế đối 1: Kính xưa dạy NI, nhớ SƯ THẦY dặn nốt nhạc ĐIỆU (Thiền Long)
Vế đối 2: Tôi trung khóc VUA, hận QUÂN VƯƠNG phục mình phủ CHÚA (Tạ văn Hoành)
Vế đối 3: Vườn khuya ngóng TRĂNG, rọi HẰNG NGA lướt lầu vọng NGUYỆT (Thao Vu)
Vế đối 4: Thuyền trôi sông GIÀ, tiễn ÔNG CỤ đến nhà dưỡng LÃO (Minh Trân)
Vế đối 5: Màn đêm trải SƯƠNG, vãi LÀN MƯA lên đường băng tuyết (Lý Hồng Đức)
  • Vế ra: THẾ CÔNG của ngành THỐNG KÊ toàn những KẾ THÔNG (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
Vế đối: KẾ TINH riêng khoa KINH TẾ đâu chỉ KÊ TÍNH (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • Vế ra: Điểm danh những Điểm thi, thi Điểm đạt Điểm thi cao (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
Vế đối: Pháo kích các Pháo thủ, thủ Pháo thành Pháo thủ giỏi (Thiền Long)
  • Vế ra: Lái tàu chở GA, lên GA, mau về GA, để vui thả GA (Hoài Anh võ Quang thạch) (chứ "ga" đầu tiên là "khí đốt", "ga" thứ hai là "ga tăng giảm tốc độ của máy", "ga" thứ ba là "nơi dừng, đỗ của xe lửa", "thả ga" thứ tư ý nói vui hết cỡ)
Vế đối: Thi cờ thắng NƯỚC, uống NƯỚC, vội chuyển NƯỚC, lại đấu đục NƯỚC (Thiền Long) (Vế đối có nước cờ, nước uống, nước = Quốc gia. Đấu đục nước là thi đấu sôi nổi gay cấn đối với vui thả ga là vui hết cỡ)

Vế đối phối hợp nhiều kiểu[sửa]

  • Đầu thế kỷ XX ở Nam Định có 1 giai nhân tên là Công, mở cửa hàng bán giấy bút cho các sĩ tử trong mỗi kỳ thi. Năm nào cũng vậy, đến khoa thi cô lại treo câu đối kén chồng, nội dung như sau:
Vế ra: Cô Công còn kén (câu này khó ở chỗ sử dụng Pháp ngữ, trong tiếng Pháp cocon đọc thành Cô Công, có nghĩa là cái Kén. Qua bao nhiêu kỳ thi, vẫn chưa có ai đối lại được câu này, không rõ sau cô Công có lấy chồng không thì sử sách không thấy đề cập tới?)
vế đáp:Bu Teo đã ưng (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Buteo là tên của một loài chim ưng)
  • Ông Nguyễn Minh Khôi - Hội VHNT Đà Nẵng đăng trong tuyển tập Thời Văn số 10, xuất bản năm 1995. Có giai thoại rằng câu đối của một Thầy Đồ ở Hòa Cường - Đà Nẵng dùng để kén rể! Rất tiếc đến năm 1984, cô con gái rượu của Thầy dù đã lớn tuổi nhưng vẫn chưa có chồng vì chưa ai đối được do "mai vàng" nói lái thành "mang vài"!
vế ra: Bánh chưng xanh, câu đối đỏ, cây mai vàng mang vài thiệp Tết
vế đối: Chị áo tím, anh quần cam, em trai hồng trồng hai gốc đào (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
vế đối khác: Ngọn nêu biếc, dây pháo hồng, đèn giấy mơ giơ mấy chữ Xuân (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)(Đã đăng trong tuyển tập Thời Văn số 16/17 xuất bản năm 1997)
  • Trong 1 lễ hội khánh thành đình Lương Xá (nay thuộc thôn Lương Xá thuộc xã Kim Lương huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương, có mấy chàng trai ở thôn Cổ Phục láng giềng đi xem hội cứ đứng chỉ trỏ mà không tham gia đối đáp, nhân đó đám con gái liền chòng gheo:
Mấy anh ôm dái kè kè, hát thì chả hát đứng nghe ngóng gì
Mấy anh kia không biết trả lời thế nào,bẽ mặt rủ nhau lủi về mất. Khi về đến làng thì gặp bà Nguyễn Thị Đảng (1895 - 1960) tục gọi bà cụ Lược là người hay chữ, con cụ đồ nho trong làng. Bà hỏi tại sao không xem hội nữa mà về sớm thế, mấy anh thuật lại câu chuyện, bà liền gà cho mấy anh đối lại như sau:
Ở đây mở hội khánh thành, để cho gái tốt trai lành đến chơi, sao em ăn nói lạ đời, chua ngoa kiêu ngạo những lời khó nghe, hai tay em giữ lấy ghe, kẻo anh quật xuống anh đè lên trên.
Mấy anh quay lại đám hội gặp bọn con gái vẫn đang ở đó liền đọc ngay bài thơ trên khiến họ thẹn đỏ mặt mà chịu thua, nhưng nếu phân tích thì bài thơ này cũng phải sử dụng tới 2 câu lục bát gấp đôi vế ra của các cô gái, cho nên có thể gọi là thua mới phải, gần đây có ông Hoài Anh Võ Quang Thạch đối lại rất chính xác như sau:
" Tụi em cầm mic khư khư, hót sao chẳng hót ngồi cười cợt chi "
  • Thi sĩ Bút Tre có 1 vế xuất khá độc đáo như sau:
vế ra: Anh đi công tác Pơ - lây, cu dài dằng dặc biết ngày nào ra? Còn em em vẫn ở nhà, cửa mình em mở người ra kẻ vào (Bút Tre)
vế đối: Em đi du lịch Bờ Ru, Nây tròn đủng đỉnh chắc lâu mới về, thôi anh anh ở lại quê, chốt phòng anh đóng xóm vê làng vò (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • vế ra: Tái ông thất mã, trong rủi có may (khuyết danh)
vế đối: Mục đồng mất dê, khác nhân cùng quả (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
vế đối khác: Bọ ngựa bắt ve, trong lợi có hại (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Đêm ba mươi tết cọp nằm nhà, xoa đầu con, beo má vợ, sẵn tương ớt, rót hổ cốt nhắm với tôm hùm, no kễnh bụng (câu đối tết Bính Dần (1986) của nhạc sĩ Trọng Bằng)(ba mươi, cọp, beo, hổ, hùm, kễnh đều là danh từ chỉ loài hổ. Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931) giải thích : "Ba mươi" là tên con cọp, lệ ngày xưa ai bắt được hổ thì thưởng ba mươi quan tiền và phạt ba mươi roi, lại có người nói hôm ba mươi tết cọp hay ra quấy nhiễu, cho nên thành tên ấy. "Cọp" có nguồn gốc từ chữ Cụ (bộ Tâm): Kinh hãi, kính sợ, hạch dọa người ta (Đào Duy Anh). "Kễnh" là phương ngữ miền Bắc, được đồng bào miền núi dùng để gọi hổ để tỏ lòng kính sợ (Génibrel) xuất phát từ chữ chữ Củ (bộ Tẩu): Tả cái dáng vũ dũng (Thiều Chửu) và mạnh mẽ (Đào Duy Anh)
vế đối: Tuổi ba hai xuân rắn vào phòng, quấn đuôi cháu, tị lòng chồng, tiện muối tiêu, pha xà tửu nhậu cùng cơm đẻn, đói trăn lòng (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (số 32 tương ứng con rắn trong số đề, cơm đẻn là rắn biển)
  • Một hôm, Ba chồng đang ngồi xem tivi chương trình thời sự quốc tế, cạnh đó là cô con dâu đang mải nhặt rau. Con dâu ăn mặc khá mát mẻ, vô tình ngước lên thấy ba chồng không chú ý lên màn hình mà cứ nhìn chằm chằm về phía mình. Con dâu biết ý liền hỏi: "Tình hình thế giới có gì không ba?":
Ba chồng giật mình, tuy nhiên ông cũng kịp trả lời: Áo đang tuột dốc, Mông Cổ sơ hở, Cu Ba căng thẳng!
Bà mẹ chồng nghe nói thế bèn lên tiếng: Ý đợi lên đèo, Eo Miệng hớ hênh, Núi Bà sục sôi! (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Ý là nước Ý. Eo Miệng là Eo biển Bocas del Dragon nối vịnh Paria và biển Caribe còn gọi là Eo Miệng Rồng. Núi Bà là vườn quốc gia Bodoup Núi Bà ở Lâm Đồng hoặc Núi Bà ở huyện Phù Cát tỉnh Bình Định)
  • Có một ông thợ hớt tóc góa vợ nên đã quan hệ “già nhân nghĩa, non vợ chồng” với một bà góa chồng. Ông tự “vịnh” về mối quan hệ của chính mình như sau:
vế ra: Yêu em từ độ Méo Trời, khi nào Méo Đất mới rời em ra! (Yêu từ thuở “méo trời” đã hay, nhưng công khai thừa nhận sẽ hết yêu khi “méo đất” dẫu có hơi ác nhưng cách dùng từ thì quả thực tinh quái và thông minh hết chỗ chê)
vế đối: Ghét anh lúc buổi Vênh Trăng, đến nay Vênh Đá còn hăng mò vào! (Hoài Anh Võ Quang Thạch) ("Vênh trăng" lái thành "văng trên", "vênh đá" lái thành "va đến")
  • Có một chàng trai xưa kia có râu, cạo râu xong, cô bạn gái nhận không ra. Nhân đó chàng bèn tức cảnh làm thơ nói lái:
vế ra: Xưa tê câu ró ngó xinh, bây giờ câu rạo vô tình ngó lơ (Ở đây câu ró, câu rạo không dính líu xa gần với chuyện đi câu)
vế đối: Ngày nay bóc túi thấy ngầu, ngày xưa bóc tỏ ngắm lâu thấy thèm (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Nói về cô gái: ngày xưa bỏ tóc đuôi gà, bây giờ búi tóc tuy già...nhưng sang)
  • Trong dịp nghỉ lễ 30/4 và 1/5 năm 2016...Hoàng Thành Ân cùng gia đình có việc về bên ngoại dưới xã Đại Bản (thuộc huyện An Dương - Hải Phòng). Trên đường đi ông thấy có 1 chiếc xe máy kẹp 3 đi ngược chiều do 3 thanh niên điều khiển, mặt mũi mấy anh này đỏ gay đỏ gắt có lẽ vừa nhậu nhẹt ở đâu đó về. Bất chợt, chiếc xe đâm thẳng vào cột mốc bẹp dí, 3 người ngồi trên văng ra...người cầm lái va đầu xuống đất máu chảy mặt nhợt ra còn 2 người kia bị đập xưng cả vai gáy, lúc đó ông chỉ than vãn nói rằng đi ẩu vi phạm luật giao thông mà thôi. Rồi gia đình ông tiếp tục đi, sau đó ông nghĩ lại sự việc trên chợt nảy ra 1 vế xuất:
vế ra: Ba Bố Đỏ Mặt Tía Tai, Miệng Môi Trắng bệch Gáy Vai Tím Bầm (vế xuất này có 3 điểm cần lưu ý, thứ nhất là các từ Ba, Bố, Tía cùng 1 nghĩa là người Cha. Thứ hai có 3 từ chỉ màu sắc: Đỏ, Trắng, Tím trong đó Tím=Tía trong chữ Hán Việt. Thứ ba là có 6 chữ chỉ bộ phận trên cơ thể người: Mặt, Tai, Miệng, Môi, Gáy, Vai...Ngoài ra chữ Bầm có nghĩa là mẹ đối lại với mấy từ có nghĩa là Cha ở trên, phương ngữ của 1 số vùng ở khu vực phí Bắc đại ý câu đối này nói rằng: ba người thanh niên kia trong lúc bị tai nạn mặt thì đỏ tai thì tía miệng môi thì trắng bệch còn vai gáy thì tím bầm trông rất thảm hại, đó là cái giả phải trả cho việc uống bia rượu tham gia giao thông vậy)
vế đối:Tỉ Chị Mượt Áo Ả Eo, Cổ Tay Óng ánh Gấu Bèo Thướt Tha(Hoài Anh Võ Quang Thạch) Theo phương ngữ miền trung có vùng người ta gọi chị là Ả Ví dụ "tại anh tại Ả tại cả hai bên"Ả theo từ điển Hán Việt Trần Văn Chánh thì có nghĩa là thướt tha mềm lả. Tỉ=Chị=Ả có một nghĩa là chị và có 3 tính từ: Mượt, Óng và thướt tha và có 6 chữ chỉ bộ phân trên chiếc áo dài: Áo Eo, Cổ, Tay, Gấu, Bèo...ngoài ra Chữ "Tha" theo từ điển Hán Việt Trần Văn Chánh thì có nghĩa là anh ấy, ông ấy, bà ấy (ngã là ta, Tha là khác Khác ta có nghĩa là ông ấy bà ấy hoặc anh ấy).Ý của của vế đối nói về một tỉ người chị mặc áo dài đều đẹp và thướt tha.
  • vế ra: Trai Sóc Trăng dưới trăng sóc chai (khuyết danh)
vế đối: Mái Đập Đá trên đá đập mái (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Đập Đá là phường thuộc thị xã An Nhơn tỉnh Bình Định)
  • vế ra: Hai vợ chồng bác Ba Tư sang xứ Ba Tư suốt ba tư năm, từ năm ba tư tuổi đến khi đầu hai thứ tóc mới trở về (các chữ Ba và Tư đầu tiên là tên riêng của 2 nhân vật trong vế đối, chồng là Ba vợ là Tư) (Trần Việt Hà)
vế đối: Đôi anh em nhà Mười Bốn xuống cầu Mười Bốn hơn mười bốn năm, từ năm mười bốn tuổi tới lúc nên đôi thành lứa không đi nữa (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • vế ra: Đôi trai gái thăm hòn trống mái, ngồi quán mai chống toàn giở trò trống mái (khuyết danh)
vế đối: Hai vợ chồng ăn bánh phu thê, bán cà phê thu tiền vun nghĩa phu thê (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • vế ra: Bà Ba vận áo bà ba xuống xuồng ba lá đến ngã ba Lá (khuyết danh)
vế đối: Nàng Hai xếp lá nàng hai lên xe hai bốn ra đường Hai Bốn (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Lá Nàng hai là thảo dược chữa bệnh sưng niệu quản. Xe hai bốn là loại xe có 24 chỗ ngồi. Đường hai bốn là Quốc lộ 24)
  • vế ra: Vào hang cọp, gặp beo mù, tưởng báo gấm, nhác trông như sư tử cái, lại bé con con, thì ra là con mèo hoang (khuyết danh)
vế đối: Vô rừng tre, thấy mây trăng ngỡ trúc gai, thoạt nhìn giống lồ ô đực, mà nhỏ thon thon, đích thị đúng cây măng non (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • vế ra: Ngồi cống ao, Chàng bắc chân chữ Ngóe, uống rượu thịt Ếch, Cóc có tiền lại còn nói Ương
vế đối: Đi ra đồng, Cu đưa tay vần Cuốc, cột dây thả Diều, Cốc biết làm mà gọi nhà Nông (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • vế ra: Giẻ lau bán rẻ, mua chùi lá cọ (khuyết danh - chú ý 2 chữ Giẻ, rẻ và 3 động từ: lau, chùi, cọ)
vế đối: Trai cày giá chai, sang phay vườn đào (Trai, Cày, Giá, Chai, Sang, Phay, Đào là những cây thực vật) (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
vế đối khác: Tranh vẽ trái chanh phải tô phụ họa (khuyết danh: Tranh=chanh, vẽ=tô=họa)
  • vế ra: Anh Hươu đi chợ Đồng Nai, bước sang Bến Nghé ngồi nhai thịt Bò
vế đối: Chị Cò lên phố Lây Cu, bay ra Mèo Vạc đứng gù chú Chim (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Lây Cu= Pleiku)
  • vế ra: Trai Giá Rai, ngồi nhậu lai rai, lòi dái ra (Giá Rai là tên một huyện ven biển ở phía Tây Nam tỉnh Bạc Liêu)
vế đối:Gái Mù Sang, đứng hát sang sảng, sàng mu lịa (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Mù Sang là xã thuộc huyện Phong Thổ tỉnh Lai Châu)
  • vế ra: Đá chẳng có chân sao gọi là Đá Nhảy, Cát không mồm miệng sao dám bảo Cát Gầm? (“Đá Nhảy” và “Cát Gầm” là hai địa danh ở Quảng Bình)
vế đối: Dốc vẫn nằm yên mà kêu là Dốc Lết, đất chẳng mặt người mà cứ gọi Đất Mũi! (Hoài Anh Võ Quang Thạch) ("Dốc Lết" là bãi tắm ở Khánh Hòa, "Đất Mũi" là tên gọi khác của tỉnh Cà Mau)
  • vế ra: Năm Giáp Ngọ đến, hãy lấy tâm, đức làm đầu, đừng để bị chê cười vẻ bề ngoài tốt mã
vế đối: Niên Quý Tỵ đi, nhớ giữ hiếu, tình trước tiên, khỏi phải vướng ngó nhìn tính bên trong tâm xà (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • vế ra: Không đi không biết Đồ Sơn, đi rồi mới thấy chẳng hơn Đồ Nhà, Đồ Nhà tuy có hơi già, nhưng là Đồ Thật chẳng là Đồ Sơn (Đồ Sơn ở đây là tên một bãi biển Du Lịch ở thành phố Hải Phòng nổi tiếng với những Cave gái gọi cao cấp từ thời Pháp thuộc, ở đây tác giả khéo vận dụng chữ Đồ để ám chỉ Đồ Sơn có nghĩa là Đồ Giả, còn Đồ Nhà mới là Đồ Thật)
vế đối:Chẳng ra chẳng tỏ Hàng Đường, ra xong mới tỏ tương đương hàng mình, hàng mình dù cũ vẫn xinh, đúng là hàng tốt khỏi rinh hàng đường (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Hàng Đường là một trong 36 phố cũ Hà Nội)
  • vế ra: Không đi không biết Sài Gòn, đi rồi nhẵn túi chẳng còn một xu. Về nhà mới thấy rằng ngu, mình tiêu thì ít thằng cu thì nhiều (đây là trò chơi chữ đồng âm, bài thơ cố tình nhập nhằng để người khác hiểu là 2 bố con đi Sài Gòn chơi tiêu hết sạch tiền, nhưng thực ra không phải vậy)
vế đối: Chẳng sang chẳng tỏ Ma Cao, sang xong sạch bóp còn sao? mấy hào! tới quê sực tỉnh mình đao, chị xài chẳng mấy bé ngao quá trời (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • vế ra: Cỏ đầu Cầu Đỏ xanh biêng biếc, cò lửa Cửa Lò trắng phau phau (Cửa Lò ở Nghệ An; Cầu Đỏ ở Đà Nẵng)
vế đối: Sam lông Sông Lam xám xìn xịt, đa lông Đông La xanh đầm đậm (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Sam lông là hải sản, đa lông là cây cảnh, Đông La là xã thuộc huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình)
  • vế ra: Đôi ta như chỉ, chỉ se. Xỏ kim, kim xỏ; may hè, hè may. (khuyết danh)
vế đối: Một mình giống cột, cột đôn. Đóng đinh, đinh đóng; bào hôn, hôn bào (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • vế ra: Anh Thông nhớ ông Thanh, về Thủ Đức năm canh thức đủ
vế đối: Ông Hèm giận em Hồng, ra Thái Đức suốt đêm thức đái (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Thái Đức là xã thuộc huyện Hạ Lang tỉnh Cao Bằng)
vế đối khác: Cụ Trô nhắn cô Trụ, ghé Giồng Trôm chớ có dòm trông (khuyết danh)
  • vế ra: Dê Dương của Quí đứng khoe Mùi (khuyết danh: dê=dương=mùi, dương cũng là động từ giương=giơ lên cao, mùi còn có nghĩa là mùi vị nữa, của quí chắc ai cũng đoán được là cái gì, Quý Mùi ghép lại thành 1 con giáp)
vế đối: Gà Kê hàng Đinh nằm úp Dậu (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
vế đối khác 1: Khỉ Hầu bà Giáp đến cực Thân (vanlu)
vế đối khác 2: Chuột Thử nồi Canh, rồi húp Tí (Kvkt)
  • vế ra: Ba Bà Bá ngồi nhai Bã trầu, nhổ bậy Bạ như ăn phải Bả (Đỗ Đình Bao) (câu này có thể hiểu là 3 bà chị ruột của mẹ ngồi nhai bã trầu, nhai xong nhổ bừa bãi như là đang ăn phải Bả vậy...Ba, Bà, Bá, Bã, Bạ, Bả)
Vế đối:Tỉ Tí Tì đứng bơm Tị nước, chảy bét Tĩ giống tuột mất Ti (Hoài Anh Võ Quang Thạch) ("Tỉ" có nghĩa là chị gái, "Tí" theo phương ngữ vùng đồng bằng Bắc bộ có nơi người ta gọi chung con gái là Tí, ví dụ: Tí Nga, Tí Huệ, Tí Hồng v.v... Còn "Tì" theo Từ điển Hán Việt thì có nghĩa là hầu gái hay tì gái. Tỉ Tí Tì đối với Ba Bà Bá, "chảy bét Tĩ" theo Từ điển tiếng Việt có nghĩa là chảy kém nhất, chảy yếu nhất, "Ti" là danh từ chỉ cái ti của máy bơm nước bằng tay. Nội dung của vế đối nói về tỉ người hầu gái (hoặc chị gái) đều cố gắng bơm lấy nước trong tình hình hạn hán, nhưng nước chảy quá yếu giống như ti nước bị hỏng!)
  • vế ra: Người Kỷ Tị tự răn Mình, xét soi Dĩ vãng duyệt trình tương lai (Vũ Quang Long)(Trong Tử Vi Đẩu Số những người tuổi Kỷ Tị thường có tố chất tự răn mình bằng cách chiêm nghiệm những gì đã qua, rồi lấy đó để làm bàn đạp làm kinh nghiệm để hướng tới tương lai cũng là để truyền đạt lại kinh nghiệm cho thế hệ mai sau, đó gọi là "luận cổ suy kim". Ở đây dùng 3 chữ thuộc bộ Kỷ có các nét giống nhau gồm: Kỷ, Tị và Dĩ. Chữ  Kỷ là hàng can xếp thứ 6, có nghĩa là bản thân Mình, chữ  Tị là hàng can cầm tinh con Rắn, còn chữ  Dĩ là cái gì đã qua. Ở đây chỉ có khác nhau trong các chữ ở chỗ chữ Kỷ thì phần trên hoàn toàn trống ở một mé bên tay trái, chữ Kỷ thì thì hoàn toàn kín cả, còn chữ Dĩ thì khe hở nửa vời)
Vế đối: Tuổi Giáp Thân giáp hộ thân, chớ nên do dự chuyên cần sớm hôm (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Vế đối dùng 3 chữ thuộc bộ điền Giáp Thân và Do. chữ Giáp là can xếp thứ nhất,có nghĩa là áo giáp bảo vệ bên ngoài, chữ Thân là cầm tinh con Khỉ, chữ Do có nghĩa là ban đầu. ở vế đối cũng có ba chữ thuộc bộ điền gần giống nhau chỉ khác chút xíu ở chỗ nét xổ, (chữ Thân lồi ở hai đầu, còn Giáp thò dưới Do ngầu ló trên) ý vế đối nói về người tuổi Giáp Thân đừng ỷ lại mà phải nên rèn luyện chuyên cần thì tương lai sẽ tốt đẹp)
  • Vế xướng: CẲNG CÒ CÁ CẮN CÒ CO CẲNG (trung30)
Vế đối: CÀNG CÒNG CUA CẠ CÒNG CONG CÀNG (Hoài Anh Võ Quang Thạch)

Vế đối chiết tự[sửa]

  • vế ra: Đón chào Sáng sớm tinh sương, mặt Trời chiếu khắp Mười phương huy hoàng (Vũ Quang Long) (câu này chiết tự chữ  Tảo có nghĩa là buổi sáng sớm, được ghép bởi chữ  Nhật nghĩa là Mặt Trời ở bên trên và chữ  Thập nghĩa là số 10 ở phía dưới)
vế đối: Tiễn ai Trưa nắng quang mây, có Người hong nhớ Chục ngày tương tư(Hoài Anh Võ Quang Thạch) (câu này chiết tự chữ  Ngọ có nghĩa là buổi trưa chính ngọ, được ghép bỡi chữ  Nhân "người" ở trên và chữ  Thập "chục" ở bên dưới)
  • vế ra: Gái Sinh con đúng lẽ trời, cội nguồn bách Tính nối đời nghiệp gia (Hoàng Trần Tư) (Đại ý câu này nói nên chuyện đàn bà con gái sinh con là quy luật của tạo hóa, đó cũng chính là cỗi rễ của sự phát sinh ra trăm họ, và cũng là cái gốc của gia thế giống nòi vậy. Ở đây chiết tự chữ  Tính có nghĩa là họ, được ghép bởi chữ  Nữ có nghĩa là người con gái và chữ  Sinh có nghĩa là đẻ, là sinh sôi nẩy nở)
Vế đối: Lão Rằng thơ hợp ý người, tương lai độc Giả mở lời văn chương (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Vế đối chiết tự chữ  Giả có nghĩa là người (ví dụ như độc giả, ký giả, khán giả vv...) được ghép bởi bộ  Lão ở trên có nghĩa là già và chữ  Viết ở dưới có nghĩa là rằng nói rằng. Ở đây bộ Lão được cắt bỏ phần dưới để tránh nhầm lẫn với chữ  Kỳ có nghĩa là tuổi thọ trên 60, chủ ý của vế đối nói về chuyện ông lão cho rằng làm thơ mà hợp ý người thì tương lai người đọc "độc giả" sẽ đón nhận. Độc Giả trong Bách Tính)
  • vế ra: Ba người ngồi bóng mặt trời, cửa đông cỏ mọc chàng thời đối chi? (ba chữ  Tam,  Nhân,  Nhật ghép lại thành chữ  Xuân (ba người ngồi bóng mặt trời) và chữ  Môn thêm chữ  Đông và cái  Thảo đầu là thành ra chữ Lan (Cửa đông cỏ mọc). Vế trước chiết tự chữ Xuân và vế sau chiết tự chữ Lan, Xuân Lan có nghĩa mà hoa Lan mùa Xuân đó chính là đặc trưng của mùa này vậy)
Vế đối: Một cây kề ánh lửa hồng, thảo mễ bao kín khó lòng bới ra! (Hoài Anh võ Quang Thạch) (tách chữ "hoà" ta có chữ "nhất" và chữ "mộc", ba chữ  Nhất,  Mộc và  Hoả ghép vào ta có chữ  Thu có nghĩa là mùa thu. Bộ  Thảo đầu có nghĩa là Cỏ,  Mễ là Gạo và bộ  Bao ghép lại ta có chữ  Cúc có nghĩa là hoa cúc. Thu Cúc là mùa thu có hoa cúc)
  • vế ra: Ít Gái quả thật Diệu kỳ, đàn ông Dê Nặng còn gì chữ Yêu (Trần Việt Hà) (Câu này nói về vấn nạn mất cân bằng giới tính bởi tư tưởng trọng nam khinh nữ trong xã hội hiện đại, trường hợp hiếm gái, ít gái thì diệu kỳ ở chỗ là người con gái sẽ có giá trị đến mức kỳ diệu. Siêu âm hễ thấy thai nữ là bị phá ngay, đặc biệt ở Trung Quốc thế nên con gái có giá trị. Nhưng đó cũng tạo ra 1 tệ nạn mới là buôn bán phụ nữ, lúc đó đàn ông thiếu sinh lý sẽ có máu Dê nổi lên rất nặng, chữ Yêu bấy giờ chẳng có ý nghĩa gì cả, buôn bán về ép làm vợ thì còn gì gọi là yêu nữa. Câu này chiết tự chữ  Diệu trong Hán ngữ có nghĩa là tốt là hay như tuyệt Diệu, kỳ Diệu, huyền Diệu...được ghép bởi chữ  Nữ có nghĩa là người con gái và chữ  Thiếu (hoặc thiểu) tức là số ít. Về mặt Quốc Ngữ chữ Diệu được bẻ thành 3 mảng: D (dê) + Iêu (yêu) + dấu Nặng ở phía dưới)
Vế đối:Lớn Dê thì thích Mỹ miều, Chàng ơi em Ngã dám liều xiêm y (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Vế đối chiết tự chữ  Mỹ có nghĩa là đẹp, tốt đẹp mỹ miều, được ghép bỡi bộ  Dương là con dê và chữ  Đại có nghĩa là to lớn nhiều. về mặt Quốc Ngữ chữ mỹ = y + dấu ngã ở phía trên
  • vế ra: Vội VÃ chẳng NGÃ cũng VA, sao ANH phải chạy tẹt GA làm gì? (Hoàng Trần Tư)(Ở đây chiết tự 2 chữ Quốc Ngữ: thứ nhất Vã - dấu Ngã = Va; thứ hai N (anh) + Ga = Nga + dấu Ngã = Ngã. Như vậy dấu Ngã ở đây chỉ có 1 nhưng mang 2 chức trách, đầu tiên tách khỏi chữ Vã để tạo ra chữ Va, sau đó lại nhập với chữ Nga để thành chữ Ngã. Đại ý câu này phản ánh vấn đề trật tự an toàn giao thông ở Việt Nam, thông đường đi đường mà để vội vã thì không tự vấp ngã cũng dễ va chạm vào người khác gây tai nạn, vậy mới có câu hỏi tại sao cứ phải chạy tẹt ga làm gì, đi từ từ bình tĩnh đúng tốc độ vừa phải thì làm sao nên nỗi)
Vế đối: Sành Sỏi chưa Hỏi đã Soi, nên Hờ cố bắt đầy Oi cua đồng (Hoài anh Võ Quang Thạch) (vế đối chiết tự 2 chữ Quốc Ngữ: thứ nhất Sỏi - dấu Hỏi = Soi; thứ hai H (hờ) + Oi+dấu hỏi = Hỏi Chữ Hờ theo dân tộc ê đê chữ hờ là chỉ chung người con gái ví dụ h'linh h'Nga vv...OI là cái giỏ đựng tôm cua đan bằng tre nứa)
  • vế ra: Khi Đàn Ông biết Đẻ con, sẽ toàn hàng Ngoại chẳng còn họ đương (Hoàng Trần Tư) (vế xuất này nói nên 1 sự việc không bao giờ xảy ra, có chăng chỉ trong thần thoại và trường hợp duy nhất là Đường Tăng cùng Trư Bát Giới khi đến Tây Nương nữ quốc uống phải nước sông mẫu tử mới mang thai mà thôi. Đại ý của vế xuất này này có nghĩa là nếu trường hợp đàn ông mà biết sinh con thì thiên hạ sẽ chẳng cần phải duy trì dòng họ làm gì nữa, đó là nghĩa gốc còn vấn đề ở đây lại rích rắc thuộc về mảng chiết tự. Trong Hán tự, chữ  Sanh được ghép bởi 2 chữ  Sinh có nghĩa là Đẻ và chữ  Nam có nghĩa là Nam giới, chỉ Đàn Ông nói chung. Chữ Sanh ở đây có mấy nghĩa đều thuộc về bên ngoại, thứ nhất là cháu ngoại, thứ 2 là cháu gọi bằng gì bằng cậu cũng là ngoại, thứ 3 là chàng rể mà các cụ vẫn nói "nữ nhân ngoại tộc" hoặc "dâu con rể khách" cũng có nghĩa như người ngoài. Vì nói đến duy trì dòng họ là phải họ đồng tông theo ngành dọc, nhưng muốn duy trì thì phải có con dâu, đàn ông đâu thể làm được việc đó, vậy nên việc đó chỉ là điều không tưởng mà thôi. Ngoài ra, vế đối còn xuất hiện 3 thế hệ đó là: Ông, Đẻ "tức Mẹ" và Con...chữ Hàng và chữ Họ cũng có liên quan mật thiết với nhau)
Vế đối: Lúc Con Gái hiểu Nương chồng, thì theo phía Nội tổ tông con mình (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (vế đối chiết tự chữ  Nhân có nghĩa là nhà trai, là phía nội của con mình được ghép bỡi chữ  Nữ có nghĩa là con gái và chữ Nhân có nghĩa là động từ nương tựa nương theo. Vế đối cũng xuất hiện Gái, Nương(nàng), Chồng(chàng) và cả con nữa, Tổ và Tông cũng liên quan chặt chẽ với nhau. ý của vế đối nói về một khi người con gái đã xuất giá theo chồng thì đã là con của nhà khác rồi phải theo phía nội của con trai mình và có trách nhiệm duy trì dòng tộc của chồng mình)
  • vế ra: Hai Anh O ép một Em, trẻ người Non dạ phỏng Xem Ích gì? (Hoàng Trần Tư)(Câu này phản ánh trường hợp có 2 anh chàng đến tán tỉnh 1 cô gái như kiểu ép cô phải lấy mình làm chồng, tất nhiên cô kia chỉ lựa chọn được 1 trong 2 người thôi, mà ngay luật pháp thời xưa cũng như thời nay đều không cho phép đàn bà có 2 chồng. Vậy mới nói 2 anh này chỉ là trẻ người non dạ, thấy người ta đã có tình cảm thật với đối phương rồi thì 1 người nên tự động mà rút, cứ kéo dài cuối cùng chỉ 1 người được 1 người ắt thua, vớ vẩn cô kia có khi lại lấy hẳn người khác thì cả 2 anh đều hụt hẫng, vậy phỏng có ích gì cái chuyện giành giật trong khi đó thiên hạ có đâu thiếu người. Giả sử có đấu đá 1 mất 1 còn rồi cũng để làm gì, cho nên cứ 1 bên nhường nhịn thì mọi sự tất sẽ toàn vẹn. Câu này chiết tự 2 chữ Quốc ngữ là chữ Non và chữ Xem, chữ Non được cấu tạo bởi 2 chữ N (anh) ép 2 bên và chữ O nằm kẹp ở giữa, từ O trong tiếng Việt vùng Bình Trị Thiên cũng có nghĩa là cô gái. Chữ Xem được bóc tách: X (ích) + em = Xem)
Vế đối: Đôi em U ú bên U, dễ thương Mum múp cứ Bu bê hoài (Hoài anh Võ Quang Thạch) (vế đối chiết tự chữ Mum = 2 chữ M kẹp hai bên chữ U, U trong tiếng việt gọi là mẹ. chữ Bu = B(bê) + U Ý vế đối nói về hai em bé dễ thương suốt ngày cứ nhỏng nhẻo ở bên mẹ)
  • vế ra: Nước Trong bởi Ánh Sắc Xanh, Ước chi em được Thờ Anh suốt đời (Trần Việt Hà) (Câu đối này bắt nguồn từ 1 câu chuyện có thật trong lịch sử, chả là có 1 cô gái người huyện đảo Cát Hải - Hải Phòng tên Khổng Thị Diễm Thu (1946 - 2007). Cô có yêu và "đã nguyền 2 chữ đồng tâm, trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai" với 1 người con trai (không rõ tên), hai người thường đưa nhau ra bờ suối tâm sự rất khăng khít và đã họ có lễ dạm ngõ chỉ chờ ngày cưới hỏi. Tuy nhiên, sự đời vần vũ theo mây khói, nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, hưởng ứng lời hiệu triệu của chủ tịch Hồ Chí Minh, người con trai kia đã quyết định tòng quân nhập ngũ để bảo vệ non sông, hẹn với cô gái sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất sẽ nên ngãi Tấn Tần. Nhưng có ngờ đâu, một lần đưa tiễn cũng chính là trọn đời vĩnh biệt, người lính đã vị quốc vong thân mãi mãi không thể trở về. Cô gái hay tin dữ vẻ mặt thất thần, ngày nào cũng ra dòng suối hôm nào để hồi tưởng lại những ký ức mịt mù xa. Cuối cùng, cô quyết định không lấy chồng và ở vậy suốt đời để giữ trọn lời nguyện ước. Gia dình, bè bạn, xóm láng đều khuyên cô nên trả lễ và xuất giá nhưng cô dứt khoát không nghe. Mặc dù bên nhà trai kia cũng chẳng coi cô là gì vì thực chất cũng chưa có danh phận chính thức, nhưng hàng năm đến ngày giỗ người yêu cô vẫn mang đồ lễ đến thắp hương phúng viếng. Thế rồi cô cứ mòn mỏi trong sự chờ đợi vô vọng mà mắc bạo bệnh qua đời, hưởng thọ 62 tuổi. Trong cuộc sống thứ tình như vậy gọi là tình si, nhưng nếu đem ra bóc tách kỹ lưỡng thì đó mới là tình yêu chân chính, là sự chung thuỷ thực sự. Đã có nhiều trường hợp tương tự họ đều trả lễ để lấy chồng khác, trường hợp cô Khổng Thị Diễm Thu này bị người đời phỉ nhổ thóa mạ cho rằng là ngu dốt là ấm ớ, ai đời lại chung thuỷ với người đã chết. Thế mới nói, tình yêu chân thật chỉ là ảo tưởng, xã hội ưa giả tạo hơn, những người như cô gái trong câu truyện trên sẽ chẳng bao giờ được ca ngợi. Đại ý câu đối này nói rằng dòng nước sở dĩ trong sạch không vẩn đục là bởi nó được ánh sắc xanh của mây trời trên cao chiếu xuống mà tạo ra, cũng giống như tình cảm của cô gái kia là trong sáng cả đời nguyện giữ gìn tấm thân ngà ngọc chỉ để giành cho người yêu mà thôi. Do đó cô gái ra bờ suối khấn nguyện mơ ước mình sẽ được ở bên người yêu nhưng đâu có được vì anh ấy chẳng còn, cô chỉ mong tôn thờ phụng sự gia đình anh kia cũng không chấp nhận, quá oái oăm. Nói đến chiết tự ở đây chữ Hán là chữ  Thanh có nghĩa là Trong sạch, được ghép bởi bộ  chấm Thuỷ có nghĩa là Nước và chữ  Thanh có nghĩa là màu xanh. Về phía chữ Quốc Ngữ tâm điểm là chữ Anh, nó thu hút 3 hướng chiết tự. Thứ nhất đóng vai trò N+Ước để thành chữ Nước, thứ 2 phối hợp với dấu Sắc tạo ra chữ Ánh và thứ 3 liên kết với chữ Th (Thờ) ở phía trước mà đọc là Thanh. Như vậy cả Hán tự và Quốc ngữ đều đổ dồn về chữ Thanh, nghĩa là Xanh cũng có và nghĩa là Trong cũng là nó)
LỜI DẪN: Dù dòng nước có trong xanh không vẩn đục, dù tấm lòng chung thuỷ sắc son của cô gái được người đời ca tụng, nhưng rồi trong sâu thẳm cuộc đời của cô là một chuỗi ngày buồn nhung nhớ, cô đơn, hiu quạnh. Nhất là lúc mỗi khi xuân về én liệng trời cao, đó là lúc trong lòng cô nghèn nghẹn nỗi nhớ dâng lên ngấn lệ từng dòng cứ mờ dần đi trong mòn mỏi đợi chờ
Vế đối: Nào Mờ khi Én Sắc Đen, Ào sao anh lại Thả En lưng trời(Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Vế đối chiết tự chữ  "Thản" có nghĩa là không trong tức Mờ được ghép bỡi chữ  Hắc có nghĩa là màu đen và chữ  "Thậm" có nghĩa là nào; gì; rất; lắm. Về quốc ngữ chữ "En" theo từ điển tiếng việt có nghĩa là cô ấy phiên âm từ tiếng Pháp "elle" N đọc là en nờ cho nên N(en)+ào= Nào, En(N)+dấu sắc= Én, Thả+ N(en)= "Thản" có nghĩa là màu đen cũng có nghĩa là mờ)
  • vế ra: Sao thuốc Lửa Ít tay Sờ, khi Ao phải chuẩn đúng giờ đổ ngay (Trần Việt Hà) (Vấn đề sao tẩm, rang và bào chế thuốc nam rất quan trọng, khi làm phải cẩn thận thì thuốc mới có hiệu quả chữa bệnh cao. Thế nên thứ nhất phải giữ được lửa luôn luôn ít không để nó bùng to, thứ hai phải dùng tay sờ vào trực tiếp kiểm tra thường xuyên, không thì lửa cháy quá đà cũng hỏng mẻ thuốc, dùng những thứ như đũa, muôi, thìa sẽ không chuẩn được. Đặc biệt lúc Ao (tức đong đếm theo kiểu ước lượng, quen tay) phải chính xác sao cho đủ cân đủ lạng chớ không lại nhiều ít quá cũng không tốt, khi thấy thuốc được phải bắc ra luôn để rang mẻ khác. Ở đây chữ được đem ra chiết tự là chữ Sao về cả 2 hình thức Hán tự và Quốc ngữ, chữ  Sao có nghĩa là sao tẩm, là rang, là xào...ở Hán tự được ghép bởi chữ  Hoả có nghĩa là lửa và chữ  Thiểu (hoặc Thiếu) có nghĩa là số ít, còn chữ Sao ở Quốc ngữ cấu tạo bởi chữ S (Sờ)+Ao)
Vế đối: Bôn rừng Cây Một người Bê, lúc Ôn nhớ gắng say mê tìm tòi (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(vế đối chiết tự chữ  "Bôn" có nghĩa là Tham cứu tìm tòi được ghép bỡi chữ  Mộc có nghĩa là cây và chữ  Nhất có nghĩa là số từ một. Về phần quốc ngữ Bôn được ghép: B(bê) với chữ Ôn)
  • vế ra: Thỏa MÌNH CA HÁT à ƠI, CHẠY nô hứng KHỞI HỎI đời đã chưa (Đỗ Đình Bao)(câu này nói đến vấn đề quyền vui chơi giải trí của trẻ em, khi vào những chỗ giành cho chúng có thể thỏa sức ca hát rồi nhảy nô đùa nghịch rất hứng khởi, như vậy mới đã đời mới vô tư đúng kiểu trẻ con. Ở đây chiết tự chữ  Khởi có nghĩa là khởi động, nổi dậy...được ghép bởi chữ  Tẩu có nghĩa là chạy và chữ  Kỷ có nghĩa là bản thân mình. Phần Quốc ngữ: K (ca) + H (hát) + ơi + dấu Hỏi = Khởi)
Vế đối: Rát HẦU PHÊ HÁT ỏng ONG, ĐÁNH bài hào PHÓNG SẮC lòng chửa vơi (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Vế đối chiết tự chữ "PHÓNG" có nghĩa là Phi đuổi phát ra, được ghép bỡi chữ "CANG" là Hầu họng với chữ Phác có nghĩa là Đánh khẽ đánh nhẹ. Phần Quốc ngữ: P "Phê" ghép với H "hát" và chữ "ong" cùng với dấu "sắc" thành chữ "PHÓNG")
  • vế ra: xe Nặng Tải dễ gây Tai Nạn, Hỏi Tại Ai bớt bạn thêm thù. Tái Tê kẻ thiệt người Tù, Sắc Tài Huyền hão thầy U đau lòng (Vũ Quang Long)(đại ý vế xuất này như sau: xe cộ mà chở nặng quả tải cũng là 1 trong những nguyên nhân gây ra tai nạn giao thông, dân gian có câu: "an toàn là bạn, tai nạn là thù" và câu "thêm bạn bớt thù" nhưng trường hợp này rõ ràng ngược hẳn với ý nguyện của mấy câu thục ngữ trên nên gọi là "bớt bạn thêm thù" vậy. Trường hợp này xảy ra nếu nhẹ mà sử lý không cẩn thận cũng tạo ra "ân oán giao thông" gây nên thù hận cho cả 2 phía, gắp người nhịn nhục tốt cho qua thì tốt nhưng vớ phải những kẻ ngông cuồng máu mặt hay dân anh chị thì có thể dẫn đến xô sát to mà kết cục chẳng có lợi cho ai cả. Khi xảy ra sự việc thì đổ lỗi cho ai: do đường xá, do ý thức tham gia giao thông của người dân hay do lòng tham vô đáy của con người, bất chấp hậu qủa cứ biết được việc của mình. Thời kỳ chiến tranh, nếu làm đựoc những việc như vậy thì lập tức được phong anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân ngay, đó là những việc phi thường hơn nữa nhu cầu cấp thiết của chiến trường càng nhiều càng tốt nên đó cũng là điều cần khuyến khích, nhưng khi hòa bình thì những hành động anh hùng đó lại trở thành vi phạm pháp luật bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống thậm chí tính mạng của dân chúng. Kinh Phật có câu: "tất cả mọi thứ trên đời đều do con người gây ra và chỉ có con người mới có thể giải quyết nổi", không sai. Mỗi khi sự việc xảy ra thì hậu quả là thế nào đây: kẻ bị hại thì thiệt (thiệt ở đây có thể là thiệt mạng, thiệt hại đến tài sản, hoặc tàn tật) còn người gây ra cũng chẳng hay ho gì, nếu không bị đi tù thì cũng bị phạt tiền có trường hợp bán cả gia nghiệp cũng không đủ bồi thường, quá tê tái...Những vụ tai nạn giao thông ngoài cản trở sự nghiệp và ảnh hưởng đến tinh thần của người trong cuộc (nhiều người tài giỏi đang quyền cao chức trọng hay học sinh đang học mơ ước phấn đấu sau này lớn lên làm quan làm tướng, cuộc sống chỉ là cạnh tranh ở 2 chữ Tài và Sắc: thi cử học hành hoặc đấu đá thể thao cạnh tranh quyền lực đều là thẻ hiện sự tài giỏi hơn người khác, còn sắc thì là sắc dục ganh ghé về mặt tình cảm yêu đương trai gái hay như đọ thể xác xem ai đẹp hơn như thi hoa hậu người mẫu chẳng hạn, những cái đó sẽ thành hão huyền không bao giờ thực hiện được nữa vì giả sử người không chết cũng tật nguyền mà lực bất tòng tâm vậy)...và cái kết chỉ là sự đau buồn chán nản của các đấng sinh thành, đẻ ra đứa con nó chết trước mình hay tàn phế hoặc bị đi tù hay khuynh gia bại sản, chính họ lại là những người phải suy nghĩ và phiền não khổ tâm nhất vậy, ngao ngán thay. Vế xuất đối này lấy chữ Tai làm trọng tâm để đem ra mổ xẻ Quốc Ngữ: T (tê) + ai = Tai...từ chữ Tai sẽ phát triển theo 4 hướng khác nhau: Tai + dấu Hỏi = Tải, Tai + dấu Nặng = Tải, Tai + dấu Sắc = Tái, Tai + dấu Huyền = Tài. Ngoài ra ở đây còn chiết tự thêm chữ Tù: T (tê) + U + dấu Huyền và chữ Nặng Tải có thể nói lái thành Tai Nạn...)
Vế đối: Anh sắc mó, làm phu mo sắt. Ngã Mò O, mắt lẹm bờ mi. Mọ mờ em đã ra đi, Mõ quyền nặng mõ, mình Y nhẹ đời (Hoài Anh Võ Quang Thạch)(vế đối bắt đầu bằng chữ Mo= m (mờ)+o (cô gái); mõ= mo+ (ngã); mó= mo+ (sắc); mò= mo+ quyền; mọ= mo+ nặng. Sắc mó nói lộn thành mo sắt và chiết tự chữ Mi: M (mờ) + y. Y là đại từ xưng hô)

Đối đáp giao lưu trên Việt Nam thi đàn, Bát Cửu thi nhân quán và Diễn đàn của người làm Cà phê[sửa]

  • Những vế ra của Ngọc Thanh nhân dịp tết Canh Dần (2010):
vế ra: Năm Canh Dần, con Ba Mươi tuổi, Dần Dần tự lập, mạnh như Beo, cha vui mừng: Hổ phụ sinh Hổ tử (Ngọc Thanh)
vế đối: Niên Mậu Tý, cháu Mười Lăm xuân, Tý Tý học hành, lanh như Dúi, ông phấn khởi: Chuột cống đống chuột nhà (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Theo số đề, chuột có số mười lăm. Dúi là loài chuột ở rừng, to hơn chuột cống)
vế đối khác: Làng Nguyệt Áng, chị Mười Sáu xuân, áng áng kiêu sa, dối như Cuội, mẹ mong ước: Trăng rằm khiến trăng tròn! (Diên Minh) (làng Nguyệt Áng thuộc xã Đại Áng huyện Thanh Trì thủ đô Hà Nội)
vế ra: Dần đây, Hổ lông vằn, tưởng dữ, vậy mà: Hổ dữ cũng chẳng ăn thịt con (Ngọc Thanh)
vế đối: Ngọ đây, Ngựa bờm hoa, ngỡ hiền, thế nhưng: Ngựa đau một cả tàu bỏ cỏ (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
vế ra: Chiều Ba Mươi tết Canh Dần, hoàng hôn đang buông, HỔ say sưa ngủ kỹ, Mèo tưởng Hổ hiền lành, rón rén lại gần định vuốt râu Hổ (Ngọc Thanh)
vế đối: Sáng Mười Hai Xuân Giáp Ngọ, bình minh ló dạng, Ngựa miên man hí lộng, Lừa ngỡ Ngựa chân chất, mon men đến bên nhằm bóp dái Ngựa (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Theo số đề, số 12 là con ngựa)
vế ra: Đêm Ba Mươi tiễn Hổ ra đi, Tân Mão đầu xuân Mèo mới hạ quyết tâm, Thử hỏi Chuột năm nay còn hết (Ngọc Thanh)
vế đối: Chiều Hai Sáu đưa rồng xa xứ, Quý Tỵ minh niên Rắn sang đồng nhất trí, Mùi gã Dê mai nữa lại về (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • Vế ra: CẦU THANG TỐI LÀ ĐIỀU TỐI KỴ (CHU CÔNG PHÙNG)
Vế đối: ĐƯỜNG LỐI QUANG ẤY VIỆC QUANG MINH (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • Vế ra: BÉN RỄ XANH CÂY,VUI CẢNH RỒNG MÂY TỤ HỘI(NGUYỄN HỮU QUYÊN)
Vế đối: MẨY BÙN THẮM SÚNG,SƯỚNG ĐỜI LONG PHỤNG KỲ DUYÊN(Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • NHỮNG VẾ RA HÓC BÚA CỦA CAO NGHIÊM:
Vế ra: MIỀN BẮC MƯA DẦM, MIỀN TRUNG MƯA BÃO, MIỀN NAM MƯA RÀO: MƯA TOÀN NƯỚC (Cao Nghiêm)
Vế đối: PHÍA TRÊN KHÓC NGẤT, PHÍA GIỮA KHÓC GÀO, PHÍA DƯỚI KHÓC THẢM: KHÓC HẾT CHÂU (Hoài Anh Võ Quang Thạch)

MƯA TOÀN NƯỚC là mưa chỉ toàn giọt nước,mưa khắp nước không chừa chỗ nào. KHÓC HẾT CHÂU là khóc chỉ toàn là giọt châu, khóc hết châu không chừa chỗ nào

Vế ra: MAI DÙNG MAI BỨNG CÂY MAI ĐƯA LÊN CHẬU (Cao Nghiêm)
Vế đối: HÔN NHỜ HÔN BẮT CON HÔN BỎ VÀO LỒNG (Hoài Anh Võ Quang Thạch)

"HÔN" Chỉ thời gian đó là thời điểm hoàng hôn vừa tối, "HÔN" là nàng dâu. Con Hôn là tên thường gọi của con Ba Ba. Nghĩa của vế đối là :Tối hoàng hôn " HÔN" nhờ con dâu "HÔN" bắt con Ba Ba "HÔN" bỏ vào lồng

Vế ra: RA VƯỜN KHỔ QUA NHÌN QUẢ KHÔ KHÔNG KHỐC (Cao Nghiêm)
Vế đối: TỚI RẪY MĂNG CỤT THẤY MỤT CĂNG CHẲNG CẰN (Hoài Anh Võ Quang Thạch)

"MĂNG" Theo từ điển hán việt Thiều Chửu thì có nghĩa là mờ mịt, "KHỔ"là đắng nghét đối với 'MĂNG" là mờ mịt. KHỔ QUA lái thành QUẢ KHÔ, MĂNG CỤT lái thành MỤT CĂNG, MỤT CĂNG có nghĩa là mụt măng mập mạp căng tròn tươi tốt không cằn cỗi

  • Vế ra: NHỮNG TƯỞNG XUÂN TÀN HOA HÉO ÚA(Bùi Đức Thịnh)
Vế đối: NÀO NGỜ HẠ NỞ LÁ XINH TƯƠI (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
vế đối khác : Nào ngờ hạ tới liễu xanh om
  • Vế ra: MỪNG XUÂN TRAI GÁI TÌNH THẮM THIẾT(BÙI ĐỨC THỊNH)
Vế đối: ĐÓN HẠ TÍ TÈO DẠ NGẨN NGƠ (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Nghỉ hè học trò thường chia tay bạn bè nên man mác buồn)
  • Mời đối của Nguyễn Thanh Vân:
Vế xướng: VÁ DA, VÁ THỊT, VÁ LỐP, VÁ XĂM, CÓ LỖ THỦNG NGÀN NĂM KHÔNG VÁ ĐƯỢC (Nguyễn Thanh Vân)
Vế đối 1: BÀO RUỘT, BÀO GAN, BÀO CÂY, BÀO VÁN, CÒN U LỒI VẠN THÁNG CHẲNG BÀO XONG (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
Vế đối 2: THAM CHỨC, THAM QUYỀN, THAM VÀNG, THAM BẠC, CÒN ÂM PHẦN VẠN THUỞ CHẲNG THAM NHIỀU (Bùi Văn Thanh)
Vế đối 3: MÒN NÚI, MÒN VAI, MÒN MÔI, MÒN ĐŨA, RIÊNG CHÂN TÌNH CHỤC KIẾP CHẢ MÒN TEO (Ngàn Sâu)
Vế đối 4: LÊN MỘNG, LÊN MẦM, LÊN CÂY, LÊN CỎ, CÒN THÂN MỀM MẤY TRẬN NỎ LÊN CHO (Lương Tú)
Vế đối 5: Thay tớ, Thay thày, Thay quân, Thay tướng, không gì bằng một bước mỗi Thay đầu (Hoàng Loan)
Vế đối 6: Trừ quỉ, trừ ma, trừ tà, trừ ách, loài gian tham vạn đại quyết trừ ngay (Bùi văn Thanh)
Vế đối 7: Lo mặc, lo ăn, lo công, lo việc, không chui luồn vạn kiếp chẳng lo xong (Hà Quảng)
Vế đối 8: Ăn thịt, ăn da, ăn hành , ăn tỏi, còn chân thừa vạn kiếp chắng ăn đâu (Huề Nguyễn)
  • Mời đối nhân dịp tết năm Bính Thân (2016) của Bùi Văn Thanh:
Vế xướng: NĂM THÂN - BIẾT THÂN- GIỮ THÂN - ĐỪNG THÂN VỚI NGƯỜI CHƠI TRÒ KHỈ (Bùi Văn Thanh)
Vế đối: TUỔI MẸO – MƯU MẸO – DÙNG MẸO – LẬP MẸO TRÊN NÚI DỌA DẪM MÈO (Bùi Văn Thanh tự đối)
Vế đối khác 1: THÁNG MÃO - HIỂU MÃO - TRÔNG MÃO - CHỚ MÃO CÙNG KẺ GIỠN KIỂU MÈO (Hoài Anh Võ Quang Thạch) (Mão là kiểu gọi khác của Mẹo, Mão là mũ nón)
Vế đối khác 2: Cốt KHỈ- nòi KHỈ- cao KHỈ - khác KHỈ đừng có biếu bạn THÂN (Tuấn Thắng)
Vế đối khác 3: tháng tý - chơi tý- vui tý- chớ tý cùng kẻ quen chim chuột (Hoàng Loan)
Vế đối khác 4: Tuổi TỴ - hay TỴ - luôn TỴ - chớ TỴ với kẻ uốn lưỡi XÀ (Huề Nguyễn)
Vế đối khác 5: TUỔI HỔ, KHÔNG HỔ,PHÒNG HỔ, CHẲNG HỔ VÌ DANH ĐÁNH VÕ HÙM (Huề Nguyễn)
Vế đối khác 6: Tháng sửu- ngày sửu- giờ sửu- bảo sửu nên tránh lũ mặt trâu (Chim Vành Khuyên)
Vế đối khác 7: Bạn THÂN - Làm THÂN - Chơi THÂN - Mới THÂN - Tránh xa những kẻ cho của KHỈ! (Nguyễn Tư)
Vế đối khác 8: TUỔI DẬU - RÀO DẬU - NGĂN DẬU - CẮM DẬU CÙNG KẺ SỐNG KIỂU GÀ (Lương Tú)
  • Nhân dịp tết Bính Thân (2016), diễn đàn của người làm Cà phê có đưa ra 1 vế xuất đối và treo giải thưởng gồm: 1kg Acafe của Y5Cafe và 1 tháng sử dụng thông tin và giá trực tuyến VFM.
Vế ra: Vui Tết Con Khỉ, tống cựu nghinh tân, chúc giá cà phê phi Thân lên tới đỉnh
Vế đối: Tiễn cụ Dê già, đổi đỏ thay xanh, mong sàn Luân Đôn chiều Dương vượt khỏi đáy (vế tự đối của diễn đàn)

Tuy số lượng không bằng các năm trước – do áp lực của giá cà phê chăng? – nhưng tinh thần gìn giữ phát huy truyền thống văn hóa dân tộc thì bà con không hề thiếu, rất đỗi tự hào! Với tinh thần vui xuân tham gia đối Tết – 2016, Ban Quản Trị Giacaphe.com đã bình chọn ba giải đồng hạng, với những câu đối như sau:

vế đối của Nông Cà: Mừng xuân lão Tôn, xóa đói giảm nghèo, ước mạng quan tham ném hồn xuống đáy vực
vế đối của Dương thị Oanh: Tiễn năm Ất Mùi, thay cũ đón mới, mong bảng giá sàn dương tới đậu ngôi vương
vế đối của Nguyễn Quốc Minh: Mừng hội vương hầu, tiễn cũ đón mới, cầu tỷ giá đồng bò bò xuống đến đáy

Ngày 22/2/1016, ông Hoài Anh Võ Quang Thạch xin mạo muội đối thử vế đối trên khi tình cờ ghé qua thăm trang này:

Vế đối: Sướng Giêng chú Mèo, đón may tiễn rủi, cầu lượng hạt Đào đội Mão vượt qua tầm(Võ Quang Thạch)(chả là ông Võ Quang Thạch có làm hơn 1 ha cà phê và hơn 1 ha điều vừa rồi cà phê thất thu giá thấp không đủ trang trải phân tro. Nay chuẩn bị thu điều, giá cao nhưng sợ sản lượng bị giảm nên xin mạo muội đối thử vế đối cầu sản lượng tăng lên)

Những bài họa thơ Đường luật đặc biệt[sửa]

  • Bài thơ từ chối lời cầu hôn của Cao Ngọc Anh:

Cao ngọc Anh (1878 - 1970) là con gái của Cao xuân Dục, tên thật là Cao Thị Hòa, sinh tại làng Thịnh Mỹ, nay thuộc xã Diễn Thịnh, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Năm 19 tuổi, bà lấy ông Nguyễn Duy Nhiếp làm kế thất. Nguyễn Duy Nhiếp thất lộc sớm, bà ở goá trong tuổi nửa chừng xuân. Vì vậy, nhiều bậc thi nhân trong giới quan trường không khỏi có ý muốn lân la, lấy thơ làm mối lái, bà tuyệt nhiên không trả lời ai cả. Một hôm, nhân nhà có giỗ, bà cho triệu các vị ấy lại uống rượu, rồi bà mời lên cầu Hàm Rồng chơi. Đến nơi, bà nói: "Đứng trước danh sơn thắng cảnh này, dám xin các vị thi nhân mỗi vị cho một bài làm kỷ niệm". Một ông đáp: "Vâng chúng tôi đâu dám chối từ, vậy xin bà cho bài xướng trước, chúng tôi xin hoạ lại sau".

Bà nghe vậy đọc rằng: Hàm Rồng nô nức tiếng đồn om, rải rác nhà tranh ở mấy chòm, hỏi đá chờ ai ngồi nhấp nhổm? Thương cầu vì nước đứng lom khom, sóng như chào khách chờn vờn nhảy, nguyệt cũng yêu ta lấp ló dòm, cửa động rêu phong mờ nét chữ, ai người mến cảnh chút trông nom…

Bài thơ vận khó quá vì gieo vần "om", ý tứ lại tế nhị. Câu “Hỏi đá chờ ai ngồi nhấp nhổm?” và “Sóng như chào khách chờn vờn nhảy” có ý trỏ vào các vị có thơ văn gửi đến trêu bà. Câu “Thương cầu vì nước đứng lom khom” và “Cửa động rêu phong mờ nét chữ”, bày tỏ tâm sự mình, cảm thương số phận và quyết giữ tấm băng trinh. Các vị thi bá tần ngần nghĩ không ra vần, và cũng không dám ghẹo cợt trước thái độ đoan trang ấy, nên đứng chơi hồi lâu rồi xin lỗi chủ nhân kéo nhau về. Từ đó không ai dám múa bút với bà nữa.

vế đối: Sông Mã êm đềm nghe chảy om, lưa thưa vách núi rọi từng chòm, thương thuyền sớm tối trông mom mỏm, nhớ bến ngày đêm đợi khọm khom, gió ghé đôi bờ lơ lửng bước, mây sà mặt nước thập thò dòm, cầu treo nắng bụi phai hương sắc, có kẻ sinh tình ngóng đợi nom (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • Giai thoại về bài thơ Đường Luật nói lái của Sơn Hồ Dương Quốc Thạnh xứ Quảng Nam:

Ở xứ Quảng Nam có ông Dương Quốc Thạnh, biệt hiệu Sơn Hồ, chuyên làm thơ nói lái theo thể Đường luật, đối nhau chan chát trong từng câu từng chữ. Có một cậu công nhân gốc Hội An làm việc ở Phú Ninh quan hệ với một cô thợ may ở địa phương mang bầu. Cậu về thú thực với gia đình và xin cưới gấp nhưng ba mẹ không chịu. Ông lại là người quen biết cả hai bên nên nhà gái nhờ ông thuyết phục bên nhà trai. Cuối cùng đám cưới vẫn được diễn ra với cô dâu mang bụng bầu 6 tháng (!). Không khí nặng nề giữa hai họ được giải tỏa hoàn toàn khi ông, với tư cách chủ hôn, ông viết một bài thơ nói lái như sau:

vế ra: Ai Bàn chi chuyện đã An Bài, Trai Khiển đồng tình gái Triển Khai, Cứ Sợ cho nên thành Cớ Sự, Mai Than mốt thở lỡ Mang Thai, Tính Từ ngày tháng vương Tình Tứ, Khai Ổ bây giờ báo Khổ Ai, Cưỡng Chúng ông bà nghe Cũng Chướng, Thôi Đành để chúng được Thành Đôi!

Bài thơ quả thật vô cùng sâu sắc và lý thú. Chuyện đã rồi thì thôi đừng bàn ra tán vô làm chi. Do chàng trai điều khiển nên cô gái mới phải chiều theo nhưng lỗi là do cô đồng tình nên cũng không thể trách ai. Vì quan hệ lén lút nên mới xảy ra “cớ sự”. Bây giờ đã sắp đến ngày sinh nở rồi, sắp đến lúc “khai ổ” rồi mà đám cưới không thành thì sẽ làm khổ cho cả hai bên nhà trai nhà gái lẫn hai người trong cuộc.

vế đối: Bòng Luồn bưởi cúi chuyện Buồn Lòng, Ong Mướt say tình bướm Ước Mong, Bạo Nấu thành cơm do Bậu Náo, Vòng Trao nhẫn tặng đắng Vào Trong, Cháu Mong vội sớm thành Mau Chóng, Chong Xửa giường xưa nới Chửa Xong, Đỡ Lã cuộc đời con Đã Lỡ, Sòng Nan đan kết cuộc Sàn Nong (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • Bài thơ mỗi câu dùng 1 từ ngữ nói lái viết về đất mũi Cà Mau:
vế ra: CÀ MAU thế đất chẳng CAO MÀ, ĐẤY MUỖI đĩa nhiều ĐUỔI MẤY ra, ƯƠNG TRÀM thơm ngát HAM TRƯỜNG cũ, LÁ ĐỘ tàn thu LỘ ĐÁ tà, ĐẦY LÒNG thương mến ĐỒNG LẤY nhớ, CỔNG XƯA liền với CỬA SÔNG nhà, AI GÌN tổ quốc IN GIÀY trận, ĐUỔI MẤT giặc thù ĐẤT MŨI ta
vế đối: Ban Mê đèo dốc phải Bê Mang, Lắm Nắng nhiều mưa Lắng Nắm chàng, Em Gái Ê Đê Ai Gém gói, Tâm Tình ai vướng Tình Tâm lang, Dồng Xong mấy lượt Dòng Sông ngát, Thác Dốc nghiêng soi Thốc Dát vàng, Tiêu Núi cay nồng Tui Níu lại, Mối Tình chân chất Tối Mình sang (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • Bài thơ có tiêu đề "câu đối" của Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh:
vế ra: Tinh hoa từ thuở nảo nào nao, trước khó giờ thêm nhão nháo nhào, lúc hiếm tìm từ chao chảo cháo, khi suông chọn ý pháo phao phào, đối cân sướng tớ hảo hao háo, ra đắt khổ ai rảo ráo rao, lắm lúc trễ ăn gào gạo gáo, mà sao vẫn thú kháo khao khào (Thiền Long)
vế đối: Thể loại văn biền khó khõ kho, tìm câu đối nghĩa đọ đò đo, chữ hay chưa chắc bõ bo bó, ý đẹp còn lâu mo mó mò, đối đáp bao ngày co có cọ, giao lưu lắm lúc sỏ sò so, văn chương cứ thế dọ dò dó, ai kệ sang hèn lọ ló lo (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • Bài thơ nói lái của Y Nguyên đề cập đến 1 cô gái đã luống tuổi vẫn chưa chồng:
vế ra: Ngày Tối Mơ màng một Mối Tơ, Mơ Chồng nên luống những Mong Chờ, Có Người phơi phới vui Cười Ngó, Riêng Tớ êm Rơ Tiếng khóc hờ
vế đối:Ai Mong Lừa được giọt Mưa Lòng, Môi Mỏng khô dần với Mỏi Mong, Kẻ Có hoa thơm nhiều Cỏ Ké, Tỉnh Mùi chỉ Tủi Mình long đong (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • Bài thơ mang tên: “Chê Chồng Chí Chóe” của Lão Dương đại phu nhân:
vế ra: lòng Thòng Em quá chẳng Thèm Ông, long Tong Lờ lửng sợi Tơ Lòng, lài Rài Mấy chén xong Rầy Mãi, lốc Thốc Khinh đời rứa Thích Không?
vế đối: Tha Bèo ẵm nợ cố Theo Bà, đời Vá Tơi bà mỗi Với Ta, Mây Nước cũng ưa người Nây Mướt, bã Chã Xăng xằng vẫn Chẳng Xa (Hoài Anh Võ Quang Thạch)

Những vế đối của các cộng sự khác[sửa]

Phú Đa Nguyễn Phước An[sửa]

  • vế ra: Cô kia sao cứ Trông Trời, để tôi xin nguyện Làm Trời Cô Trông, Trông Trời sướng lắm phải không, Trời Mà Trông Lại còn mong nỗi gì! (Trông Trời nói lái là chơi chồng, Làm Trời Cô Trông nói lái là làm chồng cô chơi, Trời Mà Trông Lại nói lại là Chồng Mà Chơi Lại)
vế đối: Anh nào có muốn Nài Tim, chờ em dâng hiến Chỉ Tim Anh Nài, Nài Tim mê quá hả ngài, Tim Đây Nài Nữa chắc mai đi đời (Phú Đa Nguyễn Phước An) (Nài Tim nói lái thành Tìm Nai, Chỉ Tim Anh Nài nói lái thành Chỉ Nai Anh Tìm, Tim Đây Nài Nữa nói lái thành Nai Đây Tìm Nữa)
  • vế ra: Rầu rĩ râu ria ra rậm rạp; rờ răng răng rụng, rờ rốn rốn rung rinh (khuyết danh)
vế đối 1: Vui vẻ vế vai vênh vẹn vẽ, vuốt vòi vòi vọt, vuốt vú vú vòng vo (Phú Đa Nguyễn Phước An)
vế đối 2: Buồn bã bẹn bìu buông bều bệu, bóp bơm bơm bẹp, bóp bụng bụng bèo beo (Phú Đa Nguyễn Phước An)
  • vế ra: qua Hố Lội gặp thằng Hối Lộ, câu Đầu Tiên nó hỏi Tiền Đâu? xin Chữ Ký anh nghe Kỹ Chứ? một Đấu Vàng ôi thật Váng Đầu! (khuyết danh)
vế đối: Đi Tham Quan chạm ngài Quan Tham, xe Mui Đắt ai nhìn Đui Mắt, Hỏi: Khỏe Hông? tui tưởng: Khổng He? giao Ngọc Mắt đời thôi Ngóc Mặt! (Phú Đa Nguyễn Phước An)
  • vế ra: Mỗi độ xuân sang chả có gì, giàu sang keo kiệt để mà chi? vui xuân chúc tết cầu gia đạo, cạn chén tiêu sầu tiễn người đi (khuyết danh)
Bài thơ trên nói lái ở 3 chữ cuối của mỗi câu thơ: Chả Có Gì là Chỉ Có Già, Để Mà Chi là Đĩ Mẹ Cha, Cầu Gia Đạo là Cạo Gia Đầu, Tiễn Người Đi là Đĩ Người Tiên
vế đối: Lắm khi tết đến có gì đâu, nghèo kiết xài sang thế mới ngầu, tặng bò ban lúa bố gié sáng, mua lộc cầu may trúng biết đâu (Phú Đa Nguyễn Phước An)
vế đối trên cũng nói lái tương tự: Có Gì Đâu là Câu Gì Đó, Thế Mới Ngầu là Thấu Mới Nghề, Bố Gié Sáng là Bán Vé Số, Trúng Biết Đâu là Trâu Biết Đúng
  • vế ra: Chim vàng lông đậu trên giồng lang (khuyết danh)
vế đối 1: Bướm nhỏ cánh nằm dưới nhánh cỏ (Phú Đa Nguyễn Phước An)
vế đối 2: Bướm tím chưn xòe úp tứng chim (Phú Đa Nguyễn Phước An)(Nói đớt: trứng = tứng; tiếng Bình Định: chân = chưn)
  • vế ra: Tết tới, túng tiền Tiêu Tết, tưởng Tết Tiêu, thủ trưởng tăng tiền thưởng Tết, thừa tiền Tiêu, thêm thú Tết (Ngọc Thanh)
vế đối:Xuân sang, xơ xu xông Xuân, sợ Xuân xong, siêu xếp xỉa xu sẻ Xuân, xịn xu xài, sung sức Xuân (Phú Đa Nguyễn Phước An)

Quang Phúc Phạm Đình Trung[sửa]

  • vế ra: Má ghiền miến gà (khuyết danh) (câu đối có nghĩa là mẹ rất thích ăn miến gà)
vế đối: Cô hảo cao hổ (Quang Phúc Phạm Đình Trung) (hảo = ưa, thích. Ví dụ: Hảo ngọt. Cao hổ= Cao hổ cốt)
  • vế ra: Cô Đấu ra câu đố: Bà Đáu nấu rượu gì? (Quang Phúc Phạm Đình Trung) (Vế ra nói về rượu Bàu Đá nổi tiếng ở thị xã An Nhơn tỉnh Bình Định)
vế đối: Chị Nguyên có chuyện nghi: Cai Múc trồng cây chi? (Thiền Long) ("Cai Múc" là ông cai tên riêng là Múc, nói lái lại thành "Cúc Mai" là tên một loại hoa mai đẹp, có nhiều cánh và khá hiếm, có ở Bình Định)
  • Vế ra: Ông Ba Đía uống bia đá quán Hạ gặp phải bia quá hạn, bị bà Đia bã đía, bã địa; bực mình Ba Đía quăng bình mực rồi bia bia vào bia đá, đá đá vào đá bia (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
Vế đối: Chú Chín Tiêu coi chiếu tin kho Rỗng làm sao chiếu không rõ, được chị Tiều chỉ tiếu chỉ tiêu. Dỗi lòng Chín Tiêu chữa dòng lỗi, sau tin tin vào tin chiếu, chiếu chiếu vào chiếu tin. (Thiền Long).{(Vế đối diễn tả việc biên tập truyền hình của chú Chín Tiêu và chị Tiều, chiếu lại và gia giảm (tiêu) tin tức phóng sự về chiếu chỉ truyền tin của vua thời xưa (như chiếu chỉ về hoàng sa trường sa trên TV hiện vẫn phát sóng), "tin chiếu" là tin tức được chiếu trên TV,"chiếu tin" là chiếu chỉ truyền tin của vua}
  • Vế ra: Năm canh kho thóc thức suốt năm canh, canh năm Năm nằm canh (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
Vế đối:Sáu khắc tượng rồng vui liền sáu khắc, khắc sáu Sáu sầu khắc (Thiền Long)(ngày xưa thời gian 24giờ/ngày được chia ra : đêm có năm canh, ngày có sáu khắc)
  • Vế ra: Sanh tính sinh tánh (Quang Phúc Phạm Đình Trung) (Sanh = sinh, Tính = tánh)
Vế đối: Thạnh chính thịnh chánh (Thiền Long) ("thạnh"="thịnh"; "chính"="chánh ; chữ "thạnh"="thịnh" có các nghĩa hán việt thuộc động từ, tính từ...)
  • vế ra: Thầy Tư sử Tư đùa sư tử! (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
vế đối:Mẹ Đang lường Đang thả đường lang (Thiền Long){"đường lang" là con bọ ngựa. Có bài võ "đường lang quyền" khá nổi tiếng; Chữ "đường" còn có nghĩa Hán Việt là mẹ. Trích dẫn nghĩa chữ "đường":Từ điển Nguyễn Quốc Hùng: — Người thân cùng chung một ông tổ — Chỉ người mẹ, hoặc cha mẹ. Chẳng hạn Huyên đường ( người mẹ )...; Ý vế đối là mẹ của cu Đang nói gạt để dụ cu Đang thả con bọ ngựa (đường lang) ra}
  • vế ra: Anh Chàng Hiu Gánh Củi đi ngang núi, ảnh đang nghi Hổ Mang Bò qua suối (đi ngang nói lái thành đang nghi) (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
vế đối:Cô Nàng Hương Chìa Vôi cúng thầy bói, cổ cùng thấy Dẽ Gà Cò trên ngói (Thiền Long) (cúng thầy nói lái thành cùng thấy, cá Nàng Hương thuộc họ cá Thát Lát. Chìa Vôi là tên loài chim phổ biến. Ngoài ra tại Việt Nam có 35 loài chim Dẽ, trong đó có chim Dẽ Gà ; Gà vừa là danh từ vừa là động từ, Cò là chim Cò)
vế đối khác: Chị Nàng Hai Xén Tóc về mưa giăng, chĩ vừa mê Vượn Cáo Dê dưới trăng (về mưa nói lái thành vừa mê, Nàng Hai là loài cá giống cá thát lát, Xén Tóc là loài bọ cánh cứng, Vượn Cáo là loài vượn quý hiếm. Dê còn có nghĩa bóng là tán tỉnh) (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Vua cờ vua khởi cuộc tiến chốt, tốt chiến phong hậu phòng cú hậu (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
vế đối: Tây bài tây cào bài giồ ca, già cô tam tiên thắng ván tiên(Thiền Long) (Nghĩa : 52 lá bài có 4 con K gọi là con "ca" hoặc con "già" đều được; theo từ điển nghĩa động từ "giồ" = "dồ" = xông ra; "giồ ca" chỉ động tác đánh mạnh con K ra; "giồ ca" nói lái thành "già cô" nghĩa cũng là một con K có thể đối với vế ra "tiến chốt" nói lái lại thành "tốt chiến". Trong cờ vua "chốt" cũng được gọi là "tốt", trong bài tây "ca" cũng được gọi bằng "già". "Tam tiên" là trường hợp đặc biệt thắng ngay, không cần tính điểm số trong luật bài cào 3 cây, có thể đối với "phong hậu" của vế ra. Ý vế đối mô tả hành động đánh mạnh lá bài K cùng hai con bài J,Q bất kỳ trước đó để thắng bài theo luật "tam tiên" của bài cào 3 cây)
  • vế ra: Anh Kèn gọi đàn Cò qua tiếng đàn Nhị, chị Nguyệt Cầm Sáo ngân lên tiếng đàn Kìm, rồi hai người Tranh nhau độc tấu Độc Huyền Cầm (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
vế đối: Cô Mõ kêu đàn Hồ trong âm đàn Gáo, Cậu Nhật Cầm Tiêu trỗi vang âm đàn Đoản, thêm một người Bầu thi tam tấu Tam Thập Lục (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Đàn hồ tại Việt Nam hiện nay có xuất xứ từ Ấn Độ và vùng Trung Á, được du nhập vào Việt Nam cùng với Trống cơm từ thế kỷ I đến thế kỷ III sau công nguyên. Trong dân gian Việt Nam thời cổ, có một loại đàn giống với đàn này, được gọi là Đàn gáo (có bầu đàn giống cái gáo, mặt đàn bằng gỗ mỏng). Do cấu tạo và tính năng tương tự, nó được coi như một họ hàng của đàn hồ. Đàn đoản còn gọi là đàn tứ do có 4 dây, đàn này còn nhiều tên gọi khác như đàn đoản (đoản là ngắn) vì cần đàn ngắn hơn đàn nguyệt. Nó cũng được gọi là đàn nhật (nhật là mặt trời) một cách để đối lại với đàn nguyệt (nguyệt là Mặt Trăng). Tam thập lục là nhạc khí dây có 36 dây. Tuy nhiên ngày nay một số nghệ nhân đã cải tiến đàn này bằng cách mắc thêm nhiều dây nữa để đánh được nhiều âm hơn, kể cả những âm nửa cung. Mục đích cải tiến là làm sao để dễ dàng đánh những bài nhạc có nhiều chuyển điệu. Tuy số lượng dây đã vượt quá con số 36 nhưng người ta vẫn quen gọi là đàn tam thập lục. Một số người khác lại gọi nhạc cụ này đàn bướm vì hình dáng của nó giống hình con bướm, có người còn gọi là dương cầm như cách ta thường gọi đàn piano của phương Tây)
  • vế ra: Nhền nhện đan đát bắt chuồn chuồn, cào cào châu chấu thấy hãi luôn, le le lướt lướt liu điu sợ, quà quạ kên kên né thuồng luồng (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
vế đối: Tu hú canh cánh kiếm thù lù, rồng rồng bươm bướm nghe im ru, choi choi lượn lượn sâm cầm ngại, cô cô chiền chiện đớp cu cu (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Thù lù là cá ở biển, choi choi, cô cô, cu cu là các loài chim, rồng rồng là cá con của cá lóc)
  • Vế ra: Bà Hảo bảo Hà đến quán Tám Nại mua tái nạm rồi qua quày ga mua gà quay (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
Vế đối:Dì Mặn dặn Mì tới hàng Ba Dì lấy bì da xong về đường niếu lấy điều nướng(Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • Vế ra: Cờ ông Công luyện công công rất mạnh, chọn đích thế tôn vinh Đế Thích (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
Vế đối: Bờ u Bu tập bu bu quá sành, lựa thông nần bái tạ Thần Nông (Hoài Anh Võ Quang Thạch)
  • vế ra: Câu đối mắc đắt mối gỡ, mở gói tìm mỏi mới ra (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
vế đối: Tâm tính thiện thịnh tiếng tăm tắm tiên gội sơ đã thấy (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Chơi cờ cá ngựa, cá ngựa ai hay giật cờ thưởng rượu cá ngựa (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
vế đối: Nâng giá gà sao, gà sao nào đẹp sáng giá tạo mẫu gà sao (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • vế ra: Nhà giàu ưa cây cúc vàng kim, xem cây vàng như cây kim (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
vế đối: Kẻ lõi chê rẻo soi đất thổ, mất nhà đất do nhà thổ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
  • Vế ra: Danh tiếng chơi bài bị thất bại bải hoải, bái bai, bãi không chơi nữa (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
Vế đối: Cái kiếp làm nô phải năng nổ nỗ lực, nố nồ, nộ chẳng làm chi (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (âm nói: nố nồ = no no! >< bái bai = bye bye!)
  • Vế ra: Ni cô Tin đến nhờ ni cô giải chất độc ni cô tin trong người cháu Tin (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
Vế đối: Ma sơ Đông sang cậy ma sơ ghi thuốc cổ ma sơ đông giúp làng anh Đông (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Ma sơ đông = Macedonia là một quốc gia thuộc khu vực Đông Nam châu Âu. Nước Cộng hòa Macedonia giáp với Serbia và vùng lãnh thổ Kosovo về phía Bắc, giáp với Albania về phía Tây, giáp với Hy Lạp về phía Nam và giáp với Bulgaria về phía Đông. Cộng hòa Macedonia có những tranh cãi với Hy Lạp về tên gọi của nước này, do Macedonia lại là một vùng đất lịch sử nằm trên lãnh thổ nhiều quốc gia khác nhau và có lịch sử/văn hóa gắn liền Hy Lạp. Năm 1991, Macedonia tách ra khỏi Liên bang Nam Tư và gia nhập Liên Hiệp Quốc với tên gọi Cựu Cộng hòa Nam Tư Macedonia, tuy nhiên tên gọi là Cộng hòa Macedonia cũng được sử dụng rộng rãi để chỉ nước này)

Nhân vật bí ẩn với biệt danh Cò Con[sửa]

  • Thi sĩ Bút Tre đến công tác tại Mường Tè, ông viết như sau:
vế ra: Anh đi công tác bản Mường, Tè xong một cái lên đường về quê (Bút Tre)
vế đối:Em về thăm thú buôn Ơ, Đu chừng mươi phút thắt nơ lại thành (Cò Con)
vế ra: Mấy em mặc váy đánh cầu, lông bay phấp phới trên đầu các anh (Bút Tre)
vế đối:Các anh cởi lồng ra thi, chim kêu rạo rực động thì mấy em (Cò Con) (Khi thi chim, người săn sóc chim phải cởi tấm phủ cái lồng để chim thấy địch thủ mà thi đấu. Thì ở đây có nghĩa như thời kì, giai đoạn cơ thể phát triển mạnh và bắt đầu có khả năng sinh sản, chẳng hạn lúa đang thì con gái)
  • Tương truyền, trong 1 lễ hội đàng trai và đàng gái đối đáp rất sôi nổi, nhưng đàng trai thì rất hăng trong những lời lẽ câu từ tán tỉnh rất táo bạo khiến các cô gái thẹn đỏ mặt, phía con gái có vẻ núng thế trước sức tấn công dồn dập của cánh mày râu, cuối cùng có 1 cô bất chợt ra vế như sau:
vế ra: Em là cục cứt trôi sông, anh là con chó ngồi trông trên bờ (Các cô tuy đã hạ thấp mình, tuy vẻ ngoài rất thô tục nhưng hình tượng lại đầy ẩn ý. Các chàng trai vắt óc không nghĩ ra vế đối lại)
vế đối: Anh như con chó no lòng, em như cục cứt theo dòng về xuôi! (Cò Con) (No lòng ở đây có 2 nghĩa: 1. Ăn đã no. 2. Đã ăn lòng con vật khác nên chả thiết gì đến món khác. Ý bên trai chê bên gái nói năng khiếm nhã nên chẳng thèm tán tỉnh nữa; đồng thời hàm ý nhắc khéo bên gái nếu làm kiêu quá chẳng ai đoái hoài đến thì cái duyên thời con gái sẽ trôi đi mất)
  • vế ra: Chưa đi chưa biết Vũng Tàu, muốn đi cho biết vũng nào cạn sâu. Đi rồi mới thấy phát rầu, Vũng Tàu có khác gì đâu vũng nhà (khuyết danh)
vế đối:Không vào không tỏ Bàu Sen, quyết vào đặng tỏ bàu đen hay ngà. Vào xong lại chẳng muốn ra, Bàu Sen nó mát khác xa bàu mình (Cò Con)
  • vế ra: Chưa đi chưa biết Cần Thơ, đi rồi mới thấy xác xơ thân hình. Một vòng trao đổi nghĩa tình, Cần Thơ vui vẻ...cần cổ mình xụi lơ (khuyết danh)
vế đối: Không ra không rõ Đồng Văn, ra xong còn ức hung hăng mạng già, nửa đường mây nước gần xa, Đồng Văn sạch sẽ...đồng tiền nhà sạch bong (Cò Con)
  • vế ra: Chưa đi chưa biết Hà Tiên, đi rồi mới thấy tốn tiền thật đau. Hà nào hổng cạn hổng sâu, Tiên ngoài có khác gì đâu tiên nhà (khuyết danh)
vế đối: Không lên không nhớ Ya Ma, lên là chẳng sợ chơi ta kiểu gì. Da nào chẳng lạ chẳng kỳ, Ma lòng chẳng sợ sợ chi ma người (Cò Con) (Ya Ma là xã thuộc huyện Kông Chro tỉnh Gia Lai)
  • vế ra: Xem không ai nhìn em, xờ em xem (khuyết danh)
vế đối: Phanh không thì chết anh, phờ anh phanh! (Cò Con)
  • vế ra: Tết Ất Dậu, gà ka ra ô kê (khuyết danh)
vế đối:Xuân Tân Mùi, dương hép pi niu dê (Cò Con)
  • vế xuất: Mậu cộng dê, từ em là dậu (khuyết danh)
vế đối 1: Quý mất quy, thêm tơ vướng tý (Cò Con) (Quy = qu, quy = uy )
vế đối 2: Tân không tờ, gắng thờ nên thân (Cò Con) ("Không tờ" ở đây có nghĩa "không tiền")
  • vế ra: Dân Bách Khoa có trăm nghề nhưng không phải Bách Khoa (khuyết danh)
vế đối: Lính Đa Năng có nhiều tài mà chẳng xứng Đa Năng (Cò Con) (Đa năng: Cử nhân đa năng)
  • vế ra: Nhà thơ là Thợ Làm Thơ, đọc xong chẳng cảm là Thơ Thợ Làm (khuyết danh)
vế đối: Nghề Thầy mà Thây Thăng Thầy, dạy hoài không hiểu ắt Thầy Thây Thăng (Cò Con)
  • vế ra: Vừa đi vừa lủi, vừa mổ lỗ mũi (khuyết danh)
vế đối: Vừa bò vừa cúi, vừa dúi cục thịt(Cò Con)
  • vế ra: Đi đâu bỏ con ở nhà? Hỏi em em nói Đi Chà Đồ Nhôm! Đi đâu tay xách nách ôm? Hỏi em em nói Đi Chôm Đồ Nhà (khuyết danh)
vế đối:Đến đây tìm mối làm mai, Rằng ai ai chẳng ưng xài hàng zin! Đến đây mông lắc mắt rình, Rằng ai ai chẳng ưng xin hàng dài (Cò Con)
  • vế ra: Anh ca em hát u ơ, em ca anh hát em rờ cu anh (khuyết danh) (Toàn bộ các từ ngữ mỗi từ là 1 phụ âm đầu, thứ tự như sau: vế trước gồm N=anh, K=ca, M=em, H=hát, U=u, Ơ=ơ và vế sau gồm M=em, K=ca, N=anh, H=hát, M=em, R=rờ, Q=cu, N=anh)
vế đối: Em á! anh ớ! e đơ, anh ớ! em á! anh sờ lờ em (Cò Con) (Á=Ă, Ớ=Â, Đơ=Đ, Sờ=S, Lờ=L; e là e sợ, e ngại)
  • vế ra: Anh ca em hát cũng hay, e ra khỏi ngõ o này cu tê! (khuyết danh) (ở đây sử dụng những chữ cái của quốc ngữ như: anh(N), ca (K), em (M), hát (H) của vế trước. Vế sau thì gồm: e(E), o (O), cu (Q), tê (T)
vế đối: Em hát anh ca chẳng dzìa, y như trong quán cu kia o sờ (Cò Con)
  • vế ra: Có cô nho nhỏ Đó Học Trèo, trèo lên hòn đá Đá Chẳng Leo, sương sa lác đác Mù Mù Đợi, trăng xế đầu non Đới Đới Cheo (khuyết danh)
vế đối: Có anh lơn lớn Đứng Cầm Chèo, chèo ra bãi yến Yến Không Đeo, gió reo lớp lớp Lù Lù Điệu, ghe lắc bờ sông Đó Đó Neo (Cò Con)
  • vế ra: Du dương dơ dẫn dần dà, đàn đâu đem đến đậm đà đêm đông, chán chường cho chị chưa chồng, lỡ lầm lạc lối lạnh lùng lẻ loi (khuyết danh)
vế đối: Dịu dàng duyên dáng dạt dào, thơ theo thư thiếp thì thào tháng thu, bẽ bàng bỡi bố bỏ bu, mỏi mòn mơ mộng mịt mù mối mai (Cò Con)
  • vế xuất: Lăm le làm lẽ là lẽ lầm (khuyết danh)
vế đối: Lờ lỳ lơ lý là lý lỡ (Cò Con)
  • vế ra: Mẹ mình mua mít, mình mon men móc mất một múi. Mẹ mình mắng mình mặt mẹt, mình mất mặt (khuyết danh)
vế đối:Ba bãn bán bia, bãn bươn bả bợp bậy bốn bình. Ba bãn bảo bãn bụng bự, bãn bóp bụng! (Cò Con) (Bãn= Bạn ấy. Bia hơi, bia tươi đựng bằng bình)
  • vế ra: Chồng chị Chín chết chưa chôn, chị chờ chuối Chín chị chôn cho chồng (khuyết danh)
vế đối: Cô cụ Cả cận còn cà, cụ canh củ cả cụ cà cùng cô (Cò Con) (Tuy lớn tuổi và bị cận thị nhưng vẫn còn cà củ sắn làm bột, cụ chờ củ sắn đạt mức lớn nhất (cả) thì thu hoạch)
  • vế ra: Bà Ba béo, bán bánh Bèo, bên bờ biển, bị bom Bi, bắn bể bụng (câu này ra đời trong bối cảnh không lực Hoa Kỳ tiến hành chiến tranh phá hoại lần thứ nhất ở Miền Bắc Việt Nam, rải Bom bi ven biển nhằm phong toả đồng thời ngăn chặn sự chi viện từ hậu phương ra tiền tuyến theo đường mòn Hồ Chí Minh trên biển. Có bà - không rõ tên thật, thường gọi là bà Ba - ngồi bán bánh Bèo với mục đích che mắt địch để vận chuyển vũ khí đạn dược cho bộ đội ta, có lần bà bị mảnh bom bắn vào bụng nên mới có nảy sinh câu đối trên)
vế đối: Bác Bảy bự bẻ bông bưởi bét bãi bìm, bỡi bã bùn bò bỏ bu (Cò Con)
  • vế ra: Mướt mát mịn màng môi mắt miệng, mây mưa mù mịt mỏi mệt mình (khuyết danh)
vế đối: Tươi tắn tung tăng tai tay tóc, tình tiền tăm tối tê tái tim (Cò Con)
  • vế ra: Ngày thì công ngủ tối công phu, kinh kệ làm tương phải kiếm lu, mấy cô nho nhỏ đương mù đợi, vài mụ sồn sồn cũng đạo tu (khuyết danh)
vế đối:Tối còn bôn làm ngày bôn lù, tuyển chọn người xinh chớ lộn đù, vài em non nõn vui hù đậu, mấy cụ khào khào lại đại du (Cò Con)
  • vế ra: Sáng lặt cỏ chiều lặt cau, độn lầy khơi giếng tưới hành rau (khuyết danh)
vế đối:Chiều đôn lò tối đôn lòng, thu mua chài giá kiếm tiền công (Cò Con)
  • vế ra: Buổi trưa ăn bưởi chua (khuyết danh)
vế đối 1: Mang trát nhấm măng chát (Cò Con)(Trát: Từ cũ ngày xưa, có nghĩa là Lệnh bằng văn bản của quan lại truyền xuống cho dân, cho cấp dưới)
vế đối 2: Lúc chiều đi lút triều (Cò Con) (Triều: thủy triều)
  • vế ra: Tình ngay em phải nói ngay, ai mà chồng có cối xay nghiến liền (chồng có ở đây nghĩa là có chồng, bởi vấn đề thanh luật nên chuyển ngược lại thành chồng có, liên quan đến chữ Cối Xay còn có nghĩa là cây cối xay, 1 vị thuốc chữa hậu sản của phụ nữ. Chồng có cũng có thể nói lái thành "cò chống" nghĩa là cái cò được dựng lên, Cò ở đây ta hình dung là cái Ngõng của cái cối xay, phải có cái đó thì cối xay mới hoạt động được, mà đã hoạt động thì rất hăng hái ngấu nghiến)
vế đối: Lòng gian anh lẽ bảo gian, kẻ nào vợ bó vú nàng tẩm ngay (Cò Con) (Vợ bó ở đây có nghĩa là bị vợ bó buộc, vú nàng ở đây còn là con hải sâm. Theo Đông y, hải sâm tính ôn, vị ngọt đậm, có tác dụng bổ thận tráng dương, dưỡng tinh huyết, bổ não, ích trí, tiêu viêm, cầm máu, nhuận tràng... Hải sâm còn được dùng cho người huyết áp cao, động mạch xơ cứng, bệnh mạch vành tim, xuất huyết dưới da, ung thư, tổn thương trong xạ trị...Vợ bó nói lái thành "vó bợ", tức là bợ chân vú nàng đưa lên nhẹ nhàng kẻo hỏng hải sâm lãng phí vì giá hải sâm rất đắt...do nhiều công dụng trong việc chữa bệnh liệt dương và tráng dương bổ thận)

Những câu chưa có người đối[sửa]

Câu đối theo thể văn biền ngẫu truyền thống[sửa]

  • Cụ Như Bích Nguyễn Đình Chi ở Tân Dân - Nhơn An - An Nhơn - Bình Định có ra vế đối bằng chữ Hán, nhưng âm tiếng Việt phụ âm đầu toàn chữ "tờ". Ngoài ra, vế xuất viết theo thể Hồi văn liên, tức là, đọc xuôi (thuận độc) hay đọc ngược (đảo độc) ý tứ hoàn toàn như nhau. Gần 30 năm nay chưa ai đối được:
vế ra: Tài tấn tinh tinh tăng tích tụ
vế đối:
  • vế ra: Cam Bố Hạ ngọt mồm phường Bá Hộ (Tú Sót)
vế đối:
  • vế ra: Mê tóc, cấy mai tóc cho mái tóc, rồi móc tai, móc tê móc tái, xong, móc túi trả tiền múi tóc (Chuyện anh chàng hói đi cấy tóc) (Thiền Long)
vế đối:
  • vế ra: Bác Lương Bằng ơi tuy lương cháu không bằng lương bác, nhưng cháu khóc Bác nhiều hơn những đứa bằng lương (TMH)
vế đối:
  • vế ra: Văn vật tham nhũng, tham nhũng vẫn tham, Giáp Ngọ văn phòng ngựa đá (Nguyễn Đình Minh)
vế đối:
  • Vế ra: Ngày Mậu Ngọ, Tam Thái tử Bạch Long Mã đi xem tranh ngựa trắng và rồng trắng nhỏ Tiểu Bạch Long mà lòng nhớ chuyến đi Tây Thiên tha thiết (Thiền Long)
Vế đối:
  • Vế ra: Giờ Thân, Cảnh sát chặn xe hô hỏi câu hỏi: "cốp xe chở gì hơi nặng?". Sau khi nghe hỏi, lái xe trả lời: "xe chở meo ít nặng" (Thiền Long) (chiết tự: hổ, cẩu, cọp, hợi, khỉ, mẹo).
Vế đối:
  • vế ra: Chu cha! chả chả chọn chay, chả chỉ chọn chả, cha chả! (Thiền Long) (Nghĩa: ông ấy (chả) chẳng (chả) lấy đồ chay như dự tính mà ông ấy chỉ lấy chả (thịt , mặn); ("chu cha" và "cha chả" đều là cảm thán từ biểu lộ sự ngạc nhiên, "cha chả" có tính giận dỗi hơn)
vế đối:
  • vế ra: Thế giới có gần tỉ người đang trong NẠN ĐÓI, vài tỉ người nghèo khổ, tưởng các quốc gia CÙNG NÓI SÁNG, LÀM SÁNG. Nhưng nghìn TỈ ĐÔ ĐỔ TI vũ khí, phần lớn ngày CÀNG NÓI SÚNG, NÓI ĐẠN, nói LÁNG, nói SÀM(Thiền Long) (Các chữ in hoa nói lái. Theo tự điển: "Ti" là sở, công ty; "TỈ ĐÔ": là tỉ Đôla Mỹ; "nói láng" là nói chẳng sợ ai)
vế đối:
  • vế ra: Anh Bí Bếp vô kitchen nướng chicken đãi chị Dậu (Lưu ý: Bếp và kitchen, Kitchen và chicken -> nói lái. Chicken và dậu -> năm dậu là năm con gà)
vế đối:
  • vế ra: Tại vương quốc khỉ, hoàng thân khỉ vàng đọc sắc phong của quốc vương phong tước hầu tước cho khỉ trắng. Tin đến nhà khỉ trắng, hầu như ai cũng vui sướng, kể cả cha mẹ cho đến người hầu (Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh)
vế đối:
  • Mỗi người có những năng khiếu sở thích riêng, có người giỏi toán, giỏi nghiên cứu khoa học thầm lặng, có người giỏi viết lách, thơ văn, có người giỏi bàn mưu tính kế để hành sự,tạo lập mối quan hệ để "nhất thân nhì thế"... tùy môi trường, bối cảnh mà các năng khiếu ấy mới bộc lộ ra. Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh có 2 người bạn Thế Vinh và Văn Sáu học khá giỏi cả toán văn. Xử lý công việc rất tốt, vốn thích thơ văn nhưng có lẽ ít có thời gian và ít giao lưu nên chưa bộc lộ hết. Thiền Long Nguyễn Phước Thạnh có viết tặng hai bạn mỗi bạn một câu đối thú vị để "kéo" các bạn qua văn:
Câu tặng bạn Đặng Thế Vinh: "Thế vinh thời vượng đặng như ý" (Các nghĩa là: 1/ Gặp thế tốt thêm thời cơ tốt nữa thì được (họ "đặng") như ý muốn. 1/ Thế Vinh đang gặp thời nên được như ý muốn; "như ý" cũng có nghĩa khẩu ngữ khác là " như vậy".)
vế đối:
  • vế ra: Rê mi rê xí xọn, mi pha "Đồ Rê Mí", đồ mi đồ phá mì, la mi là mi xị! (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Vế ra dựa vào 7 nốt nhạc Si Đô Rê Mi Fa Sol La và các âm trầm bổng của chúng. Pha có nghĩa là lai. Rê có nghĩa như băng, nhóm. Ý vế ra: Nói vui về tuỏi học trò hay đùa nghịch bạn bè.)
vế đối:
  • Cờ bạc, trai gái, rượu chè là "ba cái lăng nhăng" mà quý bậc mày râu nam tử hiếm người không vướng vấp; làm ảnh hưởng xấu đến hạnh phúc nhiều gia đình. Cò Con mượn tên một số nước trên thế giới để làm 3 vế ra liên quan về vấn đề này:
vế ra 1: Ba Tây ấn độ hoa kỳ, ý anh mang đi vơ xu đặng. Tây bán nhà! (Ba Tây ấn định đánh độ cờ tướng, ý anh mang tài năng mình có thể vơ vét đặng vài xu, không ngờ hậu quả là Tây bán nhà) (Ba Tây = Braxin, Hoa Kỳ = Mỹ. Hoa kỳ ở đây là cờ Hoa tức là cờ người Hoa do dùng chữ Hán làm ký hiệu các quân. Kỳ =cờ. Mang đi vơ = Maldives. Xu đăng = Sudan. Tây bán nhà = Tây ban nha)
vế đối:
  • vế ra 2:Cô Oét đứt síp, cu Ba va tí căng. Ả rập mê hí cổ. Ba kít tăng hai ti gìa nã đại. Bác Ba đốt áo!(Cô Oét tắm biển lỡ bị đứt bikini. Anh Ba vô tình chạm vào...Cô ta định làm anh mê mệt hú hí chuyện tình cảm với cô ấy, thế là anh Ba hứng khởi làm liều...Hậu quả: Vợ anh Ba đốt áo!) (Cô Oét = Kuwait. Đứt = Đức. Síp = Cyprus. Va tí căng = Vatican. Ả rập = Saudi Arabe. Mê hi cô = Mehico. Ba kít tăng = Pakistan. Hai ti = Haiti. Già nã đại = Canada. Bác Ba đốt = Barbadot. Kít ở đây là động từ, Kít còn là danh từ chỉ "ống đội" dùng để nâng khối lượng lớn, thường dùng trong nghề lái xe)
vế đối:
  • vế ra 3:Ba Lan bê la rút Ken phi lip bin. Sĩn gà bò thổ lít và... y ê men! (anh ba Lan bưng bê thịt la rồi rút bia Ken uống (phi) lút ba ga, y bị sĩn như gà, bò mửa cả lít và cuối cùng: y ê men bia rượu) (Bê la rút = Belarus. Ken = Kenya và còn có nghĩa như bia Heineken. Phi lip bin = Philippin. Sĩn gà bò = Singapore. Thổ = Thổ nhĩ kỳ. Lít và = Litva. Y ê men = Yemen)
vế đối:
  • vế ra: Chú Hai tuyển hai chú đàn nhị tranh nhất nhì, mời đôi giám khảo nam nữ, thuê cặp đàn đặc biệt. Đầu tiên song tấu một bản rồi mỗi người đàn độc nhất một bài (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
Vế đối:
  • vế ra: Con keo bị keo dính chặt trên cây keo mồm kêu két két, mèo con leo mòn keo chấu mắt nhìn chắc mấu, vểnh râu kêu meo meo méo méo (Quang Phúc Phạm Đình Trung) (Con keo giống như con két nhưng nhỏ hơn. Mấu = mối, tiếng Bình Định)
Vế đối:
  • Vế ra: Đàn đàn đàn bà đàn đàn đàn tỳ bà (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng)
Vế đối:
  • vế ra: "VÒ VẼ VUỐT VE" (Thiền Long) (phân tích độ khó: 1/ Ong vò vẽ đang vuốt con ve (con ve là con mồi nằm trong tay con ong vò vẽ). 2/ Ong vò vẽ đang vuốt ve (vuốt ve là hành động bình thường, như ong vuốt ve cái miệng chẳng hạn). 3/ Cái vò được vẽ cái vuốt của con ve (ve có cặp chân trước rất cứng, có vuốt). 4/ Bốn phụ âm đầu đều là điệp âm đầu mang chữ "V". 5/ Vò, ve đều đựng rượu (Vò rượu, ve rượu).
Vế đối:
  • vế ra: VỀ HÀ NỘI BĂM SÁU PHỐ PHƯỜNG, NGHE ĐÀN TAM THẬP LỤC, KẾ ĐẾN LỤC ĐỌC TAM THẬP LỤC KẾ (Thiền Long)("BĂM SÁU PHỐ PHƯỜNG" nghĩa là 36 phố phường, như nhà văn Thạch Lam cũng có bài tùy bút "Hà Nội Băm Sáu Phố Phường").
vế đối:
  • Nước ta là một "siêu cường quốc" về lĩnh vực Cờ tướng trên bản đồ thế giới với nhiều thành tích huy hoàng, trong đó nổi bật là Vô địch châu Á năm 2011 với trận chung kết chỉ còn 2 đại danh thủ Việt Nam là Nguyễn Hoàng Lâm (Quán quân) và Bùi Dương Trân (Á quân). Vừa qua, Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức giải Trạng cờ Quý Tỵ 2013 và Trạng cờ Đất Việt 2015 thành công rực rỡ. "Vua cờ đất Bắc" Phạm Quốc Hương đã vinh dự đoạt ngôi Trạng cờ Quý Tỵ; Đặc cấp Quốc tế Đại sư Trềnh A Sáng với mỹ danh "Túy Kỳ Tiên" dẫn đầu kỷ lục 7 lần vô địch quốc gia đã vinh danh đoạt cú đúp Trạng cờ Đất Việt và Vô địch Quốc gia trong năm 2015. Hứng khởi trước sự phát triển đi lên không ngừng của môn Cờ Tướng nước nhà, Trường Văn Nguyễn Phước Thắng có làm bài thơ vui:
Trạng cờ xưa chỉ làm thần
bây giờ trạng lại xí phần làm "vua"
Tiên say, tiên cũng thích đùa
xuống trần ẵm trọn bảy mùa kỳ vương

và đưa ra một vế xuất:

vế ra: Thơ kỳ thi cờ (Thơ = Thi, Kỳ = Cờ, Thơ Kỳ lái thành Thi Cờ. Kỳ và Thi là 2 trong 4 thú chơi tao nhã được gọi là "Tứ Tài" hay "Tứ phong lưu": Cầm Kỳ Thi Họa. Nghĩa câu đối: Làm thơ về Kỳ thi môn cờ.)
Vế đối:
  • vế ra: Chị Cát thích nuôi mèo cái, có tài mài kéo sắc như phim Edward Scissor hands (khuyết danh)(Edward Scissorhands là bộ phim lãng mạn, giả tưởng của Mỹ năm 1990 do Tim Burton đạo diễn và có sự tham gia diễn xuất của Johnny Depp. Phim xoay quanh một người máy chưa hoàn thiện tên Edward, với bàn tay là những chiếc kéo)
Vế đối:
  • Vế ra: Văn Thánh trồng thông, Võ Thánh trồng bàng. Ngó vô Xã Tắc hai hàng mù u (Văn Thánh : (văn miếu) đền thờ Khổng Tử và các danh nho. Võ Thánh : (võ miếu) đền thờ các võ tướng. Xã Tắc : là một cái đàn để tế Thần Đất (Thái Xã) và thần Lúa (Thái Tắc). Đó là 3 công trình kiến trúc ở Huế , vào thời Gia Long , Minh Mạng. Nhưng trong câu trên: Văn Thánh, Võ Thánh còn tượng trưng cho trí lực và dũng lực của cộng đồng; Xã Tắc cũng thường chỉ nước nhà, giang sơn. Ngoài ra đôi từ "mù u" cũng được hiểu theo hai nghĩa....)
Vế đối:
  • Vế ra: Ba bạn đồng ban, cùng ngồi một bàn, tập chép bài bản, bàn bán thư pháp (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
Vế đối:
  • Vế ra: "Muôn vạn tử sĩ, vô danh vi thượng" (trong muôn vạn người lính chiến tử trận, người vô danh là cao cả nhất)(Thiền Long) (Con người sinh ra có nhiều lý tưởng để tôn sùng, có nhiều chí hướng để hành động nhưng dẫu thế nào mạng sống con người cũng rất quý giá. Trong các cuộc chiến chính nghĩa của dân tộc ta từ cổ chí kim có biết bao nghĩa sĩ đã hy sinh. Có những người đã dâng hiến mạng sống của mình vì lý tưởng mà không điều kiện, thậm chí chết một cách vô danh. Ai mà chẳng quý giá mạng sống của chính mình, nhưng chỉ họ mới hiểu họ có thể chết vì điều gì và chấp nhận điều đó. Trải qua cuộc chiến, kẻ may mắn còn sống thì còn hưởng công lao. Người chết đi nếu còn may thì còn ghi danh. Chỉ có có những chiến sĩ hy sinh vô danh là những người vĩ đại nhất vì bản chất của họ là hy sinh mà không được gì, chỉ như khói mây thoảng qua nhất thời, sự cống hiến của họ cũng là cả mạng sống)
Vế đối:
  • Những vế xuất chưa có đáp án của Nhà Giáo Nguyễn Hữu Quyến:
Vế ra năm 1989: Lên tầng ra rả, xuống xưởng giả da, ra rả giả da, thực ra cũng chỉ vì ra thực (Tên ông giám đốc xưởng giả da của trường Hà Nội – Amsterdam)
vế đáp:
Vế ra năm 1998: Tàn năm Hổ, sắp Tết dần, vài đồng lương beo cho mấy ngày Xuân, hai tám đã ba mươi, lo Tết “cọp” hơn râu Hùm phải vuốt
vế đáp:
  • Vế ra: Từ vùng Hà Bắc cũ, đi vòng qua thành phố Hà Đông, xưa thuộc tỉnh Hà Tây, nay là ngoại ô thủ đô Hà Nội mới, sẽ đến xứ Hà Nam (Hoàng Trần Tư) (địa danh Hà Bắc nay gồm: Bắc Giang và Bắc Ninh, trong vế xuất này có 5 tên riêng đều có chữ Hà đứng đầu, đủ 4 hướng: Đông, Tây, Nam, Bắc...có các cặp đối xứng như: đi><đến, xưa><nay, cũ><mới, nội><ngoại...tỉnh Hà Tây sát nhập vào Hà Nội được gọi là Hà Nội mới hoặc Hà Nội 2)
vế đáp:
  • Vế ra: Ông Tư vô thi đàn, vô tư viết bốn câu thơ tứ tuyệt (Hoài Anh Võ Quang Thạch) Tư = Tứ = Bốn
Vế đối

Câu đối dưới dạng thơ Lục Bát[sửa]

  • vế ra: Sơn ca Ưng biển Vàng anh, Họa mi Sáo Rốc Bách thanh Thiên đường, Cô cô Nhạn Thái Bình Dương, Sả rừng Lội suối Uyên ương Sẻ đồng (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Dùng tên các loài chim để nói về tình yêu. Sơn Ca là nàng Sơn ca. Ưng có nghĩa là ưng thuận. Biển vàng có nghĩa là giàu sang hoặc tấm lòng vàng rộng lượng như biển. Họa mi là cô gái vẽ lông mi trang điểm, sau đó thổi sáo ngân nga trăm tiếng trong giai điệu Thiên đường. Cô cô là cô đơn, cô độc như cảnh ngộ hồng Nam nhạn Bắc, Uyên ương là từ tượng trưng cho tình yêu trai gái, vợ chồng. Sẻ đồng là đồng lòng cùng nhau chia bùi sẻ ngọt)
vế đối:
  • vế ra:Thi làm thơ nhanh tên bay. Cầm đàn ca hát canh cày canh hai. Bốc quẻ bói chuyện tiền tài. Học trò nho nhã dùi mài sử kinh (Thiền Long) (đa nghĩa Hán Việt: Có Cầm, Thi, Canh, Nho, Bốc, Tài)
vế đối:
  • vế ra: Nhân "NGÀY CỦA MẸ" 08/5/2016 vừa qua, Trường Văn Nguyễn Phước Thắng có đưa một vế ra để tưởng nhớ công ơn trời biển của MẸ:
vế ra: Mế Bủ đẻ vú má u, cái mẫu mệ mé me bu mạ bầm (Toàn bộ 14 chữ đều chỉ về MẸ, riêng trong vế ra này BỦ còn là tên riêng, U còn là động từ có nghĩa như "sưng" (chẳng hạn: "ngã u đầu"), MỆ MÉ là mệ của mé tức là mẹ của mẹ (bà ngoại), ME còn có nghĩa là con bê như trong câu ca dao "Ra đường quần lĩnh áo the, về nhà chẳng có con me mà cày", BU còn là động từ có nghĩa tụ lại, vây quanh (như "bâu"), MẠ còn là danh từ, Bầm còn là tính từ chỉ về màu "tím đỏ". Câu này có nghĩa là: Mẹ của Bủ đẻ nên vú và má bị sưng lên, vì mới sinh nên không thể đi thăm cái mẫu ruộng của bà ngoại nên đám ruộng ấy bị bê bu tới giẫm phá làm bầm lúa mạ non.
"Ngày của mẹ" khởi xướng bởi bà Ann Maria Reeves Jarvis vào năm 1858. Sau khi bà mất, con gái bà là Anna Marie Jarvis tiếp tục phát triển mơ ước của mẹ về việc thành lập một ngày kỷ niệm riêng cho những người mẹ trên thế giới. Năm 1910, Thống đốc bang West Virginia, William E. Glasscock là người đầu tiên công bố ngày của mẹ. Năm 1914, bản nghị quyết do Quốc hội lưỡng viện Hoa Kỳ thông qua và được Tổng thống Woodrow Wilson ký đã chính thức chọn Ngày Hiền Mẫu vào ngày chủ nhật thứ nhì trong tháng 5. Từ đó, lễ vinh danh người mẹ hiền lan rộng, được thông qua bởi các quốc gia khác và hiện nay được tổ chức trên toàn thế giới
vế đối:
  • vế ra:Nết na nề nếp mảnh mai, màu mỡ quấn quýt miệt mài lơ mơ (Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Từ láy. Na, nếp, mai, mỡ (củ), quýt, mài (củ), mơ là thực vật. Ý nói các cô gái đẹp người đẹp nết thì lắm chàng con nhà giàu (màu mỡ) đeo đuổi và cả các chàng chăm chỉ cũng phải mơ mộng đến nỗi lơ mơ trong việc học hành)
vế đối:
  • vế ra:Lanh chanh qua quýt máu me, ngây ngô lung lạc màu mè ... mỉa mai!(Trường Văn Nguyễn Phước Thắng) (Từ láy. Chanh, quýt, me, ngô, lạc, mè và mai đều là thực vật. Ý nói các cô gái tính lanh chanh, làm việc qua quýt và lại máu me ăn chơi thì coi chừng có ngày gặp kẻ dù ngây ngô cũng có thể lung lạc xiêu lòng để lại hậu quả không tốt. Vậy nên màu mè mà làm gì để tiếng đời mỉa mai!)
vế đối:
  • vế ra: Kỳ lạ dễ gặm khó ăn, cờ quen khó gặm dễ săn lạ kỳ (Quang Phúc Phạm Đình Trung)
Vế đối:
  • vế ra: Nghìn Mồm không Lưỡi vứt đi, Nói chẳng Ai hiểu Thọ thì đã sao (Trần Việt Hà) (Câu này trước nhất chiết tự chữ  Thiệt có nghĩa là cái Lưỡi, được ghép bởi chữ  Thiên có nghĩa là 1 nghìn và chữ  Khẩu có nghĩa là cái Mồm. Sau đó chiết tự sang chữ thứ 2 là chữ  Thoại, lấy chữ Thiệt là cái Lưỡi để ghép với chữ  Ngôn là lời nói sẽ ra chữ Thoại có nghĩa là nói chuyện với nhau. Vậy câu này nghĩa là gì: Dẫu có đến hàng nghìn cái mồm mà không có lưỡi thì nói làm sao được, bởi cái lưỡi rất quan trọng sở dĩ ta phát âm được ra tiếng nói là do lưỡi. Thế nên chữ Hán dùng hình tượng 1000 cái mồm giá trị chỉ bằng 1 cái lưỡi là có nguyên do cả, nếu đã không lưỡi thì khác gì người câm vậy thì nói ra ú ở chả ai hiểu là ý tứ gì. Cho nên ở đây ví von đã sống mà bị câm (đại khái có mồm mà chẳng nói được) thì thọ lâu sống dai phỏng có ích chi, giống như người sống đời thực vật danh nghĩa vẫn đang tồn tại mà so với chết rồi cũng chả có gì hơn vậy. Về phần chữ Quốc Ngữ, thì chữ Ai ở đằng trước sẽ ghép với chữ Thọ để thành chữ Thoại (Thọ+Ai), dấu Nặng được hoán vị sang chữ O mà không nằm ở chữ A. Câu đối này bắt nguồn từ 1 điển tích xa xưa cuối thời Tây Chu trong lịch sử Trung Quốc, bấy giờ Chu Lệ Vương nghe lời xu nịnh của 1 đại thần là Vinh Di Công làm những điều xằng bậy đi ngược với lợi ích của dân chúng. Nhân dân ca thán, họ bàn ra tán vào những chính sách của triều đình, gây xôn xao dư luận. Nhà vua biết tin lập tức hạ lệnh hễ ai bàn tán lập tức cắt lưỡi, từ đó dân chúng sợ hãi ra đường không ai dám nói chuyện gì với nhau mà dùng tay chỉ chỉ trỏ trỏ ám hiệu mà thôi. Như vậy có mồm cũng như không, nghìn mồm ở đây nói chung chỉ số đông tức cả quần chúng, xã hội lúc đó rất nực cười toàn người câm ai làm việc nấy cứ lẳng lặng không có nói năng gì với ai cả. Sau này họ không chịu nổi nữa đã nổi dậy đánh vào hoàng cung, Chu Lệ Vương sợ hãi bỏ chạy sang đất Trệ không dám về, khiến trong nước không có vua. Trong bộ phim Tể Tướng Lưu Gù, đạo diễn phim đã mượn điển tích này lồng vào đoạn các bài văn thơ viết về ẩn ý "phản Thanh phục Minh")
Vế đối:
  • vế ra: Miệng Mời Lanh Sắc hơn Dao, lẽ lời lấp Lánh Thao Thao khôn lường (Trần Việt Hà)(Câu này có nghĩa là mồm miệng còn lanh lợi sắc bén hơn cả dao (nói chung vũ khí sát thương), chỉ cần 1 lời nói có thể đánh bại hàng vạn hùng binh. Vũ khí chỉ có thể giết được 1 hoặc vài người, nhưng lời lẽ có thể ngăn chặn được cả 1 cuộc tàn sát. Trong lịch sử Việt Nam Nguyễn Trãi chỉ cần dùng thư từ viết sang cho Vương Thông mà khiến giặc rút quân về nước tất nhiên phải sau những trận thua đau. Thời kỳ chiến tranh Đông Dương lần thứ 2 cũng vậy, Việt Nam ta đã làm tốt 3 công tác: binh vận, dân vận và địch vận...ở trong nước, đồng thời với những đòn ngoại giao quyết định mà buộc Mĩ quốc phải ngồi vào bàn đàm phán để kết thúc cuộc chiến tranh dai dẳng, như vậy võ mồm rất quan trọng...chả thế mà tục ngữ có câu: "bệnh do ở mồm mà ra, họa cũng từ mồm mà tới". Ở đây có 3 chữ Hán cùng được sử dụng để chiết tự...thứ nhất là chữ  Triệu có nghĩa là gọi đến hay mời đến: như hiệu triệu, triệu thỉnh...thứ 2 là chữ  Lánh có nghĩa là khác, là riêng biệt, ở đây không dùng theo nghĩa này mà mượn chữ lấp lánh tức là sặc sỡ đa dạng để lấy âm Hán Việt...thứ 3 chữ  Thao là nói nhiều, ở đây lấy ý từ câu "thao thao bất tuyệt" là Khẩu ngữ ý rằng nói liên hồi, hết cái này sang cái kia, tưởng như không bao giờ dứt. Ba chữ này đều được ghép bởi chữ  Khẩu có nghĩa là cái mồm, cái miệng và chữ  Đao có nghĩa là con dao, là thanh đao. Chỉ có điều ở chữ Triệu thì Đao nằm trên Khẩu, ở chữ Lánh thì Khẩu nằm trên Đao còn ở chữ Thao thì Đao và Khẩu nằm bằng phân nhau, Đao bên phải Khẩu bên trái. Về phần chữ Quốc Ngữ: chữ Lanh + dấu Sắc = chữ Lánh)
Vế đối:
  • vế ra: Sức Mồm Nặng Y Bê Đao, tay Ê lưỡi cũng Tê nào Khác chi (Trần Việt Hà) (Câu này nói nên sức lực của Mồm bỏ ra so với công năng sản sinh calo của Tay là ngang ngửa, tạm gọi là bằng phân. Y là y nguyên, giống hệt đại ý sức nặng của mồm xứng tầm sức bê của tay, bê là bưng. Bởi trong 1 cuộc chiến thì tâm lý chiến rất quan trọng, có khi còn căng thẳng hơn những người trực tiếp cầm vũ khí ra mặt trận. Dùng từ Mồm ở đây nó đa nghĩa, có thể là tình báo gián điệp, có thể là tuyên truyền, có thể là đứng đằng sau kích động bạo lực, khuấy động phong trào...Ngày xưa người cầm đao kiếm ra chiến đấu trực tiếp nếu không có người phía sau bày mưu đặt kế thì rất khó giành phần thắng, bởi vậy mới ví sức lực của miệng lưỡi so với sức lực của người múa binh khí xét về công trạng là 50% nếu như ta không nói hơn. Khi ra chiến trường người cầm súng cũng ê tay thì người dùng miệng lưỡi cũng bị tê bởi nói nhiều chớ đâu có phải kém cạnh gì, thơ Bác Hồ có câu: "nay ở trong thơ nên có thép, nhà thơ cũng phải biết xung phong". Ở đây chữ  Biệt có nghĩa là khác, là chia...được chiết tự. Nó được ghép bởi chữ  Khẩu là cái Miệng ở phía trên và chữ  Lực có nghĩa là Sức ở phía dưới, bên cạnh đó là bộ  Đao đứng nghĩa là thanh đao (nói chung vũ khí, chỉ về võ nghiệp: ví dụ nghiệp binh đao). Phía chữ Quốc Ngữ được phân tích như sau: Biệt = B(Bê)+I (y) + Ê + T (tê) và dấu Nặng)
Vế đối:
  • vế ra: Lửa Hồng Thiêu Đốt Rừng Chung, Yêu muông Phần tán lung tung thẫn Thờ (Trần Việt Hà)(vế ra này phản ánh nạn cháy rừng, khiến cho các loài sinh vật sống trong đó không chốn dung thân phải trốn chạy lung tung khổ sở. Yêu trong Hán tự có nghĩa là nhỏ, bởi vậy trong các quân bài Tổ Tôm những con số 1 nhỏ nhất và những con không đánh số đều được gọi là Yêu. Yêu muông ở đây chỉ chung các loại muông thú, bởi liên quan đến vấn đề chiết tự chữ Quốc ngữ nên phải sử dụng kép từ Hán lẫn từ Nôm. Rừng là tài sản thiên nhiên chung của toàn thế giới, còn là lá phổi của toàn cầu, cần phải bảo vệ nó chớ để cháy sẽ gây ô nhiễm môi trường sinh thái, không những thú vật tán loạn mà con người cũng bị ảnh hưởng trầm trọng đến chất lượng cuộc sống. Ở đây có 3 chữ cùng có nghĩa là Đốt được chiết tự, về phía chữ Hán là chữ Hồng và chữ Phần. Chữ  Hồng được ghép bởi chữ  Hoả có nghĩa là Lửa và chữ  Cộng có nghĩa là Chung, ví dụ: công cộng, cộng đồng, cộng tác..v..v..Chữ Phần được cấu tạo bởi chữ  Lâm có nghĩa là Rừng ở bên trên và chữ  Hoả có nghĩa là Lửa ở phía dưới, chữ Quốc Ngữ được bẻ trong câu đối này chính là chữ Thiêu: Th (thờ) + iêu (Yêu)...Ở đây chỉ có 1 chữ Lửa "Hỏa" nhưng phải gánh 2 nhiệm vụ, ghép với chữ Cộng để ra chữ Hồng và ghép với chữ Rừng "Lâm" để tạo chữ Phần. Chữ Phần ở vế sau câu đối chỉ mượn âm chữ Phần khác trong Hán tự có nghĩa là rối loạn, chớ ở đây không sử dụng nghĩa đen là đốt, còn về chữ Hồng thì chữ Hán có nghĩa là đốt nhưng ở đây mang ý chính là lửa đỏ. Như vậy chữ Hồng và chữ Phần thuộc về Hán tự còn chữ Thiêu được cắt bởi phiên âm La Tinh trong Tiếng Việt)
Vế đối:
  • vế ra: Lạnh quá Khiến Nước đóng Băng, Bờ bị Ăn hết còn chăng thác Gờ (Trần Việt Hà)(Câu này nói về vấn đề rất tự nhiên, trời quá lạnh thì nước buộc phải đóng băng. Bấy giờ ta đâu còn nhìn thấy bờ nữa bị băng phủ kín rồi, nó sẽ liền với đất thành 1 mảng, lúc này thì thác ghềnh cũng thôi tồn tại vì lấy đâu ra nước chảy. Câu này về chữ Hán chiết tự chữ  Băng có nghĩa là nước gặp đông cứng, được ghép bởi bộ  chấm Băng có nghĩa là đá và chữ  Thủy có nghĩa là Nước. Bên cạnh có còn chiết tự chữ  Lãnh có nghĩa là Lạnh được cấu tạo bởi bộ  chấm Băng và chữ  Lệnh "có khi đọc là Linh" có nghĩa là Khiến, như vậy chữ Băng có 3 vai trò: 1 là ghép với chữ Lệnh thành chữ Lãnh, 2 là ghép với chữ Thuỷ thành chữ Băng, 3 vừa là chữ Băng luôn. Chữ Quốc Ngữ ở đây cũng đem chữ Băng ra bóc tách: B (bờ) + ĂN + G (gờ)
Vế đối:
  • vế ra: Mặt Trời hút Nước Bến sông, Chiều tà nắng Hạn đẫm đồng Mồ Hôi (Vũ Quang Long)(câu này phản ánh vấn đề nắng hạn lâu ngày, hơi nước bốc lên do trời quá nóng nực, đến bến sông còn dần dần phải cạn...người nông dân vất vả đi cày ngoài đồng, khi ánh hoàng hôn buông mà vẫn ướt đẫm mồ hôi chứng tỏ thời tiết khắc nghiệt đến mức độ nào. Vấn đề chiết tự ở đây đồng thời 2 chữ  Cán có nghĩa là buổi chiều tà và  Hạn có nghĩa là cạn, là nắng mãi không mưa: như hạn hán...được ghép bởi 2 chữ  Nhật có nghĩa là Mặt Trời và  Can có nghĩa là Bến, là bờ. Có điều khác là chữ Cán "thường đọc là Hãn" chữ Nhật và chữ Can nằm ngang nhau, còn ở chữ Hán thì chữ Nhật nằm phía trên còn chữ Can nằm phía dưới. Ngoài ra còn chiết tự chữ  Hãn có nghĩa là Mồ Hôi, được ghép bởi bộ  chấm Thủy có nghĩa là Nước và chữ  Can có nghĩa là Bến. Như vậy chữ Can có nghĩa là Bến ở đây chỉ có 1 nhưng phải gánh chiết tự ở cả 3 chữ là: Mồ Hôi nghĩa của từ "Hãn", Chiều nghĩa của từ "Cán" và Hạn)
Vế đối:
  • vế ra: Xưa gặp Cỏ Đắng Cây Khô, dân Khổ chỉ biết Ca; Hô; Hỏi trời (Trần Việt Hà) (Vế này nói thoát ý rằng: ngày xưa khi găp phải hạn hán cây khô cỏ đắng bị héo úa hết chất ngọt, tức là các loại cây cỏ không phát triển được thì dân chúng khổ sở đến đâu cũng chỉ biết: ca cẩm, ca thán...hô hét, hô hào hoặc hô hoán "tức hô phong hoán vũ" và cuối cùng là hỏi trời (thậm chí còn chửi rủa ông trời) chớ chẳng còn biết làm sao khác, không như bây giờ người ta có nhiều biện pháp bằng công nghệ hiện đại để chống lại sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Ở đây chữ Khổ và chữ Khô được đem ra chiết tự ở cả 2 khía cạnh Hán Ngữ và Quốc Ngữ, về Hán Ngữ chữ  Khổ có nghĩa là Đắng và Khổ sở vất vả được ghép bởi chữ Cổ có nghĩa là thời Xưa ở dưới và bộ  Thảo là Cỏ ở trên. Chữ  Khô có nghĩa là cạn, là Khô hạn cũng được chữ  Cổ tạo ra nhưng bên cạnh đó là chữ  Mộc có nghĩa là cây, thế nên nói Cỏ Đắng Cây Khô. Ngoài ra ở đây còn chiết tự 1 chữ  Khổ "có âm khác là Hộ" nữa có nghĩa là xấu xí, là những thứ gì đáng phải loại bỏ...được ghép bởi đồng thời 3 chữ Mộc + bộ Thảo + Cổ. Những thực vật như cỏ đắng, cây khô thì đã hết giá trị cũng chính là những đồ xấu xí phế thải chẳng còn tác dụng vậy. Chữ Quốc Ngữ thì K (ca) + Hô = Khô + dấu Hỏi = Khổ)
Vế đối:
  • vế ra: Bên dòng NƯỚC SẠCH tịnh TU, SUỐI khe HUYỀN ảo oán thù dẹp YÊN (Đỗ Đình Bao)(câu này đại ý nói về những vị ẩn sĩ không màng thế sự, lui về những vùng non xanh nước biếc, thường là trong những hang động hoặc bên những bờ khe bãi suối để tịnh tu bởi chán ghét thế tục. Từ đó tất cả những ân oán tình thù sẽ rũ sạch dẹp yên tất cả để chuyên tâm vào thiền định, cái đó gọi là hoà mình với dòng suối trong sạch "tức với thiên nhiên" để cho lòng được thanh thản. Có thể nơi họ trú ngụ chỉ là những túp lều tranh dưới dòng thác, hay chân núi cạnh suối trong rừng khiến cho ai cũng cảm thấy họ thật huyền ảo thần bí. Trong lịch sử đã có nhiều bậc cao nhân sau khi hoàn thành sự nghiệp đã từ bỏ công danh phú quý để tìm nơi yên tĩnh kiểu như vậy, cụ thể như: Phạm Lãi, Trương Lương, Trần Nhân Tông, Lưu Bá Ôn, Nguyễn Trãi..v..v..Câu này chiết tự chữ Tuyền có nghĩa là dòng suối ở cả 2 mảnh Hán Ngữ và Quốc Ngữ, trong Hán Ngữ chữ Tuyền được ghép bởi chữ  Bạch có nghĩa là mà màu Trắng, là Sạch sẽ ở bên trên và chữ  Thủy có nghĩa là Nước ở phía dưới, trong Quốc Ngữ chữ Tuyền được phân tích: Tu + Yên + dấu Huyền)
Vế đối:
  • vế ra: Tuổi Kỷ Tị Đã Răn mình, Rắn buông Mềm nắn Sắc tình chớ ham (Vũ Quang Long) (Ở đây vẫn sử dụng thủ pháp 3 chữ thuộc bộ Kỷ có các nét giống nhau gồm: Kỷ, Tị và Dĩ. Chữ  Kỷ là hàng can xếp thứ 6, có nghĩa là bản thân Mình, chữ  Tị là hàng can cầm tinh con Rắn, còn chữ  Dĩ có nghĩa là Đã, là qua rồi. Có điều hơi khác chút ít về ý tứ: câu này nói nên người tuổi Kỷ Tị đã tự răn mình bằng câu tục ngữ: "mềm nắn rắn buông" và tự nhắc nhớ chớ nên ham sắc đẹp và tình dục. Ở đây có cắp từ đối lập là Rắn và Mềm, tuy nhiên Rắn lại là nghĩa của chữ Tị, tuổi Tị là tuổi Rắn...cuối cùng là chiết tự chữ Quốc Ngữ: Răn + dấu Sắc = Rắn)
Vế đối:
  • vế ra: Kiếp người Bỏ Sức làm Công, Xê đi dịch lại dở Ông dở thằng (Trần Việt Hà) (Hai chữ Hán là chữ Kiếp và chữ Công đồng thời được đem ra chiết tự ở phần trên của vế xuất, chữ  Kiếp có nghĩa là số kiếp được ghép bởi chữ  Khứ có nghĩa là Bỏ đi, vứt đi và chữ  Lực có nghĩa là Sức ở bên cạnh. Chữ  Công có nghĩa công lao, thành tích được ghép bởi chữ  Công có nghĩa là người thợ và chữ  Lực có nghĩa là Sức mạnh, như vậy chữ Lực giữ 2 vai trò: ghép với chữ Khứ để ra chữ Kiếp và ghép với chữ Công vẫn đọc là Công. Chữ Công cũng được bẻ thành chữ Quốc Ngữ: C (xê) + Ông...Câu này nói rằng: cái kiếp con người phải bỏ sức lao động ra để lấy công làm lãi, đẻ trao đổi lấy những vật chất mà mình còn thiếu, để đảm bảo nhu cầu cuộc sống. Vậy nên buộc phải văng vật không yên được 1 chỗ, cứ "xê đi dịch lại" nay đây mai đó lúc chỗ này khi chỗ nọ chẳng bao giờ được ngơi nghỉ thực thụ. Đôi khi còn phải đánh đổi cả những tình cảm những giây phút riêng tư giành cho gia đình và người thân để mang về danh lợi phù phiếm, đúng thật thật là "có được cái này thôi cái khác, ông trời thấu hiểu cảnh tình chăng?" Khi lên voi thì thiên hạ tôn sùng ngưỡng mộ gọi là ông là cụ là quan lớn rất nể nang trọng vọng, lúc xuống chó thì họ lại chê cười bảo là thằng nọ thằng kia nó thế này nó thế khác, vậy mới nói "dở ông dở thằng". Nghĩa là cũng 1 con người nhưng khó phân biệt đâu là ông đâu là thằng, cũng là con người ấy "được thì làm vua, thua thì làm giặc". Đang là anh hùng đang là nhân vật xuất chúng được gọi bằng "Ông": ví dụ: ông tướng, ông xếp, ông trùm...lỡ phạm phải lỗi lầm gì hoặc sa cơ lỡ vận thì lập tức sẽ bị chửi là "Thằng" ngay: ví dụ: thằng giặc, thằng trộm, thằng ngu...đó cũng là quy luật tự nhiên vậy. Chưa cần nói chi xa, chỉ cần ghét nhau ngoài mặt vẫn ông nhưng trong bụng đã nghĩ là thằng rồi, hoặc gặp thì ông mà đằng sau đã chửi ngay là thằng chẳng hạn)
Vế đối:
  • vế ra: Cửa Rộng dễ sinh Hoạt hơn, Ca Hát thả Oát Họa đờn Tê mê (Trần Việt Hà)(câu này mang ý nghĩa những khu vực như nhà văn hóa văn nghệ cần mở cửa rộng rãi cho quần chúng thì việc tham gia hoạt động nghệ thuật của người dân sẽ được dễ dàng hơn, ca hát thoả sức mà hoạ đàn cũng sướng đến mức tê mê luôn. Oát ở đây là 1 đơn vị đo công xuất, Watt (viết tắt là W) đặt theo tên của nhà phát minh khoa học người Ái Nhĩ Lan - Anh Quốc James Watt, tiếng Việt Nam đọc ra là Oát. Đại khái có nơi chốn rộng rãi cửa sẵn sàng rộng mở thì dân tình thả sức mà ca hát đến hết công suất thì thôi, hoạ đàn cũng vô tư đến tái tê mê mỏi thoả chí mới dừng lại. Chữ Hán ở đây được chiết tự là chữ  Khoát có nghĩa là rộng, được ghép bởi chữ  Môn có nghĩa là Cửa và chữ  Hoạt có nghĩa là sinh hoạt, hoạt động. Chữ Quốc Ngữ thì có 2 chữ là Khoát và Hoạt được bóc tách, chữ Khoát gồm: K (ca) + H (hát) + Oát còn chữ Hoạt phân tích là: Hoạ + T (tê). Về chữ Khoát, thời Tam Quốc có 1 điển tích rất hay như sau: Thừa tướng nhà Hán là Tào Tháo sai người làm cổng ngự hoa viên, khi làm xong ông đến xem nhưng không nói năng gì mà chỉ viết vào tờ giấy chữ Hoạt rồi để treo giữa cửa. Mọi người ở đấy không ai hiểu ý tứ gì cả, sau có quan chủ bộ là Dương Tu mới phân tích cửa là chữ Môn, giữa chữ Môn có chữ Hoạt là chữ Khoát có nghĩa là rộng, như vậy thừa tướng chê cửa này làm rộng quá)
Vế đối:
  • vế ra: Thiếu Mắt không Chột là mù, Tai Tinh Óc Tỉnh đắp bù Hỏi chi? (Trần Việt Hà)(Câu này nói rằng những ai bị thiếu mắt thì chỉ có Chột (thiếu 1 mắt) hoặc mù (thiếu cả 2 mắt), nhưng bù lại họ có đôi Tai rất tinh tế và đầu Óc rất tỉnh táo, đó cũng là quy luật lấp chỗ trống rất tự nhiên. Ông Trời rất công bằng, lấy đi của người cái này sẽ phú cho cái khác...vậy nên nhiều người cứ thắc mắc, tại sao người mù họ đánh đàn giỏi hoặc chân tay lại rất lanh lẹ làm rất nhiều việc như đan lát, khâu vá...có khi người mắt tinh chưa chắc làm đã bằng được, vì họ mù buộc họ phải vận động các bộ phận khác để họ sinh hoạt hàng ngày, thế nên đó là chuyện thường tình, khỏi phải hỏi nhiều làm chi? Ở đây chữ Hán được chiết tự là chữ Miễu có nghĩa là Chột 1 mắt và chữ  có nghĩa là mở ra, là coi xét. Hai chữ này đều được ghép bởi các chữ  Mục có nghĩa là con Mắt và chữ  Thiếu có nghĩa là số ít, ngược lại với thừa là số nhiều. Chỉ có khác là chữ Miễu thì Mục và Thiếu nằm ngang nhau, còn chữ Tỉnh thì Thiếu nằm trên Mục nằm dưới. Quốc ngữ ở đây là: Tinh + dấu Hỏi = Tỉnh, ngoài ra có 3 từ nhắc đến các bộ phận trong cơ thể người là: Mắt, Tai và Óc)
Vế đối:
  • vế ra: Một Cây Vốn chẳng xi-nhê, Ba Cây Hiệp Lực Xum Xuê rõ Mười (Trần Việt Hà)(Để hiểu câu này trước hết phải giải thích từ Xi-nhê, chữ này là gốc Pháp, vốn là cách đọc tắt của signifier (xi-nhi-phi-ê). Signifier là động từ tương đương với signify tiếng Anh, nghĩa là gán cho cái gì đó một ý nghĩa hoặc một tác động. Khi chúng ta nói "(việc này) không xi nhê" nghĩa là cái việc đang nói không gây ra ảnh hưởng, tác động gì lớn. Vế xuất lấy ý từ 1 câu ca dao "Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao", đại ý rằng muốn làm việc gì lớn thì sức 1 người khó có thể hoàn thành cũng như 1 cái cây thì chẳng ăn thua gì, nhưng sử dụng sức của nhiều người đồng tâm hiệp lực sẽ có thành quả, ở ca dao thì nên hòn núi cao còn ở vế xuất này thì một cây chẳng làm gì được nhưng nhiều cây tất sẽ xum xuê rậm rạp tốt tươi như rừng nguyên sinh vậy. Ở đây có 3 chữ Hán được đem ra chiết tự, thứ nhất chữ  Bản "tiếng miền Nam đọc là Bổn" có nghĩa là Vốn được ghép bởi chữ  Nhất có nghĩa là số Một phía trong bên dưới và chữ  Mộc có nghĩa là Cây ở bên ngoài. Thứ 2 chữ  Sâm có nghĩa là xum xuê, rậm rạp được cấu tạo từ 3 chữ  Mộc và thứ 3 là chữ  Hiệp có nghĩa là hợp lại, chữ này được 3 chữ  Lực có nghĩa là Sức ở 1 bên ghép với chữ  Thập có nghĩa là số Mười nằm ngay cạnh)
Vế đối:
  • vế ra: Tâm còn phiền Muộn chi đây, Nặng nề Muôn nỗi đứng ngây Cửa nhà (Đỗ Đình Bao)(Ở đây chiết tự chữ Muộn ở cả 2 khía cạnh, về phần Hán tự chữ  Muộn có nghĩa là buồn bã bực bội được ghép bởi chữ  Môn có nghĩa là cửa và chữ  Tâm có nghĩa là tâm trạng, tâm tư, tâm tính...chữ Quốc ngữ: Muôn + dấu Nặng = Muộn. Câu này nói về tâm trạng của người vợ sau khi cãi nhau với chồng, giận dỗi đứng ngoài của không thèm vào nhà. Trong lòng đày rẫy những buồn bực mâu thuẫn nặng nề, có nhiều nỗi nhiềm ưu tư trăn trở mà chỉ co người trong cuộc mới hiểu được. Sau này họ giải quyết với nhau ra sao, có êm thấm không hay tan vỡ lại là vấn đề khác, chỉ biết ở vế xuất mượn tâm trạng này để chiết tự mà thôi)
Vế đối:
  • vế ra: Hai Vua Tất sẽ phân tranh, xưa Nay Cầm Sắt chỉ giành phu thê (Vũ Quang Long)(trong lịch sử nhân loại và đặc biệt là 4 nước đồng văn Hán Ngữ: Trung, Nhật, Việt, Hàn...khi xuất hiện 2 chính quyền song song tồn tại ắt sẽ có sự phân biệt chia rẽ và chinh chiến đổ máu, chẳng mấy khi lại hòa bình được vì bên nào cũng muốn thâu tóm toàn vẹn lãnh thổ, một mình độc quyền bá chủ. Thế nên chuyên 1 nước tồn tại 2 vua trong sự yên bình thì rất khó có thể xảy ra, ở 4 nước đồng văn như đã nêu trên đều xuất hiện những thời kỳ nam bắc triều mà thiên hạ đại loạn. Thế nên nói cái chuyện đàn cầm đàn sắt hoà hợp tương đồng chỉ là chuyện phòng the, chuyện chăn gối ân ái giữa vợ chồng, chớ về chính trị thì chẳng thể nào có được sự hữu hảo như vậy. Có 2 chữ Hán là  Cầm và  Sắt được chiết tự, cả 2 chữ đều được ghép bởi 2 chữ  Vương có nghĩa là 2 ông vua ở phần trên, còn dưới chữ Cầm là chữ  Kim có nghĩa là nay, là đương đại, dưới chữ Sắt là chữ  Tất có nghĩa là ắt, là cái gì đó buộc phải như vậy)
Vế đối:
  • vế ra: Mắt Dân sáng cũng như Mờ, không Ngủ Ắt vẫn lờ đờ lặng Yên (Trần Việt Hà)(Câu này chiết tự chữ  Miên có nghĩa là Ngủ, được ghép bởi chữ  Mục có nghĩa là Mắt và chữ  Dân có nghĩa là người trong 1 nước, chữ Quốc Ngữ thì chiết tự chữ Miên và chữ Mắt. Miên gồm: M (mờ) + Iên (yên) còn Mắt gồm M (mờ) + Ắt. Câu này đại ý nói rằng người dân có mắt dẫu sáng cũng chẳng khác chi mờ, dẫu có chứng kiến những cảnh ngang tai trái mắt quan lại o ép áp bức nhưng cũng vẫn phải giả đò như không nhìn thấy gì, mà cứ lim dim lờ đờ như đang ngủ (mặc dù vẫn thức) mà lặng yên không dám nói. Ở đây phản ánh về thời phong kiến dưới chế độ quân chủ người dân không hề có quyền hạn gì, tàng lớp thống trị bảo sao nghe vậy nên họi là có mắt để đấy thôi chứ không ăn thua. Thời hiện đại, chế độ quân chủ đã bị xóa bỏ vấn đề nhân quyền và dân quyền được nâng cao, mọi việc làm của chính quyền đều có phương châm như: "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" thật là sung sướng biết mấy)
Vế đối:
  • vế ra: Ngang nhiên Anh mở gu Gờ, to Gan Nặng mật chẳng Ngờ Ngại Ai (Hoàng Trần Tư) (Câu này phản ảnh vấn đề 1 số thanh niên có lối sống buông thả, ra quán Internet cứ công nhiên mở mạng vào những trang có nội dung đồi trụy hoặc bạo lực, điều này rất phản cảm vì ở đó có nhiều thành phần kể cả trẻ em hay học sinh trung học. Nó sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng và cách nhìn nhận của các em, tạo ra 1 thói quen viêm nhiễm xấu cho xã hội, những cái đó thích thì xem ở nhà hay ở chỗ vắng người. Google (Tiếng Việt đọc là gu Gờ) là một công ty Internet có trụ sở tại Hoa Kỳ, được thành lập vào năm 1998. Sản phẩm chính của công ty này là công cụ tìm kiếm Google, được nhiều người đánh giá là công cụ tìm kiếm hữu ích và mạnh mẽ nhất trên Internet. Ở đây Chiết tự 3 chữ Quốc ngữ: chữ Ngang, chữ Ngại và chữ Ngờ. Chữ Ngang chiết tự theo 2 cách: chữ Gan kẹp giữa chữ Ng (ngờ) gồm N ở ngoài cùng và G ở cuối cùng của chữ, hoặc N (anh) + Gan + G (gờ). Chữ Ngại gồm: Ng (ngờ) + Ai + dấu Nặng và chữ Ngờ gồm: N (anh) + G (gờ)...Câu thành ngữ "To gan lớn mật" được cách điệu thành to gan nặng mật để sử dụng dấu Nặng trong phép chiết tự, ngoài ra cũng có ý đã lớn thì phải nặng theo nguyên tắc của trọng lượng)
Vế đối:
  • vế ra: Bê Đá Trắng Chờ Ý Vua, dâng hòn ngọc Bích để mua chân què (Trần Việt Hà) (Câu này nói về sự tích Biện Hoà nước Sở thời Xuân Thu. Bữa nọ, Biện Hoà nhặt được ở núi Kim Sơn một viên ngọc quý vẫn chưa mài rũa mang hiến cho Sở Lệ Vương, Sở Lệ Vương sai người thợ ngọc xem thử, thợ ngọc nói là đá. Sở Vương cho rằng, Biện Hoà mang ngọc giả đến lừa dối mình, phán xử Biện Hoà tội hình, chặt của anh ta chân phải. Sau khi Lệ Vương chết, Sở Vũ Vương kế vị, Biện Hoà lại đem hiến viên ngọc, Vũ Vương sai thợ ngọc kiểm tra, thợ ngọc lại nói đây là một hòn đá, Vũ Vương lại chặt chân trái của Biện Hoà. Sau khi Sở Vũ Vương chết, Sở Văn Vương lên ngôi, Biện Hoà không dám mang ngọc đi tặng nữa mà ôm viên ngọc khóc ở núi Kinh Sơn ba ngày ba đêm, chảy khô cả nước mắt. Sở Văn Vương nghe được tin này cho người đến hỏi tại sao lại khóc thống thiết như vậy? Biện Hoà trả lời: “Tôi không phải bị chặt mất hai chân mà đau buồn. Tôi đau buồn vì tôi hiến ngọc cho đại vương rành rành là một viên ngọc quý, lại nói nó là đá; rõ ràng là kẻ trung thần thì lại nói là lừa dối. Đây là cái cớ vì sao tôi đau buồn!” Vậy là Sở Văn Vương đem cho người thợ mài ngọc ra quả nhiên là ngọc thật, mới đặt tên gọi là Ngọc bích họ Hòa và từ đó viên ngọc này được coi là quốc bảo của nước Sở. Đến đời Tần Thủy Hoàng, nó trở thành ngọc tỷ truyền quốc được các vị hoàng đế Trung Hoa nối đời sử dụng. Ở đây chữ  Bích có nghĩa là viên ngọc bích, là màu xanh biếc được chiết tự phần Hán ngữ gồm 3 chữ: chữ  Vương có nghĩa là vua bên cạnh chữ  Bạch là màu trắng ở phía trên, 2 chữ này đè chữ  Thạch là đá ở bên dưới. Chữ Quốc ngữ gồm: B (bê) + Ý (í) + Ch (chờ) = Bích. Tóm lại ý câu này nói rằng Biện Hoà 2 lần bê hòn đá trắng để đợi chờ ý chỉ của nhà vua mà chẳng được gì, bởi đến thợ ngọc cũng chỉ tưởng là hòn đá mà không phân biệt được đó là ngọc, kết quả chỉ mua lại đôi chân bị chặt thành ra tàn phế)
Vế đối:
  • vế ra: Mệt PHỜ lĩnh GẠO đem PHÂN, SẮC mặt PHẤN khởi nhớ ÂN cụ Hồ (Trần Việt Hà)(câu này đề cập đến việc phát gạo thời bao cấp, lúc đó người có trách nhiệm lĩnh gạo đem phân phát cho dân tuy mệt mỏi bơ phờ nhưng lại rất vui vẻ phấn khởi vì đã hoàn thành được nhiệm vụ đảng và nhà nước giao phó, điều đó thể hiện trên nét mặt rất phấn khởi sau khi công việc xong xuôi, được như vậy phải nhớ đến ân đức của chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy giành lấy độc lập tự do từ tay thực dân đế quốc. Chữ Hán được chiết tự là chữ  Phấn có nghĩa là bột gạo, mượn âm từ phấn để nó đén trạng thái phấn khởi. Chữ này được ghép bởi chữ  Mễ có nghĩa là Gạo cùng với chữ  Phân có nghĩa là chia, về phía chữ Quốc Ngữ: Ph (phờ) + Ân = Phân + dấu Sắc = Phấn)
Vế đối:
  • vế ra: Xuyến Vàng Anh đứng Sông quăng, Y như hàng Ế chẳng bằng một Xu (Trần Việt Hà)(phân tích vế xuất này trước nhất phải quay ngược thời gian về gian đoạn 1944-1945 lúc đó đế quốc Đại Nhật Bản thực hiện chính sách nhổ lúa trồng đay khiến cho Việt Nam gặp phải nạn đói khủng khiếp, đã khiến hàng triệu người chết do thiếu lương thực. Bấy giờ nhiều gia đình giàu có tiền nhiều của lắm cũng không thoát cơn đại nạn, có người đem cả sợi dây truyền vàng đem đổi một ống gạo mà cũng không có gạo để đổi, đến lúc chạy loạn buộc phải đem của cải vứt đi mà chạy lấy người. Do đó vàng bạc bấy giờ khác chi hàng ế còn chưa bằng được 1 xu, từ đó đã lộ ra ý tứ vế xuất đối này: nghĩa là đến vật quý giá như sợi dây truyền vàng anh cũng phải đem ra sông mà bỏ đi, chẳng khác nào vứt những thứ hàng ế hàng tồn hay đồ phế thải rõ ràng so với 1 xu cũng không bằng. Ở đây chữ Hán được chiết tự là chữ  Xuyến có nghĩa là sợi dây chuyền vàng, là vòng đeo tay bằng vàng được ghép bởi chữ  Kim là kim loại vàng và chữ  Xuyên có nghĩa là sông nhỏ nằm ở vùng rừng núi. Còn chữ Quốc Ngữ: Xuyến = Xu + y + ế + n (anh)
Vế đối:
  • vế ra: Một DÂY HUYỀN diệu thâm UYÊN, bổng trầm khúc HÁT giao duyên TƠ lòng (Trần Việt Hà)(vế xuất này nói về cây đàn bầu Việt Nam, chỉ vẻn vẹn có 1 dây nhưng cũng đủ tất cả các cung bậc cảm xúc trầm bổng sâu lắng không thua kém các loại đàn khác, đó chính là sự thâm thúy uyên bác của những cổ nhân đã chế tác ra nó vậy. Loại đàn này cấu tạo rất đơn giản nhưng sự huyền diệu của nó thì quá tuyệt vời, chả thế mà khi các nghệ nhân Việt Nam thời Pháp thuộc mang sang Châu Âu biểu diễn họ không tin nổi vào mắt mình, họ thấy 1 dây mà cũng chơi đủ các thể loại nhạc nên họ yêu cầu tháo tung ra kiểm tra xem trong đó lắp đặt hệ thống máy móc gì, kết quả họ phải chấp nhận rằng cây đàn quá mộc mạc nhưng lại chứa đựng nhiều nét tinh tế và giàu óc sáng tạo. Tâm sự của cô gái tên Tôn Tiến đến từ Trung Quốc, là giảng viên âm nhạc trường ĐH Dân tộc Quảng Tây: Hỏi có biết câu “Đàn bầu ai gảy nấy nghe; Làm thân con gái chớ nghe đàn bầu”?, cô đáp: “Có biết, nhưng sang Việt Nam rồi mới biết ý nghĩa của câu nói này!” Rồi tiếp: “Nhưng bây giờ thì chẳng dứt được nữa bởi vì càng học, càng nghe càng đắm đuối...” Tiếng đàn bầu rất dễ đi sâu vào lòng người, nó làm cho con người ta chìm đắm trong những âm thanh thiết tha, mềm mại. Bản chất con gái đã yếu đuối, lãng mạn, cả tin, tiếng đàn bầu càng có tác dụng mạnh hơn với họ. Ở đây lối chiết tự cả Hán Ngữ cùng Quốc Ngữ vẫn được áp dụng triệt để, về mặt Hán Ngữ chữ  Huyền có nghĩa là sợ dây đàn được ghép bởi bộ  Mịch (hoặc gọi bộ Ty) có nghĩa là sợi tơ nhỏ và chữ  Huyền có nghĩa là đen, là lẽ sâu sa như: huyền diệu, huyền bí, huyền ảo...chữ Quốc Ngữ: Huyền = H (Hát) + Uyên + dấu Huyền)
Vế đối: