Chùa Phật Ân 475 Minnesota Avenue Roseville, MN 55113. Tel: (651) 482-7990 - Web: www.PhatAn.org. Email: chua_phatan@yahoo.com.
Danh Mục Tam Tạng
THƯ MỤC TÁC GIẢ

No Title

11 Tháng Giêng 20173:42 CH(Xem: 2209)
No Title

Kinh Hoa Thủ
(hay Nhiếp Chư Thiện Căn)
Đại Tạng Kinh Đại Chánh Tân Tu quyển 16, số 657
Đời Hậu Tần, nước Quy Tư
Pháp Sư Cưu Ma La Thập 
Phụng chiếu dịch từ chữ Phạn sang chữ Hán
Tỳ Kheo Thích Bảo Lạc dịch ra chữ Việt
Pháp Bảo ấn hành 1990

---o0o--- 
 

Quyển IX

30 - Phẩm bất thối chuyển thứ ba mươi

Phật bảo Xá Lợi Phất, nay Như Lai phải trừ nghi cho các vị, cũng như khiến người đọc tụng, diễn nói, thọ trì kinh này trong tương lai đều dứt hết nghi ngờ.

Này Xá Lợi Phất, Như Lai là bậc trí sâu thấy rộng, là kẻ thuyết đạo, không pháp nào chẳng thấy, không pháp nào chẳng nghe, không pháp nào chẳng biết, không pháp nào chẳng hiểu, nên thấu suốt rõ ba đời không còn ngăn ngại. Xá Lợi Phất, Như Lai là bậc không ai sánh bằng, trong các pháp đều giải đúng, tự nhiên, tự tại không cần thầy. Nay Như Lai muốn vang lên tiếng gầm sư tử giữa đại chúng, để cho người ngu hành pháp tà đạo biết, chẳng cần nói rộng. Như có người thiện nam thiện nữ phát tâm vô thượng Bồ Đề, ở trong giáo pháp ta phải nhất tâm thực hành. Tại sao? Phải nghĩ thế này: chư Phật đã tu tập pháp vô thượng Bồ Đề trong vô số kiếp. Trong các pháp ấy nếu ta sanh tâm giải đãi thì chắc không thể tin; còn như đi ngược lại không thọ trì, thì không hiểu biết. Này Xá Lợi Phất, nếu Bồ Tát hành bốn pháp sau là làm hủy hoại đạo vô thượng của chư Phật. Những gì là bốn?

1) Xa lánh bạn lành, tiếp xúc thân cận bọn ác tri thức, theo chỗ học mà phá pháp Đại Thừa   .

2) Bồ Tát có sở đắc, thấy được thân tâm mình, nghe kinh sâu mầu bèn sinh ra khiếp sợ, nên đọa vào đại địa ngục.

3) Bồ Tát học kinh luận phức tạp của ngoại đạo, giỏi việc tranh luận, được nhiều người tôn kính; không điều phục được tâm, cũng không điều phục được pháp. Vì không điều phục được nên không thực hành pháp Đại Thừa.

4) Bồ Tát phá hủy các giới cấm Phật chế không theo kịp nổi. Nghe những giới thanh tịnh vi diệu tuyệt vời ấy tâm không hiểu thấu nên không tin; ngược lại, không thọ trì.

Bồ Tát bị bốn pháp ấy nên không thể tin thọ, còn làm phá hủy đạo Bồ Đề. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Nếu gần ác tri thức

làm theo chúng thất đức

nên không ưa Phật pháp

hủy diệt đạo vô thượng.

Học kinh điển ngoại đạo

ưa giỏi việc tranh luận.

Nếu có kẻ phát ngôn

đều là bọn phá hoại.

Dù tự xưng người trí

kỳ thật lại ngu si.

Nhân duyên đó là vì

không tin đạo Bồ Đề.

Như người tham chấp ngã

theo chỗ hiểu biết đã

nghe pháp nhiệm mầu này

sanh tâm sợ hãi ngay;

chẳng hiểu một mảy may:

pháp thật không, tịnh thảy.

Không hiểu Bồ Đề đạo

nên không niệm tin tưởng.

Do vì phá giới tướng

nên tạo nghiệp tội chướng

không thể theo học được,

những giới cấm Phật lược.

Ác khẩu và lưỡng thiệt

ưa nêu lỗi của người.

Kẻ bất thiện dẫy đầy

không ác nào chẳng tạo;

vì thế nên tránh xa.

Đạo Bồ Đề thiết tha

thuận pháp ta xưng tán

học tu chuyên tinh tấn.

Như người muốn thấy Phật

muốn hiểu pháp như thật

nên giữ giới cẩn mật

từ đó được trí Phật.

Nếu người tịnh giới luật

tâm Bồ Đề cao tột

do giữ giới tịnh thanh

hay diệt ác quán lành.

Nên người cầu đạo giác

phải tịnh tu giới luật.

Khi ấy trong Phật pháp

không còn thấy điểm nghi.

Lại nữa, Xá Lợi Phất, Bồ Tát có bốn pháp để hộ trì Phật pháp. Những gì là bốn ?

1)  Tự giữ giới thanh tịnh, phát tâm an trú trong giới,

2)  Rộng nghe giáo pháp, không bàn tạp luận

3)  Nghe kinh pháp của Phật chuyên cần trì tụng

4)  Thường ưa ở một mình, thích hạnh thanh tịnh.

Xá Lợi Phất, nếu Bồ Tát hoàn thành bốn pháp ấy có thể hộ trì Phật pháp. Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ:

 

Bồ Tát chuyên giữ giới

không lấy giới tự cao

để cầu pháp nhiệm mầu

quyết định nghĩa thẩm sâu.

Pháp tịnh đệ nhứt này

cầu vô thượng Bồ Đề.

Chỉ tu chánh pháp Phật

luận ngoại đạo chẳng tập;

và cũng không tụng đọc

kinh điển Lộ Già Da

chẳng thích luận trích qua.

Phật pháp hộ thiết tha

thường tu nơi vắng lặng

thích ở chỗ không nhàn.

Các sắc dục không còn

làm não loạn tâm thần.

Nay ta đã tán dương

bốn pháp vi diệu này

vì muốn Phật đạo thành.

Các vị gắng tu hành

ta trong nối tiếp đời

đều thực hành pháp ấy

ủng hộ Phật pháp thảy

sớm đạt thành đại trí

Phật pháp luôn hộ trì.

Ác nạn chẳng đọa vào

thường sanh nơi tôn quí

làm chỗ để dựa nương

nên được đại giàu sang

tâm vẫn chẳng phế hoang

sớm tạo phước nghiệp đoàn.

Biết của cải vô thường

bố thí là một phương

nên cho chẳng giữ thường.

Thân ta và tài sản

lúc chết đều thỏng buông.

Chỉ người thiện quyến thuộc

cùng kẻ thiện tri thức

cha mẹ và thân tộc

khiến họ tin Phật pháp.

Thích thực hành việc tốt

cũng như khiến người tin.

Nhờ đó đại vui mừng

để tu hành chánh pháp.

Được sanh trong thế gian

dòng quí tộc giàu sang

tâm vẫn không phóng đãng

ưa làm việc thiện sáng

với thân mạng, tài sản

chẳng nghĩ tưởng tiếc tham.

Gặp chư Phật thậm nan

chỗ không nạn cũng vậy

Gặp Phật hết nạn thảy

lợi ích thật lớn thay!

Tâm hằng tưởng xuất gia

trí huệ phát sanh là

đại hoan hỷ thuần hòa.

Cầu trí huệ cao vời

ở trong pháp an thường

phát sanh đạo vô thượng.

Này Xá Lợi Phất, Bồ Tát có bốn pháp tâm thường hoan hỷ tu hành an ổn, nên biết chắc sẽ thành Phật, danh đồn khắp mười phương. Những gì là bốn?

1)  Có những sở hữu trong (thân thể), ngoài (của cải) đều vui lòng bố thí

2)  An trụ trong giới, tu các công đức lành

3)  Trong hàng tri thức, là người được tôn kính hơn cả

4)  Vì hiểu giáo pháp mầu nhiệm nên không tiếc thân mạng. Nếu có ai đọc tụng kinh này thì nên gia tâm lễ bái cúng dường ủng hộ. Đầy đủ bốn pháp như thế thì tâm thường vui vẽ, nên tự tìm được niềm an lạc, ta tin chắc vị ấy thành Phật, danh đồn khắp mười phương.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ:

Quyết bỏ mọi tài sản

an trụ trong tịnh giới

hơn hẳn trong người trí

chẳng ngờ pháp vắng lặng.

Nếu thấy người đọc tụng

hành trì và diễn nói

kinh điển nghĩa thâm huyền

đem mọi vật cúng dường.

Đây là Bồ Tát tướng

tâm hằng vui bố thí

làm Phật được thọ ký

trong đời đáng được tôn

hoặc quá khứ, vị lai

cùng chư Phật hiện tại

thọ ký được giác ngộ

ngươi sớm thành Phật ngay.

Nếu người tu pháp này

chính lời chư Phật dạy.

Bồ Tát nên biết thế

an trụ đạo Bồ Đề.

Pháp này Phật xưng tán

Chư Bồ Tát thực hành.

Người nào trụ trong ấy

vị lai Phật ắt thành

Ví như lấy bình sốp

từ cao thả xuống đất

khoảng giữa chẳng chi ngăn

biết chắc vỡ tan hoang.

Bồ Tát cũng như thế

chuyên tu hành đạo giác

khoảng giữa không chi ngăn

được thành Phật chắc chắn.

Giống người dệt cửi hẳn

đường ngang dọc ngay thẳng

khoảng giữa chẳng dự phòng

mà vải vẫn thành công.

Bồ Tát cũng như thế

thường tu đạo Bồ Đề

tâm không hay biếng trễ

Phật quả được chứng nên.

Như người có ruộng tốt

trồng tỉa lúa mạ lên

luôn luôn năng tưới bón

xanh tươi hạt chắc bền.

Tùy thời lo giữ gìn

lạnh nóng, gió khó gần

cây dần dần lớn mạnh

mùa lúa kết sung thạnh

nhờ che chở mát sạch

cho người được nghỉ ngơi

hạt chắc cấp chúng xơi

là công việc ích lợi.

Bồ Tát cũng như vậy

đầu phát tâm Bồ Đề

dần tu Bồ Tát đạo;

muốn hiểu rộng thấu đáo

tùy thực hành huệ thí

thường giữ gìn cấm giới,

các pháp giải thoát thời

cũng chẳng hề biếng lười.

Thực hành theo lớp lang

được ngồi tòa đạo tràng

trừ diệt chúng ma quân

chứng vô thượng Bồ Đề

tùy thời chuyển pháp luân.

Không ngăn ngại thế gian

để độ thoát chúng sanh

dẫn đạo vô số chúng

bậc trí huệ xứng đáng

phát tâm vô thượng quang

đời đời không lui hàng

cho đến khi thành Phật.

Vì thế các vị nay

nên tu pháp diệu này

chắc được thành Phật ngay

tùy thời chuyển pháp luân.

Xá Lợi Phất, Bồ Tát có bốn pháp trọn đời không thối chuyển đạo vô thượng Bồ Đề, xã thân làm được chuyển luân thánh vương phước đức tự tại, thân thể cường tráng như đại lực sĩ. Làm chuyển luân vương bỏ bốn châu thiên hạ mà xuất gia, khi đã xuất gia thường được tự tại tu bốn phạm hạnh. Sau khi chết được sanh lên cõi trời Phạm Thế làm Đại Phạm Thiên. Những gì là bốn?

1)  Nếu Bồ Tát thấy chùa tháp hư nát nên ra sức sửa sang lại, dù chỉ còn một đống hay tan ra từng mãnh vụn. Đó là pháp thứ nhất, cho đến khi làm được Phạm Thiên Vương.

2)  Nếu Bồ Tát ở giữa con đường thông sang bốn bên có nhiều người qua lại mà lập chùa tháp hay hình tượng Phật. Làm việc Phật, tạo công đức ấy, hoặc chuyển pháp luân và xuất gia, hoặc ngồi đạo tràng, phá diệt ma quân, hoặc hiện thần thông hay nhập Niết Bàn, hoặc từ thiên thượng hiện xuống trần... là pháp thứ hai, cho đến khi được làm Phạm Thiên Vương.

3)  Nếu Bồ Tát thấy tỳ kheo tăng tan rã, hai chúng tranh tụng, hiềm giận đôi co nhau lỗi quấy. Lúc đó Bồ Tát phải có cách khéo léo làm cho họ hòa hợp. Đó là pháp thứ ba cho đến khi làm được Phạm Thiên Vương.

4)  Nếu Bồ Tát thấy Phật pháp sắp hoại diệt thường phải tụng kinh, thuyết pháp dù một bài kệ bốn câu, làm cho giáo pháp không mất; tinh tấn tu hành để hộ trì Phật pháp, cúng dường pháp sư, một lòng hộ pháp không tiếc thân mạng. Đó là pháp thứ tư, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp như thế  đời đời chuyển thân làm vua chuyển luân, thân tướng cao lớn như đại lực sĩ. Bỏ cả bốn châu thiên hạ mà xuất gia. Khi xuất gia thì tùy ý tu bốn phạm hạnh. Khi chết được sanh lên cõi trời Phạm Thế làm vua Đại Phạm Thiên.

Lúc đó đức Thế Tôn muốn làm rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Nếu thấy tháp Phật hư

ra công tu bổ lại

Bồ Tát làm như vậy

nên được thân cao đại

Ở giữa bốn ngã đường

tạo lập chùa, tháp, tượng

biểu hiện Phật đức tướng

khiến chúng tâm thanh tịnh

được đại phước báu sinh

danh vang khắp lưu truyền.

Với quyến thuộc đông vầy

được nhiều người xưng tán.

Hoặc thấy tăng ly tan

cốt chỉ lo tranh tụng

chước khéo làm họ hối

cho hòa hợp ở chung.

Nhờ phước đức nhân duyên

sức mạnh không ai bằng

thân cao lớn đẫy đà

đại lực sĩ khác nào...

Thấy Phật pháp tiêu hao

không có người tín thọ

nên nhứt tâm ủng hộ

chẳng mến tiếc thân mạng.

Thấy ai hộ trì pháp

thêm cung phụng kính trọng

làm chư thiên hộ vệ

nên chư Phật gia bị.

Giúp chấn hưng Phật lý

nên làm được quốc vương

dạo đi khắp bốn phương

đem pháp dạy chư cường

Tuy trị quốc an dân

tâm chẳng chút buông lung.

Hay khéo đè các dục

xuất gia lìa tổ quốc

chuyên tu tập tứ thiền

đủ thần thông thiên biến

bốn phạm hạnh tu tiến

thường ưa điều phước thiện

cho đến lúc mạng diệt

được sanh lên Phạm Thiên

các cõi trời Phạm Thế

được làm Tự Tại Vương

Bốn pháp đây tối thượng

chư Phật đều tán dương.

Xưa ta là Bồ Tát

cũng thân cận tu thường

theo chỗ thấy nghe pháp

như thuyết tu học tường

được đến bờ giác ngộ

sớm thành đạo vô thượng.

Nếu người chuyên tu dưỡng

thực hành pháp của ta

đời đời được tôn quí

sức mạnh khó chuyển lay

thường được người kính lạy.

Các vua trời Đao Lợi

trong cõi dục cũng vậy

được làm Tự Tại vương

và ngay cõi sắc được

làm Tự Tại quốc vương

khắp nơi đều tôn ngưỡng.

Ai chẳng tu chánh đạo

giữ giới cấm thanh tịnh.

Tâm luôn biết hổ thẹn

đều thành tựu sở nguyện

trụ nơi điều phước thiện

tinh tấn không trễ biếng.

Tập nhẫn nhục, tu thiền

được trí huệ vô biên

hiểu thông tất cả pháp.

Hằng trăm nghìn vạn ức

pháp phương tiện không lường

thảy đều thông suốt cả

thấu rõ nghĩa tinh tường.

Chỉ trong mỗi một câu

diễn nghĩa mầu vô lượng

Khéo biết các thuật hay

vượt hơn hẳn trong đây

là được đại trí huệ.

Biện luận giỏi vô ngại

chuyên tu đạo giác ngộ.

Xã bỏ trí huệ thừa

thường giữ tâm ngay thẳng

khéo tu tập chánh kiến

nên được gặp Như Lai

lìa xa bao chướng ngại

Ấy là thừa trọng đại

chư Phật đều ngợi khen.

Trong thừa vi diệu đây

chẳng còn các lỗi quấy

Chẳng hạn người mù thảy

cũng chẳng hạn điếc ngây

Lưng gù trăm hoạn nạn

câm, ngọng, xấu xí thay.

Cũng chẳng hạn bần cùng

Và người mất phước báu.

Chẳng hạn tạo nghiệp dữ

nhân duyên đọa ác thú.

Ai nghe khen thừa ấy

chẳng tạo điều ác quấy

mà cũng chẳng học tu

chỉ trừ kẻ ác tâm.

Người trí nên chuyên cần

cầu Phật tuệ quyết lòng

tu tập trí huệ này

Giác ngộ đạt đến bờ

Ta sanh ra đời đời

thường trong dòng tôn quí

tướng đẹp sức bền bỉ

đầy đủ quyến thuộc thảy.

Lúc đầu ta chẳng trể

chuyên tu hành tinh nhuệ

giữ gìn tịnh giới để

nhất tâm cầu trí huệ.

Đời quá khứ như thế

do tu tập pháp lành.

Nay được thọ nhận tốt.

Các vị chớ có xét

qua trăm nghìn vạn ức

vô số na do tha

thế giới như hà sa

trí ta đều thông suốt;

cũng biết rõ mồn một

tâm niệm của chúng sanh

còn biết việc chúng hành

và thâm tâm chúng muốn.

Ta biết tìm phương kế

giáo hóa Bồ Đề phần;

cũng biết điều phục tâm

làm cho không phừng cháy.

Ta dùng Phật nhãn thấy

thế giới tâm chúng sanh

giáo hóa phải có cách

gốc sanh tử nhổ sạch

tùy thời mà thuyết pháp,

dạy bảo hướng dẫn đường

hiển hiện sức thần thông

khiến chúng đều vui mừng.

Nếu chúng ưa tham chấp

tài sản và thân sắc;

chỉ rõ các lỗi thất

để đạt đến Niết Bàn.

Nếu kẻ bị buộc ràng

vấn vương các tà kiến

cũng làm cho trông thấy

khiến họ biết lỗi lầm.

Tùy chúng được quí tôn

tướng hình thân đủ loại.

Ta liền theo biến hóa

chánh đạo chỉ rõ cho.

Người kia đắc pháp rồi

tâm hân hoan gấp bội.

Nói, nghĩ tức Phật ngôi

ta thương giáo hóa đời;

quy y ta tức thời.

Cũng nương theo Thánh pháp

rồi sau dần chứng đắc;

phiền não khổ nhổ bạt

vì người mà thuyết pháp

khiến được đạo tịch diệt.

Người ấy nghe pháp ta

Niết Bàn đạt không xa

như ta trong hiện tại;

các pháp đều vô ngại.

Quá, hiện và vị lai

trí huệ chẳng còn ai (hơn)

Thân Phật thật cao đại

không thể có hạn lượng.

Kẻ thần thông đạt được

còn chưa thể thấy nghe

Phật lực nhiệm mầu thay

không biên cương giới hạn

đem Phật lực vô lượng

che chở cõi Hằng sa

Những gì của Như Lai

sắc tướng thân hiện tại

chúng sanh trong các loại

không còn có hạn lượng.

Nếu chúng sanh nào tưởng

muốn thấy Phật sắc tướng

thì nhìn đủ loại thân

không có định tướng hình

Thấy Phật thân biến liền

tâm hân hoan khôn xiết.

Chúng nhiệt liệt khen ta

đều là sai lầm cả.

Loài chúng sanh hết thảy

Phật thân khó thấy rõ

thậm chí dùng thiên nhãn

cũng khó có thể tường.

Các vị nay thấy được

là Phật lực thần thông

thân tướng Phật trang nghiêm

thật khó thể nghĩ cùng.

Phật ở mỗi chân lông

biến hóa sức thần thông

vì lợi ích chúng sanh

còn khó thể bàn suông.

Trong mỗi lỗ chân lông

phóng vô số hào quang

hơn số các sông Hằng

các thế giới đâu bằng.

Ta được các vị khen

an tọa giữa chúng tăng

trong mười phương thế giới

cũng xưng tán như đây.

Ta dùng trí hết thảy

Phật lực trí huệ bày

còn chưa hết được thay

huống gì được nghe thấy.

Phật còn khó bàn vậy;

Pháp xét nghĩ khó hơn.

Nếu ai tin hết lòng

quả báo được khó lường.

Lúc bấy giờ trong chúng có một đồng tử (1) bảy tuổi tên là Tuyển Trạch từ chỗ ngồi đứng dậy chấp tay hướng về đức Phật nói bài kệ rằng:

Thế Tôn, con phát tâm

mong mỏi đấng pháp vương (2)

nghe pháp khó nghĩ  lường

trang nghiêm tâm cao thượng.

Vì chúng sanh thương tưởng

lập pháp thí (3) hội trường

làm tiếng sư tử gầm

như đã nói tất thành.

Thế Tôn, con từ nay

không tham gia quyến thảy.

Theo y lời Phật dạy

xuất gia tu chánh đạo,

tinh tấn hành chu đáo

thiền định và trí não

chánh giác sớm đạt vào.

Nay con tu học dạo

vì nhiễm sâu dục hão

mong sớm được xuất gia

cạo tóc, mặc cà sa;

thường tu hành thượng pháp.

Nên dùng sức hiểu biết

chọn lựa ở thế gian

Thế Tôn nên vì con

mong mỏi cho xuất gia.

Con không tưởng chúng sanh

vì nghĩ tưởng khó thành

tức giáo pháp hiểu rành

nên vì chúng sanh thuyết

chúng ma quân phá diệt;

làm ngoại đạo tê liệt

lưới tà kiến trừ dẹp

làm lợi chúng tốt đẹp.

Con hành đạo an lạc

chân Niết Bàn tu đạt

vô hình tướng đạo giác

nên khó thể nghĩ bàn.

Đoạn mê si loạn cuồng

pháp sáng soi thế gian.

Pháp chân thật truyền giảng

tùy theo pháp tánh tướng

đại thần thông đạt được

hy hữu hiện các việc.

Chúng sanh được thấy nghe

đoạn dứt những mối nghi...

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn bảo Tuyển Trạch rằng: hay thay, hay thay đồng tử! Con ở trong pháp ta mà muốn xuất gia chăng? Mong thay Thế Tôn! Như Lai liền nói bài kệ rằng:

Tuy đang mặc nhiễm y (4)

mà tâm không đắm nhiễm

thì trong Phật pháp thảy

mới chân thật xuất gia.

Trang sức tuy chưa xã

mọi mối buộc lìa xa.

Không kết, tâm không mở

ấy là chân xuất gia.

Tuy không thọ giới cấm

Tâm xa hẳn ác tà

mở định huệ công đức

ấy là chơn xuất gia

Tuy không thọ giới cấm

mà phá pháp chẳng chấp

lìa hết thảy mọi pháp

ấy là chân xuất gia.

Nếu chẳng phân biệt ngã

cũng không chúng sanh thảy

mà tâm bất thối chuyển

ấy là chân Bồ Đề.

Nếu phát tâm Bồ Đề

chẳng đạt hết tướng tâm

không được mà chẳng động

là người không thể mất.

Lúc bấy giờ Xá Lợi Phất nghĩ như thế này: đồng tử đây từ khi phát tâm đến nay cũng đã lâu, Phật vì đồng tử thuyết pháp mầu. Lúc đó Xá Lợi Phất dùng kệ hỏi Phật rằng:

Đồng tử Tuyển Trạch đây

đã thực hành đa thiểu

nhờ nghe pháp thâm diệu

mà tâm không kinh sợ.

Người ấy đời quá khứ

từng thấy bao đức Phật

nghe pháp thâm diệu này.

Nay nghe Thế Tôn nói

phát tâm tín thọ ngay

Tùy theo chư Như Lai

nghe pháp thâm diệu này

tâm chẳng chút đổi thay?

Liền đó đức Thế Tôn dùng bài kệ đáp rằng:

Đồng tử Tuyển Trạch đây

từng ở thế giới này

theo hầu vô số Phật

được nghe vi diệu pháp.

Đồng tử như ta biết

ở Ương Già Ma quốc

đã nghe qua Phật pháp

tu hành đạo Bồ Tát

và hiểu rõ thông đạt

ấm giới cùng các nhập

biết ba môn giải thoát

là xứ hay phi xứ

Ca Thi, Kiều Tất La

nơi đây pháp nghe qua

ta thảy đều thấy biết

cũng như hai xứ trên.

Đồng tử Tuyển Trạch đây

bờ giác thẳng tiến lên

pháp lành càng tăng thêm

được trí huệ thuần thiện

toán số, kỹ thuật tiến

văn từ thế gian thiển

hiểu rõ việc như trên

thảy đều chẳng mất quên.

Hết thảy trí thế gian

cũng khó làm phế vong

trí huệ xuất thế thông

nên gọi các pháp ‘không’.

Nếu kẻ am hiểu tường

hết thảy pháp không tướng

trải số kiếp vô lượng

trọn chẳng mất trí này

Đại trí huệ là đây

hay trừ mọi phiền não.

người thích trí không này

trong pháp chẳng lo buồn.

Lúc đó Xá Lợi Phất hỏi đồng tử rằng, ông ở trong Phật pháp muốn xuất gia chăng? Đồng tử đáp: chẳng muốn xuất gia nữa. Nay tôi đã xuất gia rồi. Xá Lợi Phất dùng bài kệ hỏi rằng:

Nay tôi không thấy ông

mặc pháp phục nơi thân

cũng chẳng cạo râu tóc

sao gọi xuất gia được?

Ông cũng chẳng hợp  pháp

được Hòa Thượng (5), Xà Lê (6)

giới cấm chưa truyền trao

sao gọi nghĩa xuất gia?

Thọ giới chúng ở đâu?

Ai bạch pháp yết ma (7) ?

theo đúng pháp Phật đà

hợp qui cách xuất gia.

Việc này ông chưa qua

xuất gia làm sao được.

Nên phải thật tâm đáp

những câu hỏi như trên.

Lúc đó đồng tử Tuyển Trạch nói kệ trả lời rằng:

Dù không mặc ca sa

hay có mặc chăng là

không bỏ, không thọ pháp

danh chính thật ca sa.

Tôi thọ pháp xuất gia

chẳng khởi tạo phiền hà

là áo sạch vô cấu.

Tôi thường mặc áo ấy

mọi buộc kết đoạn xa

Cạo râu tóc đây là

gươm huệ cắt đứt lìa

sau này chẳng thọ sanh.

Tài tôi khó nghĩ  cùng

thọ nhận các pháp mầu

không vơi cũng không đầy.

Thường tu thiện pháp này

tôi thực hành thế ấy

trọn chẳng thọ pháp quấy

Tự thành đầy đủ trí

là thọ giới hoàn bị (8)

Phật, thầy ta yết ma

Do quán pháp như kia

Phật đạo chẳng tách lìa

Tùy thuận nơi Phật đà

ấy là ta xuất gia.

Cũng là giới của ta

thì là y bát cả

đó là pháp yết ma.

Ta thực hành sâu xa

trọng pháp tạo chánh nghiệp

từ một cõi Phật ra

lại đến một cõi khác

ở yên nơi đạo tràng

bố thí khó nghĩ bàn

nên cùng vô số chúng

thọ thực chẳng riêng màng...

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn quán sát rất kỹ đồng tử, thì đồng tử tự nhiên râu tóc trụi hết, áo cà sa mặc vào như người mới cạo tóc. Qua bảy ngày sau chứng được 5 phép thần thông, lúc đó tự nhiên không ai còn trông thấy đồng tử đâu cả. Bấy giờ cả thế giới này đại địa đều chấn động, chúng sanh khiếp hãi, trống trời tự nhiên vang, trăm nghìn nhạc khúc đồng thời trổi lên, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp trời đất.

Lúc Phật mỉm cười, từ miệng phóng ra muôn tia hào quang đủ màu sắc rực rỡ, xoay quanh thế giới ba vòng rồi thâu về nơi đỉnh đầu. Lúc đó A Nan trịch áo bày vai bên mặt chấp tay hướng về phía Phật dùng kệ hỏi rằng:

Thầy cao tột trong chúng ai hơn

tu hành phước đức sùng sùng tôn

trí huệ rõ suốt không chướng ngại

Bậc vô thượng trí giác hỏi Ngài

Nhân duyên gì Như Lai mỉm cười?

Phật mỉm cười đây hẳn có nhân

thọ ký từ Phật ai được phần?

Mong Thế Tôn giải rõ cho con.

Thế Tôn miệng phóng đại hào quang

ánh sáng chiếu soi khắp thế gian

vòng quanh thế giới lớp lớp hàng

thâu về đảnh thượng khó ai trông

vì người nào thành công lợi ích?

Ai nơi Phật huệ thích thọ ký

khiến Thế Tôn phấn chí mỉm cười?

Phóng hào quang Phật chiếu khắp nơi

rực rỡ trang nghiêm các thế giới

Hết thảy chúng sanh đều phấn khởi

được tâm an tịnh khó nghĩ ngợi.

Ấy nhờ Phật lực hiện thần thông.

Phật bảo A Nan rằng, nay ông có trông thấy đồng tử Tuyển Trạch thân đang mặc pháp phục rồi bỗng nhiên trong chúng đây biến mất không? A Nan đáp: thưa con đã trông thấy. A Nan ông nên biết rằng, đồng tử đang biến ở đây, nhưng hiện ở thế giới Diệu Hỷ, nơi cõi Phật A Súc. Đồng tử dốc lòng chuyên tu phạm hạnh nên thân thọ mạng dài lâu như Thiên Đế, Thích Đề Hoàn Nhân và trong hiện thân tăng thêm tuổi thọ. Đồng tử Tuyển Trạch dùng thân ấy từ cõi Phật này đến cõi Phật kia, cũng như nơi các cõi khác tiếp tục tăng thêm tuổi thọ. Dần dà trải qua vô số kiếp chưa bao giờ rời xa Phật, ở chỗ chư Phật dùng hiện thân với tuổi thọ mạng dài lâu trải qua vô lượng a tăng kỳ kiếp, rồi sau mới đạt được vô thượng Bồ Đề, tức thành Phật hiệu là Đại Trí Tuyển Trạch. Thế giới của Phật Đại Trí tên là Thường Chiếu Minh.

Này A Nan, chúng sanh ở cõi đó không thọ thai mà do hóa sanh, đều ngồi kiết già trên hoa sen báu. Ở cõi Phật ấy đầy đủ phước đức trang nghiêm tuyệt vời như thế. Này A Nan, Bồ Tát có bốn pháp khi chuyển thân được làm thiện lai (9) tỳ kheo, không thọ thai nữa mà do hoa sen hóa sanh, tức là hiện thân tiếp tục tăng thêm tuổi thọ. Những gì là bốn?

1)  Bồ Tát ưa thích xuất gia, cũng như khuyến khích người khác xuất gia và giúp đỡ người xuất gia, tức xuất gia xong thuyết pháp giáo hóa làm lợi lạc chúng sanh.

2)  Bồ Tát chuyên cần tinh tấn cầu học Phật, cũng như khuyên người khác tinh tấn cầu pháp.

3)  Bồ Tát thực hành nhu hòa, nhẫn nhục, cũng như khuyên người khác nhẫn nhục.

4)  Bồ Tát tự tu tập các phương tiện, phát nguyện rộng lớn, cũng như khuyên người khác thực hành phương tiện và phát đại nguyện.

Này A  Nan, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp ấy khi chuyển thân được làm tỳ kheo chân chánh, không còn thọ thai mà do hoa sen hóa sanh, tức là thân hiện tại tiếp tục tăng thêm tuổi thọ. Lại này A Nan, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp sau đây, sẽ đạt vô thượng Bồ Đề, không còn thối tâm lui sụt nữa. Những gì là bốn?

1)  Bồ Tát phát tâm vô thượng Bồ Đề kiên cố.

2)  Thường ưa trông thấy Phật

3)  Thích nghe pháp không chán

4)  Hay nói lời chân thật, không lừa dối.

Này A Nan, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp ấy, không còn thối chuyển đạo vô thượng Bồ Đề. Liền khi đó đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Phát tâm sâu kiên thật

thường ưa trông thấy Phật

nghe pháp không nhàm chán.

Luôn nói lời chân thật

thấy chúng sanh khổ não

hay đem tâm thương xót

tâm chúng đều suốt biết

tùy thời mà nói pháp.

Người kia nghe thọ nạp

thân tâm không mỏi mệt

hành tinh tấn trước hết

trí huệ càng phát kết.

Vì người giữ niềm tin

nói lời lẽ chân thành.

Có nói ra điều gì

sai lầm không hề bị.

Như trong bốn pháp đây

tu học nên tùy nghi

Phật quả đắc thành ngay

chuyển pháp luân vô thượng

Ta nói qua pháp này

quả báo thật lớn thay.

Ai nghe được pháp ấy

mà chẳng muốn tập tu.

Lại nữa A Nan, còn có bốn pháp, nếu thành tựu cho đến khi thành đạo vô thượng không quên mất được chư thiên, long thần đều trợ lực, nên thường không rời xa phước điền thánh hiền. Nếu không có thánh hiền ở trong chúng hội tự tạo phước điền. Những gì là bốn?

1)  Đại Bồ Tát chuyên cần tinh tấn giáo hóa chúng sanh khiến phát tâm vô thượng     Bồ Đề.

2)  Tinh tấn không giải đãi cúng dường Như Lai để cầu pháp

3)  Đem tâm cung kính hầu hạ pháp sư

4)  Nếu thấy chúng sanh bị khủng bố, khổ não, ban cho sự vô úy.

Này A Nan, nếu Bồ Tát thành tựu được bốn pháp ấy đời đời không lui sụt tâm Bồ Đề.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Cung phụng chư Phật

tôn kính Phật pháp

nhất tâm kính trọng

qui thuận pháp sư

thấy chư phiền não

vây hãm chúng sanh

ban cho vô úy

cứu bao khổ lụy.

Đích thị thiện căn

thấy Phật thường hằng

Thiên Thần khuyên nhắc

tu hành tấn đắc.

Nếu chẳng thấy Phật

đệ tử chúng tất

Bích Chi Phật thành

Nhờ thánh phước điền

xuất gia tu hành

đạt trí tịnh thanh

thiền định thực hành

được năm phép thông.

Thần thông đã đạt

dạo chơi chư quốc

vào các làng mạc

khiến chúng hiểu pháp.

Chúng nghe lợi lạc

xa bạt bất thiện

nghiệp ác chẳng tiến

được người thuận kính

chúng sanh tưởng tin

an lạc vững bền

vì tôn trọng pháp.

Ta cũng tôn theo.

Tự người tu pháp

nên được phước đức

lợi kỷ, lợi tha

ai chẳng bỏ qua

cầu thành Phật đà

nên hành pháp bảo

quả Phật không xa

thật là đại trí...

Ta vốn tu pháp ấy

vượt khỏi qua bờ giác

pháp nhờ đã thấu đạt

được vô thượng Bồ Đề

Ta là đấng Thế Hùng

các cõi chẳng ai bằng

ban cho các thế giới

trí huệ vĩnh thường hằng.

Này A Nan, vì nhân duyên đó, ông nên biết Bồ Tát thực hành giáo pháp lợi lạc chúng sanh phải tu tập Phật pháp đầy đủ. A Nan, lui về quá khứ dài lâu vô số kiếp, lúc đó cõi Diêm Phù Đề này có một vị đại quốc vương tên là Phương Âm Vương, bà phu nhân sinh được một thái tử. Lúc đó có các thiên thần đồng thanh xướng rằng: người thực hành thiện pháp nay đã ra đời. Nhà vua nghe thế lấy làm lạ không biết việc gì. Những gì gọi là pháp? Những gì là phi pháp?

Này A Nan, thái tử con vua Phương Âm dần dần khôn lớn tới năm lên bảy bèn đến chỗ vua cha, cúi đầu lễ dưới chân, rồi đứng qua một bên. Thái tử hỏi vua cha rằng: pháp là gì? Thế nào là phi pháp? Lúc đó nhà vua dùng kệ trả lời rằng:

Bố thí giữ giới, đoạn ái dục

tu hành phước thiện do nhẫn nhục

lìa sát sanh, tà dâm, trộm cắp

pháp Thánh hiền chư Phật tán dương.

Lúc đó thái tử dùng kệ hỏi rằng:

Như cha đã nói pháp

Nếu ở đời trị quốc

có nghe nhiều rộng khắp?

Rõ nghĩa này mong đáp:

thế nào hành chẳng hành?

mong mỏi đáp thật tình.

Lời thật xa nẻo ác

không sợ đọa địa ngục

nói dối rơi ác thú

thọ các khổ không dứt.

Vì thế chớ nói sai

chân thật giải con nghe.

Lúc đó vua Phương Âm dùng kệ đáp rằng:

Nếu ở đời trị quốc

không thể đủ biện pháp.

Dao gậy hãm hại người

làm sao có pháp lành?

Nếu người không tuân mệnh

ta sân buông lời ác

tài sản cưỡng chiếm đoạt

bít lối thêm thâm độc.

Nếu ta đi thị sát

dân chúng sợ tán loạn

nghĩ rằng: vua ngoại xuất

chắc họ làm gì ác?

Nếu ta xử chánh tòa

tội nhân hỏi xét tra

trước mặt ta phân trần

nói: vua cư xử phân

ta xét thấy lỗi lầm

liền gia hình án tội

chỉ tại người lầm lỗi

mình tự tạo nghiệp thôi.

Có biến phải phòng ngừa

đất nước loạn diệt suy.

Ta khổ tâm cai trị

dân đồ thán lâm ly.

Nói: vua thế lực lớn

kỳ thật chẳng từ tâm

trong nước ai người dân

dám chẳng tuân mệnh lệnh.

Lúc thái tử phát nguyện

nghe vua thuyết xong kệ

tâm nhàm chán thưa rằng:

con muốn quyết tu hành

nên chẳng ham vương vị.

Vì người tạo thêm tội

nên xa lìa cha mẹ

xuất gia tu Phật đạo.

Nếu vua không thuận hão

con phải tự hủy thân

độc dược hoặc nhảy cao

hay tự sát bằng dao.

Vua nghe con thề xong

bảo rằng, buồn trong lòng

tùy ý con tự chọn

việc nước cha lo trị

muốn tài sản cho con

dạo chơi khắp non sông

tại sao lại xuất gia

làm trò cười thiên hạ

tuổi xuân thọ dục thỏa

già, hẳn tính xuất gia

thân khó mong bảo trọng

khuyên chớ có chán xa.

Đáp rằng: vui tạm giả

không, chán, thêm giận phiền

xuất gia lìa ác duyên

thường tu hành trí huệ

riêng ở nơi vắng vẽ

an lạc vui tịnh cảnh

nương về đạo tràng để

giữ giới tu hạnh sáng.

Vua có chí xuất gia

làm sao dân lợi ích?

Vì người tạo nghiệp ác

tự thọ khổ địa ngục

nhai nuốt vòng sắt nóng

và uống nước đồng sôi

tà hạnh tạo nghiệp tội

phải rơi vào ngục tối

đinh sắt đóng vào mình

sắt nóng dí quanh thân

dùng trâu sắt kéo cày

bới xoi hủy thân này

đáng sợ bọn ngục tốt

mắt xanh, vàng đầu tóc

dắt người tới vạc sôi

tỏa khắp thân chói lòa

trải qua nghìn vạn năm

thọ nhận các khổ quả

tội nghiệp sâu khó tả

cầu chết chưa được thỏa.

Nếu từ vạc sôi ra

lại rơi hầm lửa dữ

thân cháy xém nhuyễn nhừ

như tre khô cháy lan.

Nếu hầm lửa vừa tàn

liền rơi vào núi lửa.

Từ hỏa sơn ra khỏi

lại vào hầm phẩn sôi

đang sùng sục bốc hơi

móc nhọn câu móc thân

vô lượng nghìn ức năm

chìm ngập trong tối tăm

hoặc được thoát khỏi đây

lại rơi rừng chông nhọn

lửa bừng cháy cao ngọn

tro nóng thiêu đốt thân

lúc ở trong hầm chông

bốn bề gió lớn thổi

khua động những cây chông

đâm chích vào nơi thân.

Hoặc từ đó được ra

lại rơi vào rừng dao

bốn bề gió mạnh thổi

mũi nhọn đỗ mưa xối

cắt xẻo thân rã rời

xối đao kiếm thế rồi

cắt xẻ thân từng phần

trải qua nghìn ức năm

khổ não hết chịu nổi

hoặc được thoát ra khỏi

lại rơi vào sông tro

da thịt hầm dày vò

chỉ còn xương cốt trơ

qua vô số năm dài

thọ các khổ não nề.

Hoặc từ đó khỏi rồi

lại vào sông đồng sôi

nước đồng tràn khắp nơi

chạm nhau tiếng lớn vang

xoáy quanh trăm nghìn vòng

sóng mòi cuốn ba đào

chảy qua địa ngục hào

rước tội nhân vào đó.

Lúc rơi vào trong ấy

sóng cuộn vây phủ che

không biết đâu bờ mé

tấp dạt giữa dòng sâu

hoặc từ đây được thoát

nằm trên bờ la liệt

răng dài và vàng mắt

hoàn toàn bị trói chặt

trói xong hỏi cộc lốc:

mi muốn cầu điều chi?

Đáp rằng: tôi đói khát

chỉ cần ăn trước nhất.

Liền đó ác la sát

đè sắt nóng bên trên

buộc nuốt hoàn sắt liền

ngũ tạng cháy như thiêu

trong ngoài rã tan hoang.

Ngoáy trông đại sông tàn

gọi là suối băng lạnh.

Ném thân vào bỏ chạy

nếu thoát khỏi nơi đó

lại vào ao phẩn nóng

núi dao và hầm lửa

các thống khổ không dừng

vua, giàu có, vô thường

chẳng bao lâu biến hoại

thân mạng còn chưa quí

Phật nói đều vô thường.

Nghe lời ta tỏ tường

xuất gia nuôi chí hướng

khi chết sanh thiên thượng;

và khổ não lìa xa

nơi vắng vẽ xuất gia

chuyên tu giới định đã

từ bi hạnh nhẫn hòa

tịnh tu: không vắng lặng.

Bấy giờ tự biết rõ

không ai cho việc đó

được vắng lặng lạc an

cũng như Đại Phạm Vương.

Thái tử nói tận tường

thời vua và hoàng hậu

thần dân cùng tể tướng

không ai cản ngăn đường.

Thái tử xuất gia được

cầu pháp, thiền định thường

được năm phép thần thông.

Vì chúng diễn pháp âm

tu hành tâm vắng lặng

thích pháp ‘không’, vô ngã.

Không bị pháp trói, mở

nên nói pháp như thế.

Mọi người cùng một thể

nhứt tâm chánh quán về

ấm, giới và lục nhập

sao còn ngã, ngã chấp?

Chúng sanh trăm nghìn ức

nghe pháp quyết xuất gia

Mẫu hậu cùng vua cha

cũng bỏ tục lìa nhà.

Mấy người xuất gia xong

phát thệ nguyện một lòng

cầu pháp theo vương tử

mong mỏi được hiểu thông

theo học đạo thậm thâm

Bồ Tát hạnh phát tâm

theo chỗ nói và làm

thành Phật nhập Niết Bàn.

Vương tử, kìa A Nan

độ mẹ cha thoát nạn

khiến trụ Phật Pháp tạng.

Ông cho ai lạ chăng?

A Nan chớ nghi xằng

ấy chính thân ta đây

vì chúng làm lợi đầy

khiến ở trong Phật đạo

Từ ngày ta phát khởi

cầu pháp nhất tâm mãi

tinh tấn lực bền vững

trọn không hề giải đãi.

Ta thường tu pháp ấy

tâm không hề chán mỏi

nên chẳng niệm nghi ngờ

thường được Phật đạo chăng?

chí cầu đạo Bồ Đề

tinh tấn không biếng trễ.

Đem tâm vui cầu pháp

nên được tối thắng huệ

nên tu học như thế

đạo tâm luôn bất thối

thành Phật chuyển pháp luân.

 

31 - Phẩm Vị Pháp thứ ba mươi mốt

Phật bảo A Nan, Bồ Tát có bốn pháp, nghe thuyết pháp hiểu rõ nghĩa thú nên được trí huệ, nhận được pháp, được niệm kiên cố, đầy đủ oai nghi. Những gì là bốn?

1)  Phát tâm chuyên cần tu hành pháp Đại Thừa mầu nhiệm

2)  Hiểu được kinh pháp, thực hành đúng giáo pháp

3)  Tự thực hành giáo pháp cũng như khuyến khích, hướng dẫn chúng sanh hướng về giáo pháp.

4)  Khi chúng sanh đã vào trong giáo pháp nên giải rõ, chỉ bày những điều lợi lạc.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Bồ Tát cầu pháp mầu

nên được vui vô thượng.

Pháp như thế chưa được

giữa đường không chán chường.

Nghe pháp sâu mầu này

suy tư ngẫm một mình.

Nghe pháp như thế rồi

luôn nhứt tâm tu học

thường giáo hóa tha nhân

hành như ta đã hành

không những chỉ nói suông

còn đích thân chỉ đạo.

Lại nữa A Nan, Đại Bồ Tát vì pháp đây nên thường theo pháp sư, và suy nghĩ thế này: pháp ta chưa được nghe, chưa biết, nếu trái ngược lại mất hết lợi lớn. Lúc đó đức Thế Tôn liền nói bài kệ rằng:

Nếu có nhiều người nghe

thường theo sát thân cận

xem ta đấng pháp vương

vì tu pháp vô thượng

như chưa hề từng được

nghe, hiểu nghĩa thú kinh

nhân đó trái hủy khinh

mất lợi lạc phước đức.

Nếu kiên cố chuyên tinh

xa hẳn nhiễm dục tình

thường cầu pháp quyết định

làm tăng thêm trí tuệ

thiện tri thức thân cận

nghe nhiều và hiểu rộng.

Vì chúng đáng tôn kính

đọc tụng thọ trì kinh.

Lại này A Nan, Đại Bồ Tát như đã nghe pháp đem giảng rộng cho người, không làm cho giáo pháp bị tổn hại. Này A Nan, sao là pháp bị tổn hại ?. Nếu có tỳ kheo tham đắm danh lợi, y phục, ăn uống, giường tòa, thuốc thang... những thứ nhu cầu lợi dưỡng. Vì người mà khoe rằng tôi tu hạnh đầu đà, giữ giới thanh tịnh đúng pháp ‘không tướng’. Thật ra thì không theo đúng Pháp tu hành. Ấy là tỳ kheo làm tổn hại giáo pháp.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn muốn làm cho rõ nghĩa trên nên nói bài kệ rằng:

Bồ Tát nghe pháp xong

vì đại chúng giảng truyền

nên thực hành như Phật

chớ làm hại giáo pháp

cũng đừng vì lợi dưỡng

cũng chớ vì tán dương

tâm từ bi niệm thường

để thuyết pháp vô thượng.

Trong chúng sanh khổ não

khởi lòng đại từ bi

thuyết pháp quyết tâm vì

làm lợi lạc hữu tình.

Nếu người lấy lợi dưỡng

vì đại chúng thuyết giảng

nương theo lợi thế gian

thì tổn pháp nguy nàn.

Người trí nên chuyên gần

học hỏi những điều hay

không làm pháp hoại suy

ấy là ủng hộ pháp

mười phương chư tôn Phật

đều xưng tán người này

nói pháp tuyệt! lành thay!

thực hành pháp cùng nhau...

Lại này A Nan, lúc cầu pháp Đại Bồ Tát không nên xem pháp sư bằng cặp mắt thiếu thiện cảm như khinh khi, ngạo mạn mà nên theo đúng cách trong việc nhứt tâm cầu pháp. Này A Nan, thế nào là Bồ Tát cầu pháp đúng cách ?

Nếu các bậc sư trưởng có dạy bảo giáo pháp nên an trụ trong đó mà thực hành đầy đủ tinh tấn tu hành, đem các thứ vải vóc, thức ăn, đồ mặc, giường nệm, thuốc thang sửa sang đem cúng dường pháp sư. Ấy là Bồ Tát cầu pháp đúng cách.

Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nói bài kệ rằng:

Lúc Bồ Tát cầu pháp

không chỉ lỗi pháp sư

nên vì người giảng thuyết

mình cũng trụ trong pháp.

Lúc Bồ Tát cầu pháp

theo như thuyết an trụ

đúng pháp mà cầu pháp

là an trụ trong pháp.

Vì thế người cầu pháp

nên trụ như trên đây

Ấy là pháp ban đầu

gọi là hành đúng pháp.

Pháp vắng lặng chứng đạt

như ta đã tuyên thuyết

pháp như thế học được

chứng Bồ Đề vô thượng.

Cần cầu pháp niệm thường

tâm trọng kính phát sinh

Nghe pháp xong nhất tâm

nên nghĩ tới Thế Tôn.

Suy nghĩ như thế luôn

là thầy ta chẳng khác.

Người này chỉ đạo ta

khiến an trụ chánh đạo

ấy là Thế Tôn ta

tâm càng thêm tôn kính

Đó là đại sư ta

vui thế gian lánh xa.

A Nan ông nên biết

lui về thời quá khứ

quá vô lượng vô biên

số kiếp không thể cùng

có đức Phật ra đời

là Tu Di Sơn Vương

Sau khi Phật diệt độ

đệ tử Vi Đầu La

lợi căn, trí huệ sáng

vì chúng, pháp xưng tán

hiểu rõ nghĩa sâu mầu

thông suốt ấm, giới, nhập

nên đạt đến bờ giác

phân biệt A Tỳ Đàm (10)

khéo tu học ba môn (11)

kiên trì tạng Phật pháp

Tu Di Sơn Vương Phật

càng thêm thần thông lực

cầu đại trí chư Phật

thấu đạt pháp vi diệu.

Ấy tỳ kheo phước đức

nói khó thể hết được.

Trong thành Hoa Đại kia

có một vị trưởng giả

giàu có nhiều của cải

phước đức tột cao sang

ông thích ưa làm thiện

được nhiều người kính trọng

giữ giới có đức hạnh

nghe nhiều truyền bá rộng

Một hôm đích thân ông

đến chỗ Vi Đầu La

nên được trí văn đa

tùy thời mà thuyết pháp.

Trưởng giả nghe thâm nhập

lòng vui phát nguyện rằng:

tài sản của ta sẵn

đem hết cúng dường tăng.

Lúc đó tỳ kheo rằng

lành thay! bố thí đặng

nghe pháp tin hiểu hẳn

là căn bản Phật pháp.

Đem tài sản, của vật

dâng cúng pháp sư xong,

vào năm tuổi hai mươi

theo hầu làm thị giả

trưởng giả Lạc Thiện đã

lúc gần gủi pháp sư

được nghe pháp nhiều thứ

tâm không hề mỏi chán.

Lại cũng phát tâm thêm:

muốn cúng dường đủ loại.

Lúc cúng như thế đó

tâm chẳng hề giải đãi

một lần đến thăm hỏi

cầm hai mươi ức tiền

để dâng cúng pháp sư

thọ nhận chẳng chối từ

Như thế cứ tuần tự

tùy thời cung cấp đủ

cúng dường với lòng từ

đại hoan hỷ tâm tư

Vi Đầu La pháp sư

có nuôi các đệ tử

đều được cung cấp đủ

mỗi vị ngàn lạng vàng.

Cúng dường như thế xong

cùng ba y mỗi vị

mỗi một y giá trị

hai mươi ức lạng vàng

cũng vì Vi Đầu La

và tăng đoàn xuất gia

xây cất mỗi phòng xá

cao rộng đẹp xinh lạ;

cũng như xây tháp quá

mỗi hai mươi ức lạng

giường gối và mùng màn

đều đầy đủ nghiêm trang.

Pháp sư tùy thời gian

mà thuyết pháp cúng dàng

làm lợi ích chúng nhân

trọn cuộc đời dấn thân.

Lạc Thiện trưởng giả đây

càng cung phụng hầu hạ

chứa hương thơm quí lạ

dựng tháp trăm do tuần.

Tháp báu cao bảy tầng

toàn chứa xá lợi Thầy

tôn quí đại tháp này

đem hương hoa phụng nạp.

Lạc Thiện trưởng giả đây

đã thiết cúng thế này

gặp được vô lượng Phật

chẳng sa vào đường ác

nhân duyên tạo phước đức

trong tám mươi ức kiếp

thường làm Đại Phạm Vương

hằng thấy chư Phật luôn

tám mươi ức kiếp tròn

làm vua trời Đao Lợi

thường được gặp chư Phật

dâng cúng dường đủ loại;

cũng trong nhiều kiếp nữa

làm chuyển luân thánh vương

chư Phật được thấy thường

cũng thâm tín cúng dường.

Từ đó theo thứ tự

lại gặp được vô lượng

vô số a tăng kỳ

na do tha chư Phật.

Gặp chư Phật thế xong

cũng cung phụng một lòng

hay hỏi qua Phật đạo

Phật tùy nghĩa chỉ giáo:

A Nan con chớ bảo

ở trong thành Hoa Đại

Đại Danh trưởng giả kia

là người nào khác lạ?

Hoài nghi con nên xóa

nay đây chính thân ta.

Bấy giờ ta cung cấp

pháp sư Vi Đầu La

vì muốn nghe Phật pháp

mà làm việc cúng dường

do nhờ phước nhân duyên

được Bồ Đề vô thượng

Ta cung cấp pháp sư

tạo căn lành công đức

đại quả báo hoàn tất

đến nay vẫn không hết.

Ta nhờ nhân duyên trước

đời đời được tôn quí

gặp chư Phật như thế

để cùng nghe Phật pháp

chư Phật cũng giải đáp

như ta nay không khác

Ấy là chân đạo Phật

Các vị nên tu học.

A Nan bạch Phật rằng: thật là hy hữu, Như Lai từ vô thỉ đến nay tích chứa phước đức sâu dày, trong đời quá khứ thường được người tôn quí. Thế Tôn, Vi Tu La tỳ kheo trong hiện tại đã nhập Niết Bàn. Phật bảo A Nan, vị tỳ kheo này tới nay chưa nhập Niết Bàn mà đang ở trong pháp của ta hành Bồ Tát đạo. A Nan nói: hy hữu thay Thế Tôn! Lạc Thiện trưởng giả cúng dường pháp sư, do nhờ phước đức ấy sớm được vô thượng Bồ Đề mà pháp sư nay mới hành Bồ Tát đạo. Phật bảo A Nan: Vi Tu La không thể phát tâm Bồ Đề như ta;  chỉ lấy cái vui của đạo mà cầu Bồ Đề nên bỏ tu khổ hạnh. A Nan, ta ở trong đêm dài thường tu hành cần khổ để cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Ta trong lúc tu hành đạo Bồ Tát có phát nguyện như thế này: nếu có chúng sanh nào theo nghiệp tạo ác đọa trong ba đường ác chịu các khổ não, lúc ta thành chánh giác sẽ độ thoát mọi khổ ách cho chúng sanh. A Nan, Vi Tu La đã tu tập hạnh nguyện sâu nói không thể hết, dùng toán số, thí dụ cũng không thể nào rõ hết được, là do phát tâm đại bố thí trong đạo vô thượng Bồ Đề. Do thiện căn ấy mà phát nguyện rằng: nếu lúc ta tu tập đạo Bồ Đề mà có chúng sanh nào chưa vào được pháp vị, người cầu quả Thanh Văn, Bích Chi Phật. Những chúng sanh này được thấy thân ta hoặc nghe tên ta thì nhất định chứng được đạo vô thượng Bồ Đề.

A Nan bạch Phật rằng, bạch đức Thế Tôn: Vi Tu La pháp sư nhận sự cúng dường của Lạc Thiện trưởng giả, nay đang ở trong đại chúng đây. Phật bảo A Nan: tỳ kheo Vi Tu La trong chúng đây hiện đang đứng trước ta đó.

 

32 - Phẩm Ca ngợi gặp gỡ thứ ba mươi hai

A Nan bạch Phật rằng, hy hữu thay Thế Tôn! Nay đây trong đại chúng mọi người đều thanh tịnh. Phật bảo: đúng thế, đúng thế, A Nan! Như ông đã nói: trong chúng đây đều là những người thanh tịnh gặp nhau. Họ là chúng đại Bồ Tát cả.

A Nan, đại chúng trong hội này là hội sư tử, không còn sợ hãi, là hội đại long, hội đặc biệt, hội không thể so sánh. A Nan bạch Phật rằng, bạch Thế Tôn tại sao gọi là hội đại nhân, là hội sư tử? Này A Nan, vì trong các pháp đã phá hết vô minh làm lợi ích cho vô số chúng sanh, do phát đại nguyện nên gọi là hội đại nhân. Chư Bồ Tát phát nguyện trang nghiêm khéo thu nhiếp được Phật pháp nên gọi là hội sư tử. Lại nữa, A Nan như chúa sư tử trong hang sâu. Ở đó loài trùng thú không thể nào dám lại gần, vì không thể chịu được cái oai dũng của loài sư tử. Nếu có con nào lại gần chỉ nghe oai sư tử cũng đủ trốn mất dạng.

Này A Nan, đây là sự gặp nhau của chư Bồ Tát nên là hội đại nhân, hội đại sư tử, hội đặc biệt, hay còn gọi là hội không thể nào sánh được. Tùy theo chỗ ở hoặc ma, thiên ma làm cho người không dám lại gần, hay nếu có đến gần liền bị khốn đốn ngay, tâm sợ sệt, ẩn núp chẳng dám chườn ra, vì không thể chịu được đại oai đức của Bồ Tát. A Nan, như chúa sư tử hống lên ba lần, tiếng vang của nó lan xa trên một do tuần; trên và dưới mỗi nơi cũng đều nghe xa một do tuần. A Nan, tiếng sư tử chúa gầm làm cho những sư tử nhỏ khác đều phải khiếp sợ, huống gì loài chim muông. Voi chúa bạch tượng nghe tiếng gầm của sư tử cũng phải khiếp sợ không thể kềm chế được nên phát lên tiếng kêu thất thanh. Này A Nan, hội chư Bồ Tát là hội đại sư tử, hội không còn sợ hãi. Những người mới học mượn danh Bồ Tát như sư tử con nghe tiếng gầm lớn liền lẫn trốn. Này A Nan, trong đại chúng này, có những Bồ Tát bất thiện tham đắm, lợi dưỡng, mong được danh thơm lan rộng, nghe Đại Bồ Tát nói pháp nhiệm mầu đều sợ sệt nên rơi vào hố sâu. Tại sao thế? Vì Đại Bồ Tát nói pháp ‘không’, ‘vô tướng’, ‘vô tác’, những vị tiểu Bồ Tát chấp vào cái ‘NGÃ’, vào năm ấm, 12 nhập, 18 giới, cũng như chấp giữ giới, tu thiền định, trí huệ, chấp quả vị, cũng như Niết Bàn và Phật quả nên không thể kham nổi. A Nan, trong Phật pháp, sao gọi là không, vô tướng, vô tác? Tuy ta nói không mà kỳ thật trong đó không có pháp nào là không, cũng như không có chỗ nương tựa; KHÔNG là KHÔNG chứ không phải rỗng không. Này A Nan, ta nói vô tướng, trong đó không có pháp gọi là vô tướng, cũng không có chỗ để nương tựa; cũng không có pháp nào là vô tướng, cũng không là rỗng không. A Nan, ta nói vô tác trong đó không có một pháp nào gọi là vô tác cả, cũng như không có chỗ nương tựa, cũng không có pháp vô tác. A Nan, tuy Như Lai nói pháp có thể đoạn diệt mà kỳ thật trong đó không có pháp nào đoạn diệt cả, cũng không người đoạn, không có pháp đoạn, không có chỗ để đoạn. A Nan, tuy Như Lai nói có pháp có thể chứng mà trong đó kỳ thật không có pháp để chứng, không có người chứng, không dùng pháp để chứng, cũng không có chỗ chứng. A Nan, tuy Như Lai nói có pháp tu mà trong đó không có pháp nào được tu cả, cũng như không có người tu, không xử dụng pháp tu, cũng không có chỗ để tu. A Nan, tuy Như Lai nói pháp biến hoại mà trong đó không có pháp nào hoại cả, không người hoại, không dùng pháp để hoại, cũn g như không chỗ hoại. Tuy Như Lai nói pháp hữu vi mà trong đó không pháp nào là hữu vi cả, không có chỗ nương tựa, cũng không có chỗ dùng, đó là pháp hữu vi. A Nan, tuy Như Lai nói pháp vô vi mà trong đó không có pháp nào là vô vi, không chỗ nương tựa, cũng không có chỗ dùng, đó là pháp vô vi. A Nan, tuy Như Lai nói pháp bất tịnh mà trong đó không một pháp nào bất tịnh, không chỗ nương tựa, cũng không chỗ dùng, đó là pháp vô cấu vậy. A Nan, tuy Như Lai nói pháp tịnh mà trong đó không có pháp nào tịnh, không chỗ nương tựa, cũng không chỗ dùng, đó là pháp tịnh. A Nan, đó là tất cả pháp ấn (12) không hoại, không biến đổi, trong pháp ấn ấy không có tướng ấn. A Nan, nếu chư Bồ Tát đạt được pháp ấn gọi là người chân thật trong hàng sư tử, người độc hành, kẻ không sợ hãi. Đem tiếng gầm sư tử mà dọa chúng ngoại đạo thì bọn họ tìm chỗ lẫn trốn hết, hàng phục bọn ma, những người tham chấp không thể sánh kịp, làm kinh đỡm kẻ tăng thượng mạn, làm kinh động người chấp ngã. Không tin có ma mà vui trong tinh thần người Phật tử, có thể vì chúng sanh trong mười phương mà khai tỏ Phật pháp, lập pháp tràng, gióng trống đại pháp, thổi ốc pháp làm các hàng Phật tử thấm nhuần pháp vị, phân biệt pháp thí hay diễn nói pháp cho người đủ căn lành. Này A Nan, như con sư tử chúa từ trong hang sâu đi ra gầm lên ba tiếng. Sư tử con nghe tiếng gầm ung dung thư thả không hề sợ sệt ngó dáo dác tứ bề. A Nan, đây là hội của các bậc đại trí sư tử, hội không sợ sệt, hội của những bậc đại trí. Vì các bậc chân Bồ Tát phát tâm vô thượng Bồ Đề, căn lành đã thuần thục, nếu nghe được những pháp như thế, như sư tử con nghe tiếng gầm của chín loài sư tử thì không còn khiếp sợ, lại còn làm cho tâm thêm hoan hỷ. A Nan, như sư tử chúa theo chỗ ở đi đứng một mình không sợ sệt. Như thế hội đại sư tử là hội không còn sợ hãi, trong Phật pháp họ phát tâm đại trang nghiêm, là bạn lành khó sánh. Cái trang nghiêm bậc nhất vô nhị, suy nghĩ  thế này: ta phải đạt thành vô thượng Bồ Đề nên không có ai nào hơn, chứng đắc Phật pháp. A Nan, như sư tử chúa có sư tử cái đang thời kỳ thọ thai, một lần không có hai.

A Nan, hội sư tử, hội không sợ hãi, hội đại Bồ Tát có chư Bồ Tát phát tâm Đại Thừa, nghĩ rằng chẳng thọ thừa nào khác. A Nan, như sử tử chúa muốn làm hại các loài thú hoặc lớn hay nhỏ đều phải vận dụng sức lực cả. A Nan, hội sư tử, hội không sợ hãi, hội Đại Bồ Tát có thuyết pháp đều do nhứt tâm làm cho mọi người được hiểu rõ. Vì thế, A Nan, đại hội này gọi là hội sư tử vậy.

 

33 - Phẩm thượng kiên đức thứ ba mươi ba

Lúc bấy giờ trong chúng hội có một vị tỳ kheo tên là Kiên Ý từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai bên mặt chắp tay cung kính bạch Phật rằng, bạch Thế Tôn, con muốn phụng thờ kinh pháp, cũng như muốn cúng dường ba đời chư Phật và chư Bồ Tát đã học qua giáo pháp; cũng như muốn khuyến nhắc nhau làm tăng thêm căn lành. Do việc như trên nên nay được tôn phụng đức Thế Tôn, được lấy y trùm lên Như Lai, cũng như cầm y mà bạch Phật rằng: nay con đem chiếc y này dâng lên đức Thế Tôn, mong đời sau con sanh ra ở bất cứ nơi đâu đều được nghe pháp. Theo ý Phật con dâng hiến y này. Liền lúc đó Kiên Ý đến chỗ tỳ kheo Tinh Đắc nói rằng: này Ngài thiện tri thức! Phật tán dương tôi nên tôi đem y này dâng cúng Như Lai, liền trao y cho Tinh Đắc cầm, làm tăng thêm thiện căn của việc dâng y cúng Phật, trong lúc Như Lai hiện đại thần thông. Bấy giờ A Nan và bốn chúng (13) trong y đều thấy Như Lai hiện đủ lực thần thông biến hóa. A Nan bạch Phật rằng, hy hữu thay đức Thế Tôn! Như Lai biết rộng nên mới hỏi. A Nan, ông thấy nghĩa gì là hy hữu?

Lúc đó ngài A Nan muốn làm cho rõ việc trên nên dùng bài kệ bạch Phật rằng:

Với y này chúng con

thấy vô số Bồ Tát

Bồ Đề tâm mãnh liệt.

Chẳng hành khen pháp Phật

cũng thấy chư Bồ Tát

đều từ y này phát

gần vô lượng trăm nghìn

a tăng kỳ loại y

gìn giữ các y xong

đem dâng mười phương Phật.

Ta thấy hiện đây kia

vô lượng thần thông lực

người dâng y cúng Phật

được Phật thọ ký cho.

Người ấy hành đạo theo

đều sẽ được làm Phật.

Tùy chỗ ở nơi đâu

làm cõi Phật tịnh thanh

và mỗi một chúng sanh

Phật quả được viên thành.

Lại thấy vô lượng ức

đủ các loại kỹ nhạc

tiếng pháp âm vừa phát

Từ không trung Phật nói

ta thấy ba nghìn cõi

chư Phật hiện đầy đủ

Thế Tôn, nay con nghĩ

tự cho chẳng Thanh Văn

lực thần thông hy hữu

làm choáng ngợp mắt con

dùng thánh trí vẹn tròn

xem ba cõi đều không.

Con nơi ‘không’ trí này

và ‘vô sanh trí’ thảy

trong các trí như thế

thường không mất chánh niệm

chỉ do nghiệp báo chuyển

trong đó có sai lầm

bốn chúng đều vui mừng

bay ở giữa không trung

đều ngồi trên đài sen

trên nghìn cánh sen xinh.

Lại cũng từ y kia

thấy mười phương thế giới

chư Phật thầy trong đời

đại chúng vây khắp nơi

Cũng thấy các thượng nhơn
   bố thí khó nghĩ bàn

để cầu đạo Bồ Đề

nên chưa hề xa Phật

Do nhờ nhân phước đức

chúng sanh được lợi lạc

Hay tự mình hóa hiện

thuyết pháp khắp mười phương.

Trong y ta thấy tường

việc ấy nói không cùng

Chư Bồ Tát khó lường

tâm hoan hỷ kính nhường

như Tự Tại Phạm Vương

thấu rõ lực thần thông

đa văn, biện luận tài

đều được đà la ni

chuyển xoay Phật huệ trí

khắp mười phương châu biến

Chư Bồ Tát cũng thấy

dạo chơi các thế giới

đều hóa thành vật quí

hương hoa để trang bị

Thấy Phật ngồi đạo tràng

chuyển pháp luân vô thượng

thần lực của Phật hiện

đều từ  nơi y biến

dạo qua các thế giới

đủ thân hình biến hóa

thuyết pháp làm lợi chúng

khiến trụ đạo Bồ Đề.

Thật là hy hữu thay

việc ấy khó thể tin

Thần lực Phật vô biên

cho chúng sanh thấy rõ

Phật làm ruộng phước báu

đệ nhất pháp nhận thí.

Kẻ thí đuợc quả quí

các khổ não trừ hủy.

Ta trong nghìn vạn kiếp

xưng tán cũng không hết.

Vì ai thị hiện tiếp

việc thần thông thiên biến.

Ai làm tịnh cõi Phật

tu tập đạo Bồ Tát.

Ai được thần lực này

mong Phật trừ nghi con

Hoa sen bảy báu tròn

cánh hình bánh xe lăn.

Bồ Tát ngồi ở trên

dạo đi khắp mười phương.

Quán Phật xong trở về

liền chứng đạo Bồ Đề.

Thế giới tịnh nghiêm thế

hiện việc khó có thể

Con trong thế giới này

thấy có một Bồ Tát

khuyên người tu đạo giác

tay cầm y đạo đạt

việc này ngưỡng mong Phật

làm sao tu học được?

Đây chắc xưa từng bố thí nhiều

thực hành tâm tùy hỷ rộng sâu

cùng chúng sanh tu pháp nhiệm mầu

đều an lạc như nay trông thấy.

Thế Tôn vì con nói việc này;

trừ sạch chúng sanh tâm nghi ngờ.

Tỳ kheo phát nguyện được như vầy

ấy là Tinh Đắc vì Kiên Ý.

Phật bảo ngài A Nan đợi trong giây lát, Kiên Ý Bồ Tát có điều nghi vấn nên ta nhân đây mà đáp. Lúc đó Kiên Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: bạch đức Thế Tôn, con có điểm nghi muốn hỏi, nếu Phật chấp thuận con mới dám thưa. Phật bảo Kiên Ý: ông cứ việc hỏi, ta sẽ tùy nghi đáp cho ông được hài lòng. Lúc đó Kiên Ý thưa: bạch Thế Tôn, có pháp môn để nhập. Như thế pháp là gì? Môn là thế nào? Nhập là nghĩa làm sao? Ngưỡng mong đức Thế Tôn phân biệt đây là pháp, kia là môn, nên nhập như thế nào mới là nhập? Lúc đó Kiên Ý dùng bài kệ hỏi rằng:

Sao gọi là thượng pháp

cái gì gọi pháp môn ?

Làm sao vào cửa này

mong Phật giải đáp cho.

Làm sao vào cửa này

được đắc quả Bồ Đề?

Làm sao lúc thuyết pháp

biện luận đều thông suốt

từ đâu đến gọi pháp?

Đến đây trụ chỗ nào?

Trong các pháp làm sao

mà nghĩ  đúng không sai?

Thế nào là sắp nhập?

và sao gọi đã vào?

Thuyết pháp phải làm sao

ở trước pháp hiện ra?

Lúc nói đủ pháp cả

làm sao tâm không loạn?

trong vô lượng muôn kiếp

biện tài không gián đoạn?

Chư Bồ Tát thành tựu

làm sao có chí cầu?

Nói pháp không bến bờ

mà tâm không thượng mạn?

Bồ Tát đây đời trước

thí, hồi hướng thế nào?

Đời đời lúc thuyết pháp

biện tài không gián đoạn?

Và giữ giới thế nào

giới thanh tịnh làm sao?

Sao lấy giới hồi hướng

mà tâm không liệt nhược?

Làm sao tu nhẫn nhục

và tập nhẫn thế nào?

Do nhân đó cho đến

vô tận không bến bờ.

Làm sao khởi tinh tấn

tu pháp ấy thế nào?

đời đời được sanh ra

đạo Bồ Đề không xa.

Làm sao tu thiền định

thế nào tập an tĩnh?

Trong định quán pháp gì

để được biện luận tài?

Cầu trí huệ thế nào

gần gũi tu tập đạo?

Huệ ấy ở tại đâu

mà không đoạn mất được?

Trụ pháp thiện vô thượng

thuyết các pháp thật tướng

trí tuệ Phật suy lường

không, vắng lặng vi diệu

đọc tụng đủ các kinh

hiểu rõ được nghĩa thú.

Song không muốn diễn nói

để lìa trí huệ thật.

Nghĩa này con hỏi Phật

trừ hết thảy chúng nghi

đời vị lai trở đi

cầu có các pháp sư

làm sao được thân cận?

Phải hỏi pháp thế nào?

tu tập phải làm sao?

Ủng hộ pháp cách nào?

Mong Phật dùng thần lực

vì con nói nghĩa thực

khiến cho đời vị lai

dứt trừ các lưới nghi.

Lúc đó Phật bảo Kiên Ý Bồ Tát rằng: lành thay! lành thay! ông khéo hỏi Như Lai nghĩa sâu mầu ấy. Trong đời quá khứ ông đã ở nơi vô lượng các đức Phật gieo trồng phước đức, cúng dường, lễ bái, thọ sự hỏi đáp.

Này Kiên Ý, ta nhớ ông lúc xưa trong hư không của thế giới này đã từng theo hỏi sáu vạn tám nghìn đức Phật cũng nghĩa như thế. Lúc chư Phật trả lời những câu hỏi có vô số chúng sanh được nhiều lợi ích. Vì thế, nên biết ông trong quá khứ đã sâu trồng căn lành nơi các đức Như Lai rồi. Này Kiên Ý, lui về thời quá khứ vô lượng vô số a tăng kỳ kiếp có đức Phật ra đời hiệu là Xuất Bảo Quang Như Lai, ứng cúng, chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ, điều ngự trượng phu, thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn sống lâu nửa kiếp. Phật có bảy mươi ức chúng A La Hán tâm được lậu tận tự tại. Phật Xuất Bảo Quang cùng đại chúng dạo qua các quốc độ để cùng an cư. Lúc đó cõi Diêm Phù Đề đất đai rộng rãi ngang rộng bảy vạn do tuần. Lúc đó ở đời có người sát lợi Chuyển Luân Thánh Vương tên là Thượng Kiên Đức, cai trị bốn châu thiên hạ. Này Kiên Ý, lúc đó cõi Diêm Phù Đề  có tám mươi ức thành, các thành đều rộng lớn: chiều dài 40 do tuần, rộng 30 do tuần. Nhân dân ở đó được thái bình hưng thịnh. Trong cõi Diêm Phù Đề có một thành lớn chiều ngang rộng đúng 80 do tuần, đường đi ngay thẳng chạy dọc theo tương đương. Mỗi đường rộng năm dặm, bên trong có một thành nhỏ gọi là An Ổn. Vua Thượng Kiên Đức ở trong thành ấy. Này Kiên Ý, bên thành lớn có bảy vạn vườn rừng không thuộc về của ai cả. Chúng sanh ở đó có thể tha hồ vui chơi trong thành đó. Trong số có một vườn lớn ngang rộng 80 do tuần, chỗ vua dạo chơi có cây báu bảy lớp bao quanh vườn, cũng như có bảy lớp lưới giăng che phủ bên trên. Có bảy tầng lâu đài cũng bằng bảy báu, bảy lớp tường vây kín, bảy lớp hào bao bọc quanh vườn. Lúc đó Phật Xuất Bảo Quang cùng với bảy mươi ức A La Hán cung kính vây quanh, dạo khắp chư quốc đến thành An Ổn. Vua Thượng Kiên Đức nghe Phật cùng đại chúng dạo khắp các nước đến thành này, tâm rất lấy làm hoan hỷ đi đến chỗ Phật, đầu mặt lạy sát dưới chân Phật rồi ngồi qua một bên. Lúc đó Phật quán xét tâm nhà vua có túc duyên đời trước, bèn nói pháp trừ nghi chúng sanh làm cho chúng hoan hỷ nơi kinh tạng Đại Thừa. Vua Thượng Kiên Đức nghe pháp tâm rất hoan hỷ liền nghĩ rằng, nay ta nên đem những đồ tốt đẹp trang hoàng khu vườn này dâng cúng Như Lai làm sao cho Ngài thọ nhận. Tức khắc trong vườn hiện lên 70 ức chư tăng, phòng xá, y đẹp che phủ mặt đất. Có 70 ức chỗ đi kinh hành, giường gối, tọa cụ cũng có 70 ức. Vua sẵn sàng đi đến nơi đức Phật đầu mặt lạy dưới chân Phật rồi bạch rằng: cúi mong đức Thế Tôn thương xót con, và đại chúng mà nhận lời mời đến nhà ngày mai. Phật Xuất Bảo Quang yên lặng nhận lời. Vua biết Phật đã nhận lời nên đảnh lễ dưới chân rồi đi vòng quanh phía bên hữu. Trong đêm đó, vua lo liệu đầy đủ mọi thứ đồ ăn trân quí của bậc chuyển luân thánh vương đem cúng Phật và chúng tăng.Vào sáng sớm hôm sau vua đến bạch Phật rằng: cơm nước đã xong ngưỡng mong Phật biết thời. Phật Xuất Bảo Quang đắp y mang bát cùng bảy mươi ức vị đại A La Hán cung kính cùng đi đến vườn ấy ngồi theo thứ tự. Vua Thượng Kiên Đức thấy Phật và chúng tăng đã ngồi yên ổn rồi, tự tay ông mang thức ăn đủ vị sớt cho từng vị làm cho ai nấy đều được no nê. Biết Phật và chư tăng dùng cơm và rửa tay, rửa bát xong, Vua đem dâng Phật và chư tăng mỗi vị một chiếc y. Cúng y xong chính nhà vua cầm chén vàng múc nước rửa tay Phật, rồi bạch rằng: con đem vườn này, và các phòng xá, chỗ kinh hành, giường gối, ngọa cụ sắp đặt sẵn sàng trong vườn để cúng Phật và chúng tăng, cúi mong Ngài thọ dụng, cũng như đích thân vua hầu hạ Phật. Phật bảo Kiên Ý rằng, vua Thượng Kiên Đức cúng dường Phật Xuất Bảo Quang, đêm ngày tùy thời thường đến nghe pháp như thế cho đến nửa kiếp để hỏi Phật các Pháp về Nhân Quả liên tục. Phật tùy thời hỏi mà đáp làm lợi ích cho vô số chúng sanh. Này Kiên Ý, ông cho rằng vua Chuyển Luân Thượng Kiên Đức thuở đó đâu phải người nào lạ chăng? Ông chớ nghĩ như thế mà chính là ông đấy! Này Kiên Ý, ta nghĩ ông trước đây thuộc đời quá khứ đã hỏi pháp như thế, đem đồ trân quí cúng dường hằng ngàn đức Phật. Nay Như Lai cũng vì ông mà nói pháp môn này, là pháp nhập pháp tướng vậy.

 

Chú thích:

(1)  Đồng tử: đứa bé có khí phách của bậc hiền nhân, căn tánh thông tuệ mẫn lợi

(2)  Đấng Pháp Vương: bậc vua các pháp, chỉ cho đức Phật. Vì Phật mới biết rõ vạn pháp trong vũ trụ và tìm ra chân lý giải thoát cho chúng sanh.

(3)  Pháp thí: ban bố giáo pháp đến tất cả những nơi cần

(4)  Nhiễm y: áo bẩn, áo thế tục bị nhiễm bụi trần lao phiền não

(5)  Hoà Thượng: Tàu dịch là Lực Sanh hay Thân giáo sư. Lực Sanh là có đạo lực làm cho dệ tử phát sanh trí huệ; thân giáo sư là bậc thầy thân cận đệ tử. Vị Tăng sĩ từ 40 tuổi hạ trở lên và tuổi đời trên 60 tuổi mới được gọi Hòa Thượng.

(6)  Xà Lê hay A Xà Lê, Tàu dịch nghĩa là Giáo Thọ, tức Thầy dạy đạo. Trong đạo tràng truyền giới có ba vị trưởng lão hòa thượng chứng minh: trong đó có một thầy giáo thọ để hỏi về giới luật, kiến thức Phật pháp của những người thọ giới.

(7)  Pháp yết ma: phép hỏi đáp của các vị tỳ kheo trong giới đàn hay những ngày bố tát, được đại chúng tỳ kheo đồng lòng hoan hỷ chấp thuận, phép tác bạch mới thành tựu đúng pháp.

(8)  Giới hoàn bị: đầy đủ giới tướng (250) của thầy Tỳ kheo và cũng đủ khả năng cung cách để làm việc đạo.

(9)  Thiện lai: lời nghinh đón những vị tỳ kheo danh đức từ xa đến viếng thăm tự viện, đàm đạo Phật sự với một vị trưởng lão khác. Ngay như đức Phật cũng dùng từ ấy xưng tán tỳ kheo thiện đức.

(10)   A Tỳ Đàm: còn gọi là A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma) là một trong ba tạng thánh điển: kinh , luật, luận của Phật giáo. A Tỳ Đàm chỉ về phần luận tạng bao hàm nghĩa mầu thâm diệu trong giáo pháp  của Phật.

(11)   Ba môn: nói đủ là ba môn học là giới, định, huệ hay còn gọi là văn, tư, tu; giữ giới, tu thiền, phát sanh trí huệ hoặc nghe hiểu, suy xét, thực hành phát sanh trí huệ.

(12)   Pháp ấn: trong Phật pháp là dấu hiệu của một ý định như đã hằn sâu trong tâm thức mà nhà tu hành quyết đạt tới quả Phật. Đó còn là cách bắt ấn của các vị tăng phái chân ngôn, mật giáo Tây Tạng thường thực hành để truyền đạt đạo lý với nhau giữa thầy trò. Là sự ấn chứng huyền diệu của Phật cho các đệ tử có căn cơ thâm nhập diệu lý của những lời Phật dạy; là sự trao truyền tâm pháp giữa Phật với Phật, Tổ với Tổ để ấn định việc duy trì giáo pháp.

(13)  Bốn chúng: bốn chúng đệ tử của Phật. Xuất gia có hai chúng: tỳ kheo, tỳ kheo ni và tại gia có hai chúng: ưu bà tắc hay cận sự nam và ưu bà di hay cận sự nữ, tức là những người Phật tử đã phát nguyện quy y tam bảo và thọ giữ 5 giới.

(14) Thượng nhơn: người đạo cao đức trọng được người đời kính phục tôn xưng.