Mười hạnh Phổ Hiền trong Kinh Hoa Nghiêm
tác giả: Thích Chí giác Châu
I. Lịch sử truyền thừa
I.1. Định nghĩa
Kinh Hoa Nghiêm gọi đủ là “Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm”(Buddhà Vatamasaka Makàvairocanasutrà). Chữ ‘‘Hoa Nghiêm’’ Phạn văn gọi “Avatam Saka”, chỉ tràng hoa. Cho nên thông thường người ta hiểu ‘‘Hoa Nghiêm’’ là trang nghiêm bằng hoa.
I.2. Xuất xứ của kinh Hoa Nghiêm.
Về nguồn gốc xuất xứ của bộ kinh này, có nhiều giả thuyết khác nhau, nhưng chung quy chỉ có 3 giả thuyết được ghi lại rõ ràng trong sử sách.
Giả thuyết thứ nhất. Khi thành đạo vị Vô thượng Chánh giác, đức Thích Ca Mâu Ni với pháp thân Tỳ Lô Giá Na cùng chư đại Bồ tát chứng đạo giải thoát tuyên thuyết kinh Hoa Nghiêm này tại Bồ Đề đạo tràng. Hàng chúng sanh căn tánh thấp kém, nghe lời giảng của đức Phật như câm, như điếc, không ai hiểu được. Vì thế, đức Thế Tôn nói kinh A Hàm (Ayamas) và các giáo lý khác cho chúng sanh dễ nghe, dễ hiểu hơn.
Sau khi đức Phật nhập diệt khoảng hơn 600 năm do ngài Long Thọ bồ tát chỉnh đốn giáo nghĩa tư tưởng Đại thừa nên kinh Hoa Nghiêm này mới được lưu truyền, được viết bằng Phạn văn. Toàn bộ kinh chữ Phạn có 100.000 bài kệ chia làm 48 phẩm.
Đến đời nhà Đường, đại sư Thật Xoa Nan Đà từ nước Vu Điền mang bản kinh đến Trung Quốc dịch sang Hán văn, nhưng chỉ dịch được 39 phẩm. Từ phẩm “Thế Chủ Diệu Nghiêm” đến phẩm “Nhập Pháp Giới”, cộng có 36.000 bài kệ bằng Phạn văn, chưa được dịch ra Hán văn. Kế đó, pháp sư Bát Nhã, người Kế Tân dịch thêm phẩm “Phổ Hiền Hạnh Nguyện” thành phẩm thứ 40 của bộ kinh Hoa Nghiêm này (Kinh Hoa Nghiêm, Hòa thượng Trí Tịnh dịch, THPGTP.HCM ấn hành).
Giả thuyết thứ hai. Khoảng 600 năm sau khi đức Thích Ca Mâu Ni nhập Niết bàn, ngài Long Thọ xuống Long Cung thấy ba bộ Hoa Nghiêm. Bộ thứ nhất nội dung gồm nhiều bài kệ, số nhiều như nguyên tử trong mười phương thế giới. Bộ thứ hai có tất cả 498.800 bài kệ được phân làm 1200 chương. Bộ nhỏ nhất có thể vừa tầm hiểu biết của chúng ta, có 100.000 bài kệ được phân làm 48 chương. Vì bộ thứ nhất và thứ hai quá nhiều, giáo lý quá cao siêu, vượt ngoài tầm kiến thức của con người nên không lưu truyền được. Chỉ có bộ thứ ba có 100.000 bài kệ được lưu truyền cho tới ngày nay. (Từ điển Phật học, trang 208, Đoàn Trung Còn, Sài Gòn 1968 tập 2).
Giả thuyết thứ ba. Ấn Độ là quê hương của Phật giáo. Những bộ kinh chính thức của Phật giáo đều bắt nguồn từ kim khẩu của Phật. Nhưng có một số học giả cho rằng ngài Mã Minh (Asvaghosa) là tác giả của bộ Hoa tông, rằng ngài và ngài Long Thọ là sơ tổ của Hoa Nghiêm ở Ấn Độ, ngài Đỗ Thuận là sơ tổ ở Trung Hoa. Theo tài liệu của Binyiu Nanjco trong Catalogue of the Buddhist Tripitaka: “Ngài Mã Minh đã sáng tác 7 tác phẩm, trong đó có tác phẩm “Đại Tông Địa Truyền Văn Bổn Luận” (Mahàyanà Bhùmiguhyava-Kàmùla Sastra) và “Đại Trang Nghiêm Kinh Luận” (Sùtralankàra-Sastra). Ngài Long Thọ sáng tác đến 24 tác phẩm khác nhau, trong đó có 2 tác phẩm nổi tiếng là “Trung Quán Luận” (Madhyàmika Sàstra) và bộ “Thập Nhị Môn Luận” (Dvàdasa Mikàya Sastra). Trong bốn bộ vừa nêu trên có một số điểm trùng hợp với nội dung kinh Hoa Nghiêm” (Từ điển Phật học, trang 208, Đoàn Trung Còn - 1968 tập 2).
Qua 3 sử liệu trên ta thấy hầu hết các môn đồ của Phật cho rằng kinh Hoa Nghiêm chính là do kim khẩu của đức Phật nói ra, nhưng không được đơm hoa nở nhụy. Mãi cho đến năm 643 sau công nguyên, kinh Hoa Nghiêm mới được chư tổ gieo trồng vào mảnh đất phì nhiêu ở Trung Quốc. Từ đó, bộ kinh này đâm chồi nẩy tược sang các nước khác như Đại Hàn, Nhật Bản, Việt Nam…
I.3. Phiên dịch kinh Hoa Nghiêm.
Tại Trung Quốc, bộ kinh Hoa Nghiêm bằng Phạn văn được truyền vào khoảng 300 năm sau Tây lịch và được dịch 3 lần sang chữ Hán.
a. Một bản cựu dịch dưới thời Đông Tấn (317- 419 T.L.) do ngài Phật Đà Bạt Đà La (Giác Hiền-Buddhabhadra) dịch, gồm 60 quyển, gọi là Lục thập Hoa Nghiêm.
b. Một bản tân dịch dưới đời Đường (618-907 T.L.) do Ngài Thức Xoa Nan Đà (Siksananda) người nước Vu Điền (KoTan) dịch, gồm 80 quyển, gọi là Bát thập Hoa Nghiêm.
c. Một bản nữa dưới đời Đường, do Ngài Bát Nhã (Prajna) người nước Kế Tân (Kaboul) dịch, gồm 40 quyển, được gọi là Tứ thập Hoa Nghiêm hay Phổ Hiền Hạnh Nguyện. Bộ này chỉ dịch một phần của bộ kinh (phẩm Nhập Pháp Giới) nên gọi là sao dịch. Tuy chỉ là sao dịch nhưng cũng đứng ngang hàng với hai bản dịch trên.
Trong ba bản dịch đó thì bộ Bát Thập Hoa Nghiêm hoàn bị hơn cả, nhưng xưa nay bộ Lục Thập Hoa Nghiêm vẫn được lưu truyền rộng rãi và được coi như kinh sở y của tông Hoa Nghiêm.
Ngoài ra còn có những bộ luận Hoa Nghiêm Đại sớ của Thanh Lương đại sư và Thập Huyền Môn, Thám Huyền Ký, Ngũ Thập Yếu vấn đáp do tổ Hiền Thủ ở Trung Quốc biên soạn là những quyển sách quan trọng đã soi sáng cho, những người muốn nghiên cứu, tìm hiểu diệu nghĩa, của kinh này.
Tại Việt Nam, bộ kinh Hoa Nghiêm được truyền vào trong nước không rõ từ thời nào, nhưng được Hòa thượng Thích Trí Tịnh dịch sang tiếng việt từ bản Hán văn gồm 81 quyển, xếp thành một bộ 8 quyển năm 1965.
Kinh Hoa Nghiêm giáo lý nhiệm mầu huyền diệu, điều mà các hành giả nhận được nơi đây là sự chứng ngộ giải thoát. Có nhiều bản sớ giải kinh Hoa Nghiêm như sau:
I.4. Sớ giải kinh Hoa Nghiêm.
Kinh này sớ giải và tóm lược cương yếu rất nhiều. Ở đây xin dẫn ít phần:
1. Hoa Nghiêm Du y, 10 quyển, của ngài Kiến Tạng đời Tùy.
2. Đại Phương Quảng Phật-Hoa Nghiêm kinh, Sưu Huyền Phần Tế Thông-Trí Phương dịch , 10 quyển của ngài Trí Nhiễu đời Đường.
3. Hoa Nghiêm Văn Nghĩa Cương Mục, 1 quyển, của Pháp Tạng.
4. Đại Phương Quảng Phật-Hoa Nghiêm kinh, 60 quyển của ngài Trùng Quán đời Đường.
5. Đại phương Quảng Phật-Hoa Nghiêm tùy số diễn nghĩa, 90 quyển của ngài Trùng Quán.
6. Đại Hoa Nghiêm lược sách, 1 quyển của Trùng Quán.
7. Tân dịch Hoa Nghiêm kinh thất xứ cửa hội tụng, 1 quyển của Trùng Quán.
8. Tân Hoa Nghiêm luận, 40 quyển, của Lý Thông Huyền đời Đường.
9. Đại Phương Quảng Phật-Hoa Nghiêm kinh, 1 quyển, của Lý Thông Huyền.
10. Lược Thích Tân Hoa Nghiêm kinh tu hành thứ đệ quyết nghi luận, 4 quyển, của Lý Thông Huyền.
11. Đại Phương Quảng Phật-Hoa Nghiêm kinh Nghiêm Hạnh quán môn, 2 quyển, của Trạm Nhiên đời Đường.
12. Hoa Nghiêm Luận Quán,15 quyển, của Khuê Phong Tòng.
Về phẩm loại, kinh Hoa Nghiêm có 81 quyển chia ra 7 kỳ, 9 hội và 40 phẩm.
I.5. Chín pháp hội nơi Phật thuyết kinh Hoa Nghiêm.
1. Tại Bồ đề đạo tràng: Phật giới thiệu cảnh giới Niết Bàn an lạc, đối tượng nghe pháp là con người.
2. Tại Phổ Quang Minh Điện: Phật nói pháp Thập tín bằng trí tuệ thực chứng phổ biến, gọi là phổ quang minh. Đây là thế giới quan của người đắc đạo, chỉ có người đồng cảm, đồng hạnh, đồng nguyện mới hiểu.
3. Tại Thắng Thăng Tu Di Đảnh sơn: Phật nói pháp Thập trụ thuộc thế giới vô hình, vượt lên tâm thức của người thường.
4. Tại Dạ Ma thiên cung: Phật giảng chánh hạnh-tức Thập hạnh.
5. Tại Đâu Suất nội viện: Phật dạy Bồ tát phát nguyện hồi hướng tức Thập hồi hướng.
6. Tại Tha Hóa Tự Tại: Phật dạy Bồ tát cõi này tu sáu pháp Ba la mật thành tựu Thập địa.
7. Tại điện Phổ Quang Minh: Từ cõi trời, Phật trở lại thuyết pháp trong định, biểu thị công viên quả mãn: Diệu giác.
8. Tại điện Phổ Quang Minh: Phật nói pháp Viên dung “có”, “không”, chứng quả Đẳng giác.
9.Tại rừng Thệ Đa: Phật nói pháp Nhập pháp giới minh, chứng cảnh trí thành tựu quả vị Phật.
Trong 40 phẩm, có 3 phẩm quan trọng:
1. Phẩm Nhập Pháp Giới.
2. Phẩm Như Lai Thị Hiện.
3. Phẩm Thập Địa Bồ Tát.
Đức Phật là một nhà phi hành gia vĩ đại, Ngài đã đi hết vòng tròn của vũ trụ, vượt qua cõi siêu thế, lên tận pháp giới của chư Phật bằng con đường tâm linh thuần túy. Phật thuyết giảng kinh Hoa Nghiêm trong chín pháp hội, trải qua chín pháp tòa, nhưng vẫn không rời Bồ đề đạo tràng, tức không rời chân tâm mà thuyết pháp. Ngài ngồi một chỗ, nhưng điều động vào các cõi ăn sâu trong tâm thức chúng hữu tình. Từ chân tâm, Phật thuyết minh một hệ thống triết lý vô cùng uyên áo mang màu sắc siêu thực được mô tả trong kinh Hoa Nghiêm. Vì thế “Hoa nghiêm” được coi là vua các kinh Đại thừa.
II. Lịch sử chúng hội
II.1. Về Báo Thân Phật.
Nói đến pháp hội Hoa Nghiêm là nói đến cuộc thuyết pháp hy hữu, không thể dùng ngôn ngữ hay trí óc hạn hẹp của hàng nhị thừa mà luận thuyết hay suy lường được. Bởi vì kinh Hoa Nghiêm do báo thân Tỳ Lô Giá Na Phật thuyết ra. Báo thân Tỳ Lô Giá Na là bổn tích của Phật Thích Ca, đó là thân phước đức và trí tuệ.
Trên nền tảng đó, kinh Hoa Nghiêm mở rộng kiến giải rằng, ta là một phần pháp thân Phật, vì ta sống và hành trì pháp Phật, nên trí tuệ và đức hạnh của Phật tác động qua tri thức và đạo đức của ta. Do đó Phật giáo Đại thừa chủ trương khai triển báo thân Phật để trưởng dưỡng báo thân Phật của chính mình. Nói cách khác, kinh Hoa Nghiêm nhằm phát huy Phật tánh với tên Tỳ Lô Giá Na trong mỗi chúng sanh, khác với đức Phật nguyên thủy với 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.
Tư tưởng Đại thừa nhận ra hướng đi mới, xây dựng Phật tánh trên nền tảng thâm nhập Pháp giới. Pháp giới chính là thế gian giới. Kinh Hoa Nghiêm mô tả trạng thái đắc đạo của Phật, giới thiệu một đức Phật thông cả vũ trụ, lấy vũ trụ làm pháp giới, nghĩa là Phật muốn nhấn mạnh vị trí nguyên thủy hành đạo của Ngài. Đó là thể hiện pháp thân Phật tại thế gian. Báo thân Tỳ Lô Giá Na Phật ở thế giới Hoa Tạng thuần tịnh giáo hóa hàng Bồ tát. Phật Thích Ca có nhiệm vụ ứng cơ hóa hiện nơi thế giới Ta Bà, tùy thuận chúng sanh, dùng pháp xảo diệu để hóa độ quần sanh. Phật tùy cơ duyên mà hiện thân hóa độ, tuy một mà hai, tuy hai mà một, không hơn kém khác nhau.
Tỳ Lô Giá Na: Tiêu biểu cho ánh sáng trí tụê, dịch là Phổ Quang Minh Chiếu. Ánh sáng ấy tuy không thấy bằng mắt nhưng có tính chất phổ biến toàn diện, chi phối tất cả, đến bất cứ nơi nào cũng không chướng ngại.
Kinh Hoa Nghiêm đưa ra hình ảnh mười loại thân Phật là tổng thể thân Tỳ Lô Giá Na của Thích Ca Mâu Ni.
Chúng sanh thân: là thân ngũ uẩn.
Thế giới thân: vũ trụ, sơn hà, đại địa…
Nghiệp thân: thân Phật trang nghiêm bằng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp.
Thanh văn thân: là tầng lớp trí thức có tu chứng.
Bồ tát thân: kết hợp đạo đức và tri thức.
Như Lai thân: tịch chiếu, “vô sở tùng lai diệc vô sở khứ”(không từ đâu đến, cũng chẳng đi về đâu)
Trí thân: trí tuệ tác động cho chúng sanh phát tâm Bồ đề.
Pháp thân: biến vạn pháp thành Phật.
Hư không thân: thế giới Thường Tịch Quang.
Kinh Hoa Nghiêm kết hợp mười loại thân trên thành một đức Phật toàn diện: không gì không phải là Phật, mới thật là Phật.
II.2. Về chúng hội.
Mười loại thân trên tức là mười hạng người hiện trong pháp hội. Đó là những người hoàn toàn thuần thiện, tâm lý hướng về Phật pháp, đã gieo trồng phước lành trong vô lượng kiếp, từng cúng dường chư Phật nên có nhân duyên lớn với Phật pháp Đại thừa.
II.3. Về thời gian.
Dựa trên thời gian lịch sử, đầu tiên Phật thuyết kinh Hoa Nghiêm trong 21 ngày, lúc Ngài mới thành đạo tại Bồ Đề đạo tràng. Nhưng Hoa Nghiêm thuộc về thế giới siêu thực nên thời gian không phân chia quá khứ, hiện tại, vị lai. Vì chúng hợp lại thành ngẫu lực đơn nhất của cái hiện tại miên trường. Quá khứ, tương lai được cuộn tròn trong phút giây giác ngộ hiện tại, nó vận hành bất tuyệt giữa lòng hiện tại miên viễn này, nên Phật an trụ trong “ Trụ xứ Vô Trụ ” của Ngài.
II.4. Về không gian.
Không gian trong Hoa Nghiêm không phải được dàn cảnh phân chia bởi núi rừng sông biển, sáng tối, có hình hay không có hình, mà không gian ở đây được kết cấu thành một khối đơn nhất, thể hiện tính tương dung, tương nhiếp của vạn hữu “một trong tất cả, tất cả trong một” không gian sáng ngời trong suốt. Nó đã làm nổi bật ý tưởng châu biến hàm dung của thế giới Hoa Nghiêm.
II.5. Về vũ trụ.
Không gian và thời gian của Hoa Nghiêm, về siêu thế vượt ngoài ngã và pháp, chỉ thuần nhất để tạo thành pháp giới (Dharmadhatu), khác với thế giới sai biệt của thế gian giới (Lokodhatu), Pháp giới không tách ngoài thế giới nhưng chúng không phải là một khi chưa đạt tới thế giới tâm linh nơi các Bồ Tát đang sinh hoạt. Ở đây không còn một mảy may ý niệm về ngã hay ngã sở hữu, cảm giác, thuộc kiến, văn, giác, tri đều dứt, từ đó chúng ta mới nhẹ nhàng bước lên thế giới Hoa Nghiêm. Đây cũng là con đường hành giả nhập pháp giới.
III. Cảm niệm về Bồ tát Phổ Hiền.
Bồ tát Phổ Hiền là vị bồ tát được nói đến trong phẩm Nhập Bất Tư Nghì giải thoát cảnh giới, kinh Hoa Nghiêm. Bồ tát cũng có mặt trong phẩm Phổ Hiền bồ tát khuyến phát kinh Pháp Hoa. Sở dĩ Ngài xuất hiện trong hai bộ kinh Đại thừa quan trọng với tư cách là một đại Bồ tát thượng hạnh, thần lực vô song, vì ở Ngài nổi bật hai tư chất: hoàn toàn trong sạch và vô nhiễm.
Thật vậy, đức Phật dạy rằng: Phổ Hiền bồ tát là trưởng tử của ba đời mười phương Phật, Ngài gánh vác các Phật sự quan trọng giúp cho Phật pháp tồn tại mãi ở cõi Ta Bà. Để thành tựu trọng trách ấy, Ngài cỡi voi trắng sáu ngà đến thế giới chúng ta mà giáo hóa. Voi là loài thú mạnh nhất có khả năng kéo nặng khi đi ngược dốc, mà không loài thú nào có thể cản ngăn được bước chân voi. Vì vậy trong kinh, đức Phật thường ví Bồ tát hành đạo phải có sức mạnh, sức chịu đựng giống như voi.Tiêu biểu nhất cho ý nghĩa ấy là hình ảnh Phổ Hiền bồ tát cỡi voi. Voi ngài Phổ Hiền cỡi không phải là voi thường, mà là voi trắng, tượng trưng cho bạch nghiệp hay sức mạnh của sự trong sạch hoàn toàn, sức mạnh không do chèn ép, không dùng quyền uy, thủ đoạn, áp đảo người mà có được. Phổ Hiền Bồ tát ngồi trên voi trắng cũng đồng nghĩa với sự trang nghiêm thân tâm bằng sức mạnh trong sạch tuyệt vời, chi phối toàn bộ cả pháp giới một cách an nhiên tự tại.
Sự vô nhiễm của bồ tát Phổ Hiền được tượng trưng bằng hình ảnh người cầm hoa sen. Hoa sen trong sạch không dính nước và bùn nhơ. Sự vô nhiễm của Bồ tát cũng vậy, Ngài tiếp cận, chịu khổ cho chúng sinh, thành tựu vô số công hạnh, nhưng tất cả thành quả Ngài tạo được đều lần lượt bỏ lại phía sau, không lưu lại dấu vết gì trong Ngài. Hoa sen trong sạch vươn lên từ bùn nhơ, tỏa hương thơm ngát cho đời, tượng trưng cho sự hành đạo, giáo hóa của Bồ tát ở cõi Ta Bà mà không tham đắm ngũ dục.
Với hình ảnh Phổ Hiền cỡi voi trắng sáu ngà, sáu ngà là biểu trưng Lục Độ Ba La Mật, Lục Độ Ba La Mật là con đường đưa đến Phật quả. Phổ Hiền Bồ tát tiếp cận với đời, chịu khổ thay cho chúng sinh, lập muôn hạnh lành, giáo dưỡng người khổ đau thành người an vui giải thoát, biến tất cả những gì ô uế thành thanh tịnh , ngát hương, hữu ích.
Phổ Hiền Bồ tát đã thành tựu tam thừa giáo, mới nhập pháp giới, đi vào tánh tu. Ngài giáo hóa thẳng tâm người, không qua ngôn ngữ, Phổ Hiền đưa tâm Ngài vào tâm chúng sinh, biến tâm chúng sinh thành tâm Ngài. Mọi việc làm của Phổ Hiền đều thành tựu không nhọc sức, đức Phật gọi là nhập Bất Tư Nghì giải thoát - cảnh giới trong kinh Hoa Nghiêm. Chúng ta không thể dùng vọng thức để phân biệt, suy nghĩ, biết được việc làm bất tư nghì của Ngài, trừ khi hành giả có tâm chứng, đồng hạnh với Phổ Hiền Bồ tát.
Phổ Hiền Bồ tát tiêu biểu cho nhân cách và phẩm hạnh rộng lớn của các vị Bồ tát, cũng như đức tính siêu việt của Phật. Vì vậy, ở góc độ biểu trưng, ngài Phổ Hiền biểu thị cho lý, định, hạnh tức thể hiện lý trí, định huệ, hạnh, chứng của Như Lai. Đó là con đường lấy hạnh nguyện độ sanh, cầu Vô Thượng Bồ đề làm cơ sở để xây dựng viên mãn hai phần lý trí và định huệ. Đồng thời, trong sự tác động qua lại đó, hạnh nguyện đó bao gồm cả lý và định. Bởi vậy, lý, định, hạnh là cội nguồn của chư Phật, là bản thể của tâm sinh lý và sự vật hiện tượng. Bồ tát tu tập, thể nhập được bản thể này, gọi là đã vào được biển tánh của Như Lai. Vì vậy, bồ tát Phổ Hiền cũng là hạnh nguyện công đức được hiển bày từ biển tánh, tức pháp thân Phật. Thế nhưng biển tánh kia ở bậc Thánh không thêm, phàm không bớt. Khi mọi niệm hành giả đều thanh tịnh, sáng suốt thì tự nó đã tương ưng với lý, định, hạnh của Phổ Hiền.
Hình ảnh bồ Tát Phổ Hiền trở thành bài học thực tiễn, giúp chúng ta vươn tới xây dựng lại đời sống và phát triển những hạnh nguyện lợi tha để trang nghiêm tự thân, hoàn thiện nhân cách. Chúng ta luôn hướng về bồ tát Phổ Hiền bằng tấm lòng ca ngợi và thực hành theo Ngài để có kết quả tốt đẹp. Chúng ta phải thể hiện đời sống tự thân, noi gương tu học với lòng chí thành thanh tịnh và nguyện sống được như Ngài chắc chắn chúng ta sẽ đạt nhiều an lạc, giải thoát.
IV. Mười Hạnh Phổ Hiền
Bồ Tát quán sát thật kỹ sự vật trên mọi hiện tượng giới, thấy tất cả sự vật đều giống nhau trên mặt lý tính hay bản thể nên khi đã rõ được sự cấu tạo của một nguyên tử thì suy rộng ra cũng có thể biết được sự cấu tạo của toàn thể vạn hữu trong Thái dương hệ. Do đó, con người trong vũ trụ bị định luật vô thường chi phối như một hệ quả tự nhiên. Con người không thể tự đặt mình ra khỏi quỹ đạo của vũ trụ, mà luôn có sự gắn bó và ràng buộc với nó. Cũng chính vì lẽ đó nên sự sống con người chúng sanh trong vũ trụ luôn mang một ý nghĩa trọng đại, thiêng liêng mà đôi khi còn dẫn đến sự huyền bí, kỳ diệu. Nó buộc con người luôn luôn hướng thượng và lo lắng đến những vấn đề trường tồn vĩnh cửu cho toàn thể tha nhân chứ không phải chỉ bận rộn đến những vấn đề tầm thường, riêng biệt. Con người phải biết góp phần của mình vào công cuộc tiến hóa chung của nhân loại để tiến tới đài vinh quang: Chân - Thiện - Mỹ, hơn là uổng phí tâm lực của một kiếp phù sinh tạo hóa.
Khi Bồ Tát quán sát thực tướng của các pháp, thấy rõ lý và sự tương tức – tương nhập, thể và tướng vô ngại viên dung. Bồ Tát thấy rõ lý là lý tánh của sự và sự là sự tướng của lý. Lý phải nhờ vào sự mà hiển bày, sự phải nhờ lý mà thành tựu. Sự và lý đều vô ngại, không thể xa rời nhau được nên gọi là viên dung. Muốn thấy bản thể phải nhìn qua hiện tượng. Mọi sự vật tuy tướng trạng có khác nhau nhưng lại cùng chung một thể tánh, bề ngoài tuy tướng khác mà bên trong vẫn ngầm ý tương sinh.
Vì sở ngộ và sở chứng của chúng sanh cũng như hàng Nhị Thừa nên Bồ Tát mới chia pháp ra làm bốn cấp độ khác nhau để chúng sanh dễ lãnh hội. Bốn cấp độ đó là:
1) Lý vô ngại pháp giới
2) Sự vô ngại pháp giới
3) Lý- sự vô ngại pháp giới
4) Sự- sự vô ngại pháp giới
“Lý tức là chân lý thật tánh, là thể tánh chân thật của tất cả pháp, gọi là pháp tánh hay pháp giới tánh, chơn như tánh. Tất cả pháp trong vũ trụ đều đồng một thể tánh chơn như ấy, thể tánh ấy dung thông vô ngại, nên gọi là “lý vô ngại pháp giới”. Người chứng được lý vô ngại này chính là bậc thành tựu căn bản trí, bắt đầu dự vào hàng Pháp thân Bồ Tát. “sự” của tất cả pháp đều đồng một thể tánh chơn thật, tức là đồng lấy pháp tánh làm tự thể. Toàn thể “sự” là pháp tánh, mà pháp tánh đã viên dung vô ngại, nên gọi là: “sự vô ngại pháp giới”.
Người chứng được sự pháp giới này chính là bậc pháp thân Bồ Tát thành tựu sai biệt trí.“Lý” là thể tánh của “sự” (tất cả pháp), “sự” là hiện tượng của “lý tánh”. Vậy thì lý tánh tức là lý tánh của ‘‘sự’’, còn ‘‘sự’’ lại là sự tướng của lý tánh. Chính lý tánh là toàn sự, mà tất cả sự là toàn lý tánh, nên gọi là “lý - sự vô ngại pháp giới”. Người chứng được lý - sự pháp giới này là bực pháp thân Bồ Tát, đồng thời hiển pháp cả hai trí (Căn bản trí và Sai biệt trí).
Tất cả ‘‘sự’’ đã toàn đồng một tánh thể, mà tánh thể thì dung thông không phân chia riêng khác, nên bất luận là một ‘‘sự’’ nào cũng đều dung nhiếp tất cả ‘‘sự’’ và cũng đều từ tất cả ‘‘sự’’. Một sự nhiếp tức tất cả ‘‘sự’’, tất cả sự nhiếp tức một ‘‘sự’’. Thế là ‘‘sự - sự vô ngại tự tại’’ nên gọi là “sự - sự vô ngại pháp giới”. Người chứng được Sự sự pháp giới này là bậc pháp thân Bồ Tát thành tựu Nhất thiết chủng trí.
Xét theo văn nghĩa, phần này y cứ mọi Sự - sự vô ngại pháp giới mà thành lập hạnh nguyện. Sự - sự vô ngại pháp giới dung thông tự tại nên gọi là “giải thoát”. Cảnh giới đây là Thánh trí chỉ chứng, chẳng phải phàm tình lường biết được nên gọi là “Bất Tư Nghì cảnh giới”. Đã chứng được, đã trụ trong cảnh giới vô ngại ấy nên gọi là “nhập”.
Trong phẩm Đức Phổ Hiền giảng giải về mười đại nguyện, nói nguyện nào cũng đều quán nhiếp cả không gian lẫn thời gian.
Về không gian, nguyên văn nói:
‘‘Trong vô lượng cõi có vô lượng vi trần, trong mỗi vi trần đều có vô lượng cõi, trong mỗi cõi đều có vô lượng Phật, nơi mỗi đức Phật đều có vô lượng Bồ Tát, vô lượng đại chúng v.v… Nơi trước mỗi đức Phật, tôi đều hóa hiện thân nhiều như số vi trần, mỗi thân đều khắp lễ kính vô lượng Phật v.v… Trong số vi trần khắp hư không pháp giới mười phương ba đời, mỗi mỗi vi trần đều có vô lượng cõi Phật rộng lớn, nơi mỗi cõi, trong một niệm đều có vô lượng chư Phật thành Đẳng chánh giác, tất cả chúng Bồ Tát nhóm họp vây quanh v.v…
Và cả không gian lẫn thời gian cùng dung thông nhiếp nhận lẫn nhau, như trên nguyên văn nói:
Khắp hết mười phương các cõi nước (không gian)
Mỗi đầu lông đủ có ba đời (thời gian)
Phật cùng quốc độ số vô lượng (không gian)
Tôi khắp tu hành trải trần kiếp… (thời gian)
Tất cả sự pháp không ngoài không gian và thời gian. Không gian dung nhiếp không gian, thời gian dung nhiếp thời gian, không gian dung nhiếp thời gian, thời gian dung nhiếp không gian. Đó là sự - sự vô ngại pháp giới”, mà cũng chính là “cảnh giới giải thoát tự tại Bất Tư Nghì” và cảnh giới dung thông Bất Tư Nghì. Đây là những đặc điểm thường có ở khắp mọi nơi trong thế giới Cực lạc, trên cây báu, trong đền đài, trong quang minh, ở mặt đất, giữa hư không v.v… Cho nên người thọ trì đọc tụng phẩm này tức là huân tập cảnh giới Bất Tư Nghì giải thoát, cũng như muốn cho mọi người, cho tất cả chúng sanh đều được chứng nhập cảnh giới Bất Tư Nghì giải thoát. Đức Phổ Hiền Bồ Tát ân cần khuyên bảo: “ Trên đường tu, hành giả thường gặp phải nhiều chướng ngại cản bước tiến. Trong nội tâm, các phiền não chướng là tham, sân, si, mạn, nghi, tà kiến… đua nhau nổi lên làm cho thất tình lục dục lôi cuốn con người vào trong tội lỗi. Bên ngoài, cảnh vật kích động lòng tham – sân – si khiến cho ngũ ấm, lục thức, thập nhị xứ, thập bát giới làm mê muội chân tâm, thần trí sinh thác loạn, tâm thức hóa mê mờ. Bởi nội tâm không chính đáng (nội ma) nên mới chiêu cảm ngoại giới (ngoại ma). Trong ngoài, màn vô minh dày đặc bao phủ chân tâm khiến con người không thấy đâu là chân lý nữa”.
Để đối phó với các chướng ngại, người tu cần phải giữ tâm bình đẳng, bình tĩnh sáng suốt bằng cách niệm Phật, trì chú hay Quán tưởng, thì mới mong trị nổi bọn nội ma, ngoại ma. Chúng thường cấu kết với nhau rất chặt chẽ để quấy phá, nhiễu hại tâm mình. Trong những giờ phút mà vọng tâm điên đảo nổi lên ấy, người tu mới nhận rõ oai lực và công đức vô lượng, vô biên của pháp môn trì danh hiệu Phật.
Trong ngôi nhà Phật Pháp, có vô lượng pháp môn tu, điển hình và thường được nhắc đến đó là tu Mật, tu Thiền và Tịnh Độ. Trong ba pháp môn ấy, pháp môn Tịnh Độ (tha lực) được phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam và các nước Châu Á. Vì nhờ được tha lực gia trì nên ít bị chướng ngại trong lúc tu, dù có gặp chướng ngại cũng dễ dẹp tan. Còn tu Thiền hay Mật chỉ cậy vào tự lực của mình là chính nên thường gặp phải cam go, thử thách. Bởi vậy, cổ nhân có câu: “Khô mộc đường thiền thác lộ đa”. Ý muốn nói rằng: Tu thiền cũng ví như cây khô, chỉ cậy vào sức mình nên gặp nhiều chướng ngại, làm cho người tu dễ lầm đường lạc lối.
Nhưng nếu nói rằng: tu Tịnh Độ chỉ dựa vào tha lực mà cố ý bỏ qua yếu tố quan trọng là ý chí sắt đá tự cường của người tu tự lực để tiến đến Phật quả thì e rằng không đúng. Bởi Đức Phật đã nói: “Tu Tịnh Độ là nhờ vào ý chí cương quyết trong việc trì danh hiệu Phật cho tới chỗ “nhất tâm bất loạn” nhờ vào hùng lực của mình để diệt trừ vọng niệm; lại còn phải nhờ vào lòng tin vững chắc đối với Phật Thích Ca, tin ở oai lực hùng hậu của Phật A Di Đà có thừa khả năng dắt dẫn chúng sanh qua thế giới Cực Lạc. Như vậy, ngoài tha lực của chư Phật hộ niệm gia trì, hành giả còn phải nỗ lực tu hành tinh tấn mới là điểm chính yếu.
Trong pháp môn Tịnh độ cũng có nhiều lối tu: quán tưởng niệm Phật, quán tượng niệm Phật, trì danh hiệu Phật,… nghĩa là tích trữ công đức nên theo pháp nào cũng đều có lợi. Tuy nhiên, duy chỉ có pháp trì danh niệm Phật là thu hút được đủ mọi tầng lớp. Bất luận là ở nơi thâm sơn cùng cốc vắng vẻ, hay ở nơi thành thị xôn xao, chỗ nào thực hành cũng được. Từ bậc thượng trí cho đến kẻ hạ căn đều có thể hành trì được cả. Bất luận xuất gia hay tại gia, tu sĩ hay cư sĩ, sang hay hèn, giàu hay nghèo, người bận rộn hay kẻ nhàn rỗi, tất cả đều có thể tu chung một pháp môn. Đó là niệm Nam Mô A Di Đà Phật hay A Di Đà Phật.
Thực hành pháp môn niệm Phật, mỗi người sẽ cảm nhận được sự lợi ích khác nhau. Do vậy, tôi chỉ trình bày sơ lược về những công năng ấy. Ở đây đơn thuần có bốn điểm mà thôi.
- Thứ nhất: niệm Phật sẽ diệt trừ vọng niệm
Vọng niệm tức là sự nhớ nghĩ vọng động hay loạn tưởng của nội tâm. Bởi vì, hằng ngày ta luôn sống với vọng tâm và thường xuyên khởi niệm nhiễm ô nên tham, sân, si… có cơ hội xâm nhập và bành trướng. Như trên đã biết, những vọng niệm đó rất có hại cho ta, nó như ngọn lửa mạnh thiêu đốt tâm hồn ta và luôn làm chướng ngại cho sự hành trì tu tập. Nếu niệm Phật, tâm sẽ nhớ nghĩ về Phật với tất cả sự thanh tịnh, vắng lặng. Khi đó, vọng niệm không có cơ hội nảy sinh, cũng như một khi ánh sáng chiếu soi thì bóng tối liền tan biến. Niệm Phật càng nhiều thì vọng tâm càng ít. Niệm Phật liên tục thì vọng tâm được dứt trừ.
-Thứ hai: niệm Phật làm xoa dịu và tan biến những nỗi khổ não ưu phiền.
Như trên đã nói, từ trước đến giờ ta luôn bị tham, sân, si thống trị nội tâm. Vì thế, khi tâm ta tiếp xúc với trần cảnh liền nảy sinh vọng động. Chẳng hạn như ta thích người này mà chẳng được gần thì cảm thấy buồn. Ta chẳng ưa thích gì người kia mà hằng ngày gặp nhau mãi thì tâm ta cũng sẽ buồn. Đó là triệu chứng “Ái biệt ly khổ” và “Oán tắng hội khổ” mà đức Phật đã trình bày trong bát khổ. Người không ưa mà luôn gặp mặt và mang đến phiền phức. Ban đầu ta cũng muốn bỏ qua nhưng vì hành động gây sự phiền hà càng lúc càng quá đáng làm cho tâm ta không kiềm chế được nữa, liền nảy sinh ý định muốn trả thù. Nếu lúc này, là người thực hành pháp môn niệm Phật, ta sẽ niệm Phật, biến phiền não thành Bồ Đề, biến lửa mạnh thành hoa sen, tâm ta sẽ tươi mát không còn ghét người kia nữa. Càng niệm Phật thì tâm ta càng thảnh thơi, tâm hồn thư thái không còn vọng động hay phiền não nữa.
-Thứ ba: Niệm Phật ngăn chặn ác nghiệp của thân, khẩu trên cơ sở ý nghiệp được tịnh hóa.
Trong tam nghiệp thân, khẩu, ý thì ý nghiệp đóng vai trò chỉ đạo, chi phối cái thân và cái niệm. Hằng ngày vì ta tiếp xúc với quá nhiều ngoại cảnh, ý của ta bắt đầu khởi những niệm mà hầu hết là bất thiện, phi thiện, nó thúc đẩy cho thân, khẩu tạo nên nghiệp ác. Khi ta niệm Phật, nhờ tha lực của Phật hộ trì nên tà ý không thể phát sinh và thân, khẩu nghiệp không gây tội. Một ai đó buông lời xúc phạm đến ta, thậm chí sỉ nhục và đánh ta, nếu là người bình thường không biết phán xét hay không có tuệ trí thì tam bành, lục tặc sẽ đùng đùng nổi lên, thề ăn miếng, trả miếng. Còn nếu ta là người biết niệm Phật, thì khi đó tâm ta sẽ tự định tĩnh, không bị xáo trộn bởi câu chửi của người khác.
-Thứ tư: niệm Phật có công năng kiến tạo một đời sống tinh thần lành mạnh, sảng khoái và giải trừ vài căn bệnh trầm kha.
Trong xã hội bôn ba và luôn chạy theo vật chất, không ít những người đã phí sức cho công cuộc mưu sinh nên không còn thời gian và tâm trí để hưởng thụ một cuộc sống an nhàn, tịnh lạc. Hằng ngày, ta luôn bận rộn với công việc cơm áo, gạo tiền, ta luôn lo âu, tính toán, không chút nào được tự do thoải mái. Sự căng thẳng của hệ thần kinh (stress) làm cho ta mỏi mệt; sự lạc lỏng tinh thần (homeless mind) sẽ làm mất phương hướng trong việc định tâm. Bởi vì tâm ta làm chủ các pháp, nếu ta hướng thiện thì nó sẽ thiện, nếu ta hướng ác thì nó sẽ ác; nếu ta bị lo âu thì nó luôn gây trở ngại… Ngay bây giờ, nếu ta biết định tĩnh để quay về, lấy câu niệm Phật để đưa đường vượt bến. Lúc này tâm ta sẽ tiếp xúc được với tha lực của Phật mười phương và ta sẽ cảm nhận được cuộc sống này rất hạnh phúc vui tươi và luôn có ý nghĩa.
Qua sự hành trì pháp môn niệm Phật, có một chú Điệu đã tâm đắc thốt lên rằng:
Niệm Phật phá giải ưu sầu
Niệm Phật không phải giải mù mà thôi
Niệm Phật để giải cái tôi
Niệm Phật không phải cứ ngồi cầu xin
Niệm Phật là tâm khắc in
Niệm Phật là phải tự mình sửa tâm
Niệm Phật là sửa sai lầm
Niệm Phật cần niệm âm thầm dài hơi
Niệm Phật cần niệm lâu bền
Niệm Phật là để đi lên Niết Bàn
Niệm Phật tâm thức bình an
Niệm Phật giải thoát nhẹ nhàng thảnh thơi.
Và bài thơ này cũng đã khép lại với bốn công năng kinh nghiệm mà tôi vừa mới trình bày cho các hành giả.
Thật ra lối tu trì danh niệm Phật rất đơn giản, dễ dàng thuận tiện và cũng có thể nói rằng độc nhất vô nhị, không một pháp nào thuận tiện dễ hành trì như pháp này cả. Cho nên, vì lòng từ bi thương xót chúng sanh mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tự ý nói ra (đây gọi là nô vấn tự thuyết) để mở đường cho toàn thể nhân loại đều có thể tu hành thành tựu được Phật quả.
Trong bản kinh Di Đà điểm đặc biệt mà Đức Phật đã chọn ông Xá Lợi Phất để thuyết, vì ngài Xá Lợi Phất là vị đệ tử có trí tuệ bậc nhất đứng đầu trong thập đại đệ tử, Xá Lợi Phất đại diện cho toàn thể chúng hội nghe pháp thậm thâm vi diệu này, đủ rõ thấy pháp môn trì danh niệm Phật quả là một pháp môn tối thượng đệ nhất trong các pháp môn viên đốn liễu nghĩa.
Trong các kinh điển Đại thừa liễu nghĩa, không có một bộ kinh nào mà không nói tới pháp môn Tịnh Độ. Những bậc thánh hiền xưa nay đều cầu nguyện cùng được với mọi người vãng sanh về nước Cực Lạc. Vì phàm muốn độ người, trước hết phải theo pháp môn niệm Phật để tự độ mình, sau mới hướng dẫn cho người. Mình tu dạy người tu, tất cả đều lên bờ giải thoát, không bị sanh tử nữa. Có câu: “Sinh tử hải trung, niệm Phật đệ nhất”. Nghĩa là: trong biển sanh tử trầm luân, chỉ có pháp môn niệm Phật là phương tiện duy nhất để tự cứu vớt mình. Hay câu: “Chỉ hữu cách lộ tu hành, dân niệm A Di Đà Phật”, tức là: Trong đường lối tu hành, chỉ có một lối đi tắt là trì danh niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà.
Bởi lợi ích thiết thực đó nên Cổ đức mới khuyên người học đạo nên theo pháp môn Tịnh Độ vì pháp môn Tịnh Độ, dễ tu, dễ chứng như đi thuyền buồm gặp gió lộng dòng xuôi, lướt nhẹ trên sóng nước. Còn như tu các pháp môn khác sẽ gặp nhiều nỗi khó khăn hơn, tựa như kiến bò từ dưới chân núi lên đến đỉnh ngọn, mất nhiều thời gian, vừa vất vả, vừa hiểm nguy.
Người đời ít ai chịu nhận thức rõ định luật vô thường biến dịch, còn sống hiện tiền đây nhưng không biết thần chết đến đón đi lúc nào. Há phải chờ đợi thu xếp chuyện gia đình, con cháu yên bề gia thất, rồi mới nghĩ tới việc tu thân thì ôi thôi đã muộn mất rồi. Nên cố nhân mới than rằng:
“Mạc đãi lão lai phương niệm Phật
Cô phần đa thị thiếu niên nhân”
Cô phần đa thị thiếu niên nhân”
Nghĩa là:
"Chớ để tuổi già mới niệm Phật
Mồ hoang bao kẻ tuổi còn xuân”
Mồ hoang bao kẻ tuổi còn xuân”
Con người, chúng sanh ham mê năm dục, thích danh lợi, phù hoa… như bọn trẻ con mãi vui đùa mà quên cảnh nhà lớn đang bộn bề lửa cháy, cứ sa chân lạc bước trong chốn bùn lầy nghiệp chướng. Thế nên đức Phật Thích Ca Mâu Ni Phật mới mở lòng từ bi nói kinh A Di Đà với mục đích trình bày cảnh khổ ở trần gian, giới thiệu cảnh vui sướng nơi Cực Lạc đẹp đẽ tuyệt vời để gợi lòng ham thích của chúng sanh mà nguyện được sanh về thế giới đó.
Trong một đời hoằng hóa, đức Phật Thích Ca chỉ nói kinh Hoa Nghiêm có một lần, lại cố ý nêu rõ ý nghĩa “nhất thiết viên mãn” ấy lại chính là mười hạnh nguyện vương trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện, dẫn đường chỉ lối cho kẻ tu hành nên hướng tâm về cõi Cực Lạc.
Nhận được trọng trách đó, ngài Phổ Hiền đã đem pháp môn Tịnh Độ tích cực khuyến tấn chúng Tăng trong hải hội Hoa Tạng, đồng nhất tâm cầu nguyện Phật A Di Đà gia hộ. Như vậy, thì pháp môn Tịnh Độ đã được Phật Thích Ca dạy ngay trong bộ kinh Hoa Nghiêm. Đó chính là pháp môn chung cho mọi hạng người ở mọi quốc độ và mọi thời gian, ai ai cũng đều tu được cả, nhất là hiện nay, trong thời điểm khoa học hiện đại, mọi thông tin liên lạc tân tiến chiếm hữu thời gian con người rất là nhiều. Pháp môn niệm Phật quả là hiệu ứng. Kinh Hoa Nghiêm nói rằng: “Thiện Tài đi tham cứu học đạo với 53 vị thiện tri thức khắp nơi và chứng được địa vị Đẳng giác. Thế mà rốt cuộc vẫn phải cùng với 41 vị Đại Sỉ phát nguyện vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc, mong được viên mãn Phật quả thì đủ thấy được rằng pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh quan trọng đến bậc nào”.
Kinh Bảo Tích nói: “Phụ Vương của Phật hỏi đức Phật cách thức tu để chứng, đã được Như Lai trả lời: hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh và khả năng thành Phật. Phụ Vương nên chuyên tâm cần niệm Phật A Di Đà cầu được vãng sanh về Tây Phương thế giới, tất sẽ được thành Phật”.
Ngài Như Thiên Thiền Sư sau khi ngộ đạo cũng dặn dò hàng đệ tử: “Trong thời mạt pháp, các kinh điển sẽ lần lượt mất hết, duy còn lưu lại bốn chữ A Di Đà Phật. Nếu ai không tin và không tu theo pháp môn Tịnh Độ, e sẽ phải đọa vào ác đạo không có lối thoát”.
Gần đây như ngài Ấn Quang, cũng khuyến cáo đại chúng rằng: “Phần đông chúng sanh ngày nay tội dày phước mỏng, ngoài pháp môn niệm Phật A Di Đà cầu vãng sanh mà tu theo các pháp môn khác cũng có thể được phước trí vẹn toàn, song vẫn khó lòng thoát khỏi luân hồi sinh tử. Chỉ riêng pháp môn niệm Phật A Di Đà, tuy ít người chứng được “Nhất tâm tam muội” như xưa, nhưng có thể nương theo nguyện lực của mình và bản nguyện của Phật A Di Đà mà đới nghiệp vãng sanh. Khi đã tới cảnh Cực Lạc rồi thì không còn lo sợ phải thoái đọa nữa vì đã nhờ được hoàn cảnh thuận tiện thường được gặp Phật nghe pháp nhiệm mầu, mà tuần tự tiến tu đến quả vị vô sanh…”
Căn bản của kinh A Di Đà là thuần niệm Phật để kết hợp tuệ giác với chân như. Công việc tiếp dẫn của Phật A Di Đà là mối dây liên hệ tương ưng giữa tuệ giác siêu việt và thực tại siêu thoát. Phật A Di Đà là thực tại siêu thoát.
Đến với pháp môn niệm Phật, hành giả sẽ cảm nhận được sự mầu nhiệm của sáu chữ “Nam Mô A Di Đà Phật”. Là vì lục tự này luôn có hiệu lực nhắc nhở giữ gìn lòng người khỏi sa ngã để một ngày kia ta gội sạch được ba nghiệp thân, khẩu, ý, thì tâm ta trở nên thanh tịnh, hết mọi trần cấu nhiễm ô. Chừng đó tâm định, phát sinh tuệ giác, lại được thấm nhuần những đức Từ, Bi, Hỷ, Xả của đức Phật thì lúc ấy dù có Niệm Phật hay không Niệm Phật, tâm ta đã trở thành vô tánh, vô niệm và mỗi hành vi, cử chỉ, lời nói, ý tưởng đều tuyệt nhiên thanh tịnh, tương ưng với Phật rồi. Lúc ấy ta là Phật, Phật là ta, tánh của ta là tánh Phật, đồng một thể chân không Bát Nhã, sáng suốt mầu nhiệm chẳng còn mê luyến sắc trần tham ái nữa. Đúng là:
“Nhứt cú Di Đà vô biệt niệm
Bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương”
Bất lao đàn chỉ đáo Tây Phương”
Nghĩa là: Một câu niệm Phật A Di Đà không còn ý tưởng gì khác nữa, lúc đó chẳng cần nhọc công đợi khảy ngón tay mới được phép bước vào tòa nhà Như Lai
Để ca ngợi pháp môn Tịnh Độ, ngài Vĩnh Minh Diên Thọ Thiền Sư có làm bài kệ như sau:
"Có Thiền lại có Tịnh Độ
Như thêm sừng cho mãnh hổ
Đời hiện tại làm Thầy người
Kiếp vị lai làm Phật, Tổ
Không Thiền Tông, có Tịnh Độ
Vạn người tu, vạn người đỗ
Được thấy Phật A Di Đà
Còn lo chi chẳng khai ngộ”
Như thêm sừng cho mãnh hổ
Đời hiện tại làm Thầy người
Kiếp vị lai làm Phật, Tổ
Không Thiền Tông, có Tịnh Độ
Vạn người tu, vạn người đỗ
Được thấy Phật A Di Đà
Còn lo chi chẳng khai ngộ”
… Vì thế nên những người được nghe mười điều nguyện vương này, chớ sanh lòng nghi ngờ, nên phải lãnh thọ, thọ rồi nên đọc, đọc rồi có thể tụng thuộc, tụng thuộc rồi nên gìn nhớ luôn, nhẫn đến biên chép, vì người mà giảng nói. Những người như vậy trong một niệm đều được thành tựu tất cả hạnh nguyện, được phước vô lượng vô biên, có thể ở trong biển khổ phiền não cứu vớt chúng sanh, khiến chúng sanh được giải thoát, đều được vãng sanh về thế giới Cực lạc của đức Phật A-Di-Đà.
IV.1. Hạnh nguyện thứ nhất: Lễ kính chư Phật.
Ai từng làm thủy thủ mới thấy giá trị của la bàn. Ai có tắm mình trong biển Phật pháp mênh mông mới công nhận đức Phật là đại bi, đại từ. Ngày nay chúng ta được thấm nhuần mưa Pháp, và được tháo gỡ phần lớn hệ lụy trong cuộc đời là nhờ ơn sâu dày của chư Phật.
Bởi thế, hạnh nguyện đầu tiên của ngài Phổ Hiền Bồ Tát là lễ kính chư Phật. Phần ‘‘lễ’’ trong pháp giới như ngài Phổ Hiền thuộc về lý tánh tuyệt đối, được kinh Hoa Nghiêm diễn tả như sau:
Nhứt thân phục hiện sát trần thân
Nhứt nhứt biến lễ sát trần Phật.
Nhứt nhứt biến lễ sát trần Phật.
Nghĩa là trong pháp giới mười phương, tất cả Phật nhiều như bụi trần đã ra đời, thành Vô thượng Chánh đẳng giác hoặc chưa ra đời còn ở trong tâm niệm chúng sanh, cùng một lúc Ngài biết rõ tất cả và hiện đủ thân đến trước tất cả, đảnh lễ không sót. Chắc chắn ngài Phổ Hiền không dùng thân để lễ như chúng ta, Ngài sử dụng lực phát xuất từ tâm chân như đi vào pháp giới lễ ba đời các đức Phật, trong đó có pháp thân của chúng ta, giúp cho pháp thân lớn lên. Bởi vì bồ tát Phổ Hiền là vị cổ Phật, hiện thân lại để tạo điều kiện cho chúng sanh thành Phật tương lai. Thế nên, sự lễ lạy của Ngài là nhằm vào vị Phật tương lai, nhờ đó ngày nay chúng ta tu được, chúng ta có tương quan tương duyên với Ngài. Trong lúc chúng ta lạy Ngài bằng tượng xi măng, cốt thép, bằng gỗ, bằng giấy… còn bồ tát Phổ Hiền lại là pháp thân chúng ta.
Bồ tát Phổ Hiền nhập pháp giới đứng trong tâm trạng từng người một mà cảm thông nhịp nhàng từ thấp lên cao, nên Ngài lễ ba đời các đức Phật mới trọn vẹn. Bồ Tát Phổ Hiền nhìn xuống chúng sanh thấy từng lớp người tiến về Vô thượng đẳng giác, chúng sanh hôm nay là nhị thừa, ngày mai là Bồ Tát và ngày mốt là Phật. Dưới lăng kính của ngài Phổ Hiền, mỗi ngày đều thấy có người phát tâm, sẽ thành Phật hay không thành Phật đều do Ngài giáo hóa. Cách lễ theo ngài Phổ Hiền thuộc lộ trình tu chứng của Bồ Tát đã ngộ Tỳ Lô Giá Na tánh, nên Ngài điều động trí thân thấu suốt tất cả hiện tượng đến độ, trả vật về hư không hội nhập pháp giới. Đạt đến cảnh giới Bất Tư Nghì, khả năng này thuộc phần lý sâu xa của đại Bồ Tát.
Mỗi chúng ta khi chưa nương lực Phổ Hiền, không phân thân khắp mười phương được thì trước tiên chúng ta phải hiểu thế nào là “lễ kính chư Phật” và cách lễ Phật sao cho có kết quả.
Vậy lễ là gì? Lễ là phép tắc, lễ tiết, là noi theo hay làm theo, như nói chúng ta đối với người phải có lễ. Trong Phổ Hiền hạnh nguyện, chẳng những Phật dạy chúng ta đối với mọi người phải có lễ, còn đối với vật chúng ta cũng phải có lễ, đối với mọi sự cũng phải lễ. Có thể thấy được cảnh giới hạnh Phổ Hiền vô cùng rộng lớn, vô cùng vi tế. Cho nên theo pháp tu Phổ Hiền: lễ thuộc bên ngoài, kính thuộc nội tâm, tâm phải chí thành cung kính, còn bên ngoài nhất định phải hợp với lễ tiết. Chữ “lễ” này là tiết độ, không thể thoái hóa, cũng không thể quá độ. Chúng ta phải thanh tịnh thân, khẩu, ý, mà thanh tịnh tức hiện chơn tâm, chơn tâm là thanh tịnh, chơn tâm xưa nay không nhiễm. Cái tâm nhiễm ô đó là vọng tâm, còn chơn tâm không nhiễm. Nhất tâm không nhiễm, nhị tâm mới nhiễm ô, chúng ta phải biết nhất tâm đó là chơn tâm, nhị tâm là vọng tâm. Khi khởi tâm động niệm thì rơi vào tâm nhiễm ô tức là tâm không thanh tịnh, vậy thì nhất tâm không khởi vọng niệm. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, khi không khởi tâm động niệm, tâm sẽ rõ ràng minh minh, bạch bạch. Lúc đó chúng ta dụng tâm cùng với chư Phật Như Lai không có khác biệt. Chư Phật Bồ Tát thường trụ chơn tâm, còn chúng ta niệm trước là chơn tâm niệm sau là vọng tâm rồi. Thị- phi, nhân- ngã, phân biệt, chấp trước là vọng tâm, chơn tâm không có. Bồ Tát dùng thanh tịnh tâm thường tu lễ kính. Trong tam nghiệp thân, khẩu, ý, quan trọng nhất là ý nghiệp, ý nghiệp là tâm, tâm thanh tịnh thì thân thanh tịnh, lấy thân thanh tịnh để tu lễ, lấy tâm thanh tịnh để cung kính, lễ kính đều ở trên tam nghiệp thanh tịnh. Chúng ta tu lễ kính mà thân tâm chẳng thanh tịnh thì đây không phải là Phổ Hiền hạnh. Đức Phật dạy rất rõ trong kinh Hoa Nghiêm “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”. Nghĩa là bất cứ chúng sanh nào, bất cứ người nào trên thế gian này, không phân biệt hình tướng, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt chủng tộc, không phân biệt sang hèn, không phân biệt địa vị, không phân biệt nam nữ… mọi người đều có Phật tánh đồng như nhau, chỉ vì mê ngộ không đồng, nghiệp chướng khác nhau, cho nên hình tướng bên ngoài có khác. Chính vì con người chấp chặt cái hình tướng bên ngoài, cho nên phân biệt tốt- xấu, phải- quấy, đúng- sai, không hiểu được ngoài cái thân xác này ra, chính mình có Phật tánh, không hiểu được mọi người có Phật tánh như nhau. Do đó, phiền não khởi lên, cuộc đời chìm đắm trong sự tranh chấp, hơn thua, giành giựt, chỉ trích, chiếm đoạt. Nếu thực sự hiểu được mọi người đều bình đẳng, đều có Phật tánh như nhau thì con người không dám xúc phạm lẫn nhau, dù bằng hành động, lời nói hay ý nghĩ, huống là âm mưu tàn hại lẫn nhau…. Thật là đáng thương thay! Con người tạo nghiệp mà không hay không biết, hoặc biết mà vẫn cố phạm.
Chư tổ có dạy: “Chúng sanh nhìn chư Phật là chúng sanh, cho nên khổ đau phiền não. Chư Phật nhìn chúng sanh là chư Phật, cho nên Niết bàn an lạc”. Nghĩa là người phàm phu không biết mình có Phật tánh, không biết mọi người đều có thể thành một vị Phật trong tương lai, thường mang tâm trạng tự ti, hèn kém, luôn luôn mang “cặp kiếng phân biệt”, cho nên nhìn thấy tất cả mọi người xung quanh đều có chúng sanh như mình, thường tệ hơn mình, xấu xa hơn mình. Vì thế họ sanh tâm chán nản, ghét bỏ, khinh khi, giận tức, bực bội, từ đó phiền não khổ đau bắt đầu. Nói một cách thông thường đó là “suy bụng ta ra bụng người”. Người mang cặp kiếng màu đen, nhìn chỗ nào cũng thấy tối đen, nhìn người nào cũng tưởng là màu đen. Còn chư Phật đối với chúng sanh, thường nhìn cuộc đời bằng Phật nhãn, với tâm Bồ đề giác ngộ, với “cặp kiếng bình đẳng” cho nên nhìn thấy rõ ràng người nào cũng có Phật tánh, cũng có khả năng thành một vị Phật, nếu chúng sanh giác ngộ, biết quay đầu hướng thiện, từ bỏ nghiệp chướng. Trong nhà Phật, mọi người trân quí Phật tánh của nhau, nên thường chắp tay trước ngực cúi đầu chào nhau bằng câu A Di Đà Phật,… ngụ ý rằng: “Sen búp xin tặng người, một vị Phật tương lai”. Đó là theo hạnh tu lễ kính chư Phật. Nhưng chúng ta có biết chư Phật là gì không? Trong kinh Hoa Nghiêm Phật dạy chúng ta rằng: “Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí”, ý nói tất cả chúng sanh đều có tánh giác. “Tình” là hết thảy chúng sanh hữu tình, gồm các loại động vật. “Vô tình” là các loại thực vật, … tất cả đều là Phật sẽ thành. Cho nên, tôn kính chư Phật là cung kính tất cả chúng sanh, đó chính là tâm của bồ tát Phổ Hiền. Chúng ta ai cũng tôn kính chư Phật, nhưng sự cung kính này chưa được chí thành tột cùng. Ví như khi chúng ta đang ngồi trong lớp học mà lấy báo ra đọc, hoặc ngồi nói chuyện này chuyện kia, không chú ý đến sự giảng kinh luận của thầy, như vậy là chúng ta chưa thật sự tôn kính. Nếu chúng ta chí thành cung kính chư Phật thì chú ý nghe giảng kinh luận là quan trọng nhất. Tâm cung kính của bồ tát Phổ Hiền rất chí thành và viên mãn, dù đối với chư Phật cũng như đối với chúng sanh hữu tình và vô tình đều không khác. Bởi vì tất cả chúng sanh vốn là Phật, đắc tội với một chúng sanh tức là đắc tội với một vị Phật, là không cung kính với một vị Phật. Đối với người thì cung kính, còn đối với vật như bàn ghế, súc vật thì sao? Nó cũng là chúng sanh. Chữ ‘‘chúng sanh’’ ở đây có nghĩa là chúng duyên hòa hợp tạo thành hiện tượng. Vậy đối với đồ vật, chúng ta phải nên sắp xếp cho ngăn nắp, gọn gàng. Đối với thú vật thì nuôi dưỡng chu đáo đàng hoàng sạch sẽ. Như thế là chúng ta đã cung kính đối với vật, còn việc làm thì chúng ta phải có trách nhiệm, siêng năng, hết lòng làm cho thật tốt gọi là cung kính đối với việc làm. Chúng ta phải có thái độ bình đẳng cung kính đối với người, vật, việc làm… Sự cung kính của chúng ta đối với tất cả chúng sanh có sai khác là không được, như vậy không phải là hạnh Phổ Hiền. Hạnh Phổ Hiền là bình đẳng, không có sai biệt, đối với Phật cung kính như thế nào thì đối với chúng sanh phải cung kính như thế ấy. Chúng sanh gồm động vật trong Cửu pháp giới chúng sanh, hướng lên trên có Bồ Tát, Duyên giác, Bích Chi Phật, Thanh văn, A La Hán, Trời, A-tu-la, súc sanh, địa ngục, ngạ quỷ, đây đều là chúng sanh, cả thảy đều phải cung kính. Vả lại, sự lễ kính chư Phật không có sai biệt, chúng ta phải làm được như vậy. Cho nên, Phổ Hiền hạnh không dễ tu. Thường, chúng ta đối với người cung kính, còn đối với loài vật như ruồi, muỗi, kiến,… không cung kính, vậy thì không được, kể cả quỷ thần chúng ta cũng phải cung kính nữa. Trong kinh Phạm Võng, đức Phật dạy: “Người xuất gia không được phá chỗ ở của quỷ thần”. Ví dụ, nếu cần chặt cây thì ta phải xin phép đàng hoàng, có thể xin phép rằng: ‘‘Tôi làm việc này cần đốn cây này xin mời quý vị đi chỗ khác, bởi vì việc này tôi làm lợi ích nhiều hơn’’. Cho nên, chúng ta không được phá chỗ ở của quỷ thần. Trong kinh Pháp Hoa chúng ta gặp hình ảnh của bồ tát Thường Bất Khinh với hạnh tu khi Ngài ra đường gặp bất cứ người nào già trẻ, lớn nhỏ Ngài đều lạy và nói: “Tôi không dám khinh quý ngài, vì quý ngài là Phật tương lai”. Cho dù, người ta có la rầy phản đối, Ngài vẫn nói một câu đó. Như vậy, chúng ta thấy rằng tất cả chúng sanh đều có chủng tử Phật, tức là Phật nhân, muốn thành Phật ta phải tu chứng được Phật quả. Đức Phật luôn dạy mọi người, mọi vật đều có Phật tánh, sẽ thành Phật trong tương lai, cho nên ta phải cung kính không bỏ sót một chúng sanh nào. Cho dù người đó không phải là Phật giáo mà là Thiên Chúa giáo, Cơ Đốc giáo, hay thuộc tôn giáo nào khác, khi đến với họ thì ta dùng lễ tiết của họ như vậy mới đúng. Chúng ta là đệ tử Phật, gặp miếu quỷ thần chúng ta chắp tay xá chào, tâm cung kính của chúng ta không có sai khác, tâm cung kính quỷ thần với tâm cung kính chư Phật như nhau. Hành thì trên nghi thức có sai biệt, tùy theo phong tục tập quán, theo thế gian pháp, còn tâm cung kính thì chẳng bao giờ thay đổi. Có thể thấy được câu “thường tu lễ kính chư Phật”. Chữ “thường” là chơn thường, không phải nghĩa thông thường mà chúng ta hay nói, chẳng phải một đời một kiếp mà đời đời kiếp kiếp vĩnh viễn, không gián đoạn. Chỗ tu của Phổ Hiền là vĩnh hằng, chơn thường, là vĩnh viễn không cùng tận. Tâm lượng của Bồ Tát bao trùm cả hư không pháp giới, tức là xứng tánh viên mãn. Phương pháp Phổ Hiền gọi là tu đức, lấy cách tu đức, đem tánh đức hoàn toàn hiển lộ ra, thành viên mãn Phật rồi. Đây là minh tâm kiến tánh, thành tựu viên mãn Phật, không tu hạnh này thì không thể viên thành Phật đạo. Sự lễ kính quan trọng nhất là thanh tịnh tâm, không thể có phân biệt chấp trước, rằng đây là người thiện, kia là kẻ ác, người này tôn kính, kẻ kia chán ghét. Khi phân biệt chấp trước như vậy thì chẳng phải Phổ Hiền hạnh.
Nhân đây xin nói về hai cách lạy Phật tương đối có kết quả:
Cách lễ thứ nhất là lòng thành đến cao độ, niềm tin hướng trọn vẹn về Phật. Đôi tay chắp trước ngực, chúng ta đưa tay lên trán gợi lên ý niệm cầu Vô thượng Chánh giác, cầu trí Văn Thù rọi sáng tâm, để chúng ta bắt gặp hình ảnh Phật mà lạy. Tâm và trí hợp nhất lại thành một, dẫn chúng ta đến cách lễ Phật theo mô hình thứ hai, thuộc lý Bát Nhã theo mà Ngài Văn Thù dạy: “Năng lễ sở lễ tánh không tịch”. Nghĩa là người lạy và người được lạy cả hai đồng một thể tánh vắng lặng như nhau. Từ sự lễ Phật bên ngoài, quán chiếu tự tánh bên trong là bản thể thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt. Phật bên ngoài dung nghi đoan nghiêm rực rỡ, Phật tự tâm vốn không mang xác thân ngũ uẩn mà chính là giác tánh. Khi trí tuệ được khai mở, con người rời bỏ trần lao, quay về giác tánh hay bản thể chơn như thường trụ. Đó là lễ Phật qua lý “không” của người bước vào thế giới tu chứng, từ đó lưu xuất những diệu dụng, khắp mười phương chư Phật hiện trong tâm trí mình. “Thập phương chư Phật ảnh hiện trung” tức là thân mình ảnh hiện trước chư Phật mà đảnh lễ “Ngã thân đảnh lễ chư Phật tiền”. Nghĩa là từ tâm “không” ở cách lễ thứ nhì, đưa hành giả vào thế giới Phổ Hiền. Lạy Phật theo Ngài Phổ Hiền là:
Nhất thân phục hiện sát trần thân,
Nhất nhất biến lễ sát trần Phật.
Nhất nhất biến lễ sát trần Phật.
Chư tổ thường dạy: “Đại dụng đại tiện, quyền đại chủ”, thì chúng ta phải biết sử dụng những phương tiện sẵn có trong tay, còn phần lễ Phật trong pháp giới như ngài Phổ Hiền thuộc về lý tánh tuyệt đối. Chúng ta chưa nắm bắt và vận dụng được, cho nên phải phát huy Phật tâm ta và Phật tâm người để cùng tiến đến Vô thượng đẳng giác, đó là việc quan trọng nhất trong lộ trình tu tập.
Theo đạo Phật không phải lễ Phật là cầu xin, nhưng lễ là biểu lộ lòng tôn kính của chúng ta đối với đức Phật. Ngài là đấng sáng suốt và đức hạnh nhất nên chúng ta lễ Phật cũng là thể hiện những điều Ngài dạy trong cuộc sống.
Ở giai đoạn đầu chúng ta lễ Phật là luyện cho ba nghiệp thanh tịnh, không để cho âm thanh sắc trần bên ngoài tác động tâm ta. Với lòng thành cao độ được tập trung, chúng ta sẽ không thấy, không biết việc xung quanh xảy ra, mới thấy được Phật xuất hiện cho ta đảnh lễ. Lễ Phật, xưng tán hồng danh Phật, ý căn chúng ta đặt vào danh hiệu, vào hảo tướng, vào công hạnh của Ngài, nên pháp tu quán được thành tựu. Nhờ ý căn tiếp xúc với chân ảnh, tạo thành tác dụng vô cùng, tất cả các pháp lành tự sanh ra, ba đời mười phương Phật xuất hiện, nên đảnh lễ không sót một vị Phật nào. Giai đoạn này, lễ lạy hình tượng Phật để thực hiện pháp tu quán tưởng mà chúng ta hình dung được Phật thật có khác nhau.
Giai đoạn thứ hai, chúng ta nhận chân được báo thân Phật kết tụ bằng trí tuệ, đức hạnh và việc làm thánh thiện nên hết sức kính trọng Ngài và phủ phục lễ lạy.
Đến giai đoạn ba, kinh Hoa Nghiêm dạy đảnh lễ pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật mới lễ được toàn diện, vì ba đời mười phương Phật đều hiện hữu trong Tỳ Lô Giá Na pháp thân. Và pháp thân Phật tác động cho chúng sanh phát tâm Bồ đề, nên tâm của chúng sanh đều có một phần thân của Phật.
Tự thân tâm chúng ta lễ kính Phật và tạo cho người lễ kính. Trong ba đời mười phương các đức Phật thì Phật hiện tại quan trọng nhất. Nói cách khác, chúng ta làm sao cho Phật pháp sống động trong hiện tại. Thể hiện tinh thần ấy, Phổ Hiền dạy chúng ta cách lễ Phật. Lễ Phật quá khứ để tạo sự liên hệ với Phật mười phương, từ đó xây dựng được những vị Phật tương lai. Lễ Phật hiện tại, nhận được lực mười phương Phật gia hộ, có sức cảm hóa người, người xấu trở thành tốt, tâm ta an vui thanh tịnh. Lễ Phật trong tương lai vì nghĩ đến đạo pháp tồn tại trong tương lai. Chúng ta cầu nguyện các vị Bồ Tát mang lại hạnh nguyện độ sanh hiện thân trên cuộc đời này, sanh làm quyến thuộc của chúng ta. Nhờ có Bồ Tát hóa thân tức những người hiền đức, tài giỏi, sanh lại mới có thể duy trì đạo mạch, lợi ích hữu tình. Mặt khác chúng ta nghĩ đến Phật vị lai hay nghĩ đến những người thân cận, lo nuôi dạy, dìu dắt cho họ nên người tài đức, nuôi dưỡng phát triển những mầm non thông minh sau này, xiển dương chánh pháp. Như vậy, chắc chắn đạo pháp vững mạnh trong tương lai. Đó là, pháp lễ Phật vị lai.
Từ ý nghĩ lễ Phật trong pháp giới theo Phổ Hiền, thực tế chúng ta hiểu Phật là bậc giác ngộ sáng suốt, nên sử dụng phương tiện đảnh lễ người giác ngộ, tức là những thiện tri thức thâm nhập giáo lý Phật đà. Tuy chưa phải Phật nhưng họ là Hoạt Phật, tức Phật sống. Chúng ta lễ vị này thay lễ Phật bằng cốt tượng. Trên bước đường tha phương cầu học đạo có bao nhiêu người đắc đạo hay chưa đắc đạo, bao nhiêu lý thuyết kinh luận của Tổ chú sớ… chúng ta đều lễ kính cầu học. Những vị này ra đời thay thế Phật thuyết minh, làm sống dậy giáo lý siêu việt của chư Phật, lợi ích chúng hữu tình, nhờ đó, Phật đạo tồn tại mãi trên thế gian cho người tu hành. Hiện tại ta đảnh lễ thiện tri thức, tuy họ không đủ 32 tướng tốt như Phật, nhưng được một hai tướng hảo, năm bảy oai nghi cho đến chỉ có một điều thiện nhỏ như vi trần đều đáng quí. Sự che chở dạy bảo của các bậc tôn túc là những đức Phật vị lai, vì thế chúng ta không chỉ đảnh lễ bằng thân mà đảnh lễ từ chân tâm đi vào pháp giới lễ mười phương ba đời chư Phật. Đó là mô hình lạy Phật trên cuộc đời và lạy Phật trên pháp giới. Từ phương tiện chúng ta tu để đến chân thật, và từ chân thật trở về hành đạo mở ra phương tiện. Hành giả Hoa Nghiêm nhìn vào vạn vật đều là Phật, cho nên sinh tâm kính trọng. Từ đó lễ Phật trên pháp giới và lễ Phật trên cuộc đời, ngõ hầu gieo trồng phước đức, tăng trưởng Bồ đề tâm trên đường tu Bồ Tát hạnh.
IV.2. Hạnh nguyện thứ hai: Xưng tán Như Lai
Phật thân thanh tịnh tự lưu ly,
Phật diện du như mãn nguyệt huy,
Phật tại thế gian thường cứu khổ,
Phật tâm vô xứ bất từ bi.
Nghĩa là:
Trí Bụt sáng ngời như trăng tỏ,
Thân Bụt thanh tịnh như lưu ly,
Bụt ở thế gian thường cứu khổ,
Tâm Bụt không đâu không từ bi.
( Thiền Môn Nhật Tụng trang 201- Thích Nhất Hạnh)
Thân Bụt thanh tịnh như lưu ly,
Bụt ở thế gian thường cứu khổ,
Tâm Bụt không đâu không từ bi.
( Thiền Môn Nhật Tụng trang 201- Thích Nhất Hạnh)
Đây là lời chúng ta thường xưng tán Như Lai, nhưng bồ tát Phổ Hiền khẳng định với Thiện Tài đồng tử rằng, nếu có dùng lưỡi của biện tài Thiên nữ để ca ngợi công đức Như Lai đến cùng kiếp cũng không thể hết. Ca ngợi hoài mà không hết, chắc chắn không thể ca tụng bằng ngôn ngữ trên đầu môi chót lưỡi. Vì vậy, thể hiện xưng tán Như Lai trong cuộc sống mới cần thiết. Chúng ta không khen Phật, khen thầy, nhưng sống thế nào cho mọi người quý trọng thương mến ta, khiến họ phải nghĩ đến Phật, đến thầy của chúng ta. Trên tinh thần này, hàng hàng lớp lớp người thừa kế tu hành, mỗi ngày phát huy trí tuệ, đạo đức cao đẹp hơn. Ngài Phổ Hiền dạy rằng: có dùng lưỡi biện tài của Thiên nữ cũng không ca ngợi hết công đức Như Lai, vậy thì lễ Như Lai (một trong 10 thánh hiệu của Phật gồm: Như Lai- Ứng Cúng- Chánh Biến Tri- Minh Hạnh Túc- Thiện Thệ- Thế Gian Giải- Vô Thượng Sĩ- Điều Ngự Trượng Phu- Thiên Nhân Sư- Phật, Thế Tôn). “Như” là thể tánh chơn thật như như thường trụ, không sanh diệt, không đổi dời. “Lai” là diệu dụng thành bậc đẳng chánh giác, độ khắp chúng sanh. Tức là đấng từ nơi thể tánh chân thật thường như thị hiện diệu dụng thành Phật độ sanh, nên gọi là Như Lai. Còn chữ tán thán cũng có nghĩa là xưng tán, ca ngợi. Vậy thì, “Nhất giả lễ kính chư Phật” (hay Như Lai bất động lai thành chánh giác) chư Phật ở đây là nhân. Nhị giả xưng tán Như Lai, Như Lai ở đây là quả. Như vậy, lễ kính chư Phật là kính hạt giống Phật, chủng tử Phật. Còn tán thán Như Lai là tán thán hạnh quả của Như lai bậc đã tu chứng. Đứng về mặt hình tướng thì “lễ kính chư Phật” là lễ tất cả người thiện, kẻ ác, đối với tất cả chánh pháp, tà pháp đều nhất mực cung kính. Còn xưng tán Như Lai là đứng về mặt tánh, ở đây, điều thiện ta xưng tán, điều bất thiện thì ta không xưng tán. Qua 53 lần tham vấn, Thiện Tài đồng tử đối với mỗi vị thiện tri thức đều lễ kính tán thán, duy chỉ có đối với ba vị, Ngài chỉ lễ kính mà không tán thán. Vị thứ nhất là Thánh nhân Bà La Môn, một người ngoại đạo đại diện cho si mê. Thứ nhì là Cam Lồ Hỏa Vương tượng trưng cho sân giận. Thứ ba là Phát Tô Bậc Đa là một dâm nữ. Ba người này tiêu biểu cho tham, sân, si, chính là ba độc phiền não, Ngài cung kính mà không tán thán. Do đó, tán thán là dựa trên tính đức, chánh pháp, còn không, thì cung kính mà không tán thán. Vì cung kính là tâm thanh tịnh, bình đẳng. Đối với tất cả các tôn giáo khác, chúng ta phải cung kính, còn chánh giáo thì chúng ta tán thán. Như Thiên Chúa là chánh giáo giúp người sanh lên cõi trời, mặc dù chưa phải là cứu cánh, nhưng vẫn tốt hơn đưa người xuống địa ngục. Còn tà giáo dẫn dụ người tạo nghiệp xấu ác đọa tam đồ thì tuyệt đối không tán thán. Đức Thế Tôn là bậc đã hoàn toàn giác ngộ, là thầy của trời, người, cha lành của bốn loài, là bậc thoát khỏi sanh tử luân hồi, chúng ta chỉ quy y với thầy của chúng ta là bậc hoàn toàn giác ngộ. Như vậy, ngài Phổ Hiền chỉ tán thán các bậc Thánh trong tam thừa. Còn đứng về mặt nhân mà nói thì tất cả phàm phu kể cả loài vật súc sanh đều có Phật tánh, nên ta kính Phật tánh của tất cả chúng sanh. Còn các bậc Thánh trong tam thừa, chư Phật, chư Bồ Tát, thì ta càng phải tán thán. Đức Phật của chúng ta được gọi là Vô thượng y vương vì đức Phật là thầy thuốc chữa bệnh cho tất cả chúng sanh, khi mọi người uống thuốc đó, thì không còn sanh tử luân hồi nữa. Còn giáo lý của đức Phật là phương thuốc chữa lành mọi căn bệnh, vì thế tất cả chúng ta phải uống thuốc đó. Đó là thuốc bố thí, thuốc trì giới, thuốc nhẫn nhục, thuốc tinh tấn, thuốc thiền định, thuốc trí tuệ, thuốc từ bi,… uống đúng thuốc, trị đúng bệnh thì người đó sẽ hết bệnh, tức là giải thoát. Pháp Phật nhiệm mầu thậm thâm vi diệu, cho nên thực hành pháp Như Lai, hạnh Như Lai là thể hiện trong hành động, lời nói, việc làm cụ thể trong cuộc sống của chúng ta để mỗi ngày được tăng trưởng, đó là chúng ta đã tán thán Ngài. Thật ra, trong cuộc sống hành đạo của đức Phật, Ngài không thích chúng ta ca tụng, tán thán Ngài bằng tâm cuồng tín, không hiểu rõ về Ngài. Đức Phật đã từng nói: “Tin ta mà không hiểu ta là phỉ báng ta”. Do đó, ta đến với đức Phật là học những hạnh cao quý của Ngài để chuyển hóa thân tâm, có được trí tuệ siêu việt và xưng tán Phật dưới dạng chơn tánh. Từ chơn tánh này, đức Phật khởi lên sanh diệt trong hiện tượng giới vô cùng tận. Đức Phật hiện hữu trong thế giới vô cùng tận đó, nên hành trình thuyết pháp độ sanh không nằm trong giới hạn 80 năm trụ thế, cũng chẳng chấm dứt lúc nhập Niết bàn. Tuy ta biết đức Phật tại thế, giáo hóa khắp lưu vực sông Hằng, nhưng hiện tại khắp năm châu không nơi nào không có giáo lý Phật soi sáng cho người nghiên cứu, suy tư, tu hành. Trong vô hình, đức hạnh của Ngài vẫn tiếp tục giáo hóa chúng sanh, điều này được khẳng định qua việc ta ca ngợi Phật đức vô cùng tận. Nhờ khen ngợi Phật đức sâu dày, pháp thân chúng ta lớn dần lên. Nương vào Phổ Hiền lực để thấy Phật và khen Phật, thì ở trần gian này có bao nhiêu chúng sanh có bấy nhiêu Phật.
Trong thập phương tam thế khắp pháp giới có vô số đức Phật, chúng ta đều dùng sức thậm thâm thắng giải hiện tiền tri kiến thường tu hạnh xưng tán, mỗi âm thanh diễn xuất tất cả ngôn từ, khen ngợi tất cả biển công đức của tất cả Như Lai bằng ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh, thường không hề nhàm mỏi. Nghĩa là chúng ta luôn luôn xưng dương, tán thán, ca tụng, ngợi khen công đức của chư Phật đã thành, với mục đích tự nhắc nhở mình noi gương chư Phật. Trong cuộc sống hàng ngày, giữ gìn ba nghiệp thân, khẩu, ý được thanh tịnh, chớ không phải chúng ta ca ngợi chư Phật để được ban phước, để được may mắn, như ý. Chư Phật mười phương không cần chúng ta tán thán, ca tụng như vậy đâu, chúng ta kính lễ chư Phật không phải chỉ ca tụng chư Phật, mà cần phải noi gương, học và hành theo hạnh của chư Phật. Châm ngôn có câu: “Tôn sùng các bậc vĩ nhân, không phải chỉ ca tụng họ, mà cần noi gương họ”.
Trên bước đường tu hành, mỗi ngày chúng ta lại nhận ra những đức tánh và việc làm cao quý của đức Như Lai. Chỉ một đấng Thích Ca Như Lai hiện hữu mà từ nghìn xưa cho đến ngày nay, trải qua hơn 2500 năm, biết bao hành giả tự nguyện đi theo con đường của Ngài, những vị tu hành ngộ đạo và những sở đắc của những vị ấy cũng nhằm triển khai yếu nghĩa của Như Lai chỉ dạy. Kho tàng luận giải của các bậc tiền bối nhiều vô số, vậy mà ngày nay nhân loại cũng chưa thỏa mãn với các lời khen ngợi ấy, và mỗi người trong chúng ta lại tiếp tục xưng tán Như Lai theo sự hiểu biết tu chứng của mình.
“Phật” ở đây, chúng ta nên hiểu là Phật tâm, Phật tâm có hoạt tính vô cùng, soi sáng pháp giới, truyền thẳng đến chúng sanh, nên nói: “Phật tâm vô xứ bất từ bi”(tâm Phật không đâu không từ bi). Đức Phật đã khéo cảm hóa từ nhà hiền triết cho đến những người thất học, các hàng vương tôn công tử đến những người cùng đinh trong xã hội. Tất cả đều phát huy đạo đức và thẳng tiến tinh thần tùy theo căn cơ trình độ của họ, ứng dụng vào cuộc sống đời thường mà tu tập sao cho có kết quả. Ví như khi nghe hoặc thấy một người lâm nạn đau khổ, chúng ta liền khởi tâm từ bi thương xót. Đó chính là xưng tán Như Lai. Nhưng nhận biết kẻ lâm nạn là người từng hãm hại mình, là người mình không ưa, thì chúng ta liền khởi tâm khoái chí. Đó chính là phỉ báng Như Lai. Xưng tán Như Lai còn có nghĩa là chúng ta tự nhắc nhở chính mình rằng ai cũng có đức tính giác ngộ, sáng suốt, thanh tịnh, luôn sống đời tỉnh thức, không để vọng tâm chi phối, không để tâm tham điều khiển, không để tâm sân xui khiến, không để tâm si thúc đẩy, làm những chuyện lợi mình hại người, vì quyền lợi riêng tư nhỏ nhoi của mình mà làm thiệt hại, gây đau khổ cho người khác, dù người đó là kẻ thù cũng vậy. Xưng tán Như Lai không có nghĩa là chúng ta chỉ lo chuyện xây chùa to, dựng tượng lớn, đọc các bài tán thán chư Phật trong các thời khoá tụng kinh, làm thơ, ca ngợi công đức chư Phật, tổ chức hành hương, thập tự, tham dự các khóa tu học, các khóa hành thiền. Nếu chúng ta chỉ biết làm những chuyện như vậy, còn trong sinh hoạt hằng ngày, chúng ta sẵn sàng đấu tranh, tranh giành quyền lợi, hơn- thua, phải- trái. Như vậy, là chúng ta đã phỉ báng Như Lai chớ không phải xưng tán Như Lai.
Mặc dù thân Phật không còn hiện hữu trên cuộc đời này, nhưng giáo lý của Ngài vẫn được từng thế hệ loài người tiếp nối nhau. Từ đó, biết bao nhiêu người được chuyển mê, khai ngộ, được nâng cao đạo đức tác phong, giúp cho xã hội loài người ngày thêm tốt đẹp, nhân ái, thân tình. Trí tuệ và đức hạnh của Ngài không sao kể xiết, có thể nói Ngài là người có một không hai trong lịch sử loài người, và xứng đáng với 10 danh hiệu ( Như Lai- Ứng úng-Chánh Biến Tri- Minh Hạnh Túc- Thiện Thệ- Thế Gian Giải- Vô Thượng Sĩ- Điều Ngự Trượng Phu- Thiên Nhân Sư- Phật, Thế Tôn). Do đó, công đức của Ngài thật to lớn, Bồ Tát Phổ Hiền nói: “Không thể mượn lưỡi của biện tài Thiên nữ để ca ngợi hết”, chỉ có cách nhập pháp giới, mới có thể ca ngợi ba đời các đức Phật, nghĩa là tổng hợp được quá khứ vào hiện tại và đưa hiện tại tiếp tục diễn tiến trong tương lai.
Nhập pháp giới hay sống đúng chân lý không mang ý nghĩa nào khác hơn là sống trong thời “Phật giáo nguyên thủy, trong thời Phật giáo phát triển”. Ngày nay và tương lai cũng trôi chảy trong dòng thác trí tuệ của Như Lai. kinh Hoa Nghiêm thường diễn tả “Một là tất cả, tất cả là một”. Nhận được chân ý nghĩa xưng tán Như Lai dưới dạng đó, chúng ta sống bình thản, phát huy trí tuệ trầm mặc mà ca ngợi đầy đủ các đức Phật trong ba đời.
Phật pháp trường tồn vô tận nhờ những người con Phật, đã đang và sẽ thâm nhập trí giác Như Lai. Tuệ giác của Như Lai rộng lớn không cùng tận, vì càng đi vào lộ trình giác ngộ, chúng ta càng thấy thiết thực hơn. Chúng ta xưng tán công đức của Phật là đã và đang cống hiến cuộc đời mình cho Phật pháp nói chung và giáo hội nói riêng. Nhất là đối với chư tôn đức Tăng Ni đã từng lao tâm, nhọc trí, quên ăn, mất ngủ trong việc giáo dục và đào tạo hàng hậu học chúng ta, sao cho đủ đức, tài để thay thế quí Ngài lèo lái con thuyền giáo hội.
Bên cạnh đó, chúng ta y pháp tu hành, noi gương các bậc tiền bối, hiến trọn đời mình cho đạo pháp, cũng chính là cách xưng tán Như Lai. Hơn nữa, đạo Phật được tồn tại trong lòng dân tộc hàng ngàn thế kỷ qua. Đó là do các hàng đệ tử Ngài luôn giữ gìn phạm hạnh thanh tịnh, an trú trong chánh pháp Như Lai, nhờ đó, ánh đuốc chánh pháp được ngời sáng. Giáo thuyết vô ngã và phát triển đại bi tâm của hàng Bồ Tát tu tập là con đường thâm diệu nhất, đem sự an lạc hạnh phúc cho nhân loại ngay trong đời sống. Cho nên, thể hiện lời nói qua việc làm theo bồ tát Phổ Hiền mới là cách xưng tán Như Lai cao nhất.
IV.3. Hạnh nguyện thứ ba: Quảng tu cúng dường.
“Khởi thâm tín giải hiện tiền tri kiến, tất dĩ thượng diệu chư cúng dường cụ nhi vi cúng dường”. Nghĩa là đối với chư Phật mười phương, chúng ta phát tâm hiểu biết, tin tưởng sâu sắc, thành tâm dâng cúng những điều tốt đẹp, những thành tựu cao quí nhất trên bước đường tu học. Về phần sự tướng, khi đến chùa chúng ta thường dâng cúng các phẩm vật cụ thể như hương, đèn, hoa, quả, tượng trưng cho những nghĩa lý cao thượng, những yếu tố tâm linh siêu thoát. Cúng hương mang ý nghĩa dâng cúng những hương thơm kết tụ do việc giữ gìn giới luật, hương thơm kết tụ do thiền định, hương thơm kết tụ do việc phát triển trí tuệ, hương thơm kết tụ do việc tu hạnh giải thoát và hương thơm kết tụ do việc giải thoát những hiểu biết phiền lụy của thế gian. Nói chung, ngũ phần hương gồm: giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát hương và giải thoát tri kiến hương. Dâng cúng đèn: mang ý nghĩa dâng cúng ánh sáng trí tuệ sáng suốt, thắp sáng tâm trí, biết nhận thức mọi sự vật đúng như thật, không điên đảo, không mê mờ, biết sống theo chánh kiến và chánh tín, tránh tà kiến và mê tín dị đoan. Cho nên, trên bàn thờ luôn có ngọn đèn thắp sáng, mang ý nghĩa nhắc nhở chúng ta luôn luôn sống trong tỉnh thức, thúc liễm thân tâm, trao giồi giới đức, luôn thực hành lời Phật dạy. Dâng cúng các loại hoa cũng có nghĩa cúng những điều thánh thiện tốt đẹp chúng ta làm trong cuộc sống hằng ngày theo lời Phật dạy. Chẳng hạn trong ngày chúng ta làm được việc thiện nào, đó chính là những bó hoa tươi thắm dâng lên cúng Phật. Dâng cúng các loại quả, mang nghĩa cúng những thành tựu, những kết quả do công phu tu học theo đúng chánh pháp. Chẳng hạn, trước đây những lời phê phán, chửi mắng có thể làm cho chúng ta bực bội, quên ăn, mất ngủ trong một thời gian dài. Giờ đây, gặp những cảnh ngộ trái ngang bất như ý như vậy, chúng ta có thể khởi niệm trong tâm, song nhận thức được ngay. Khi ấy niệm vừa khởi liền tan biến mất, tâm hoàn toàn tĩnh lặng. Vô niệm khởi, tức là chúng ta đã thành tựu đạo quả, dù một cách viên mãn hay chưa viên mãn.
Để tâm trí được thanh tịnh chúng ta hãy làm các điều thiện “quảng tu cúng dường” vì chính ích lợi của các điều thiện ấy, chứ không phải vì quyền lợi cá nhân, vì quyền lợi bản thân. Chúng ta có thể dễ chán những niềm vui mà chúng ta nhận được, nhưng chẳng bao giờ chán những niềm vui mà chúng ta cho. Đó là lợi ích sâu xa của sự bố thí cúng dường đúng chánh pháp.
Những phẩm vật như tràng hoa, âm nhạc, tàng lọng, hương thơm,… dùng để cúng dường những vị bỏ tục xuất gia cầu đạo giải thoát. Những vị này không còn để tâm đến danh lợi, tiền tài, chỉ lo tu học Phật pháp, phát triển tri kiến giải thoát, sống đời phạm hạnh thanh tịnh. Chúng ta cúng dường cho những hàng Duyên giác là những vị mô phạm trong đạo, những người có tầm hiểu biết sâu rộng, hướng dẫn người khác sống đời có lợi lạc. Chúng ta cũng có thể cúng dường cho Bồ Tát, là người mang chí nguyện độ sanh dấn thân vào đời, ban vui cứu khổ muôn loài. Hơn nữa, cúng dường Phật, cho đến hình tượng Phật, là đấng toàn giác, cúng dường như vậy để chúng ta gieo trồng căn lành cho bản thân và thể hiện nhiệm vụ hộ pháp của hàng cư sĩ tại gia. Lòng kính trọng cúng dường thể hiện dưới hình thức tâm thành, chúng ta có niềm tin nơi phước đức trí tuệ viên mãn của Phật, xây dựng lòng tin chánh Pháp bằng cách hộ trì Tam bảo, tạo điều kiện cho Tam bảo tồn tại ở đời để làm lợi ích cho chúng sanh. Chúng Tăng là những người thay Phật tiếp tục nhiệm vụ hoằng dương Phật pháp thể hiện chí lớn làm lợi lạc cuộc đời.
Trong tất cả hạnh nguyện cúng dường thì cúng dường pháp là quan trọng nhất. Bồ Tát Phổ Hiền dạy chúng ta những pháp cúng dường tối thắng là: Tu hành đúng như lời Phật dạy, làm lợi ích chúng sanh, chịu khổ thay cho chúng sanh, siêng năng tu tập căn lành và luôn thực hành hạnh Bồ Tát. Theo Bồ Tát Phổ Hiền, chúng ta có thể dùng tràng hoa, hương thơm, thức ăn, tàng lọng,… nhiều như núi Tu Di để cúng dường, cho đến dùng mây tràng hoa hay đốt đèn tim lớn như núi Tu Di, dầu chong đèn nhiều như biển cả để làm thành những phẩm vật cúng dường lớn nhất, vượt khả năng chúng ta. Đem công đức cúng dường này so với một niệm cúng dường pháp, thì trăm phần công đức kia chẳng bằng một phần công đức này, cho đến trăm ngàn lần ức, trăm ngàn lần triệu, trăm ngàn lần một phần trăm, trăm ngàn lần một phần… cũng đều chẳng bằng một phần công đức cúng dường pháp. Do cớ sao? Bởi vì các đức Như Lai đều tôn trọng pháp, khuyến khích chúng sanh tu hành đúng chánh pháp để có thể thành tựu quả vị Phật. Nếu Bồ Tát cúng dường theo cách thực hành pháp, thì có thể thành tựu cúng dường Như Lai. Tu hành như thế mới thật là cúng dường chân chánh. Với tâm nguyện tu cúng dường quảng đại, tối thắng của bồ tát Phổ Hiền thì bao giờ cõi hư không hết, cõi chúng sanh hết, nghiệp chúng sanh hết, phiền não chúng sanh hết, thì cái nguyện tu cúng dường, mỗi niệm nối nhau không hề gián đoạn, ba nghiệp thân, khẩu, ý mới không chán mỏi. Bồ tát Phổ Hiền cho chúng ta biết rằng ngoài cúng dường pháp, thì các hình thức cúng dường khác của chúng ta chẳng thấm vào đâu, nhiều khi làm những việc vô nghĩa mà chúng ta không biết. Trên thực tế, lịch sử chỉ có tổ Đạt Ma mới dám nói thẳng với vua Lương Võ Đế về việc làm vô ích của ông, khi ông hãnh diện với 72 ngôi chùa ông xây và 3000 tăng ông độ.
Ngài Phổ Hiền dạy, y theo pháp tu hành mới thực sự là pháp cúng dường có giá trị, còn cúng dường phẩm vật có hay không thì không thành vấn đề. Đức Phật tự thọ dụng thân, chỉ vì lòng từ bi của Ngài đối với những đệ tử nên còn phải sống với tha thọ dụng thân tức tiếp nhận phẩm vật. Hành giả có đúng như pháp tu hành mới giữ gìn được tục mạng mà lo cho Phật pháp. Đức Phật Thích Ca hiện hữu trên cuộc đời này như một biểu tượng cao quí mang lợi ích cho con người. Chúng ta hôm nay vẫn còn nhận được lợi lạc từ Ngài, Hãy nhìn tấm gương đức Phật xem Ngài làm gì, Ngài dạy chúng ta như thế nào, để thực hiện đúng như lời dạy ấy, đúng như pháp tu hành. Chúng ta thể hiện tinh hoa Phật dạy trong cuộc sống, thăng hoa tri thức cho mình và người, làm lợi ích cho đời. Thành quả tốt đẹp ấy tác động đến người phát tâm đi theo Phật đạo, đó là cách cúng dường Pháp có giá trị vô giá mà phẩm vật cúng dường không bao giờ có thể sánh bằng. Chứng được sơ quả thì phẩm vật cúng dường là sơ quả, chứng được A La Hán thì cúng dường quả A La Hán. Đó là tầm quan trọng của như pháp cúng dường Phổ Hiền đã dạy. Trong lúc tụng niệm, mỗi ngày chúng ta đem lòng thành kính trong sạch của mình đối với chư Phật qua bài nguyện hương:
Giới hương, định hương, dữ huệ hương,
Giải thoát, giải thoát tri kiến hương,
Quang minh vân đài biến pháp giới,
Cúng dường thập phương Tam bảo tiền.
Giải thoát, giải thoát tri kiến hương,
Quang minh vân đài biến pháp giới,
Cúng dường thập phương Tam bảo tiền.
Hành giả đúng như pháp tu hành, làm những việc tốt lợi ích chúng sanh như mô hình Phật đã xây dựng, tạo thành giới đức để cúng dường Phật. Ngoài giới hương, hành giả dâng cúng Phật định hương, đó là hành giả cống hiến cho con người hôm nay và còn giá trị mãi về sau. Đức Phật là điển hình cho mẫu người đạo đức đáng kính trọng. Ngài còn hàm chứa tuệ giác siêu tuyệt có giá trị vĩnh cửu truyền từ đời này sang đời khác mà kinh Đại thừa gọi một cách tôn kính là hư không thân hay pháp giới thân. Từ giới hương tiến đến đỉnh cao nhất là huệ hương. Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Làm lợi ích chúng sanh là cúng dường Phật”. Nói chung, hành giả đem cúng dường Phật nghĩa là thay Phật cứu khổ chúng sanh mặc dù vẫn tồn tại vô ngại trong tam giới. Ví như hoa sen tỏa hương cho đời, không bị đời làm ô nhiễm gọi là cúng dường giải thoát hương.
Hàng Thanh Văn ly trần được giải thoát và mang giải thoát để cúng dường Phật. Phật không chấp nhận cách cúng dường như vậy. Theo kinh Hoa Nghiêm, làm lợi ích chúng sanh để cúng dường, chịu khổ thay chúng sanh để cúng dường mà hành giả vẫn an trụ giải thoát. Cuối cùng giải thoát tri kiến hương là hành giả phải biết rõ điều phát xuất của mình trước khi sanh lên cuộc đời này, và biết rõ nơi mình sẽ đến sau khi bỏ xác thân này, để không còn chút thắc mắc, được hoàn toàn tự tại trong công việc đến và đi. Như vậy, chúng ta cúng dường “Ngũ phần hương”, hay là lợi ích chúng sanh theo Phật dạy. Trước nhất là khép mình trong nội quy giới luật, giữ thân trang nghiêm, tâm định tĩnh, trí huệ sáng suốt, thoát khỏi lưới ngũ dục, chẳng những lợi lạc đời này mà nhiều thế hệ kế tiếp còn nương nhờ. Thành quả ấy kết thành giới hương , định hương, chúng ta dâng cúng Phật. Cúng dường huệ hương, chúng ta luôn sống với tuệ giác Như Lai, sử dụng tri kiến như thật ấy soi sáng cho con người ra khỏi sông mê, bể khổ. Cúng dường giải thoát hương, hàng đệ tử theo gót chân Phật vào đời độ sanh, nhưng tâm hồn vẫn luôn trong trắng, không bị trần lao làm vẩn đục. Cúng dường giải thoát tri kiến hương, tức ra vào sanh tử hoàn toàn tự tại theo chí nguyện độ sanh.
Ngài Phổ Hiền luôn nhắc nhở chúng ta chỉ có pháp cúng dường là tối thượng, tức bản thân chúng ta tu hành đúng như pháp để chứng minh lời Phật dạy không hư vọng. Theo Phật tu đúng pháp, phiền não nhiễm ô sẽ tự mất, tâm hoan hỷ sanh, cuộc sống an lành, trí tuệ sáng suốt, bạn bè thương mến. Thể hiện pháp cúng dường tối thượng, chúng ta cần luyện tư cách giống Phật, nếu chỉ cúng dường phẩm vật thật nhiều, nhưng tâm vẫn tràn đầy hơn thua, tranh chấp, sân hận thì chúng ta đã phạm tội phá pháp.
Trong tất cả các kiểu cúng dường bằng tâm chân thành cung kính, bố thí tức là cúng dường bố thí. Bố thí và cúng dường là một sự việc. Trong tất cả sự cúng dường, pháp cúng dường là tối thắng, có thể thấy được tài cúng dường, không bằng pháp cúng dường. Vậyngày nay, chúng ta tu hành, nên thực hiện tài cúng dường và pháp cúng dường đồng thời đầy đủ cả. Ví dụ: Chúng ta in kinh sách bố thí, in kinh phải cần tiền, đó là tài cúng dường, còn kinh điển bên trong là pháp gọi là pháp cúng dường. Tài và pháp đều viên mãn cả, cho đến việc chúng ta sang băng, đĩa để bố thí cúng dường cũng là tài, pháp thực hiện cúng dường đầy đủ. Ngài Phổ Hiền bồ tát vì chúng ta nói ra bảy thứ pháp cúng dường.
Thứ nhất: là Như thuyết tu hành cúng dường (Cúng dường bằng cách tu theo lời Phật dạy). Chữ “thuyết” là Phật thuyết, Phật trong kinh nói như thế nào thì chúng ta làm thế đó. Đây gọi là như thuyết tu hành. Mục đích tu hành của chúng ta là giác ngộ giải thoát, niệm Phật cầu vãng sanh. Cho nên chúng ta phải như thuyết tu hành, tức y giáo phụng hành, y giáo phụng hành là chúng ta cúng dường vậy.
Thứ hai: là Lợi ích chúng sanh cúng dường (Cúng dường bằng cách làm lợi ích cho chúng sanh). Bồ Tát niệm niệm độ chúng sanh, niệm niệm không quên chúng sanh, niệm niệm đều phải giúp đỡ chúng sanh, khiến cho chúng sanh có được lợi ích tốt nhất. Biết rằng dù được sự hưởng thụ nhiều về vật chất, tinh thần, nhưng sau khi chết rồi người không tu chính đều phải vào lục đạo luân hồi. Dù chúng ta có cho họ lợi ích lớn hơn nữa, họ cũng chẳng qua hưởng thụ vài mươi năm mà thôi. Vài mươi năm sau, trường kiếp luân chuyển, cho nên chúng ta cần phải giúp cho họ thoát ly khổ ải, vượt thoát luân hồi, tu hành thành Phật, thành Tổ. Đó là lợi ích thù thắng nên chúng ta phải luôn giữ cái tâm này giúp đỡ chúng sanh.
Thứ ba: Nhiếp thọ chúng sanh cúng dường (Cúng dường bằng cách dẫn dắt chúng sanh tu Phật). Chúng ta phải có trí tuệ, phải có phương pháp dẫn dụ tất cả chúng sanh tin theo Phật pháp. Đây gọi là nhiếp thọ chúng sanh. Chữ “nhiếp thọ” dùng cách đơn giản mà nói là giới thiệu họ đến học Phật, để họ tin hiểu Phật pháp, đồng thời biết phương pháp tu học.
Thứ tư: là Đại chúng sanh khổ cúng dường (Cúng dường bằng cách chịu khổ thay chúng sanh). Theo qui luật nhân quả người tự làm tự chịu, cái khổ của chúng ta, chư Phật, Bồ Tát không thể chịu thay cho chúng ta, thì làm sao chúng ta chịu thay cho họ được. Tuy không được, nhưng cái tâm nguyện chịu thay chúng sanh thọ khổ không thể không có. Đây gọi là đại Từ Bi tâm. Về mặt sự, thì chịu thay chẳng được, nhân nào quả nấy, cho nên thiện nhân thì thiện quả, ác nhân thì ác báo, không ai chịu thay cho ai được cả. Nhưng về mặt lý, vẫn có cách có thể thay chúng sanh thọ khổ, đó là việc làm bố thí. Ví dụ: có những người hằng ngày không đủ cơm ăn, áo mặc, chúng ta dùng một ít tiền lương hàng tháng của chúng ta cho họ để cuộc sống của họ đỡ khổ… Như vậy là chúng ta đã thay chúng sanh thọ khổ.
Thứ năm: là Cần tu thiện căn cúng dường (Cúng dường bằng cách siêng tu thiện căn). Gọi là căn, giống như cây, có rễ mới có thể nẩy chồi, ra hoa, kết quả. Tất cả những thiện pháp cũng có căn, chỉ có tất cả thiện pháp từ rễ ấy sanh ra, đây gọi là thiện căn và thiện pháp. Thiện căn gồm có ba, là vô tham, vô sân và vô si. Ngược lại, tất cả ác pháp từ tham, sân, si mà sinh ra. Phật dạy chúng ta phải siêng tu tam thiện căn, đây là cúng dường. Còn thiện căn của Bồ Tát, của xuất thế gian là tinh tấn không giải đãi. Chúng ta tinh tấn niệm Phật thì nhất định được vãng sanh, thành Phật. Đây là sự cúng dường chơn chánh.
Thứ sáu: Bất xả Bồ tát nghiệp cúng dường (Cúng dường bằng cách không bỏ hạnh bồ tát). Chữ “nghiệp” này là sự nghiệp. Sự nghiệp của Bồ Tát là rộng độ chúng sanh, tuyên truyền Phật pháp. Bồ Tát lấy hoằng pháp lợi sanh làm sự nghiệp, lấy hoằng pháp lợi sanh làm trách nhiệm và chí nguyện, đây là Bất xả Bồ Tát nghiệp.
Thứ bảy: là Bất ly Bồ tát tâm cúng dường (Cúng dường bằng cách không rời xa tâm giác ngộ của bậc Bồ tát). “Bồ đề tâm” tức là tâm giác ngộ, không mê. Chúng ta giúp đỡ tất cả chúng sanh, không bị chúng sanh làm mê hoặc, chúng ta tu tất cả pháp bố thí, chẳng bị pháp làm mê hoặc, tu tất cả tài bố thí, thì không bị tài làm mê hoặc. Trường hợp chúng ta không có Bồ đề tâm mà lại làm tất cả thiện hành thì trong kinh Hoa Nghiêm Phật nói, đó là ma sự, không phải Bồ Tát hạnh, và là sự hành trì của ma. Cho nên, Bất ly Bồ đề tâm vô cùng quan trọng, Bồ đề tâm tức là giác chánh tịnh.
Vậy quảng tu cúng dường (rộng tu cúng dường), theo Bồ Tát Phổ Hiền, là chúng ta không ngừng nỗ lực, rèn luyện đạo đức, tri thức, từng bước chân thâm nhập Phổ Hiền hạnh, càng cúng dường, tâm càng hoan hỷ, phiền não nhiễm ô tự tiêu, trí càng sáng. Đó là thành quả lớn nhất mà chư Phật và bồ tát Phổ Hiền mong đợi ở chúng ta.
IV.4. Hạnh nguyện thứ tư: Sám hối nghiệp chướng.
Từ vô lượng kiếp về quá khứ, chúng sanh do lòng tham lam sân hận, si mê, khiến cho thân, khẩu, ý tạo vô lượng vô biên nghiệp xấu ác, bất thiện, không thể nào tính lường cho được. Nếu các nghiệp ác này có hình tướng thì cả vũ trụ này cũng chứa không hết. Chúng ta cố bình tâm mà suy nghĩ và tự hỏi lại xem ta có từng trộm cướp, sát sanh, tà dâm không? Khẩu nghiệp đã từng nói dối, nói thêu dệt, nói lời hung ác và nói lưỡi hai chiều không? Tâm ý ta có tham lam, sân giận, si mê không? Nếu có thì ta nên sám hối để cho thân tâm được thanh tịnh.Sám hối nghiệp chướng là việc thiện lành,có lợi cho huệ mạng chúng ta.
Trước tiên cần tìm hiểu. Phật dạy thế nào là sám hối nghiệp chướng. “Sám hối” là nói tắt từ chữ Phạn là ksammayati và chữ Hán là “hối quá”, có nghĩa là ăn năn, thấy rõ lỗi cũ, ngăn ngừa lỗi sau. Sám hối hàm nghĩa ăn năn, hối hận, vì những lỗi lầm trong quá khứ, bất luận là lâu mau và bây giờ cho đến về sau, mình nguyện không tái phạm. Biết được lỗi cũ là không đúng, ngày nay mình xin chuộc lỗi rồi, mà sau này vẫn còn tái phạm thì không phải là sám hối. Đức Phật dạy: “Người có nhiều lỗi, mà chẳng tự hối, mau dứt lòng ác, để tội dồn đến thân, như nước về biển, lần thành sâu rộng. Nếu người có lỗi, tự biết tội lỗi, cải ác tu thiện, tội tự tiêu dứt, như bệnh xuất hạng, lần bớt mạnh vậy.”(kinh Tứ Thập Nhị Chương).
Nghiệp là những hành động của thân, khẩu, ý. Thân nghiệp gồm có ba: giết hại, trộm cắp, dâm dục. Ý nghiệp gồm có bốn: nói láo, nói thêm, nói hai lưỡi, nói thô ác. Ba nghiệp của ý là tham, sân, si. Còn chướng gồm nghiệp chướng, báo chướng và phiền não chướng. Chúng ta cần biết rằng nghiệp chướng vẫn vô hình vô tướng, tội và phước cũng đều vô chủ, nghĩa là chẳng có bất kỳ ai làm chủ tể để xả tội hay ban phước cho ta được. Mà chính ta phải tự làm chủ lấy, để tự mình gây tội hay tạo phước đó thôi. Hễ ta làm tội thì có tội, làm phước thì có phước, mà ta có làm thì nó có, ta không làm thì nó không có. Có – không tự nơi ta, thân ta không làm ác, khẩu ta không nói ác, ý ta không tưởng ác, tất nhiên cũng không có ta làm chủ tội ác nữa. Đức Phật dạy: chúng ta thực hiện sự cứu rỗi của chúng ta bằng chính sự cố gắng của ta. Ngoài chúng ta ra, không ai có thể làm công việc ấy cho ta được, ngay cả đức Phật. Rõ ràng là Ngài chỉ có thể chỉ ra con đường phải đi và phải làm chứ Ngài không đi thay hoặc làm thay ta được. Đức Phật đã dạy: Nếu phạm phải một nghiệp xấu, chúng ta không nên hoảng sợ hay chán nản, mà phải cố gắng điều chỉnh lại cho đúng và phải rèn luyện thêm nhiều nghiệp tốt. Ví như lỡ tay bỏ muối hơi nhiều vào canh thì phải thêm nước vào cho muối loãng đi, chứ không ai bỏ thêm muối vào cho canh mặn thêm, hoặc đem đổ nồi canh đi bao giờ! Điều quan trọng để tránh phạm các nghiệp xấu là ta phải giảm thiểu những tư tưởng tội lỗi ích kỷ, ganh tị, hiềm khích, oán ghét, nóng giận, ghen ghét, thù hận và ác ý. Đức Phật không dạy là phải cầu nguyện và sùng bái Ngài để được Ngài tha thứ cho các tội lỗi của chúng ta, mà tất cả tùy thuộc hoàn toàn nơi chúng ta. Không một đấng thiêng liêng nào hay chúng sanh nào có thể làm ô nhiễm hay thanh tịnh tư tưởng của chúng ta cả. Phật cũng không làm được những điều ấy. Tuy nhiên, Ngài có thể chỉ giúp cho chúng ta có được sự thanh tịnh, bằng cách phải siêng năng sám hối. Sám hối nghiệp chướng bằng cách tự mình kiểm điểm hay nhờ người khác chỉ dạy để chúng ta thấy những sai trái, lỗi lầm của mình mà thật lòng ăn năn sám hối, nguyện suốt đời không bao giờ tái phạm. Có ăn năn sửa đổi lỗi lầm, thì tội cũ mới hóa giải và không có cơ hội để tội mới phát sanh. Bồ tát Phổ Hiền dạy sám hối tội lỗi không những trong đời này mà còn sám hối tội lỗi từ vô lượng kiếp về trước.
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thỉ tham, sân, si
Tùng thân, ngữ, ý chi sở sanh
Nhất thiết ngã kim giai sám hối.
Nghĩa là: Từ xưa con đã tạo nghiệp xấu
Vì tham, sân, si từ vô thỉ
Do thân, miệng, ý mà phát sinh
Nay con đều sám hối tất cả.
(Thiền Môn Nhật Tụng, trang 43- Thích Nhất Hạnh)
Giai do vô thỉ tham, sân, si
Tùng thân, ngữ, ý chi sở sanh
Nhất thiết ngã kim giai sám hối.
Nghĩa là: Từ xưa con đã tạo nghiệp xấu
Vì tham, sân, si từ vô thỉ
Do thân, miệng, ý mà phát sinh
Nay con đều sám hối tất cả.
(Thiền Môn Nhật Tụng, trang 43- Thích Nhất Hạnh)
Từ xưa đến nay, chúng ta tạo tác không biết bao nhiêu là nghiệp xấu ác, nghiệp bất thiện, đều do tâm tham, sân, si có từ vô thỉ phát sanh ra hành động, lời nói hay ý nghĩ làm lợi mình hại người, gây đau khổ cho người khác. Tất cả những tội lỗi hiện đủ trong con người từ dáng đi, lời nói, ánh mắt, cử chỉ… Từ không hình tướng, tội lỗi tạo ra hình tướng và từ hình tướng tạo thêm phần không hình tướng. Hai phần này tác động hỗ tương qua lại. Đức Phật có 32 tướng tốt, 84 ngàn tế hạnh, trong khi chúng sanh tràn đầy 84 ngàn phiền não trần lao. Khi bắt đầu vào hành trình tu theo Phật, chúng ta mới phát hiện nghiệp chướng của mình. Nếu còn sống theo phiền não nhiễm ô thế gian, chúng ta sẽ không bao giờ thấy ra nghiệp chướng, chỉ trừ khi ta ngược dòng sanh tử nó mới hiện ra. Do đó, chúng ta sẽ quán sát kỹ nghiệp chướng và sám hối tận gốc tận nguồn.
Sám hối nghiệp chướng, từ vô lượng kiếp đến ngày nay chúng ta đã tạo ra một cách hoặc vô tình hay cố ý. Xét riêng về phần vô tình thì chúng ta tạo tội cũng đã nhiều, vì có nghiệp rồi, nghiệp tự động sanh thêm, dù ta không muốn. Người thật dạ tu hành cần phát hiện nghiệp chướng bên trong bằng cách nhìn thái độ cư xử của người, đó là tấm gương tốt nhất phản chiếu nghiệp ác của chính mình. Ví dụ chúng ta có bộ mặt hay nhăn nhó, khó chịu, người khác nhìn sẽ không có thiện cảm, dù chúng ta có muốn kết thân với họ cũng không được. Phải biết đó là ác nghiệp mà, càng tiếp xúc thì nghiệp ta càng tăng. Ngài Huệ Tư dạy rằng: “Khi người không ưa ta chính là không ưa ác nghiệp của ta. Nhưng khi tạo được phước rồi, được người thương, tức họ thương cái phước của ta, ý thức như vậy chúng ta cố gắng tu tạo phước để xóa lần nghiệp chướng trần lao’’.
Người tu hành chân chính luôn tỉnh thức trong mọi hành động, thấy rõ tham, sân, si đều do vọng tưởng điên đảo chồng chất từ bao kiếp. Nay muốn thành tựu công đức, trước phải làm sạch nghiệp chướng gây tạo từ quá khứ, không tái phạm ở hiện tại và tương lai, chỉ nên sống với tâm thanh tịnh và giải thoát. Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật có dạy “nhất thiết duy tâm tạo”. Mọi sự mọi vật trong khắp mười phương pháp giới đều do tâm ta tạo ra tất cả, công đức cũng do tâm tạo và nghiệp chướng cũng bởi tại tâm. Đó chính là vọng tâm lăng xăng, lộn xộn, sinh diệt thay đổi luôn luôn, thường do tham, sân, si chi phối, thúc đẩy, điều khiển. Cho nên chúng ta thường gây nghiệp ác nhiều hơn là nghiệp thiện. Vì vậy, chúng ta phải nương theo pháp sám hối của bồ tát Phổ Hiền dạy cho Thiện tài đồng tử như sau:
Tội tánh bổn không do tâm tạo,
Tâm nhược diệt thời tội diệt vong,
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không,
Thị tắc danh vi chơn sám hối.
Tâm nhược diệt thời tội diệt vong,
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không,
Thị tắc danh vi chơn sám hối.
Nghĩa là:
Tánh tội vốn không do tâm tạo,
Tâm nếu diệt rồi tội sạch trong,
Tội trong tâm diệt thảy đều không,
Thế mới thật là chân sám hối.
(Thiền Tông Việt Nam, trang 298- Hòa Thượng Thích Thanh Từ)
Tâm nếu diệt rồi tội sạch trong,
Tội trong tâm diệt thảy đều không,
Thế mới thật là chân sám hối.
(Thiền Tông Việt Nam, trang 298- Hòa Thượng Thích Thanh Từ)
Tất cả mọi tội lỗi hay mọi việc xảy ra trên cuộc đời này đều do tâm vọng tưởng điên đảo mà ra. Chúng ta giữ tâm hồn yên tĩnh, dù có sóng gió ba đào, thì mọi việc cũng êm, tội hết. Như thế, tâm chấp trước cũng không còn, mới thật là sám hối. Sám hối ở dạng này, hành giả trở về trạng thái thanh tịnh, không sanh khởi niệm gì dù thiện hay ác, biết rõ nó thuộc về sanh diệt theo dòng thời gian, nó không phải là tâm chơn thật của ta, nên trả lại cho trần gian. Phước cũng bỏ, tội cũng không dính, tâm chơn thật của chúng ta từ xưa nay vốn thanh tịnh, bản nhiên không vọng động, thì làm gì có tội lỗi dấy sanh, tội sanh chỉ là tâm hư vọng nên thoạt có, thoạt không, khi còn, khi mất… Thực hiện pháp sám hối này, hành giả mới có thể quán sát tự tâm và các pháp vốn không sanh, không diệt, thật tướng xưa nay vốn như như, nhận được thật tướng này rồi thì các tội lỗi, nghiệp chướng,… đều mất hiệu lực. Thật ra, quá trình tu tập không đơn giản tí nào, cho nên, chúng ta phải luôn sám hối và ứng dụng hai pháp sám hối để mang đến kết quả lợi lạc, đó là Hồng danh sám hối. Chúng ta lạy danh hiệu các vị Phật, Bồ Tát, thường xuyên nghĩ đến các Ngài, cách sám hối này giúp chúng ta tiêu tội một cách nhanh chóng. Thân cận với Phật, Bồ Tát, những vị hoàn toàn đức độ, thánh thiện, chúng ta dễ dàng sanh tâm hoan hỷ, giải thoát. Và pháp sám hối nữa là sau một thời gian lạy Phật, chỉ nhớ nghĩ đến Phật, hình ảnh trần lao nghiệp chướng của chúng sanh hoàn toàn xóa mất trong lòng ta, tâm trở thành trống không. Lúc ấy, ta tập quán pháp không, sống với pháp không để tâm thanh tịnh, giải thoát.
Một điều nữa chúng ta cần lưu ý là luôn luôn quán xét, xem mình có biết sám hối chưa, chớ đừng quan trọng đến quá khứ của người khác tốt hay xấu, “đèn nhà ai nấy sáng”, chuyện ai nấy lo vậy. Con người thường mang tâm trạng khinh khi ghét bỏ, nguyền rủa những kẻ bất thiện, mong muốn kẻ ấy phải bị hình phạt nặng nề. Cho nên tâm trạng họ bất an, rất có thể trở nên kẻ xấu ác hồi nào không hay. Chúng ta nên biết rằng nền tảng của hạnh phúc chính là sự bình yên của tâm hồn. An lạc và hạnh phúc là điều mong ước của tất cả mọi người trên thế gian này. Muốn được như vậy, trong đời sống hằng ngày, chúng ta hãy luôn luôn tha thứ cho người khác, dù là kẻ thù cũng vậy. Nhưng đừng bao giờ tha thứ cho bản thân mình. Chúng ta phải thấy được lợi ích của sự sám hối và như pháp mà sám hối, nương theo bồ tát Phổ Hiền sám hối thì nghiệp tiêu, phước sanh. Muốn gần gũi thánh hiền, chúng ta tập ngôn ngữ, hành động của thánh hiền. Được như vậy, dù chúng ta không đến, các Ngài vẫn đến với chúng ta, ý này được hiểu là những tâm hồn lớn thường gặp nhau.
IV.5. Hạnh nguyện thứ năm: Tùy hỷ công đức.
Tùy hỷ là vui theo cái vui của người khác mà không bị bất cứ một vọng niệm nào dẫn dắt. Ngược lại, trong cái vui của người khác mà mình cũng muốn dự phần vào, thì không phải tùy hỷ. Ví như có một người bạn có con thi đỗ tiến sĩ, họ báo tin vui cho mình, mình cũng vui, nhưng liền sau đó vọng niệm ganh tị sanh khởi, nó dẫn dắt ta đi đến chỗ không còn tùy hỷ nữa. Khi ta không tùy hỷ được thì thấy ai vui, mình sẽ không vui, thấy ai hơn, mình sẽ không vừa ý. Nếu mình có bảo họ mình vui thì cũng chỉ là qua loa bề ngoài, chứ thật sự mình không có được trọn vẹn niềm vui của họ. Nhiều lúc ta thấy ai giỏi hơn ta, giàu hơn ta, ta đâm ra sân hận, đố kỵ, thay vì mừng cho họ. Tùy hỷ không có nghĩa là ta vui theo cái vui của thế tục. Người thế tục thường lấy truyền hình, rạp hát, âm nhạc… để làm vui. Những cách giải trí này không có gì sai trái, nhưng những niềm vui ngoại cảnh nhiều khi dẫn dắt chúng ta vui theo dục vọng, thói quen phóng túng của phàm phu, cũng có khi vui theo ác nghiệp mà tạo thêm nghiệp chướng. Phải biết rằng, niềm vui của thế gian không bền chắc mà chỉ là tạm bợ. Tuy rằng, niềm vui của đạo, âm thầm không rộn ràng, đình đám như cái vui của thế tục, nhưng nó bất biến không thay đổi, không thăng trầm. Ví như nắng ấm là nắng ấm, gió mát là gió mát, biển khơi là biển khơi, trời cao là trời cao,… cái gì đáng nhìn là nhìn, nhìn nhưng không chạy theo, đó là vui trong đạo. Có lẽ chúng ta nên đặt lại niềm vui trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Nhà cửa, xe cộ, ti vi, tủ lạnh… tiện nghi đó làm cho ta vui chưa? Có lúc, chúng tạm mang đến niềm vui cho ta, nhưng phần nhiều thì chúng ta khổ với nó nhiều hơn, vì nào là nợ nần vây bủa, có một lại muốn có hai… Chúng ta không biết đủ, không biết lượng sức thì chúng ta chẳng bao giờ có được niềm vui thật sự.
Tùy hỷ là, chúng ta mở rộng tâm hồn ra cho sự yêu thương hòa nhập vào lòng và tràn ngập vào đời sống nhân loại, tâm hạnh lành, trên kính người trưởng thượng, dưới thương kẻ thấp hơn mình, gặp ai có hoàn cảnh khó khăn thì hết lòng giúp đỡ. Tuy nhiên trong thực tế, đối với những bậc bề trên như Phật và Bồ Tát, chúng ta tùy hỷ rất dễ, còn đối với loài súc sanh ta lại ít có tình thương. Đối với chúng, có những điều lành nhỏ nào, ta cũng nên sanh tâm tùy hỷ. Khi khởi tu, hành giả tập nhìn công đức, chứ không nhìn mặt xấu ác của chúng sanh. Hành giả nên thấy rằng chúng sanh tu theo căn cơ trình độ và hoàn cảnh của riêng họ, ta không thể bắt họ làm theo ta, hoặc tệ hơn, ta làm không được mà bắt người làm. Dưới mắt của hành giả bây giờ có một chúng sanh đang hành trì, đang tiến về Vô thượng giác, hành giả sanh tâm tùy hỷ. Từ tâm tùy hỷ, hành giả cảm thấy nhẹ nhàng, tác động cho tha nhân sanh lòng tùy hỷ, nhờ vậy tạo thêm công đức tùy hỷ. Đức Phật đã dạy: “Hãy vui với cái vui của người cho dù cái vui đó lớn hay nhỏ, hãy tùy hỷ trọn vẹn, đừng móng tâm buồn phiền, ganh tị mà tổn đức”. Khi biến được cái vui của người thành cái vui của ta thì cuộc sống ta thêm vui, bớt phiền. Cứ như thế ta dần dần chỉ có vui mà không có não phiền, ấy là ta đang đi đến rốt ráo, giải thoát vậy.
Muốn cầu đạo giải thoát, chúng ta siêng tu cội phước căn lành, trải qua vô số kiếp, làm tất cả những hạnh khó làm, thấy người khác tu tâm dưỡng tánh, làm bao nhiêu công đức, chúng ta đều phát tâm tùy hỷ. Người tu tập các nghiệp thiện lành như bố thí, cúng dường, giúp đỡ người gặp khó khăn, nghèo đói, hoạn nạn, góp phần ấn tống kinh sách, đúc chuông, tạo tượng, xây chùa, trường học, bệnh viện, tu tâm dưỡng tánh, tụng kinh niệm Phật, thiền quán, trì chú, giảng kinh, thuyết pháp,… được bao nhiêu công đức thì người tu hạnh tùy hỷ cũng được bấy nhiêu công đức. Vì sao vậy? Bởi người tu hạnh tùy hỷ công đức là người đã và đang dẹp được rất nhiều các vọng tâm ganh tị, đố kỵ, nghi ngờ, tham lam, bỏn xẻn, ích kỷ,… mới có thể thấy được người khác làm các việc thiện, việc lành mà vui theo. Như vậy, người tu tập các công đức lành và người tu hạnh tùy hỷ công đức được kết quả như nhau không khác. Cũng ví như người có cây đuốc cháy sáng, công đức của anh ta không bị giảm bớt chút ánh sáng nào cả. Cho nên, chúng ta chẳng những không đố kỵ với người khác, mà cần phải sanh tâm vui vẻ. Khi thấy biết cái đẹp, cái hay, cái tốt của người khác, ta hết lòng giúp đỡ họ hoàn thành việc làm tốt đẹp. Nhà Nho có câu: “Thành nhân chi mỹ, thành nhân chi thiện”. Nếu chúng ta không đủ khả năng giúp đỡ người khác, thì chúng ta có lòng vui vẻ, ca ngợi việc làm, phẩm hạnh tốt đẹp của họ. Như thế đó, cũng gọi là tùy hỷ công đức. Trường hợp chúng ta có khả năng nhưng không chịu giúp đỡ, mặc dù không có tâm đố kỵ cũng không gọi là tùy hỷ, huống chi là chúng ta khởi tâm đố kỵ, ganh tỵ. Tâm đố kỵ là kẻ thù trực tiếp của tâm tùy hỷ, nó có sức phá hoại vô cùng nguy hiểm. Có nhiều người tỏ vẻ bực tức khi thấy hoặc nghe nói người khác thành tựu mỹ mãn một công trình, tỏ ra vui mừng khi biết người thất bại, không thể chịu đựng sự thành công của kẻ khác, nên ra sức phá hoại hoặc bóp méo sự thật để chê bai, thay vì vui lên để tán dương thắng lợi của người. Tâm tùy hỷ không chấp chứa lòng ganh tỵ, về một phương diện khác, người có tâm tùy hỷ không bao giờ làm trở ngại tiến bộ và phá rối sự an lạc của người.
Công đức tùy hỷ thù thắng, nhất định là tâm rộng rãi, bao dung, quảng đại, chấp nhận người khác vượt hơn mình, và luôn tự nhắc nhở rằng giúp người khác thành tựu tức là thành tựu cho mình.
Nền giáo dục thời xưa của Trung Hoa dạy con người luôn hy vọng thế hệ sau có thể thành tựu siêu việt hơn mình. Nếu thế hệ sau không ưu việt hơn thế hệ trước thì nền giáo dục ấy coi như là thất bại. Phần nhiều con người thời nay tâm đố kỵ chướng ngại nhiều, sợ người khác hơn mình nên khi dạy nghề thì dấu nghề, hoặc giữ lại một vài điều, không thật tâm truyền đạt hết. Như vậy, gọi là bần pháp. Bần pháp là bị quả báo ngu si, dốt nát; keo kiệt sẽ bị nghèo khó, những người này thật sự không biết được tính chất nghiêm trọng của quả báo như thế nào. Chúng ta phải nỗ lực không ngừng tu tập đức hạnh, học tập trên mọi phương diện và sinh hoạt theo pháp. Chỉ bằng cách này chúng ta mới thoát khỏi phiền não, sống an lạc, có thể tích cực đóng góp cho sự lợi lạc của xã hội.
Bình thường con người ta không bao giờ có thể biểu lộ sự hoan hỷ vui mừng trước cái vui của người thù địch, lòng ganh tị lại càng thúc đẩy con người làm những điều vô cùng độc ác. Socrates – một nhà hiền triết Hy Lạp bị bắt buộc phải quyên sinh bằng thuốc độc, chúa Christ (Kitô) bị đóng đinh trên thập giá. Thánh Gandhi (Cam Địa) bị ám sát. Đức Phật bị lăn đá gây thương tích. Đó là bẩm tánh tội lỗi của thế gian, của hạng chúng sanh đang miệt mài say đắm trong ảo mộng. Nếu so sánh với tâm Từ và tâm Bi thì tâm Hỷ lại càng khó thực hiện, muốn phát triển tâm hỷ phải có ý chí mạnh mẽ và phải tận lực cố gắng.
Người phương Đông có thành thật thỏa thích với sự thịnh vượng của người phương Tây không? Người phương Tây có thành thật thỏa thích với sự thịnh vượng của người phương Đông không? Quốc gia này có vui mừng khi quốc gia khác phát triển thanh bình không?… Mặc dù mục đích của tôn giáo là trau dồi tinh thần đạo đức, thế nhưng tôn giáo này có ganh tỵ với tôn giáo khác không? Tổ chức này có lòng kỳ thị với tổ chức khác không? Gia đình này có ganh tỵ với gia đình khác không? Anh chị em trong gia đình có ganh tỵ lẫn nhau không? Thấy được điều đó, mỗi chúng ta cần phải nhổ tận gốc rễ lòng sân hận đố kỵ, ganh ty,…
Trên cõi đời này tất cả hiện tượng đều có mối tương quan mật thiết với nhau, giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên, không ai sống riêng lẽ được. Đức Phật thường khuyên dạy chúng ta tu tập diệt trừ bản ngã, dẹp bỏ cố chấp cá nhân, sống hòa mình vào tha nhân, phát triển tâm đại Bi, đem lại lợi ích cho cuộc đời. Tu tập hạnh tùy hỷ giúp chúng ta giải trừ tư tưởng ích kỷ, loại bỏ được ý niệm cái “ta” và “của ta”, có như vậy mới trực nhận được niềm an lạc, hạnh phúc trong tâm hồn giải thoát.
Trong việc hoằng pháp lợi sanh, người tu tập chánh pháp không lấy vật chất làm phương tiện truyền đạo. Vì chúng ta có đem những thứ trân bảo, đồ dùng đầy đủ cho một đời sống sung túc, cũng không sao giúp cho mọi người thoát cảnh sanh tử, chỉ có người nghe chánh pháp và sinh tâm tùy hỷ tin nhận rồi đem giảng nói cho người khác nghe để gieo trồng căn lành vào Phật pháp mà thôi. Như vậy mới thành tựu công đức lớn lao, có thể tu hạnh Phổ Hiền. Trong kinh Pháp Hoa đức Phật dạy: “Chỉ có một niệm tùy hỷ mới tiến lên bậc chánh giác” tùy hỷ với phạm vi vô giới hạn, vô điều kiện, cứu giúp chúng sanh không biết mệt mỏi, hoan hỷ bỏ qua lỗi lầm và tùy hỷ với mọi công đức của người, đó là việc làm của Bồ Tát. Mặt khác, chúng ta không tùy hỷ với người làm ác, với kẻ tiểu nhân, không tùy hỷ với người phá giới, phạm trai, lợi dụng chiếc áo làm mất uy danh đạo pháp. Chúng ta chỉ tùy hỷ với những việc làm thánh thiện, dù công đức nhỏ như vi trần để từ đó nhập vào pháp giới Phổ Hiền, trải lòng từ bao la , thương yêu khắp tất cả, mang an vui cho đời và hạnh phúc cho muôn loài. Sách có câu: “Hãy gởi cho gió đóa hoa từ trên gương mặt rạng rỡ như hoa của bạn, tôi sẽ ngửi mùi hương trên khắp các nẻo đường bạn đi qua”. Đó là những nụ cười thanh thản nhẹ nhàng luôn hiện lên trên gương mặt của những con người tu tập hạnh tùy hỷ công đức.
IV.6. Hạnh nguyện thứ sáu: Thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Giáo pháp mà Như Lai đã chứng ngộ quả thật rất thậm thâm vi diệu. Biết được điều đó, ma Ba Tuần liền xuất hiện đến thỉnh Phật diệt độ, và cho rằng Phật thuyết pháp cũng chẳng có lợi ích gì, chúng sanh tham đắm ngũ dục, không thích nghe giáo pháp của Ngài. Lúc ấy, vị Phạm thiên Sahampati sợ Ngài không truyền bá giáo pháp vì không được nghe pháp, thế gian phải diệt vong nên đến thỉnh Ngài thuyết pháp cho chúng sanh tu tập chuyển hóa tâm thức lợi lạc đời này và đời sau.
Hai trường hợp có ý nghĩa tiêu biểu sau:
- Điều ác không bao giờ muốn điều thiện phát sinh, và ngược lại điều thiện bao giờ cũng muốn điều thiện phát huy.
- Đức Phật vì tất cả chúng sanh mà bỏ cung vàng, điện ngọc, tất cả thú vui trên cuộc đời, đi xuất gia tìm đạo giải thoát cho nhân sinh. Đương nhiên khi hoàn toàn giác ngộ rồi, Ngài mang sự chứng đắc của Ngài truyền bá cho tất cả chúng sanh.
- Lúc đức Phật chuyển pháp luân, chư Thiên trên quả địa cầu đều hoan hô: “Pháp môn này quả thật tuyệt diệu! Không có Sa Môn, Bà La Môn, chư Thiên, Ma vương hay Phạm Thiên nào trên thế gian có thể giảng được. Đức Thế Tôn đã vận chuyển pháp luân trong vườn Lộc Giả, tại Isipatana, gần Banares (Ba-la-nại).”
Nghe vậy, chư Thiên và chư Phạm thiên trong tất cả cảnh giới khác cũng đồng thanh hoan hô.
Ánh sáng của giáo pháp làm tỏ rạng toàn thể dân gian và đem trạng thái thanh bình an lạc, hạnh phúc đến cho tất cả chúng sanh.
Ngày nay không có Phật hiện hữu thì chúng ta làm thế nào để nghe Phật thuyết pháp? Đứng trên mặt xứng tánh khởi tu, nghĩa là khởi lên từ trong tâm chúng ta một đức Phật tức là trí giác. Sau một thời gian tu tập, tâm trí hành giả bừng sáng, hiểu được giáo lý Phật và thành tựu đạo quả. Từ tâm thanh tịnh giải thoát mà hành giả đã đạt đến, Phật thường trú ngự trong tâm họ, cho nên không phải Phật ở bên ngoài. Lúc này hành giả không muốn rời trạng thái an lạc vui sướng tự tâm, mà muốn nhập diệt. Nhưng ngài Phổ Hiền cất lên lời khuyên hành giả nên thuyết pháp, hay chính là hành giả tự mình thuyết phục mình, đem hiểu biết truyền trao cho người, đem an vui hạnh phúc của mình ban cho người.
Tâm niệm ngộ đạo của hành giả trong lúc tu hành rất tuyệt diệu. Tuy nhiên khi mang an vui chia sẻ cho tha nhân, lại gặp phải chúng sanh cang cường, ám độn, không chấp nhận lại còn chống đối, hành giả lại khởi lên ý niệm nhập Niết bàn, hoặc muốn tìm ra nơi ở yên tĩnh tu hành, không liên hệ với cuộc đời nữa. Bấy giờ, một lần nữa tâm hành giả tự khuyên rằng hãy ra thuyết pháp “Chúng sanh có khổ, Bồ tát mới có dịp ban vui, chúng sanh cang cường, Bồ Tát mới có dịp thành tựu pháp nhẫn”. Bồ tát Phổ Hiền luôn luôn mong mỏi thỉnh chư Phật chuyển pháp luân. Ngài nguyện rằng: “Nguyện tu khuyến thỉnh như thế, mãi đến chừng nào cõi hư không hết, thì tôi cũng chưa hết cái nguyện thường khuyến thỉnh tất cả chư Phật chuyển pháp luân. Mỗi niệm tiếp nhau chẳng có gián đoạn, cả thân, khẩu, ý ba nghiệp thường khuyến thỉnh, không có chán mỏi”. Lời phát nguyện của bồ tát Phổ Hiền luôn khuyên chúng ta dùng tất cả các phương tiện ân cần thỉnh mời tất cả chư Phật nói pháp nhiệm mầu. Chư Phật hiện đời chính là những bậc chân tu, thực học, đạo cao, đức trọng, mọi người đều có thể cảm nhận được sự an lạc khi gần gũi. Các Ngài như những cây đại thọ che mát, cũng như nước cam lồ rưới mát, đem lại sự vui tươi an lạc. Tất cả chúng sanh đang chìm đắm trong bể khổ cuộc đời, đang trôi lăn trong các cuộc kiện thưa, tranh chấp tiền bạc, danh lợi, địa vị hơn thua, phải trái,… đủ mọi thứ khổ phiền luỵ trên cuộc đời. Chính vì thế, mà bồ tát Phổ Hiền đều khuyên bảo chúng sanh phải hòa nhập vào cuộc đời, thực hiện bản hoài chư Phật, vì mục đích cao cả của người xuất gia, không chỉ giải thoát đau khổ nhỏ bé của riêng mình mà phải giải quyết một thực tại khổ đau to lớn của nhân loại.
Thỉnh chuyển pháp luân còn có nghĩa là thỉnh Phật tánh chính mình chứng minh cho các hành động, lời nói và ý nghĩ của mình cho hợp với chánh pháp. Thỉnh chư Phật từ phương xa đến chuyển pháp luân. Nói cách khác là chuyển bánh xe pháp hay thuyết pháp, thật là muôn vàn khó khăn. Còn Phật tánh thì luôn luôn có sẵn trong lòng chúng ta, từ ý nghĩ, lời nói, đến việc làm đều hợp với chánh pháp. Lời dạy của chư Phật mười phương chính là thỉnh Phật chuyển pháp luân vậy. Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, đức Phật chỉ chấp nhận chư Bồ tát “Tùng địa dũng xuất” hộ trì chánh pháp mà thôi. Nghĩa là chỉ có những người phát tâm Bồ đề, tu hạnh Bồ Tát, từ tâm địa mạnh mẽ mới xóa bỏ tham, sân, si, xa lìa mê tín dị đoan, không còn nghĩ chuyện lợi mình, hại người. Từ tâm địa dũng mãnh phát khởi vô lượng tâm Từ Bi Hỷ Xả, phát khởi ý nghĩ quên mình, vì người, mới thật sự là những người thực hành chánh pháp, hộ trì chánh pháp, những người đang chuyển pháp luân vậy. Có câu: “Nhược năng chuyển vật, tức đồng Như Lai”. Nghĩa là người mà có khả năng thường chuyển được mọi sự việc trên cuộc đời này theo tâm lượng từ bi hỷ xả, không để tâm tham, sân, si điều khiển thì người đó đồng với Như Lai không khác. Thường thì ngay trước thời khóa tụng kinh, thuyết pháp hay giờ học giáo lý,…chúng ta thường niệm hồng danh đức Phật để cầu gia bị, việc làm đó mang ý nghĩa thỉnh Phật chuyển pháp luân trong suốt thời tụng kinh hay thuyết pháp,…Hơn thế, nó còn có ý nghĩa sâu xa để trọn vẹn phần phước đức và công đức, mọi người thỉnh Phật tánh của chính mình, chuyển bánh xe pháp trong mọi hành động, mọi lời nói hay mọi ý nghĩ, để làm gương cho kẻ khác có niềm tin vào đạo. Tổ dạy:
Tĩnh tọa thường tư kỷ quá,
Nhàn đàm bất luận nhơn phi.
Nhàn đàm bất luận nhơn phi.
Ý nói, khi ngồi lặng yên một mình, người thật tâm tu học thoát ly phiền não cuộc đời, thường suy nghĩ về những lỗi lầm, những sai trái của chính mình trong mọi cử chỉ, lời nói và việc làm. Còn trong lúc nói chuyện đàm luận với người, đừng bao giờ đề cập đến sự sai trái, khuyết điểm, lỗi lầm hay tội lỗi của người khác, trong quá khứ cũng như trong hiện tại. Do đó, chúng ta nên biết rằng những cách cư xử đẹp trên đời không phải là việc vô ích mà là kết quả của bản tính cao thượng, tinh thần chính trực, ngay thẳng. Được như vậy, cũng có nghĩa là chúng ta thỉnh Phật chuyển pháp luân rồi vậy.
Chúng ta tu là đi tìm phương thuốc giải khổ cho cuộc đời, cho tất cả chúng sanh đều được giác ngộ. Thế nên, bồ tát Phổ Hiền thỉnh chuyển pháp luân đối với những ai đạt được Diệu pháp, không chịu một mình hưởng an lạc trong chánh pháp. Bồ tát không rời bỏ trần gian, dù cảnh đời đầy ô trược, hầm hố, chông gai, lòng người cang cường ương ngạnh, khó khuyên giải. Khi hiểu rằng trong thân ngũ uẩn giả hợp, tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, điều quan trọng là chúng ta làm thế nào khơi dậy Bồ đề tâm của họ. Đó là trọng trách của người xuất gia đi đúng đường hướng chánh pháp. Người xuất gia luôn ý thức cuộc đời là như thế mà trang bị cho mình đầy đủ nghị lực, ý chí, để từ đó, đối diện, trực nhận nguyên nhân của nó, đồng thời đem chánh pháp đức Phật khuyến hóa, xây dựng cho xã hội một đời sống an lạc, hạnh phúc, đi dần đến chân – thiện – mỹ.
Đạo Phật không giới hạn mình trong một triết lý, một tôn giáo, mà đạo Phật thể hiện một lối sống tích cực, không chối bỏ cuộc đời. Chúng ta hãy lắng nghe lời dặn dò của đức Phật, dù trải suốt mấy ngàn năm qua, lời dạy của Ngài vẫn còn ngân vang trên ba ngàn đại thiên thế giới.
“Này các Tỳ-kheo, hãy ra đi, đem lại sự tốt đẹp cho loài người, vì lòng từ bi hãy đem lại sự lợi ích và hạnh phúc cho chư Thiên và nhân loại. Mỗi người hãy đi một ngã. Này các Tỳ-kheo, hãy hoằng dương chánh pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở chặng giữa, toàn hảo ở chặng cuối, toàn hảo trong cả hai ý nghĩa và văn tự, hãy công bố đời sống thiêng liêng và cao thượng vừa toàn thiện vừa trong sạch, hãy phát lên ngọn cờ của bậc thiện trí, hãy truyền dạy giáo pháp siêu việt, hãy mang lại sự tốt đẹp cho người khác, được như vậy là các con hoàn thành nhiệm vụ”.
Đức Phật của chúng ta là vị giáo chủ đầu tiên gởi các đệ tử đã chứng ngộ và đã lãnh thọ lễ xuất gia đi truyền bá giáo lý, vì lòng từ bi, vì tình thương nhân loại. Các vị đó không có một nơi ở nhất định, không tiền của, không tài sản sự nghiệp, đi khắp đó đây để truyền dạy giáo pháp. Ngày nay, chúng ta được tu học Phật pháp, hưởng được kho tàng giáo pháp, chúng ta phải thấy được điều đó mà cảm niệm báo đáp thâm ân của Ngài. Không chỉ mỗi ngày dâng hương hoa quả, cúng dường trước hình tượng của Phật, Bồ Tát là đủ. Việc cúng trước hình tượng hoặc lễ bái cúng dường, đó là việc làm dựa trên hình thức để nhắc nhở chúng ta luôn luôn tôn kính Ngài. Sự báo đáp chân chính là chúng ta làm thế nào thực hiện được nguyện vọng của Phật, nguyện vọng đó là mong muốn chúng sanh đều biết Phật pháp để tu học, sớm giác ngộ giải thoát. Để thực hiện được tâm nguyện của Ngài, ta phải lấy tâm nguyện của Phật làm tâm nguyện của mình, bằng cách thỉnh chuyển pháp luân tức là lễ thỉnh pháp sư, giảng sư đến để giảng kinh, thuyết pháp, khuyến tấn Phật tử tu học. Sự lễ thỉnh thuyết pháp này phước đức vô cùng to lớn, cho nên phước đức của việc giảng kinh rất lớn. Để cho việc truyền thừa Phật pháp được trường tồn, chúng ta phải lo việc đào tạo giảng sư. Thường thì những giảng sư mới chưa có kinh nghiệm, chúng ta không nên coi thường, ngược lại, ta nên đến để ủng hộ, khuyến khích cổ vũ động viên cho họ yên tâm luyện tập để ngày một tiến bộ hơn. Khi thấy có nhiều người đến nghe vị giảng sư mới giảng pháp, chúng ta cũng không nên tán thán ca tụng quá nhiều, vì e rằng vị ấy thấy người ca ngợi mình quá, sanh tâm tự mãn không còn trau dồi, tiến bộ hơn nữa. Cho nên, đối với giảng sư trẻ mới học, chúng ta tuyệt đối không nên tán thán, không nên cúng dường quá nhiều, vì danh lợi nhiều, con người dễ bị sa ngã, thì hậu quả là do chúng ta gây ra tất phải chịu quả báo. Trừ khi những giảng sư “bát phong suy bất động” nghĩa là được, mất, khen, chê, vinh, nhục, khổ, vui không làm họ lay động. Những người này dù chúng ta tán thán họ, cũng không sanh lòng vui mừng; chúng ta phỉ báng họ cũng không sanh phiền muộn, vì tâm của họ luôn giữ sự bình lặng an nhiên, những người như vậy thật xứng đáng cho ta tán thán mà không làm hại họ, vì vậy, chúng ta phải tuyên dương, khuyến khích cho nhiều người biết đến và tin tưởng họ, khiến cho họ độ được nhiều chúng sanh. Trong thời cận đại, ngài Ấn Quang đại sư là hình ảnh mẫu mực cho chúng ta noi theo. Đệ tử quy y Ngài nhiều đến nỗi không thể đếm được. Tất cả những tài vật do đệ tử cúng dường, Ngài đem ra ấn tống kinh sách, tượng Phật và cúng dường lại hết cho mọi người. Ngài thành lập Sở hoằng hóa ở Tô Châu để lưu truyền chánh pháp. Còn ngày nay, có nhiều người đem tài sản, ruộng vườn, nhà cửa, những vật quí giá đem cúng cho giảng sư làm cho cuộc sống của giảng sư quá sung sướng, đến nỗi Tây phương Cực lạc không muốn đi, vì ở thế gian này cũng tốt quá rồi, đến Tây phương để làm gì? Cái tâm mong thành đạo, liễu sanh thoát tử của họ, lúc ấy không còn nữa. Điều này đối với việc thành tựu cho giảng sư, đào tạo giảng sư là một tai họa lớn. Nhiều khi không khéo, những việc làm của chúng ta vô tình ảnh hưởng tới Phật pháp mà cứ tưởng mình tạo nhiều công đức, nhiều việc làm tốt. Muốn cho các giảng sư trẻ thành tựu thì phải làm cho họ chịu cực khổ một chút. Thời Phật còn tại thế, tất cả đệ tử của Ngài một ngày chỉ ăn một bữa, ngủ dưới gốc cây, cuộc sống khổ cực thiếu thốn, vậy mà họ chứng quả hết. Làm được như thế chúng ta mới có những pháp sư chân chánh để hoằng dương Phật pháp, lợi ích chúng sanh. Như vậy, chúng ta đã góp phần hoằng truyền chánh pháp để cho Phật pháp mãi mãi còn trên thế gian này, đó là cái hạnh của Bồ tát thỉnh Phật chuyển pháp luân.
IV.7. Hạnh nguyện thứ bảy: Thỉnh Phật trụ thế.
Đức Phật xuất hiện trên thế gian để truyền dạy thực tướng của vạn pháp và chỉ ra con đường để thoát ra khỏi mọi khổ đau phiền lụy của đời sống cho những ai muốn tìm chân lý. Trên đường hoằng pháp dài đăng đẳng và vô cùng rực rỡ vinh quang, Ngài đã thực hành sứ mạng cao cả ấy một cách mỹ mãn và lợi ích. Ngài dạy các Tỳ-kheo và cho biết Như Lai sắp nhập Niết bàn, chỉ còn ba tháng nữa Như Lai sẽ từ giã. Đức A Nan thỉnh cầu Phật sống thêm một kiếp nữa vì lợi ích, vì sự tốt đẹp và hạnh phúc của nhiều chúng sanh, vì lòng bi mẫn thương xót thế gian, vì lợi ích, vì sự tốt đẹp và hạnh phúc của trời và người.
Này A Nan “Hãy xem giáo pháp là hải đảo của con. Giáo pháp là chỗ nương tựa của con, không nên tìm nương tựa ở bên ngoài”. Và “Này A-nan, một thầy Tỳ-kheo phải sống cách nào để coi mình là hải đảo của chính mình, là chỗ nương tựa của mình, không tìm nương tựa bên ngoài’’.
Sau khi đức Phật nhập diệt, hàng Thanh văn vô cùng bi lụy, than khóc thảm thiết, cho rằng từ đây con mắt thế gian mất đi ánh sáng, thế gian hoàn toàn tắt hẳn và trở nên trống rỗng.
Theo kinh Pháp Hoa, phẩm thứ 16 Như Lai Thọ Lượng: Sự nhập diệt của đức Phật được so sánh như vị lương y bỏ con ra đi, sau nhắn tin về là ông đã chết, những người con nghe tin cha đã mất, không còn ỷ lại bèn lấy thuốc uống và được khỏi bệnh. Vị Lương y tỷ dụ cho đức Phật, những đứa con có bệnh không chịu uống thuốc là tỷ dụ cho hạng hạ căn, bị vô minh phiền não che mờ, tuy nghe Phật nói pháp, nhưng không nỗ lực tu tập, hành trì, vẫn cứ quay vòng trong vô minh phiền não. Mãi đến khi Phật nhập diệt rồi, Ngài để lại kinh điển, mới chịu nghiên cứu, đọc tụng, ứng dụng tu hành, chúng đệ tử lúc ấy, vô minh phiền não diệt trừ, tâm thanh tịnh, trí tuệ Phật hiện tiền.
Trí Phật là trí kim cang, thân Phật là thân kim sắc, nên Ngài không bị chi phối bởi sanh diệt, Ngài tự tại trong việc đến và đi, Ngài hoàn toàn làm chủ được thân tâm, tướng sanh diệt nơi Ngài chỉ là phương tiện mà thôi. Theo tinh thần Đại thừa thì thân Phật qua ngũ phần pháp thân: bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh. Pháp thân Phật ở khắp nơi, dù trải qua vô lượng A tăng kỳ kiếp, Ngài vẫn thường trụ trên cõi Ta Bà này nói pháp giáo hóa chúng sanh. Niết-bàn mà Phật nói là dùng phương tiện, mỗi đức Phật đều có sự thể nhập trong thiền định, bất sanh, bất diệt. Nhận thức được điều này chúng ta có thể mang những tinh hoa của Ngài thể hiện trọn vẹn trong cuộc sống, suy tư lời dạy của Ngài, áp dụng vào lời nói và việc làm của ta, tạo thành sức sống cho Phật giáo hiện hữu nhân gian. Đạo Phật phát xuất từ sự sống của con người nhằm đáp ứng những nguyện vọng thâm sâu của con người. Đức Phật là tượng trưng cho sự tinh hoa đúc kết nên những gì cao khiết nhất và lành mạnh nhất của con người. Đến với đức Phật qua hình ảnh toàn chân, thiện, mỹ, chúng ta noi theo gương sáng đó để học hỏi. Qua những lời giáo thuyết của Ngài, ta có thể nhìn lại con người của chính mình, từ đó, nỗ lực tinh tấn cho đến khi nào tâm ta với tâm Phật tương ưng. Lúc đó hình ảnh Phật luôn ngự trị trong đời sống chúng ta. Mỗi hành động, cử chỉ, ta đều thể hiện được giáo pháp nhiệm mầu của đức Phật, bản thân ta sẽ trở thành một hình tượng sinh hoạt linh động. Làm được vậy tức là nguồn đạo pháp được khai mở. Từ khi ta tiếp nhận được một sức sống mãnh liệt của tâm linh, nếp sống cao đẹp đó được xây dựng thiết thực trong cuộc đời tu tập hiện tại của chúng ta. Thành tựu được như vậy, chúng ta thỉnh Phật ở lại và Ngài đã ở lại cuộc đời bên cạnh chúng ta, không hề nhập diệt. Đây cũng là ý nghĩa thỉnh Phật trụ thế mà ngài Phổ Hiền muốn nhắc nhở chúng ta, những người con Phật, sống thế nào để xứng danh trưởng tử của Như Lai; làm sao cho hình bóng đức Phật dù trải qua vô lượng kiếp sau vẫn còn tồn tại trên thế gian này mãi mãi; sao cho những pháp âm vi diệu còn ngân vang để hướng dẫn được hàng vạn người nối tiếp nhau theo dấu chân Phật. Đó chính là ý nghĩa thỉnh Phật trụ thế của kinh Hoa Nghiêm.
Nhớ lại câu trả lời của Thế Tôn sau khi A-nan thỉnh Phật trụ thế gian thêm nữa để chúng sanh nương tựa: “Dù Như Lai có ở lại thế gian này nhiều hơn nữa cũng vậy, bởi vì tất cả những yếu chỉ, những điều căn bản của Phật pháp, Như Lai đã chỉ cho các ông hết rồi. Bây giờ, các ông cứ y vào đó mà hành trì thì cũng như Như Lai ở thế gian này không khác”.Thường thường chúng ta quy y Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) là chúng ta được giới sư truyền Tam quy. Nương tựa với đức Phật là đấng Giác Ngộ hoàn toàn, là đấng cha lành của mười pháp giới, là thầy của trời người, là cha lành của bốn loài. Pháp là lời dạy của đức Phật để lại cho chúng ta ngày nay học tập (Kinh, Luật, Luận). Tăng là những vị xuất gia từ 4 người trở lên sống lục hòa, thanh tịnh trang nghiêm. Nói cho đúng là chúng ta quy y với bản giác của chính mình. Cho nên, Lục Tổ Huệ Năng có nói: Phật là giác, Pháp là chánh, Tăng là tịnh, ta quy y như vậy mới gọi là chân chánh quy y được vậy, mới chính là Phật tại thế gian này mãi mãi. Ta quy y với đức Phật ở trên bàn thờ, quy y với kinh điển bằng giấy, quy y với phàm Tăng đó là thế gian Tam bảo. Chúng ta quy y với đồng thể Tam bảo thì Phật pháp còn tại thế gian này không mất. Cho nên, ngài Phổ Hiền dạy chúng ta: “Quy y với giác, quy y với chánh, quy y với tịnh, quy y như vậy thì Tam bảo thường trụ thế gian này không bao giờ mất”. Còn không, ta hiểu theo nghĩa đơn giản trụ trì thế gian Tam bảo là chưa đúng. Như vậy, Tam bảo có 3 nghĩa: Đồng thể Tam bảo, Xuất thế gian Tam bảo và Trụ trì thế gian Tam bảo. Thỉnh Phật trụ thế là ta mời đức Phật trụ thế gian này lâu dài để làm lợi ích chúng sanh. Vậy Tam bảo đó là bản giác của chúng ta. Có câu: “Không sợ vọng tưởng sanh chỉ sợ giác chậm”. Bởi vì vọng tưởng sanh là cái tự nhiên, nếu con người chúng ta không có vọng tưởng thì đã thành Phật, Thánh, Bồ Tát hết rồi. Cho nên, đã là chúng sanh, là con người thì vọng tưởng phải sanh, phải khởi. Cái đó ta không sợ, chỉ sợ ta giác ngộ chậm, vọng tưởng cứ sanh, dẫn ta tạo nghiệp xấu ác. Trong kinh Di Giáo đức Phật nói: “Sau khi ta diệt độ các con nên lấy giới luật làm thầy, tôn trọng giới luật. Giới luật còn thì Phật pháp còn, giới luật mất thì Phật pháp mất”. Như vậy thỉnh Phật trụ thế không có nghĩa là thỉnh đức Thích Ca Mâu Ni bằng cái thân thị hiện bên Ấn Độ, mà là giữ ngôi Tam bảo tự tánh của mỗi người chúng ta, thì ngôi Tam bảo sẽ tồn tại mãi trên cuộc đời này.
Muốn đạt được bất kỳ sự thành tựu nào, chúng ta cũng đều cần phải thỉnh Phật trụ thế. Đức Phật không thể nào thường trụ tại thế gian này mãi, nhưng những đệ tử của Ngài vẫn còn, họ là những Tăng Ni, là những cư sĩ Phật tử. Đó là những người có trí tuệ và đức hạnh, chúng ta có thể mời họ đến sống trong địa phương mình để giảng kinh thuyết pháp. Với cách này, ta được tu học thường xuyên với sự hướng dẫn của họ. Tuy nhiên, đạo tràng cần trang nghiêm để Thánh chúng ưa thích và phát tâm tôn kính. Người đời thường ưa vẻ bên ngoài hơn là chú ý đến nội dung bên trong, mặc dù có nhiều người biết rõ giá trị chân thật cốt yếu không nằm ở bên ngoài. Nhưng vẻ trang nghiêm của đạo tràng rất cần thiết cho người mới đến lần đầu tiên. Chúng ta có cách ứng xử đúng đắn và phương thức thích hợp trong việc hướng dẫn tu học cũng như chính bản thân chúng ta để làm tấm gương sáng cho mọi người. Như vậy, mới khiến cho Phật pháp bám rễ, nở hoa và kết trái bất kỳ nơi nào có mặt chúng ta.
IV.8. Hạnh nguyện thứ tám: Thường tùy Phật học.
Kinh Thập Nguyện Phổ Hiền có chép rằng: “Thường theo Phật học là chính như tại thế giới Ta Bà đây. Nguyên đức Phật Tỳ Lô Giá Na Như Lai từ ban sơ mới phát tâm xuất gia tu học cho đến thời chứng quả. Trong khoảng giữa cực kỳ dai dẳng, vì trải qua nhiều đời nhiều kiếp vẫn một lòng tinh tấn chẳng lui, đã đem những thân mạng nhiều bằng số bất khả thuyết, bất khả thuyết để làm hạnh bố thí để cầu học, như là xả thân làm tòa ngồi, khoét thân làm đèn, trải tóc cho Phật bước lên tòa, cho đến lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, chích máu làm mực để biên kinh sách chất chứa như núi cao. Chính vì trọng Pháp bảo để cầu học mà chẳng tiếc thân mạng. Thân mạng là món chí trọng hơn hết mà còn chẳng tiếc, huống chi những món bên ngoài là ngôi vua, kinh thành, cung điện,… Theo hầu học như thế, chừng nào dẫu cõi hư không hết, cõi chúng sanh hết, nghiệp chúng sanh hết, phiền não chúng sanh hết, nhưng cái nguyện theo Phật để hầu học của tôi không hết. Mỗi niệm tiếp tục không hề gián đoạn, cả 3 nghiệp thân, khẩu và ý siêng học không dám mỏi chán”(Nhị Khóa Hiệp Giải- Hòa Thượng Khánh Anh dịch).
Chúng ta đều thành tâm đem thân, khẩu, ý cùng tất cả các phương tiện ân cần nương theo chư Phật học tập, thực hành các hạnh tinh tấn, không biếng trễ, thực hành các hạnh khó làm ở trong đạo tràng cũng như ở khắp mọi nơi. Sách có câu: “Không biết thì hỏi, không giỏi thì học”, “Không thầy đố mầy làm nên”. Ở đời muốn có trí tuệ, thông minh, muốn sự hiểu biết được sâu rộng, chúng ta nhất định phải học hỏi từ sách vở, từ những bậc thiện hữu tri thức, từ những bậc tiền bối có nhiều kinh nghiệm, hay từ những người đồng trang lứa, thậm chí từ những người tuổi trẻ hơn chúng ta nữa. Người biết đặt câu hỏi, biết được chỗ dốt của mình, sẽ chỉ ngu dốt trong nhất thời, còn người không chịu học hỏi, sẽ không hiểu biết suốt đời. Khi biết được dốt ở điểm nào thì bắt đầu hết dốt ở điểm đó. Người trí là người biết mình không biết điều gì, còn người ngu là người tưởng mình biết hết tất cả mọi việc trên đời.
Vậy thì, thường tùy Phật học là thường xuyên đi theo bước chân của chư Phật, luôn luôn học tập và thực hành Phật pháp. “Thường’’ nghĩa là luôn luôn. Chữ “tùy” nghĩa là tùy theo, tức là chúng ta không chống trái lại pháp thế gian. Trong Luận Đại Thừa có câu: “Bất tương vi thế gian”, nghĩa là không chống trái lại pháp thế gian. Bởi vì sao? Đức Phật nói rằng: “Phật pháp bất ly thế gian giác’’, tức là người tu hành mà lìa thế gian để giác ngộ giống như đi tìm lông rùa, sừng thỏ không khác. Chúng ta không chống trái với pháp của thế gian gọi là “thường tùy”. Như vậy, không chống trái có nghĩa là ta phải có lý trí, phải có trí tuệ, phải có chánh kiến, chánh tư duy, chứ không phải chuyện gì ta cũng theo. Ta chỉ noi theo học hỏi những điều hay, điều tốt, điều thiện, còn những việc bất thiện mà ta làm theo, thì không được rồi.
Trên lộ trình thuyết pháp độ sanh, đức Phật tùy theo căn cơ sai khác của chúng sanh mà thuyết giáo. Phiền não nghiệp chướng chúng sanh không cùng tận, nên giáo pháp của Ngài cũng không cùng tận, trong tam tạng kinh điển gồm có 84 ngàn pháp môn để đối trị với 84 trần lao phiền não của chúng sanh. Đó chỉ là số biểu tưởng mà thôi, chứ giáo pháp của Phật nhiều vô lượng vô số, vẫn còn hiện hữu trên cõi đời này để chúng ta nương nhau tu tập. Chúng ta học giáo lý của Ngài, trước nhất là để giáo hóa tâm linh, ý thức được sứ mạng của người tu xuất gia nhằm tiếp nối hành trình sinh hoạt Phật giáo. Trong suốt chiều dài lịch sử văn hóa nhân loại, giáo pháp của đức Phật là luồng sinh khí nuôi dưỡng cho nhân loại. Trên đà tiến hóa, giá trị quan trọng của người học Phật là sống được như lời Phật dạy, đồng thời đem những lời Phật dạy ấy ứng dụng trong cuộc sống, làm gương cho hậu thế noi theo. Do đó, chúng ta cần phải xem xét mục đích và phương pháp tu học sao cho việc học của ta có thể phục vụ cuộc sống và để cho suối nguồn vi diệu của giáo pháp đức Phật được tuôn chảy vào lòng nhân loại.
Chúng ta cần gần gũi các bậc thầy lành, bạn tốt để học hỏi đạo lý, không ai có thể tự mình trở thành Phật mà không cần tu học theo đúng chánh pháp. Chúng ta theo lời chư Phật dạy, cũng như người đi đường cần có bản đồ, có địa bàn, có hướng dẫn, biết hỏi thăm mới có thể đến nơi đến chốn như ý muốn được. Kinh Pháp Cú có dạy:
Tu mà không học là tu mù,
Học mà không tu là đãy sách.
Học mà không tu là đãy sách.
Người phát tâm tu theo đạo Phật, nhất định phải học hỏi chánh pháp, mới tránh được tình trạng tu mù, dễ lầm đường lạc lối, theo tà ma ngoại đạo mê tín dị đoan. Nên biết rằng, tất cả những gì ngoài tâm cầu Phật đều gọi là ngoại đạo, không phát tâm Bồ đề mà làm Phật sự, là ma sự. Còn những người học cao hiểu rộng, trí thức thế gian, nhưng không chịu, không biết tu tâm dưỡng tánh, tức là những người có tài học, mà không có đức độ, thì chẳng ích lợi gì cho ai, có khi còn gieo tai họa cho đời. Họ thường đem sở học, sự hiểu biết phục vụ những mưu đồ của bản thân, gia đình hay phe nhóm, họ ỷ thế học rộng biết nhiều, khinh khi mọi người, muốn làm giàu nhanh, làm ăn bất chính, kiếm được nhiều tiền, xúi dục người khác, nổi lòng tham lam, kiện tụng lung tung,… Có những người nghiên cứu kinh điển chỉ nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu hiểu nhiều biết rộng, đem đi tranh cãi, lý luận phê bình, chỉ trích soi mói, nhưng không áp dụng, thực hành lời Phật. Trong đời sống này, chắc chắn những người đó chẳng thể thoát ly sanh tử luân hồi, vì việc làm của họ chẳng ích lợi gì cho đời sống tâm linh, ví như cái đãy đựng sách, cái tủ chưng sách hay tàng kinh các mà thôi.
Chân lý Phật học có tính cách thực nghiệm tâm linh, muốn thành tựu Phật quả phải thực hành những công hạnh như Phật, nhất là tiếp xúc với thực tại qua mọi sinh hoạt trong cuộc sống. Không thể xây dựng chân lý giải thoát bằng những tri giác ảo ảnh, những hứa hẹn xa vời, trong khi bản thân con người và xã hội còn những vấn đề thực tiễn cần giải quyết cấp bách. Đời sống luôn hướng về phía trước, có thể đem đạo vào đời, dung hòa xây dựng, làm lợi cho con người trong xã hội, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiến bộ về mặt tâm linh.
Vậy, nương theo kinh điển của Phật mà tu học và thể nghiệm vào cuộc đời là chúng ta đã thực hành hạnh Thường tùy Phật học.
IV.9. Hạnh nguyện thứ chín: Hằng thuận chúng sanh.
Hằng thuận chúng sanh là hạnh nguyện rất đặc biệt của Phổ Hiền bồ tát, là phận sự khẩn thiết của hàng đại Bồ Tát với hạnh nguyện độ sanh.
“Hằng thuận” là ý thức chấp nhận thực tế của người, dùng vô số phương tiện mà dẫn dắt giáo hóa, không làm trái ý tha nhân. Hành giả muốn đến được giai đoạn này, trước phải trải qua quá trình tu tập tự thân, trở về bản thể tịch nhiên vắng lặng quán chiếu mọi hiện tượng đều là tạm, mộng, bọt, bóng, nằm trong biến hóa sanh diệt, nên có thể biết rõ việc đúng sai của người người khác. Vì thế hành giả luôn trụ ở chân tâm, còn việc ứng xử cuộc đời thì khác nhau muôn mặt, chỉ nên vì mục đích làm vui lòng người để giúp họ tiến tu mà thôi. Chúng sanh luôn bao gồm tất cả những đức tính phàm phu, người khác có, mình cũng có. Tất cả đồng mang thân ngũ uẩn như nhau, đồng có những tính tốt xấu như nhau, nhưng kẻ nhiều người ít. Những vị tu hành ngộ đạo đã loại bỏ những tính xấu ấy, chúng sanh nghiệp không còn, từ đó các Ngài nâng đỡ phần nào khó khăn đau khổ cho những ai có đủ cơ duyên. Như vậy, muốn hằng thuận chúng sanh bên ngoài, trước nhất chúng ta hằng thuận chúng sanh trong tự tâm của mình. Được vậy, thì bước tiến đến việc hóa độ chúng sanh bên ngoài không khó, hiểu mình, hiểu người, không việc gì không thành công. Khổng Tử có câu: “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”. Đức Phật dạy trong kinh Pháp cú:
Hãy tự làm cho mình
Như điều mình dạy người
Khéo tự điều, điều người
Khó thay tự điều phục.
Như điều mình dạy người
Khéo tự điều, điều người
Khó thay tự điều phục.
Người tu hành, bước đầu tiên, tự nên luyện tâm mình là cốt yếu, tâm sanh ra muôn pháp bất đồng, tùy theo căn cơ trình độ tiến hóa của từng người mà có những sự sai biệt. Nhận thức được như thế, hành giả có thể hòa nhập vào cõi đời với tấm lòng bao dung từ ái, không còn nhìn thấy những chướng ngại, xấu ác của người khác.
Đức Phật thể hiện hạnh hằng thuận chúng sanh một cách sâu sắc trong 49 năm thuyết pháp độ sanh bằng sự diễn nói trăm vạn pháp môn, vì tâm trạng nghiệp lực đại chúng bấy giờ nghĩ đủ điều. Ngài tùy thuộc họ, nghĩa là tạm thời chấp nhận họ cái phải trong cái không phải, vì chúng sanh nghiệp nặng, sửa ngay thì dễ tự ái, mà không bằng lòng. Chúng ta thấy đức Phật thuyết pháp giáo hóa thường mượn việc của Phật, của Bồ Tát để dạy chúng sanh. Như trong kinh Bổn sanh, đức Phật kể chuyện quá khứ của Ngài, nhưng đọc kỹ, chúng ta thấy tương ứng với hoàn cảnh của mỗi người trong xã hội.
Như vậy, đức Phật tùy căn tánh, hành nghiệp lần dìu dắt, dạy dỗ đại chúng, không làm buồn lòng ai. Đến khi đại chúng trải qua quá trình tu hành đắc quả A La Hán, giữa Phật và đại chúng có độ cảm tâm thông nhau. Bấy giờ, Như Lai mới diễn pháp không sanh diệt này là các pháp tướng thường vắng lặng. Ở dạng thật thể thì không có chuyện phải quấy của cuộc đời, bản thể thường nhiên hằng hữu của đức Phật luôn an trụ nơi chân thật pháp đó nên mọi việc làm của Ngài trong 80 năm trụ thế không bao giờ sai lầm. Ngài an nhiên giáo hóa chúng sanh, mỗi ngày lòng Từ bao phủ chúng sanh rộng lớn hơn, từ bi đúng đắn tuyệt đối trên chân lý. Đức Phật thể hiện trên vô số việc làm lợi ích ở thế gian sanh diệt, khơi dậy tâm Bồ đề cho từng lớp người tiến về Vô thượng đẳng giác. Còn bồ tát Phổ Hiền thể nhập bình đẳng tướng mà hóa độ lợi ích chúng sanh, Ngài dạy đối với tất cả từ loài thấp hèn cho đến các bậc A La Hán, đức Như Lai, Ngài đều tùy thuận không khác. Bởi vì, tùy thuận chúng sanh là cúng dường chư Phật, thuận với tâm chư Phật là mong muốn mang lợi ích cho chúng sanh.
Các đức Như Lai dụng tâm đại bi làm thể, nhân nơi chúng sanh mà sanh lòng đại bi, nhân nơi lòng đại bi mà phát tâm Bồ đề, nhân nơi tâm Bồ đề mà thành bậc Vô thượng Chánh giác. Bởi vì, đối với tất cả chúng sanh mà đem tâm bình đẳng đối xử, thì họ có thể sanh lòng đại bi đầy đủ hoàn toàn. Dùng tâm đại bi mà tùy thuận chúng sanh thì có thể thành tựu pháp cúng dường Như Lai. Những người tu hạnh Bồ Tát, tùy thuận chúng sanh như thế ấy. Tùy thuận chúng sanh không có nghĩa là bị chúng sanh sai sử, xui khiến, xúi giục, làm theo tất cả những gì chúng sanh đòi hỏi, những gì chúng sanh mong muốn.
Trong gia đình, cũng như ngoài xã hội, tùy thuận chúng sanh không có nghĩa là nhắm mắt hùa theo, làm theo, ủng hộ những việc làm bất thiện, bất lương. Chẳng hạn như con cái không thể tùy thuận cha mẹ, làm những việc sai lời Phật dạy, trả thù báo oán, sát nhân hại vật. Ngược lại, cha mẹ cũng không thể tùy thuận con cái, chiều theo con cái, muốn gì được nấy, thưa kiện hại người, dù đó là người thân hay kẻ thù cũng vậy. Tùy thuận cũng không phải là tự do muốn làm gì thì làm, tự do muốn làm gì cũng được. Chúng ta cần nên nhớ rằng: Mọi thứ tự do đều được giới hạn ở chỗ không đụng chạm tới tự do của kẻ khác. Ví như giữa chốn rừng sâu, có cây cổ thụ to lớn, nơi gốc cây được nước tưới nhuần, thì cành lá hoa quả thảy đều xum xuê tươi tốt. Trong vòng sanh tử luân hồi, cây Bồ đề cũng vậy, tất cả chúng ta là cội rễ, Bồ Tát là hoa, chư Phật là quả. Dùng nước đại bi đượm nhuần gốc rễ chúng sanh, thì có thể trổ bông Bồ Tát trí tuệ, và kết thành quả Phật toàn giác. Nghĩa là chư Phật và chư Bồ Tát không từ trên mây rơi xuống, không từ dưới đất chui lên, mà từ những chúng sanh biết tu tâm dưỡng tánh, biết chuyển hóa tâm địa, biết tu hạnh nhẫn nhục, biết từ bỏ các việc lợi mình hại người, biết dừng các nghiệp báo, biết trưởng dưỡng tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả, biết cứu người giúp đời, biết vì người quên mình, biết tùy thuận chúng sanh để hướng dẫn chúng sanh vào con đường Bát chánh đạo.
IV.10. Hạnh nguyện thứ mười: Phổ giai hồi hướng.
Từ sự lễ kính ban đầu đến tùy thuận, có bao nhiêu phước đức và công đức thảy đều nên đem hồi hướng cho tất cả chúng sanh khắp trong hư không pháp giới, hồi hướng vô thượng Bồ đề và hồi hướng chân như thật tướng.
Hồi hướng “pháp giới chúng sanh” là gởi cho chúng sanh nương nhờ công đức của mình để tiến tu. Ta thực hiện hồi hướng bằng cách viết kinh cho người tu học, lý giải cho người khác hiểu, sản xuất cho người tiêu dùng, cứu người khỏi bệnh, xây chùa cho người nương tựa,v.v.. Ngài Phổ Hiền dạy rằng làm cho chúng sanh là làm cho chính ta, vì không có chúng sanh, chúng ta không thể tu Bồ Tát đạo, không thể thành tựu quả Bồ đề. Thế nên có dùng nước đại bi tưới mát chúng sanh, cây Bồ đề mới trổ hoa Bồ Tát và kết quả Như Lai.
Bậc Bồ Tát phát tâm Bồ đề, thực hiện hạnh nguyện lợi tha trải qua vô lượng kiếp, vì sự an lạc của chúng sanh, vì muốn đưa chúng sanh ra khỏi sông bể khổ, thệ nguyện của các Ngài vô tận, cứu giúp chúng sanh hướng về Tam bảo. Chư Bồ Tát làm những việc khó làm, nhẫn những việc khó nhẫn. Kinh Hoa Nghiêm có dạy: “Giăng lưới suốt pháp giới từ xưa cho đến mai sau, bắt hết cả chúng sanh lên bờ giác, rồi Bồ Tát mới lên sau cùng”.
Tuy nhiên muốn thực hiện việc hồi hướng chúng sanh, xây dựng cho chúng sanh, hành giả phải hồi hướng vô thượng Bồ đề, nghĩa là phải phát triển tri thức, hiểu rõ chúng sanh, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền não. Nói chung, hành giả thông suốt mọi hiện tượng trong pháp giới. Khi trí giác của hành giả đạt đến thấy biết tất cả hai phần. Pháp giới chúng sanh và vô thượng Bồ đề, kết hợp làm một thành “chơn như thật tướng” đó chính là quả vị Như Lai, tức là đối với mọi pháp trên thế gian hay pháp giới chẳng những không chống trả, mà hoàn toàn tùy theo ý của hành giả, hành giả chuyển vận tự tại.
Nguyện đem tất cả công đức và phước đức hồi hướng hết cho tất cả chúng sanh khắp trong hư không pháp giới. Nguyện cho họ thường được an lạc, không có các bệnh khổ, lánh xa điều ác, thực hành điều lành. Nếu các chúng sanh nhân vì trước kia chứa nhóm các nghiệp ác, nên chiêu cảm tất cả quả khổ, chúng ta đều phát nguyện chịu thay cho, khiến chúng sanh đều được giải thoát, rốt ráo thành tựu đạo quả vô thượng Bồ đề. Người hồi hướng như vậy sẽ dẹp được các vọng tâm tham lam, ích kỷ, bỏn xẻn, keo kiệt, trừ được tâm sân hận, căm tức, bực dọc, hận thù, phá được tâm si mê u tối, không biết lẽ phải, không thấy chánh đạo. Tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả sẽ phát triển ngày một to lớn hơn, tâm thiện lành ngày một lan tỏa. Khắp các hành động, lời nói, ý nghĩ của con người ấy sẽ ngày một gần với chư Phật hơn.
Nguyện cho tất cả chúng sanh bất cứ nơi đâu đang bị sự đau khổ hành hạ thân và tâm, nhờ công đức này đều được sự an lạc, sung sướng.
Nguyện cho tất cả chúng sanh trong địa ngục đều hưởng được niềm vui sướng của Cực lạc. Cho kẻ bất hạnh được sưởi ấm, kẻ khát nước được mây vô lượng công đức của chư Bồ Tát đổ mưa tưới mát. Cho loài súc sanh không còn cấu xé lẫn nhau. Cho loài ngạ quỷ được sung sướng. Cho bệnh nhân được bình phục, tù nhân được tự do, tất cả đều thương yêu lẫn nhau. Cho chúng sanh không bị ràng buộc, có đủ đức tin trí tuệ, lòng thương người, vui vẻ, chánh nghiệp và chánh niệm. Cho kẻ tu hành yếu đuối có nhiều nghị lực, nếu thân thể xấu xí sẽ được đẹp đẽ. Cầu cho tất cả chúng sanh không bao giờ lìa bỏ tâm Bồ đề, luôn hành đạo Bồ Tát, thường được chư Phật gia hộ, không rơi vào bẫy của ma vương.
Cho mưa thuận gió hòa, lúa mạ phì nhiêu, mùa màng tươi tốt, vua hiền thương dân, quốc gia thịnh vượng, không còn một chúng sanh nào đau khổ, tội lỗi, bệnh tật, thua thiệt, chán nản.
Tóm lại, mười hạnh nguyện của Phổ Hiền bồ tát trên đây là đều dựa trên cảnh giới “Bất Tư Nghì giải thoát” mà tu tập. Hành giả thọ trì hạnh nguyện này là huân tập cảnh giới Bất Tư Nghì, như ngài Phổ Hiền đã nói trong kinh “Nếu các vị Bồ Tát ở nơi mười điều nguyện lớn này mà tùy thuận tu tập thì có thể thuần thục tất cả chúng sanh, có thể tùy thuận đạo vô thượng Chánh đẳng giác, có thể tròn đủ các hạnh nguyện của bồ tát Phổ Hiền”. Mười hạnh nguyện của Ngài được khai triển ra đến vô cùng tận, nên nói “Bất Tư Nghì”. Thành tựu mười hạnh nguyện Phổ Hiền, hành giả đạt đến quả vị lai. Vì thực tế chúng ta không thấy Phổ Hiền bằng mắt trần, nhưng sự hiện hữu tác động của Ngài thật vô cùng, không đâu Ngài không đến, không việc nào Ngài không làm được. Phổ Hiền đến tùy yêu cầu của chúng sanh, yêu cầu hình gì Ngài hiện hình đó, gọi là “trục loại tùy hình”. Nếu cho rằng, Phổ Hiền có một loại hình cố định, chúng ta sẽ không thấy Phổ Hiền, vì Phổ Hiền hiện hữu khắp pháp giới. Còn vướng mắc một mảy trần trong tâm cũng không vào pháp giới ấy được. Như vậy, bồ tát Phổ Hiền cũng không phải ở hành tinh nào khác đến đây, mà Ngài nhập pháp giới, đi vào trần lao, lặn hụp trong bể khổ luân hồi để học hết tất cả kinh nghiệm sống trên đời. Ngài có đủ kinh nghiệm sống trong thời mạt pháp, nhất là khi tu ở hội Hoa Nghiêm, Ngài cũng nghèo khổ, khó khăn, đầy nghiệp chướng, nhưng Ngài phủi sạch bụi trần nghiệp chướng, sáu căn tội lỗi chuyển thành sáu ngà bảo vệ, làm lợi lạc cho chúng ta. Sáu ngà tiêu biểu cho sáu pháp thần thông của Bồ Tát. Nói cách khác, sáu ngà là căn bản, khi chưa tiếp xúc với sáu trần, nó tạo thành thân nghiệp tội lỗi. Nhưng nay, việc quy y và tiếp xúc với kinh Hoa Nghiêm, lấy tinh hoa của Phật để trang nghiêm thân tâm, chuyển sáu căn thành sáu ngà, giúp chúng ta tạo thêm muôn ngàn công đức. Dưới ánh mắt hiền hòa, ngài Phổ Hiền nhìn người bình đẳng, khơi dậy cho bao lòng người phát tâm Bồ đề, tâm hướng về Vô thượng chánh đẳng, chánh giác.
Ngài Phổ Hiền bồ tát hướng dẫn cho chúng ta quay về các pháp tu như Lễ kính chư Phật, xưng tán Như Lai, hồi hướng tất cả,… Mười hạnh nguyện này, chúng ta không thể tụng suông, mà phải thể hiện Phổ Hiền hạnh nguyện trong đời sống hàng ngày của chúng ta, trắc nghiệm, thấu hiểu được mười việc làm này của Ngài, chúng ta nhận ra diệu lực vô cùng tận mà Ngài sử dụng trong việc giáo hóa chúng sanh, tác động cho người an lành, công việc thành tựu tốt đẹp. Chúng ta thành kính đảnh lễ Nam Mô Thập Quảng Đại Nguyện Vương Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát và nguyện xin cố gắng trang nghiêm thân mình bằng mười hạnh nguyện Phổ Hiền.
- Từ khóa :
- Thích Chí giác Châu