7. Purisadammasãrathi (Điều-Ngự Trượng-Phu)

13 Tháng Ba 201810:09 CH(Xem: 3101)
7. Purisadammasãrathi (Điều-Ngự Trượng-Phu)

Tại sao Đức Phật có hiệu là PURISADAMMASARATHI (Điều-Ngự Trượng-Phu)?

Bởi Ngài là đấng tế-độ những người hữu duyên nên tế-độ.

Người hữu-duyên.

Người Hữu-Duyên là người trong kiếp quá khứ đã thực-hành pháp Ba-La-Mật, là người năng bố-thí, chuyên cần trì-giới, tham-thiền, thính pháp.

Người đã thực-hành những hạnh thanh cao ấy là người đã tập duyên lành (Upanissaya) đáng được tế-độ. Tùy theo trình-độ phẩm hạnh thấp hoặc cao, thiện-duyên nhiều hoặc ít, Đức Thế-Tôn dùng phương-tiện thích-ứng để tế-độ mỗi người Hữu-Duyên. Có 2 hạng người Hữu-Duyên:

Buddhaveneyya: Hạng người do Đức Phật tế-độ.
Sãvakaveneyya: Hạng người do các bậc Thinh-Văn tế-độ.

Hạng người nào Hữu-Duyên cùng Đức Phật thì tự Ngài đến tế-độ, còn hạng người nào Ngài biết rõ hữu-duyên với bậc Thinh-Văn nào thì Ngài bảo vị ấy đến tế-độ.

Phương-tiện tế-độ chúng-sanh.

Đức Thế-Tôn tùy theo tâm tánh và căn-cơ của mỗi hạng người mà giảng-giải rõ-ràng về phước hoặc tội:

- Chúng-sanh nào ưa thích những điều lành thì Ngài thuyết về các pháp hành Thiện, là hành Thiện do Thân (Kãya Sucarita), do Khẩu (Vaci Sucarita) và do Ý (Mano Mano Sucarita) cùng phước báu của các pháp ấy, hầu chúng-sanh đó phát Tâm thỏa-thích trong sự làm các điều thiện.

- Chúng-sanh nào ưa thích những điều ác, Ngài thuyết về các pháp hành Ác, là hành Ác do Thân (Kãya Duccarita), do Khẩu (Vaci Duccarita) và do Ý (Mano Duccarita) cùng quả báo của các pháp ấy, hầu chúng-sanh đó phát Tâm ghê-sợ những điều tội-lỗi và hồi Tâm làm các việc lành.

Kế tiếp với những hạng người đã trau-giồi giới-hạnh thanh-tịnh rồi, Ngài thuyết về các pháp Thiền-Định và phước báu do các pháp ấy từ bậc Sơ-Thiền đến Tứ-Thiền.

Với những bậc đã đắc Thiền-Định, Ngài lại giảng-giải về các pháp Minh-Sát, hầu những vị ấy tu-tập lần lần để phát sanh Trí-Tuệ thấy rõ thật tướng các pháp hữu-vi diệt-trừ Phiền-Não và đắc đạo-quả Thánh-Nhân từ Tu-Đà-Hườn đến A-La-Hán.

Chúng ta không lấy làm lạ rằng trong tích xưa, có nhiều Chư-Thiên và bậc Đại Thiện-Duyên, khi nghe qua một câu kệ-ngôn hoặc một thời pháp do Đức Phật thuyết được, liền chứng đạo-quả Thánh-nhân ngay tại chỗ ngồi của mình. Nguyên do là các bậc ấy đã thực-hành viên-mãn, các pháp Ba-La-Mật và tập hợp Thiện-Duyên cao dày, quí báu từ vô-số kiếp quá-khứ, đến kiếp hiện-đại, hữu phước gặp Đức Phật giảng dạy tế-độ cho, nên được nếm hương-vị an-vui tuyệt-đối, ví như trái cây đã chín mùi từ bao nhiêu ngày trên cành cao, chỉ một luồng gió nhẹ thoảng qua là rơi rụng vậy.

Trong kinh Anguttara Nikãya, có câu Phật-ngôn như vậy: "Này Kesi! Như-Lai huấn-luyện chúng-sanh đáng tế-độ khi thì bằng phương cách dịu-dàng, lúc thì bằng phương-tiện cứng rắn và khi thì bằng cả 2 cách: dịu-dàng và cứng rắn".

Nói tóm lại, Ngài tế-độ chúng-sanh bằng 3 phương-tiện sau đây:

1. Abhinnã: Ngài giảng dạy rõ-ràng về các điều thiện và điều ác.

2. Sanidãna: Ngài dạy bảo theo nguyên-nhân là tùy theo quả lành hoặc dữ xảy ra, Ngài chỉ cho thấy do nhân thiện hoặc nhân ác.

3. Sappãtihãriya: Ngài giáo-hóa bằng 3 pháp phi-thường là:

a) Iddhippãtihãra: Bằng cách dùng các pháp Thần-thông.
b) Adesanãpãtihãra: Bằng cách biết rõ Tâm của chúng-sanh.
c) Anusasanipatihãra: Bằng những lời khuyên-răn, nhắc-nhở và giao-huấn về Giới, Định, Huệ.

Đức Thế-Tôn rất thông-thạo, rành-mạch trong sự giáo hóa chúng-sanh ví như nài voi đã thuần-thục trong sự tập luyện voi, bởi Ngài thông-hiểu Tâm của tất-cả chúng-sanh như đã giải trong hiệu Thế-Gian-Giải, đoạn "Chúng-Sanh Thế-Gian". Do nhờ hiểu biết tường-tận tánh nết, hạnh-kiểm, trình-độ Trí-Tuệ và duyên lành của mỗi chúng-sanh, nên Ngài mới có thể giáo-hóa Chư-Thiên và Nhân-Loại một cách dễ-dàng. Vì thế các bậc hữu-duyên nên tế-độ đều vâng theo lời khuyên bảo và giáo-huấn của Ngài.

Chúng-sanh được tế-độ.

Nếu dịch sát nghĩa thì chữ "Parisadammasãrathi" có nghĩa là Bậc Chỉ Đạo (Sãrathi) những người Nam (Purisa) đáng được Giáo-Hóa (Damma).

Như thế thì Đức Phật chỉ độ toàn những người Nam thôi hay sao? Không phải vậy, Ngài tế-độ cả người Nam và người Nữ, những lệ thường thì nói đến người Nam trước vì theo Phật-giáo người Nam hữu phước hơn người Nữ và hành-đạo cũng được tiện-lợi dễ-dàng hơn.

Lại nữa, chẳng những chỉ riêng Nhân-Loại thôi, Ngài còn tế-độ luôn cả loài thú và phi-nhân (Chư-Thiên, Dạ-xoa, Ngã-Quỉ...) có duyên lành.

Hạng Nam (Purisa) được tế-độ có 3:

Tiracchãna Purisa: Thú Đực
Manussa Purisa: Người Nam
Amanussa Purisa: Phi-Nhân Nam

Những thú đực như rồng chúa Apalãlo trong núi Hy-Mã-Lạp-Sơn, Cũlodara  Mahodaratrong thế-giới loài rồng. Aggisikha  Dhũmasikha trong đạo Tích-Lan, Aravãla.., đã được Đức Thế-Tôn có Tâm Bi-Mẫn dùng Thần-Thông tế-độ cho, khiến các rồng chúa ấy hết hung-dữ và dứt nộc-độc là lòng sân-hận, rồi thọ Tam-Qui Ngũ-Giới. Voi Dhanãpãlaka cũng được Ngài tế-độ cho thọ Tam-qui. Không phải chỉ có bao nhiêu ấy thôi, các thú khác nữa cũng được Ngài từ-bi tế-độ rất nhiều.

Những người Nam đã làm các điều tội-lỗi, hằng chấp tà-kiến như người con trai ngoại-đạo Nigantha (Jain) tên Saccaka, những người Bà-La-Môn tên AmbatthaPokkharasãti, Sonadanda, Kutadanta..., đã được Đức Thế-Tôn từ-bi thuyết-pháp tế-độ cho, khiến phát sanh đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, xa lìa Tà-Kiến; được Chánh-Kiến và đắc đạo-quả cao thượng. Những người Nam đã rơi vào lưới Huệ của Ngài và được tế-độ không phải chỉ bao nhiêu ấy thôi, còn rất nhiều không kể hết được.

Những phi-nhân Nam như các dạ-xoa Alavaka, Sũciloma, Kharaloma, Đức Đế-Thích (Sakka), Đại-Phạm-Thiên Pakã... đã chấp Tà-Kiến và Ngã-Mạn, tự cho mình là bậc có đức-hạnh tối cao, được Đức Phật thuyết pháp tế-độ cho đến khi phát Tâm tín thành Tam-Bảo.

Huấn-từ của Đức Thế-Tôn.

Lời Đức Thế-Tôn thốt ra để giáo-hóa chúng-sanh rất nhiều không thể kể xiết. Khi giáo-huấn, Ngài tùy theo:

Tâm Tính và duyên lành,
Trí-Tuệ và căn-cơ mỗi chúng-sanh,
Nguyên-nhân, thời buổi và cơ-hội,
Phong-tục tập quán mỗi quốc-độ...

Nói tóm lại, huấn-từ của Ngài có 3:

Sabbapãpassa Akaranam: Không nên làm điều ác.
Kusalassũpasampada: Nên làm các điều lành.
Sacittapariyodapanam: Nên trau dồi Tâm cho trong sạch.

1. Đức Thế-Tôn bảo đừng làm điều ác là nên xa lánh 10 Pháp Hành Ác do Thân, Khẩu, Ý gọi là Thập-Ác:

Sát-Sanh
Trộm-Cắp
Tà-Dâm
Nói Dối
Nói Lời Đâm Thọc
Nói Lời Độc-Ác (Chửi Rủi)
Nó lời Viễn-Vong Vô-Ích
Tham-Lam
Thù Oán
Tà-Kiến (không tin nhân-quả tội phước...)

2. Ngài khuyến-lệ nên làm các điều lành là nên hành 10 Phạm Hành Pháp (Punnakiriya):

- Bố-Thí
- Phụng-Sự Sốt-Sắng (Veyyãvacca)
- Ngũ-Giới
- Tứ-Vô-Lượng-Tâm (Appamannã)
- Xa lánh sự dâm-dục (Methunavirati)
- Chỉ Vui Thích Vô-Minh
- Không ngoại tình
- Tinh-Tấn Tri Bát-Quan-Trai (Uposatha)
- Bát-Thánh-Đạo (Ariyamagga)
- Giáo-Pháp: Sasana (Giới, Định, Huệ)

3. Ngài dạy bảo nên trau-dồi Tâm cho sạch là nên cố-gắng diệt-tận các Phiền-não (Kilesa) và các pháp Ngủ-ngầm trong Tâm (Anusaya) là những điều làm cho Tâm bẩn nhơ và khiến chúng-sanh sa-đọa trong vòng sanh tử luân-hồi.

Những Phiền-Não ấy chia ra 2 hạng:

a) Phiền-Não Trọng-Đại (Thô-Sơ), Tâm muốn Sát-Sanh, Tham muốn của cải người, mong làm của mình... có thể diệt trừ được bằng sự Trì-Giới và Thiền-Định.

b) Phiền-Não Vi-Tế, khó mà nhận thức được là căn nguyên làm cho phát-khởi các Phiền-Não khác, có thể diệt-tận được bằng Thánh-Tuệ.

Nếu tóm tắt thêm nữa, huấn-từ của Đức Chánh-Biến-Tri có thể thâu ngắn lại trong 2 khuyên ngôn quí báu sau đây:

- Nên xa-lánh Sự Dễ-Duôi (Pamãda) (Sự giải đãi)
- Nên thực-hành Sự Không Dễ-Duôi (Appamãda).

1. Sự Dễ-Duôi hằng ngự trong Tâm của hạng người hay quên mình, thường buông-lung trí-nhớ, không nhất quyết làm một việc gì cho lâu dài, thành tựu.

Tâm chúng-sanh mải say-mê theo sự cám-dỗ của Ngũ-Trần lục-dục, tự nghĩ rằng ta còn trẻ chưa già, còn đang mạnh chưa đau, còn vui chưa khổ.... nên ít có dịp tưởng nhớ đến các Pháp lành và các công-đức. Dẩu có nhớ đi nữa cũng làm qua-loa cho có chừng, khộng để hết Tâm-Trí vào sự thực-hành những Thiện-Pháp. Đó là Tâm Dễ-Duôi.

Lại nữa, chẳng khác nào con cắc-kè chạy một đoạn đường rồi ngừng lại một chập, không bao giờ chạy một mạch đến đích; có người làm việc phước thí hoặc Trì-giới hoặc Thính-Pháp, Tham-Thiền... một hôm rồi bỏ luôn nhiều ngày; có người xuất gia trong một thời-gian rồi hoàn-tục, không còn tưởng nhớ chi đến Phật-Pháp nữa... Tất cả sự kiện ấy là trạng-thái của Tâm Dễ-Duôi.

Sự dễ-duôi là nguồn cội và chủ-động các Pháp Ác. Chúng-sanh nào làm nô-lệ cho sự dễ-duôi rồi thì bằng chất-chứa Phiền-Não trong thân tâm, phải chịu những sự thống-khổ của Sanh, Già, Đau, Chết, đời này qua kiếp khác không ngừng.

2. Sự Không Dễ-Duôi Nghịch hẳn với Sự Dễ-Duôi. Người không Dễ-Duôi là người hằng có sự ghi nhớ trong Tâm, chẳng phải chỉ trong một thời-gian mà thôi, trong bất cứ lúc nào, nơi nào và hành động nào cũng vậy.

Đặc-tính của người Không Dễ-Duôi có 5:

a) Sĩlepatitthito: Ở trong khuôn khổ giới-luật
b) Indriyesu Smavuto: Thâu-thúc Lục-Căn cho thanh-tịnh.
c) Bhojane Mattannu: Biết độ lượng trong sự ăn uóng
d) Jãgariyam Anuyanjati: Thường hay thức tỉnh, ít mê ngủ.
e) Bhãvagam Kusalam Dhamman: Tinh-Tấn tham thiền, hành-đạo để đắc những Pháp cao-siêu.

Sự Không Dễ-Duôi là bức tường ngăn-cản rất hiệu-quả các Pháp Ác không cho xâm-nhập và nảy-nở trong thân-Tâm được, là nguồn cội và chủ-động các Pháp Lành. Nên có câu Phật-ngôn như vậy:" Này các thầy Tỳ-Khưu! dấu chân của tất cả loài thú đều có thể nằm trọn trong dấu chân của con voi như thế nào; các thiện Pháp hằng qui-tụ cả thảy dưới năng lực của sự không dễ-duôi như thế ấy!".

"Appamãdo Amatam Padam ": Sự Không Dễ-Duôi là con đường đi đến nơi bất-diệt. Chúng-sanh nào có Tâm Không Dễ-Duôi, thường tưởng nhớ đến những pháp hành, chuyên cần thực-hành các công đức như Bố-Thí, Trì-Giới, Thính-Pháp, Tham Thiền... và cố gắng không ngừng gìn-giữ Lục-Căn thanh-tịnh, không cho duyên theo trần-dục; chúng-sanh ấy, chắc chắn một ngày kia sẽ diệt-tận được các Phiền-Não trọng đại, vi-tế và sẽ được nếm hương-vị Niết-Bàn là nơi Vô-Sanh Bất-Diệt vậy.

Vì thế, nên trong khi lâm trọng bệnh sắp nhập Niết-Bàn, Đức Thế-Tôn nhìn hàng tứ-chúng đang ngồi đầy-dẫy trước mặt Ngài, người thì gương mặt âu-sầu, buồn-bã, người thì giọt lệ đầm-đìa... ai ai cũng đều tỏ vẻ ảo não, tiếc thương đấng Từ-phụ trong giờ vĩnh-biệt... Khi nhìn thấy cảnh tượng ấy, Ngài bèn thốt lời căn dặn như vậy:" Này các đệ tử! Các người nên nhớ rằng các Pháp Hữu-Vi đều phải bị tiêu hoại, ấy là lẽ dĩ nhiên. Các người không nên Dễ-Duôi, hãy cố-gắng hành những điều lợi-ích đến thân-Tâm cho được mau kết quả!" Ấy là lời cuối cùng của Đức Thế-Tôn khi sắp lìa cõi thế-gian, tiếng Palĩ gọi là "Pacchimabuddhavacana " (Tối-Hậu-Ngôn).

Bao nhiêu lời ấy bao gồm trọn vẹn Giáo-Pháp mà Đức Thế-Tôn đã khổ công truyền bá trong 45 năm trường dài đăng-đẳng, vì vậy chúng ta là hàng Phật-tử, hữu-duyên gặp được Chánh-Pháp, cũng nên khắc tạc nơi Tâm khảm lời di-huấn vàng ngọc của Ngài và cố-gắng thực-hành "Sự Không Dễ-Duôi" hầu thấy rõ con đường giải-thoát trong ngày tương-lai.

Do nhờ những Ân-Đức Từ-Bi phổ-độ chúng-sanh vừa kể trên, nên Đức Phật có hiệu là PURISADAMMASARATHI (Điều- Ngự-Trượng-Phu).

-ooOoo-