8. Satthãdevamanussãnam (Thiên-Nhân-Sư)

13 Tháng Ba 201810:14 CH(Xem: 3579)
8. Satthãdevamanussãnam (Thiên-Nhân-Sư)

Tại sao Đức Phật có hiệu SATTHÃDEVAMANUSSÃNAM (Thiên-Nhân-Sư)?
Bởi Ngài là Thầy cả Chư-Thiên và Nhân-Loại.

Sự lợi ích của Giáo-Pháp.

Giáo-Pháp Đức Thế-Tôn đã giảng dạy cho Chư-Thiên và Nhân-Loại nhằm vaò ba sự lợi-ích sau đây:

Ditthadhammikattha: Lợi-Ích Hiện Tại
Samparãyikattha: Lợi-Ích Tương Lai
Paramattha: Lợi-Ích Cao-Thượng là Niết-Bàn.

Sự Lợi-Ích Hiện Tại có bốn:

Utthàna Sampadã: Nên siêng-năng làm những công việc nuôi mạng hằng ngày là những nghề-nghiệp chân-chánh vô tội-lỗi.
Nghiệp có tội là: Buôn bán khí giới (Satthavanijjã), buôn bán người hoặc thú (Sattavanijjã), buôn bán thịt (Mamsavanijjà), buôn bán rượu (Majjavanijjã), bán thuốc độc (Visavanijjã).
- Arakkha Sampadã: Nên gìn-giữ tài sản đã kiếm đặng không cho hao mòn tiêu hoại vì những nguyên nhân khác nhau như lửa cháy, trộm cướp, chơi bời, cờ bạc v.v...
- Kalyãnamittatã: Nên thân-cận bạn lành là những bạn có đức tin, có giới-hạnh, năng làm những việc phước thí, có Trí-Tuệ v.v...
- Samajivitã: Nên tiêu xài tiền một cách độ-lượng cân phân, là tùy theo sức mình đã kiếm được, đừng hoang phí.

Sự Lợi-Ích Tương Lai có bốn:

- Saddhà Sampadã: Có Đức Tin là tin ân-đức Tam Bảo, tin nghiệp, tin quả.
Sila Sampada: Có Giới-Hạnh, là trì giới trong sạch (Ngũ Giới, Bát Quan Trai Giới, v.v...)
Cãga Sampadã: Có sự Dứt Bỏ là đem tiền của ra làm việc phước thí đến các bậc sa-môn và kẻ bần-cùng, bệnh-tật v.v...
Pannã Sampadã: Có Trí-Tuệ là biết rõ tội-phước và thật-tướng của các Pháp Hữu-Vi.

Người nào thực-hành đầy đủ cả 4 điều kể trên là người đã dọn xong con đường đi về buổi vị lai; đến khi tan-rã Ngũ-Uẩn này rồi sẽ đi dễ dàng không chướng ngại.

Sự Lợi-Ích cao-thượng là Niết-Bàn.

Đức Thế-Tôn giảng dạy, chỉ bảo cho thấy chân-lý là Tứ-Diệu-Đế (Ariya Sasa):

Dukkham: Khổ-Đế (12 sự thống khổ hiển nhiên của nhân-loại).

Dukkhasamudayo: Tập-Đế (nhân sanh của các sự thống khổ là lòng Ái-Dục).

Dukkha Nirodho: Diệt-Đế (nơi diệt của các sự thống khổ là Niết-Bàn).

Dukkha Nirodhagãminipattipadã: Đạo-Đế (con đường Bát-Chánh-Đạo hành theo để đi đến nơi diệt khổ).

Ngài đã giáo-hóa tùy theo duyên lành (Upanissaya). Chúng sanh nào ít duyên lành, nhiều phiền-não thì Ngài dạy bảo về sự lợi-ích hiện-tại và vị-lai. Chúng sanh nào thiện duyên cao dày thì Ngài dạy bảo về sự lợi ích cao-thượng là Niết-Bàn.

Bậc dẫn đạo tuyệt luân.

Trong bộ Mahã Niddesa có giải về chữ Thầy (Satthu) như vầy:

"Đức Thế-Tôn là thầy, vì Ngài là bậc dẫn đạo chuyên nghiệp là dắt dẫn đoàn lữ-hành qua những con đường xa hẻo lánh đầy sự hiểm nguy tai-hại, về đến nhà hoặc đi đến nơi đã định trước một cách an-toàn vô-sự. Con đường xa hẻo lánh đầy sự hiểm nguy tai-hại ấy có 5:

Corakantãra: Tai hại vì trộm cướp
Bãlakantãra: Nguy hiểm vì thú dữ
Nirudakakantãra: Nguy hiểm vì không có nước uống
Amanussakantãra: Nguy hiểm vì phi-nhân (dạ-xoa,...)
Appabhakkhakantãra: Nguy hiểm vì không có vật-thực.

Cũng như thế ấy, Đức Thiên-Nhân-Sư đã hướng dẫn chúng-sanh qua khỏi 13 con đường xa (Kantãra) có nhiều sự khổ-não và tai-hại như sau:

Jãti Kantãra: Con đường nguy hiểm của sự Sanh
Jãra Kantãra: Con đường nguy hiểm của sự Già
Byãdhi Kantãra: Con đường nguy hiểm của sự Đau (bệnh)
Marana Kantãra: Con đường nguy hiểm của sự Chết
Dukkha Dukkha: Khổ vì sự thống khổ của các sự Khổ
Soka: Khổ vì buồn rầu, thương tiếc
Parideva: Khổ vì khóc than kể lể
Domanassa: Khổ vì phiền muộn
Upãsa: Khổ vì khó chịu, bực tức
Ditthi: Tai hại vì kiến thức
Uddhacca: Tai hại vì phóng Tâm
Vicikiccha: Tai hại vì hoài nghi
Silabbatta Parãmãsa: Tai hại vì giới cấm thủ (chấp lệ cúng tế thần thánh, thần lửa, v.v...)

Đức Thế-Tôn đă dùng 30 Pháp Ba-La-Mật kết lại làm 1 thớt tượng dũng mạnh hoặc một chiếc xe kiên cố, vượt qua 13 con đường xa đầy khổ não tai hại kể trên, đến nơi vô sanh bất diệt là Niết-Bàn. Sau khi tự mình vượt qua rồi, Ngài Từ-Bi dạy bảo chúng-sanh dùng những phương tiện quí báu ấy và hướng dẫn chúng sanh qua những con đường xa đầy dẫy những sự thống khổ Sanh, Lão, Bệnh, Tử... đến nơi an-lạc cũng như ngài. Hoặc giả Ngài dùng 30 Pháp Ba-la-mật tạo thành một chiếc thuyền, tự mình vượt qua khổ-hải là sanh-tử luân-hồi, rồi Ngài lại dùng chiếc thuyền ấy đưa chúng sanh từ bờ mê đến nơi bến giác.

"Ye te kappasatasahassã dhammam sutvã pannãya passanti"

Chúng sanh nào đã thực-hành các Pháp Ba-La-Mật được 100 ngàn đại kiếp hữu-phước, rồi sau được thính Pháp Đức Thế-Tôn, khiến cho phát sanh Trí Tuệ thông hiểu giáo lý của Ngài, thấy rõ Tứ-Diệu-Đế, diệt tận phiền-não aí dục trong thân tâm bằng A-La-Hán đạo-tuệ; chúng sanh ấy được qua khỏi đường xa có nhiều thống khổ vì sự sanh, nghĩa là không còn thọ sanh vào thai bào của người mẹ nữa như năm thầy Kiều-Trần-Như và ông Yasakola cùng người bạn,...

Theo "Nhân Quả Liên Quan" thường gọi là "Thập-Nhị Nhân-Duyên", các Pháp Hữu Vi đều do nguyên-nhân mà phát sanh lên, khi nguyên-nhân bị diệt tắt rồi thì các Pháp ấy cũng bị diệt-tắt theo.

Sanh (Jãti) là nguyên-nhân của lão tử (Jarãmaranam), khi sanh diệt thì lão tử diệt. Đúng với câu Phật-Ngôn "Jãtinirodhã Jãra Maranam Soka Paridevadukkha Domanassupayasa nirujjhanti": khi sanh diệt đi rồi, thì sự già chết, thương tiếc, khóc than, khổ não, phiền muộn, bức rức cũng diệt theo tất cả.

Vì thế, bậc thánh nhân nào không còn tái sanh nữa, thì bậc ấy cũng không còn có thân ngũ-uẩn. Nếu không có thân ngũ-uẩn thì cũng không có sự gìa, đau, chết và các điều thống khổ khác trong buổi vị lai. Các Pháp Hữu Vi đều bị diệt tắt rồi, ta có thể nói rằng bậc thánh nhân ấy đã qua khỏi 13 con đường xa vừa kể trên vậy.

Chư-Thiên và Nhân-Loại.

Chư-Thiên và Nhân-Loại (Devamanussãnam) đây, ý nói các hàng chúng sanh có nhiều thiện duyên, có thể đắc đạo, đắc quả trong kiếp hiện tại (Bhabba Puggala).

Sự thật, không phải Đức Phật chỉ tế-độ các hàng Chư-Thiên và Nhân-Loại ấy mà thôi đâu, Ngài cũng tế-độ luôn cả loài thú nữa. Vì mặc dầu loài thú trong kiếp hiện tại, nhưng khi nghe được Pháp của Đức Thế-Tôn rồi tạo duyên lành, và nhờ duyên lành ấy, trong hai ba kiếp tương-lai sẽ dược đắc đạo quả. Một lẽ nữa, các loài thú ấy, trong những kiếp quá-khứ, khi làm người, lúc làm trời v.v... đã tập hợp được nhiều thiện-duyên, đến kiếp hiện-tại tuy đã trả quả khổ do nghiệp ác đã tạo nên thân làm súc-sanh nhưng thiện duyên vẫn còn tồn tại, đến khi kiếp này, hữu phước, được gặp Đức Phật tế-độ cho.

Như tích vị trời Mandũka sau đây:

Trong khi Đức Thế-Tôn thuyết Pháp độ dân chúng trong thành Campã, cạnh bờ hồ Gaggarã, có một con ếch nhận biết được một tiếng trong lời nói của Ngài. Có người chăn bò đứng gần đó, chống cây gậy bọc sắt trên mặt đất, nào ngờ trúng ngay con ếch và đè bẹp nát đầu ếch. Con ếch chết ngay và liền tái sanh ở cõi trời Đao-lợi trong một đền đài bằng vàng rộng 12 do-tuần, đương thể mới thức dậy sau một giấc ngủ. Khi nhìn thấy đền đài nguy nga và đoàn Chư-Thiên nữ bao quanh mình, vị Trời ấy ngạc-nhiên, tự hỏi "Ta đã làm điều phước-thiện gì mà được như vậy?". Sau khi cố tìm kiếm trong trí, mới nhớ ra rằng điều phước-thiện đã làm không chi hơn là sự nhận biết được một tiếng trong lời thuyết Pháp của Đức Phật thôi. Vị Trời ấy liền mang đèn vàng bay xuống cõi trần đảnh lễ Đức Phật.

Mặc dầu đã rõ biết, nhưng Ngài vẫn hỏi bằng lời kệ rằng:

"Ko me vandati pãdãti iddhiyã yasasã jalam abhikantena vannena sabba obhãsayam disã "

(Vị nào mà có nhiều thần-lực, có địa-vị cao quí và có hào-quang rực-rỡ chiếu sáng cả bốn phương, đến đảnh lễ dưới chân Như-lai đó?)

Vị Trời ấy bèn bạch bằng lời kệ rằng:

"Mandukoham pure asim udake vãrigocaro tava dhammam sunantassa avadhi vacchapalako"

(Bạch Đức Thế-Tôn! Lúc trước tôi là con ếch sống ở dưới nước; khi đang nghe Pháp Đức Thế-Tôn, người chăn bò đã vô-ý giết tôi).

Đức Thế-Tôn thuyết Pháp cho vị Trời ấy nghe, có tám muôn bốn ngàn chúng sanh đắc đạo-quả trong buổi đó, còn vị Trời Mandũka được đắc quả Tu-Đà-Hườn, mỉm cười thỏa-thích về cõi trời.

Do nhờ những Ân-Đức vừa kể trên, nên Đức Phật có hiệu là SATTHADEVAMANUSSÃNAM(Thiên-Nhân-Sư).