Tại sao Đức Phật có hiệu là BUDDHO (Phật)? Bởi Ngài là:
- Bậc đã Thức-Tỉnh
- Bậc đã Thoát Ly
- Bậc đã Thông-Suốt lý Tứ-Diệu-Đế và đem ra giáo hóa cho chúng sanh cùng biết như Ngài.
Bậc đã thức-tỉnh.
Đức Thế-Tôn là bậc đã thức-tỉnh, vì Ngài không còn trong Tâm 7 Pháp ngủ-ngầm (Anusaya) là những Phiền-Não vi-tế tiềm-tàng chờ có dịp thì dấy động lên:
1) Kãmarãgãnusaya: Mê thích tình-dục ngủ-ngầm
2) Bhavarãgãnusaya: Ưa thích Tam-Giới ngủ-ngầm
3) Patighãnusaya: Bất-bình ngủ-ngầm
4) Mãnãnusaya: Cống cao, Ngã mạn ngủ-ngầm
5) Ditthãnusaya: Kiến thức ngủ-ngầm (Tà-kiến)
6) Vicikicchãnusaya: Hoài-nghi ngủ-ngầm
7) Avijjãnusaya: Vô-Minh ngủ-ngầm.
Ngài là bậc Giác-Ngộ, nghĩa là tự mình đã hiểu-biết tường-tận (Bujjhi) và diệt-tận trong Tâm bảy Pháp ngủ-ngầm vừa kể trên, rồi Ngài lại cảnh tỉnh chúng sanh đang ngủ mê hoặc ngủ quên trong các Pháp ấy cho tỉnh dậy như Ngài. Chúng sanh nào, tròn đủ thiện-duyên thì tỉnh dậy liền. Chúng sanh nào ít hoặc không có thiện-duyên thì lăn qua trở lại rồi tiếp-tục ngủ nữa.
Đức Thế-Tôn đã tự mình tỉnh dậy, không ai nhắc-nhở hoặc thức-tỉnh cho, chỉ do nhờ 30 Pháp Ba-La-Mật đã đào-tạo trong 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại-kiếp. Chính sự thực-hành viên mãn 30 Pháp Ba-La-Mật ấy đã thức-tỉnh Ngài, ví người ngủ đã giấc hoặc đúng giờ rồi tự nhiên thức dậy không cần ai kêu gọi.
Từ khi thành đạo dưới cội Bồ-Đề đến lúc nhập Niết-bàn, Ngài đã châu-du hoằng hóa, tế-độ quần sanh trọn 45 năm trường đằng-đẳng không ngừng-nghỉ. Vì Ngài là bậc Giác-Ngộ, thức-tỉnh trước tiên, nên Ngài thấy rõ tội-lỗi và khổ-não do sự ngủ quên, và sự an lạc trong cõi Niết-bàn. Ngài thấy chúng sanh đang lặn-hụp rên siết trong khổ hải, nên phát Tâm Bi-Mẫn bao-la, lo-lắng nhắc-nhở, cảnh-tỉnh (Bodhesi) chúng sanh đang ngủ mê trong vòng sanh tử luân hồi, cho tỉnh dậy cũng như Ngài.
Bậc đã thoát ly.
Đức Thế-Tôn là bậc đã thoát ly, ra khỏi Vô-Minh. Vô-Minh (Avijjã) có hai nghĩa:
- Adassanam: Không Thấy,
- Annãnam: Không Biết.
Vô-Minh đây, ý nói không thấy, không biết những Pháp chân thật là Tứ-Diệu-Đế. Có bốn điều:
1) Dukkha Annãnam: Không biết rõ cái khổ. Chúng sanh có thức tánh như trời người, thú, v.v... đang bị các sự thống khổ đè nén hãm hại không ngừng là khổ sanh, khổ già, khổ đau, khổ chết, khổ thương tiếc, khổ khóc than, khổ phiền muộn, khổ thất vọng, v.v... nhưng vẫn thản-nhiên như dường không hay biết những sự thống khổ ấy, vẫn miệt-mài theo Ngũ-Trần lục-dục, mê-muội, không rõ lẽ hợp tan của Ngũ-Uẩn. Cái khổ cho là vui, cái trược cho là trong sạch, cái chi Vô-Thường cho là bền vững v.v...
2) Dukkha Samudaye Annãnam: Không thấy, không biết Tập-Đế là lòng Ái-Dục (có 3 hoặc 108) là nguyên-nhân phát sanh các sự thống khổ.
3) Dukkha Nirodhe Annãnam: Không thấy, không biết Diệt-Đế là nơi diệt tận các sự khổ.
4) Dukkha Nirodha Gãmini Patipadãya Annãnam: Không thấy, không biết Đạo-Đế, là con đường dắt-dẫn đến nơi diệt tắt các sự khổ [*].
[*] Vô-Minh vừa giải trên là giải theo tạng Kinh (Suttanta), còn giải theo tạng Luận (Abhidamma) thì có 8 điều: 4 điều về Tứ-Diệu-Đế đã giải và thêm:
5) Pubbante annãnam: Không biết rõ sự khởi thì của Ngũ-Uẩn.
6) Aparante annãnam: Không biết rõ chỗ cuối cùng của Ngũ-Uẩn.
7) Pubbantãparante annãnam: Không biết rõ sự khởi thì và chỗ cuối cùng của Ngũ-Uẩn.
8) Paticcasamupadde annãnam: Không rõ lý nhân-quả liên-quan (12 nhân-duyên).
Màn Vô-Minh bao-trùm tất cả chúng sanh không cho thấy ánh sáng tức là Trí Tuệ thấy rõ, biết rõ những Pháp chân thật, ví như gà con chưa nở, còn trong vỏ trứng không thể thấy ánh sáng mặt nhựt vậy. Đến khi gà con đó cố gắng lấy mỏ soi vỏ trứng, lấy chân phá lỗ cho rộng, mới chui ra khỏi vỏ và thấy ánh sáng mặt trời được.
Đức Phật là bậc tiên khởi phá tan vỏ trứng Vô-Minh bao bọc tâm Ngài từ bao A-tăng-kỳ kiếp quá-khứ, đắc được Tuệ-Giác thông-suốt các Pháp Diệu-Đế, rồi Ngài cần chuyên thực-hành phận-sự (Buddha Kicca) không ngừng nghỉ cho đến lúc nhập Niết-bàn.
Phận-sự của Đức Phật trong mỗi ngày có 5:
1) Pubbanhe Pindapãtam: Buổi sáng trì bình khất thực.
2) Sãyanke Dhammadesanam: Buổi xế thuyết Pháp độ đời.
3) Padose Bikkhu Ovãdam: Buổi chiều tối ban huấn-từ cho hàng Tỳ-Khưu.
4) Addharatte Devapanhanam: Trong lúc nửa đêm, trả lời những câu hỏi của Chư-Thiên.
5) Paccũseva Gotte Kãle Bhabbãhabbe Vilokanam: Gần rạng đông, Ngài xem coi chúng-sanh nào có duyên lành hay không đặng đi đến tế-độ.
Bậc đã thông-suốt lý Tứ-Diệu-Đế.
Đức Thế-Tôn đã thông-suốt 4 Pháp chân-thật là Tứ-Diệu-Đế (Caturãriyasacca):
- Dukkha Sacca: Khổ-Đế,
- Samudaya Sacca: Tập-Đế,
- Nirodha Sacca: Diệt-Đế,
- Magga Sacca: Đạo-Đế.
Lý (Attha).
Mỗi Diệu-Đế đều có 4 lý hoặc trạng thái hay năng-lực.
Khổ-Đế có 4 lý:
1) Pilanattho: Có năng-lực hãm hại, phá-hoại chúng-sanh.
2) Sankhatattho: Có trạng thái do nguyên-nhân Ái-Dục cấu tạo nên.
3) Santãpattho: Có năng lực làm nóng nảy bực bội.
4) Viparinãmattho: Có trạng thái luôn luôn thay đổi không bền vững.
Tập-Đế có 4 lý:
1) Ayuhanattho: Có năng lực hội hợp các sự Khổ-Đế cho phát sanh lên.
2) Nidãnattho: Có trạng thái là nguyên nhân của sự khổ (có sự khổ là quả)
3) Samyyogattho: Có năng lực c?t trói, giam hãm chúng sanh trong Tam-Giới (trong sự khổ)
4) Palibodhanattho: Có năng lực làm bận rộn chúng sanh trên con đường giác ngộ là không cho đắc đạo-quả.
Diệt-Đế có 4 lý:
1) Nissaranattho: Có năng lực làm cho thoát khỏi phiền-não (sự khổ) và ra khỏi Tam-Giới.
2) Vivekattho: Có trạng thái yên lặng lánh xa sự khổ.
3) Asankhatattho: Có trạng thái không do nguyên nhân tạo thành được (vô sanh).
4) Amatattho: Có trạng thái không chết (bất diệt).
Đạo-Đế có 4 lý:
1) Niyãnattho: Có năng lực đưa ra khỏi vòng sanh-tử luân-hồi.
2) Hetvattho: Có tánh cách là nguyên nhân đưa đến Niết-Bàn.
3) Dassanattho: Có năng lực làm cho thấy rõ Niết-Bàn.
4) Adhipateyyattho: Có tánh cách quan trọng trong các Pháp hành cho thấy rõ Niết-Bàn.
Tướng hoặc Đặc-tính (Lakkhana).
Tứ-Diệu-Đế có 2 đặc-tính: Sankhãta Lakkhana (đặc-tính Hữu-Vi) và Asankhãta Lakkhana(đặc-tính Vô-Vi).
Đặc-tính Hữu-Vi chia làm 3:
- Uppãdo: Tánh-cách phát-sanh lên
- Vayo: Tánh-cách tiêu-diệt
- Thiti: Tánh-cách trụ-lai.
Đặc-tính Vô-Vi cũng chia làm 3:
- Anuppãdo: Tánh-cách không phát-sanh lên
- Navayo: Tánh-cách không tiêu-diệt
- Tánh-cách không an-trụ.
Khổ-Đế, Tập-Đế và Đạo-Đế thuộc về đặc-tính Hữu-Vi, còn Diệt-Đế thuộc về đặc-tính Vô-Vi.
Sự (Kicca).
Tứ-Diệu-Đế nếu chia ra Pháp Thiện (Kusala) và Pháp Ác (Akusala) và Pháp không Thiện không Ác (Abyãkata), thì Tập-Đế là Pháp Ác, Đạo-Đế là Pháp Thiện, Diệt-Đế là Pháp không Thiện không Ác, Khổ-Đế vừa là Pháp Thiện vừa là Pháp Ác và cũng là Pháp không Thiện không Ác.
Khổ-Đế là Pháp Thiện nếu đi đôi với Đạo-Đế (Pháp Thiện). Ý nói: Khi người nào cố-gắng học Kinh và Tham-Thiền hoặc hành 13 Pháp Đầu-Đà, hoặc chuyên-cần làm những việc lành (Bố Thí, Trì Giới, v.v...) trong sự học hỏi và thực-hành như thế, hằng có nhiều sự cam go cực-nhọc gọi là khổ, nhưng những hành-vi ấy đều là nghiệp lành, nên mới gọi Khổ-Đế là Pháp Thiện.
Khổ-Đế là Pháp Ác nếu đi đôi với Tập-Đế (Pháp Ác). Ý nói: khi người nào cố-gắng làm những điều ác (Sát Sanh, Trộm Cắp, Tà Dâm, v.v...), nhiều lúc phải chịu dầm mưa dãi nắng, tìm kiếm mưu-kế để thỏa lòng dục-vọng và có Tâm luôn luôn lo sợ (sợ bị chê bai, bị hành phạt v.v...), như thế gọi là khổ. Lại nữa những hành-vi ấy đều là nghiệp ác, nên mới gọi Khổ-Đế là Pháp Ác.
Khổ-Đế là Pháp không Thiện không Ác nếu đi đôi với Diệt-Đế (Pháp không Thiện không Ác). Ý nói: Các bậc Đạo-Quả A-la-hán (Đức Phật, Thinh-Văn,...) đều cố gắng thực-hành tròn đủ phận-sự cao-thượng và thuyết Pháp phổ-độ chúng sanh thật là mệt nhọc, nhưng không có phước báu (Quả) chi cả, nên mới gọi Khổ-Đế là Pháp không Thiện không Ác.
Quán-tưởng về Ngũ-Uẩn theo lý Tứ-Diệu-Đế.
Nếu quán-tưởng về Ngũ-Uẩn theo lý Tứ-Diệu-Đế, phải quán-tưởng từng uẩn một. Đầu tiên là Sắc-Uẩn.
Sự vui-thích nào đã phát sanh lên do nơi Sắc, gọi là sự vui thích của Sắc. Ấy là Tập-Đế, có thể giác-ngộ được bằng sự dứt bỏ.
Sắc không bền-vững, là khổ-não, luôn luôn thay đổi Vô-Thường, gọi là tội-lỗi của Sắc phát sanh lên do nơi Sắc. Ấy là Khổ-Đế, có thể giác-ngộ được bằng sự nhận-thức.
Sự dứt bỏ được Tâm ý tham muốn trong Sắc, gọi là thoát-ly khỏi Sắc. Ấy là Diệt-Đế, có thể giác-ngộ được bằng cách làm cho rõ-rệt.
Bát-Chánh-Đạo có Chánh-Kiến (là thấy biết chân-chánh trong 3 nhân) là đầu, gọi là Đạo-Đế, có thể giác-ngộ được bằng phép Quán Niệm-Tưởng.
Nên quán-tưởng thêm về Thọ-Uẩn, Tưởng-Uẩn, Hành-Uẩn, Thức-Uẩn, y theo phương-pháp đã giải trên về Sắc-Uẩn.
Quán-Tưởng Nhân-Quả Liên-Quan theo lý Tứ-Diệu-Đế.
Pháp Nhân-Quả Liên-Quan (Thập-Nhị Nhân-Duyên) - Paticca Samuppãda - có 12 chi nương nhau và liên-hệ với nhau. Chi này là nhân của chi sau và cũng là quả của chi trước, ví như một sợi dây xích có 12 khoan liền nhau, khoan này là quả của khoan trước và cũng là nhân để nối liền với khoan sau (xin xem giải rộng chi tiết trong quyển Nhân-Quả Liên-Quan của Đại-Đức Bửu Chơn).
12 chi là:
1) Vô Minh (Avijjã) sanh ra Hành
2) Hành (Sankhãra) sanh ra Thức
3) Thức (Vinnãna) sanh ra Danh Sắc
4) Danh Sắc (Nãma Rũpa) sanh ra Lục Căn
5) Lục Căn (Salãyatana) sanh ra Xúc
6) Xúc (Phassa) sanh ra Thọ
7) Thọ (Vedanã) sanh ra Ái
8) Ái (Tanhã) sanh ra Thủ
9) Thủ (Upãdanã) sanh ra Hữu
10) Hữu (Bhava) sanh ra Sanh
11) Sanh (Jãti) sanh ra Lão, Tử (Jarã Maranam)
12) Luôn cả sự thương-tiếc, khóc than, khó chịu, phiền muộn v.v... là những sự thống-khổ cùng phát sanh lên với già, chết thành ra 12 chi.
Nếu quán tưởng 12 Nhân-Duyên ấy theo lý Tứ-Diệu-Đế thì:
- Lão, Tử là Khổ-Đế, Sanh là Tập-Đế, sự thoát-ly Lão Tử và Sanh là Diệt-Đế, Tuệ biết rõ Diệt-Đế là Đạo-Đế.
- Sanh là Khổ-Đế, Hữu là Tập-Đế, sự thoát-ly khỏi Sanh và Hữu là Diệt-Đế, Tuệ biết rõ Diệt-Đế là Đạo-Đế.
- Hữu là Khổ-Đế, Thủ là Tập-Đế, sự thoát-ly khỏi Hữu và Thủ là Diệt-Đế, Tuệ biết rõ Diệt-Đế là Đạo-Đế.
- Thủ là Khổ-Đế, Ái là Tập-Đế, sự thoát-ly khỏi Thủ và Ái là Diệt-Đế, Tuệ biết rõ Diệt-Đế là Đạo-Đế.
- Ái là Khổ-Đế, Thọ là Tập-Đế, sự thoát-ly khỏi Ái và Thọ là Diệt-Đế, Tuệ biết rõ Diệt-Đế là Đạo-Đế.
- Thọ là Khổ-Đế, Xúc là Tập-Đế, sự thoát-ly khỏi Thọ và Xúc là Diệt-Đế, Tuệ biết rõ Diệt-Đế là Đạo-Đế.
- Xúc là Khổ-Đế, Lục Căn là Tập-Đế, sự thoát-ly khỏi Xúc và Lục Căn là Diệt-Đế, Tuệ biết rõ Diệt-Đế là Đạo-Đế.
- Lục Căn là Khổ-Đế, Danh-Sắc là Tập-Đế, sự thoát-ly khỏi Lục Căn và Danh-Sắc là Diệt-Đế, Tuệ biết rõ Diệt-Đế là Đạo-Đế.
- Danh-Sắc là Khổ-Đế, Thức là Tập-Đế, sự thoát-ly khỏi Danh Sắc và Thức là Diệt-Đế, Tuệ biết rõ Diệt-Đế là Đạo-Đế.
- Thức là Khổ-Đế, Hành là Tập-Đế, sự thoát-ly khỏi Thức và Hành là Diệt-Đế, Tuệ biết rõ Diệt-Đế là Đạo-Đế.
- Hành là Khổ-Đế, Vô-Minh là Tập-Đế, sự thoát-ly khỏi Hành và Vô-Minh là Diệt-Đế, Tuệ biết rõ Diệt-Đế là Đạo-Đế.
Những sự thống-khổ do già, chết, thương tiếc, khóc than, khổ não, phiền muộn, khó chịu, bực tức, thất vọng v.v... gọi là Khổ-Đế.
Đức Phật đã thấy biết tường-tận tinh-vi Vô-Minh và Ái-Dục là hai gốc (Mũla) của bánh xe nhân quả, là nguồn cội của Luân-Hồi, là nguyên-nhân phát sanh sự khổ, gọi là Tập-Đế.
Do nhờ Thánh-Đạo, Ngài đã cắt đứt (diệt tận) cả hai gốc rễ ấy. Vô-Minh và Ái-Dục đã bị diệt rồi, thì các Pháp khác là Hành, Thức, Danh-Sắc,... cũng bị diệt theo và bánh xe Nhân-Quả Liên-Quan cũng ngừng xoay. Sự diệt tận ấy gọi là Diệt-Đế.
Do nhờ Thiền-Định và Minh-Sát, Ngài đã làm cho rõ-rệt con đường đi đến nơi diệt khổ, gọi là Đạo-Đế.
Sau khi giác-ngộ, thông suốt lý Tứ-Diệu-Đế rồi, Ngài đem ra giáo-hóa chúng sanh cùng biết, hầu thực-hành theo để diệt-tận các sự thống-khổ và được giải-thoát cũng như Ngài.
Lại nữa, Đức Đại-Bi có hiệu là BUDDHO (Phật) cũng do nhờ những ân-đức sau đây.
Sabbadassavita buddho.
Ngài đã thấy rõ tất-cả những điều kinh khủng trong quá-khứ, vị-lai và hiện-tại (ý nói các điều kinh sợ mà chúng sanh phải chịu khi sa vào ác-đạo là Súc-sanh, Ngạ-quỉ, A-tu-la, Địa-ngục (Duggatibhaya).
Khinasavasankhatena buddho.
Ngài không còn trong Tâm ba Pháp Trầm-Luân (Asavã) là Trầm-Luân trong Ngũ-Trần (Kãmãsava), Trầm-Luân trong Tam-Giới (Nhavasava) và Trầm-Luân trong Vô-Minh (Avijjãsava).
Nirupakilesankhatena buddho.
Ngài đã xa lià 10 Phiền-Não (Kilesa) là tham, sân, si, ngã mạn, kiến thức (tà kiến), hoài nghi, phóng tâm, tâm dụ-dự uể-oải, không hổ thẹn tội lỗi, không ghê sợ tội lỗi.
Ekayamaggam gatoti.
Ngài đã đi theo con đường chân-chánh chỉ có một, là con đường Trung-đạo (Majjhimãpatipadã) để đến đích là Niết-Bàn.
Eko anuttara sammasambodhim abhisam buddho.
Ngài là bậc đã tự mình giác-ngộ chân-chánh, thông suốt 10 Huệ-lực (Dasabalannãna) [*] và Tuệ thông hiểu tất cả các Pháp Hữu Vi và Vô Vi không dư sót (Sabbannutanãna: Diệu-Giác Viên-Minh), không Chư-Thiên và Phạm-Thiên nào sánh bằng.
[*] 10 Huệ Lực của Đức Phật:
1 - Thãnãthãnannãna: Huệ biết rõ nguyên-nhân hay không phải nguyên-nhân đúng theo chân-lý.
2 - Vipãkannãna: Huệ biết rõ cái quả của nghiệp (thiện hay ác) đã tạo.
3 - Sabbathagãmimaggannãna: Huệ biết rõ hành-vi thế nào đưa chúng sanh đến cảnh giới vui hay khổ.
4 - Nãnãdhãtunnãna: Huệ biết tất cả nguyên-chất khác nhau.
5 - Nãnãdhimuttinnãna: Huệ biết rõ trình-độ của chúng sanh thấp hèn hay cao thượng.
6 - Indriyaparopariyatannãna: Huệ biết rõ căn-cơ chúng sanh khác nhau.
7 - Jhãnãdinnãna: Huệ biết rõ điều nhơ bẩn hay trong sạch của các cõi thiên và sự giải-thoát.
8 - Pubbenivãsannãna: Huệ biết rõ những tiền kiếp của mình và chúng sanh.
9 - Cutupapãtannãna: Huệ biết rõ sanh tử luân-hồi của chúng sanh do theo nghiệp (Lành hay Ác).
10 - Asavakkhayannãna: Huệ biết rõ các pháp trầm luân và diệt tận không còn dư sót
Do nhờ những ân-đức cao quí vừa kể trên, nên Đức Phật có hiệu là BUDDHO (Phật).