Chùa Phật Ân 475 Minnesota Avenue Roseville, MN 55113. Tel: (651) 482-7990 - Web: www.PhatAn.org. Email: chua_phatan@yahoo.com.
THƯ MỤC TÁC GIẢ

NGHI THỨC LỄ VÍA A-DI-ĐÀ

01 Tháng Sáu 20165:39 SA(Xem: 20210)
NGHI THỨC LỄ VÍA A-DI-ĐÀ
                                                                                                                              NGHI THỨC

LỄ VÍA A-DI-ĐÀ

--- o0o ---

 

NIỆM HƯƠNG:

 

TỊNH PHÁP GIỚI CHƠN

Án lam tóa ha (3 lần)

 

TỊNH TAM NGHIỆP CHƠN NGÔN

Án ta phạ bà phạ, thuật đà, ta phạ, đạt ma ta phạ, bà phạ thuật độ hám. (3 lần)

 

PHỔ CÚNG DƯỜNG CHƠN-NGÔN:

Án nga nga nẳng tam bà phạt phiệt nhựt ra hồng. (3 lần)

 

 

 

CÚNG HƯƠNG

Nguyện đem lòng thành kính

Gửi theo đám mây hương.

Phưởng phất khắp mười phương

Cúng dường ngôi Tam Bảo.

Thề trọn đời giữ đạo,

Theo tự tánh làm lành,

Cùng Pháp-giới chúng-sinh,

Cầu Phật-từ gia-hộ.

Tâm bồ-đề kiên cố,

       Xa bể khổ nguồn mê,

Chóng quay về bờ giác.

 

Nam Mô Hương cúng dường Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần, o, xá 1 xá)

 

KỲ NGUYỆN

       Nay chính là ngày kỷ-niệm Đức Tiếp-Dẫn Đạo-Sư A-Di-Đà Phật, chúng con một dạ vui mừng, cúi đầu đảnh lễ. Nguyện Phật dùng sức đại nguyện, lấy lượng từ bi mà nhiếp thọ cho, để cho chúng con được ngay chánh niệm, các tội tiêu diệt, căn lành tăng trưởng, trí tuệ rộng khai, chín phẩm sen vàng có phần dự được. Ngưỡng mong Phật trí cao vời thùy từ chứng giám.

 

Nam-Mô Thập Phương Thường Trú Tam-Bảo tác đại chứng minh.

 

TÁN PHẬT

Đấng Pháp-Vương vô-thượng,

Ba cõi chẳng ai bằng,

Thầy dạy khắp trời, người,

Cha lành chung bốn loại.

Quy-y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán

Ức kiếp không cùng tận. (o)

 

 

 

QUÁN TƯỞNG PHẬT

Phật, chúng-sanh tánh thường rỗng lặng

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn

Lưới đế-châu ví đạo-tràng,

Mười phương Phật-bảo hào-quang sáng ngời

Trước bảo-tòa thân con ảnh hiện

Cúi đầu xin thệ nguyện quy y. (o)

 

ĐẢNH LỄ

Chí tâm đảnh lễ : Nam Mô tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị-lai thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng thường trú Tam Bảo. (o, lạy 1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ : Nam Mô Ta bà Giáo-Chủ Điều-Ngự Trượng-Phu Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Đương Lai Hạ-Sanh Di-Lặc Tôn Phật, Đại-Trí Văn-Thù Sư-Lợi Bồ-Tát, Đại-Hạnh Phổ-Hiền Bồ-Tát, Hộ-Pháp Chư Tôn Bồ-Tát, Linh-Sơn Hội-Thượng Phật Bồ-Tát.

(o, lạy 1 lạy)

Chí tâm đảnh lễ : Nam Mô Tây Phương Cực-Lạc Thế-Giới Đại-Từ Đại-Bi Tiếp-Dẫn Đạo-Sư A-Di-Đà Phật, Đại-Bi Quán-Thế-Âm Bồ-Tát, Đại-Thế-Chí Bồ-Tát, Đại-Nguyện Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát, Thanh-Tịnh Đại-Hải chúng Bồ-Tát.

(o, lạy 1 lạy)

 

TÁN HƯƠNG CÚNG PHẬT

Lư hương vừa ngún chiên đàn,

Khắp xông pháp giới, đạo tràng mười phương,

Quyện thành mây báu kiết tường,

Chư Phật rõ biết ngọn hương chí thành,

Pháp thân ảnh hiện rành rành,

Chứng minh hương nguyện, tâm thành kính dâng.

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần, o)

 

CHÚ ĐẠI BI

       Nam-mô Đại-Bi Hội-Thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà-la-ni : Nam-mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam-mô a rị da, bà lô yết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bà ra phạt duệ, số đát na đát tả.

       Nam-mô tất cát lật đỏa, y mông a rị da, bà lô cát đế, thất Phật ra lăng đà bà.

       Nam-mô na ra cẩn trì, hê rị ma ha bà đá sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đá, na ma bà già, ma phạt đặc đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca la đế, di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, câu lô câu lô yết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, giá ra giá ra. Ma ma phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê lị, sa ra sa ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ bồ đà dạ, di đế lị dạ, na ra cẩn trì, địa lị sắt ni na, bà dạ ma na, sa bà ha. Tất đà dạ, sa bà ha. Ma ha tất đà dạ, sa bà ha. Tất đà du nghệ, thất bà ra da, sa bà ha. Na ra cẩn trì, sa bà ha. Ma ra na ra, sa bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, sa bà ha. Sa bà ma ha a tát đà dạ, sa bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ, sa bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, sa bà ha. Na ra cẩn trì bà già ra da, sa bà ha. Ma bà lị thắng yết ra dạ, sa bà ha.

Nam-mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam-mô a lị da, bà rô cát đế, thước bà ra da, sa bà ha.

       Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

Nam Mô Thập Phương Thường Trú Tam Bảo (3 lần, o)

 

KHAI KINH KỆ 

Thăm thẳm cao siêu Pháp nhiệm mầu

Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu,

Con nay nghe thấy chuyên trì niệm,

Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (3 lần, o)

 

(TỤNG KINH DI ĐÀ TRANG 81)

 

TÁN PHẬT- A DI ĐÀ

Giáo Chủ cõi Tây Phương

Đức Phật A Di Đà

Phát bốn mươi tám nguyện

Hướng dẫn đường chúng sanh.

Đài sen rực rỡ sẵn sàng

Quán Âm, Thế Chí, hai hàng tiếp nghinh.

 

Nam Mô Tịnh Độ Phẩm Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần, o)

 

BỐN MƯƠI TÁM LỜI NGUYỆN CỦA ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ

--- o0o ---

 

Nguyện thứ nhất: tôi thành Phật được,

Thì nước tôi là nước tịnh thanh,

Ngục hình, Ngạ quỷ, Súc sinh,

Thảy đều chẳng có sanh thành nơi đây.

 

Nguyện thứ hai: nước này tịnh giới,

Đàn bà cùng con gái tịch nhiên,

Những người trong cõi Nhơn, Thiên,

Cùng loài cầm thú cần chuyên tu hành,

Thảy đều đặng hóa sanh thọ cảm,

Thất bảo trì, Cửu phẩm liên hoa.

Nguyện thứ ba: dân chúng Phật-đà,

Khi cần ăn uống hóa ra sẵn sàng

Bát thất-bảo, bỉ bàng đựng lắm,

Trăm món ngon, khỏi sắm ở đâu,

Ăn rồi khí dụng liền thâu,

Không cần phải rửa, phải lau nhọc nhằn.

 

Nguyện thứ tư: nhơn dân trong nước,

Muốn áo quần, khăn, lược, mão, giầy,

Thảy đều hóa đủ sẵn bầy,

khỏi mua khỏi giặt, khỏi may cực lòng.

 

Nguyện thứ năm: giáp vòng địa lợi,

Từ đất bằng lên tới hư không,

Thảy đều lầu các, điện, cung,

Cùng là cây trái, ao, sông, cửa nhà.

Các thứ ấy đều là trân bảo,

Cùng bá thiên hoa báu, hương thơm,

Hiệp nhau thành tạo kết đơm,

Trau giồi trang sức cho làm phiền-ba,

Mùi hương ấy xông ra khắp đủ,

Cả mười phương hưởng thụ cấp kỳ.

Chúng sinh hạnh nguyện, chuyên trì,

Tin và tưởng Phật, đến thì vãng sanh.

 

Nguyện thứ sáu: dân lành quốc độ,

Thương kỉnh nhau ví tợ ruột rà,

Không lời qua lại bất hòa,

Không ganh, không ghét, sinh ra tranh giành.

 

Nguyện thứ bẩy: dân sinh trong nước,

Không có lòng uế trược, dâm ô,

Cũng không có tánh tục thô,

Cùng là nóng giận hồ đồ ngu si.

 

Nguyện thứ tám : chuyên trì thiện niệm,

Cứ đường ngay tiệm tiệm lướt đi,

Nếu ai muốn nói chuyện gì,

Người kia hiểu ý tức thì khỏi phân.

 

Nguyện thứ chín : chúng dân từ thiện,

Tai chẳng nghe những chuyện không lành

Có đâu sự ác tự hành,

Mấy điều nghiệp chướng đã thành vô-danh.

Nguyện thứ mười : chúng sanh đều ví,

Huyễn thân là mộng mị mà thôi,

Vậy nên lòng chẳng nhiễm đời,

Tánh không tham muốn, khắp nơi vui cười.

 

Nguyện mười một : Tiên, người tuy khác,

Hình dung đồng một sắc vàng y,

Mặt mày nghiêm chỉnh, phương phi,

Trong ngần đẹp đẽ, không chi ví bằng.

 

Nguyện mười hai : Mười phương thế-giới,

Thiên, nhơn, cùng các loại súc-sanh,

Hóa thân về cõi Lạc-Thành,

Chứng ngôi Duyên-Giác, Thanh-Văn trùng trùng.

Ngồi thiền tọa, tấm lòng tịch tịnh,

Hiệp cùng nhau tính tuổi ít nhiều,

Chẳng hề biết đặng bao nhiêu,

Ngàn, muôn, ức kiếp số nhiều khó phân.

 

Nguyện mười ba : Thiên, Nhân trên giải,

Hiệp cùng nhau đếm mãi dân cư,

Không hề rõ biết số dư,

Tại An-Dưỡng Quốc nhiều như cát Hằng.

 

Nguyện mười bốn : dân trong quốc độ,

Thảy thảy đồng trường thọ miên miên,

Không sao biết đặng số niên,

Sống lâu vô lượng, vô biên kiếp đời.

Nguyện mười lăm : dân thời thanh tịnh,

Trụ vào nơi thực tánh trạm nhiên,

Ly chư loạn tưởng đảo điên,

Đắc vô phân biệt, mãn viên Niết-Bàn.

 

Nguyện mười sáu : Lạc-Bang dân chúng,

Vui vẻ mà thọ dụng đủ điều,

Thảy đồng với các Tỳ-kheo,

Chứng phần vô-lậu hết theo sự đời.

Nguyện mười bảy : Khi tôi thành Phật,

Sẽ giảng kinh, thuyết ‘Thật’ độ sanh,

Làm cho sở nguyện đắc thành,

Công tôi giảng đạo trọn lành hơn ai.

Nguyện mười tám : hóa thai khỏi dục,

Người người đều đắc túc-mạng-thông,

Rõ điều tiền kiếp xa trông,

Hằng hà sa số như đồng kim sinh.

 

Nguyện mười chín : chúng sinh ức vạn,

Đắc thần thông thiên-nhãn tịnh-quang,

Thấy toàn vũ trụ mười phang,

Trùng trùng duyên khởi thế gian tỏ tường.

 

Nguyện hai mươi : Tây-Phương dân chúng

Thiên-nhĩ-thông đắc dụng nghe xa,

Những lời thuyết pháp bủa ra,

Của trăm ngàn ức Phật-đà khẩu tuyên.

 

Nguyện hăm mốt : Nhơn, Thiên trong nước

Tha-tâm-thông biết được chẳng sai,

Những điều tâm niệm mỗi loài,

Thập phương thế-giới không ngoài tánh linh.

Nguyện hăm hai: chúng-sinh quốc-độ,

Thần-túc-thông đắc ngộ dong chơi,

Bao hàm thế-giới nơi nơi,

Vượt qua một mạch, mau thời hơn bay.

 

Nguyện hăm ba : khi tôi thành Phật,

Danh hiệu tôi vang dội mười phương,

Phật và đại-chúng tán dương,

Còn dân trong nước lai vương tôi hoài.

Thiên, nhơn, với các loài thú vật,

Niệm danh tôi cho thật chí thành,

Sinh lòng vui vẻ hiền lành,

Lâm chung sẽ đặng hóa sinh sen vàng.

Nguyện hăm bốn: ánh quang minh chiếu,

Nơi đầu tôi tuyệt diệu rỡ ràng,

Mặt trời cùng ánh mặt trăng,

Tuy là sáng tỏ chẳng bằng Phật quang.

 

Nguyện hăm lăm: hào quang tôi chói,

Khắp cùng nơi chỗ tối khúc quanh,

Thiên, nhơn, cùng các súc-sanh,

Thấy liền động khởi lòng thành quy-y.

 

Nguyện hăm sáu: bất kỳ nhơn, thú,

Trong thập phương vũ-trụ vân vân,

Nhờ hào quang chiếu đến thân,

Từ hoà tâm tánh hơn dân cõi trời.

 

Nguyện hăm bảy: Tiên, người phát ý,

Tâm bồ-đề trì chí giới trai,

Lục ba-la-mật quảng khai,

Làm nhiều công đức chẳng sai một thì,

Khi thọ mạng tới kỳ viên mãn,

Có tôi và các hạng Tăng lành,

Phóng quang tiếp dẫn vãng sanh,

Đặng làm Bồ-Tát tại thành Lạc-Bang.

 

Nguyện hăm tám : Thiên, nhơn vũ-trụ,

Nghe danh tôi sắm đủ bỉ-bàng,

Hương, hoa, đăng, chúc huy hoàng,

Tràng-phan, bảo-cái cúng dường Như-Lai

Tạo tháp-tự, trì trai thanh tịnh,

Làm việc lành tâm định tưởng tôi,

Tưởng luôn trọn một ngày thôi,

Chắc là sẽ đặng Nước tôi về liền.

 

Nguyện hăm chín : Nhơn, Thiên mười cõi,

Nếu dốc lòng ra khỏi bến mê,

Hiệu tôi thập niệm chuyên bề,

Lâm chung sẽ đặng sinh về Lạc-Bang.

Trừ những kẻ hung tàn hỗn tạp,

Cùng những người Phật Pháp dễ khinh,

Ai mang tội ấy vào mình,

A-tỳ Địa-ngục thọ hình chung thân.

 

Nguyện ba mươi: Thiên, Nhơn, cầm-thú,

Trong thập phương vũ trụ khôn lường,

Trước đà tạo tội thường thường,

Sau nghe danh Phật tỏ tường cung khai,

Cầu sám hối, trì trai, giới sát,

Nguyện làm lành nước Phật mộng sinh,

Lâm chung sẽ đặng công lành,

Khỏi tam đồ khổ, hóa sinh liên đài.

 

Nguyện băm mốt: Tiên, Người mười cảnh,

Nghe danh tôi lễ đảnh theo về,

Vui mà tu hạnh bồ-đề,

Người người cung kính một bề tán dương.

 

Nguyện băm hai : Thập phương thế-giới,

Những đàn bà con gái chán đời,

Phát tâm tín niệm danh tôi,

Thân sau tránh khỏi phục hồi nữ nhơn.

 

Nguyện băm ba : chúng dân mới tới,

Quả vô-sinh bất thối chứng liền,

Lại thêm quả Phật siêu nhiên,

Ngoại trừ những vị bổn nguyền độ sanh,

Tôi sẽ giúp cho thành sở mộ,

Tới tha phương tế độ hàm linh.

Hạnh tu Bồ-tát rất tinh,

Lại còn lấy sức oai linh hộ truyền,

Cho người ấy tinh chuyên tấn bộ,

Cùng chúng sinh tín thọ pháp huyền,

Bồ-đề, Tịch-diệt, Phổ-Hiền,

Tấn thêm tối-thắng cần chuyên thi hành.

 

Nguyện băm bốn : dân lành trong nước,

Độ chúng sanh dùng đủ mọi phương,

Ước nguyền sẽ đặng như lòng,

Bao nhiêu nghiệp ác ba đường khỏi mang.

 

Nguyện băm lăm : các hàng Bồ-Tát,

Muốn cúng dường chư Phật đâu đâu,

Hoa hương, anh lạc, trân châu,

Liền đi khắp đủ, vừa hầu bữa ăn.

 

Nguyện băm sáu : muôn ngàn báu vật,

Muốn cúng dường chư Phật, Thánh Hiền,

Ước ra thì có đủ liền,

Cùng dâng khắp cả về miền chưa trưa.

 

Nguyện băm bảy : ai vừa đọc tụng,

Hoặc thọ trì, phụng cúng chư kinh,

Đặng tài biện luận thông minh,

Lại thêm bát-nhã trí lành cao siêu.

 

Nguyện băm tám : giảng điều pháp lý,

Đủ viên thông, đầy trí tuệ tâm,

Nghĩa kinh cùng với pháp âm,

Dầu rằng vi-diệu cao thâm đều cùng.

 

Nguyện băm chín : quốc trung Bồ-Tát,

Thảy thảy đồng dõng bạt kiên cần.

Mỗi người đều đặng kim thân,

Băm hai tướng tốt, mười phân sắc mầu,

Thuyết các pháp gồm thâu đạo Phật,

Cũng in như chư Phật đương thời.

 

Nguyện bốn mươi: nước của tôi,

Hoàn toàn tinh sạch, chiếu soi một mầu,

Chư Bồ-Tát ví như muốn thấy

Cõi Phật nào là thấy chẳng ngoa,

Dòm trong ‘bảo-thọ’ hiện ra,

Cảnh nào Phật nấy như là soi gương.

 

Nguyện bốn mốt: mọi đường công đức,

Bồ-Tát nào chưa được hoàn toàn,

Đặng nghe, đặng thấy Đạo-tràng,

Bề cao cho đến bốn ngàn na-do.

 

Nguyện bốn hai: các đồ nhật dụng,

Quốc độ tôi thiệt đúng tinh minh,

Chói ngời hình sắc đẹp xinh,

Dầu thiên nhãn chẳng nhìn hình đặng đâu.

Nguyện bốn ba: ai ai trong nước,

Chí mong cầu nghe được Pháp Kinh,

Tự nhiên sở nguyện đắc thành,

Không cần mời thỉnh, thường tình thế gian.

 

Nguyện bốn bốn: Thanh-Văn, Duyên-Giác,

Trong nước tôi đều đắc oai thần,

Hào quang tỏ rạng vô ngần,

Biện tài thuyết pháp ngang phần Pháp-Vương.

 

Nguyện bốn lăm: tha phương Bồ-Tát,

Nghe danh tôi tấn phát phụng hành,

Thảy đều đặng pháp tịnh-thanh,

Định-thần giải-thoát phước lành thưởng ban.

Như ai muốn cúng dường Phật Pháp,

Trong một giờ đi khắp hà-sa,

Tuy là đường xá rất xa,

Định thần không lạc, Thiền-na chẳng lìa.

 

Nguyện bốn sáu: Chư tôn Bồ-Tát

Ở tha phương nghe đạt danh tôi,

Quy-y tinh-tấn vừa rồi,

‘Định-thần bình-đẳng’ phục hồi bổn nguyên.

Đắc pháp-nhẫn lên ngôi Chánh-Giác,

Đặng thấy thường các bậc Như-Lai.

 

Nguyện bốn bảy như vầy :

Tha phương Bồ-Tát về đầy nước tôi,

Hướng Đạo-cả tâm hồi bất nhị,

Chẳng thối lui địa vị cao sâu.

 

Nguyện bốn tám báu mầu,

Tha phương Bồ-Tát khấu đầu quy y,

Chư vị ấy đắc kỳ sở nguyện,

Nhứt, nhị, tam ‘Nhẫn-thiện’ Pháp-Vương,

Pháp môn của Phật khôn lường,

Thập phương vững trụ dẫn đường chúng-sanh,

 

Khi Pháp-Tạng nguyện xong bốn tám,

Cõi Tam-Thiên, sáu món rung rinh,

Hương hoa đổ xuống đầy thành,

Hư không phát tiếng ‘chắc thành Như-Lai’.

KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT

Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, Ngài soi thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách.

“Này Ông Xá Lợi Phất, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế”.

“Này Ông Xá Lợi Phất, “tướng không của mọi pháp” không sanh, không diệt, không dơ, không sạch, không thêm, không bớt, nên trong “chân không” không có sắc, không có thọ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới, cho đến không có ý thức giới, không có vô minh, cũng không có cái hết vô minh, cho đến không có già chết, cũng không có cái hết già chết, không có khổ, tập, diệt, đạo, không có trí huệ, cũng không có chứng đắc. Vì không có chỗ chứng đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại, nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo, mộng tưởng, đạt tới cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa, được đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần Chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng Chú, là Vô Đẳng Đẳng Chú, trừ được hết thảy khổ, chân thật không hư”.

Vì vậy, liền nói Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha”. (o)

 

CHÚ VÃNG SANH

       Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa địa dạ tha, a di rị đô bà tì, a dị rị đa tất đam bà tì, a di rị đa tì ca lan đế, a di rị đa tì ca lan đa, dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha.

(3 lần, o)

 

NIỆM PHẬT

A Di Đà Phật thân sắc vàng,
Tướng tốt rực rỡ hào quang sáng ngời,
Mày trắng tỏa, Tu Di uyển chuyển,
Mắt trong ngần, bốn biển long lanh,
Ánh hào quang hóa vô số Phật,
Vô số Bồ Tát hiện ở trong,
Bốn mươi tám độ nguyện chúng sanh,
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát,
Qui mạng lễ A Di Đà Phật,
Ở Phương Tây thế giới an lành.
Con nay xin phát nguyện vãng sanh,
Cúi xin Đức Từ Bi nhiếp thọ.
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật

Nam-Mô A-Di-Đà Phật (30 lần)

Nam-Mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát

 (3 lần)

Nam-Mô Đại-Thế-Chí Bồ-Tát (3 lần)

Nam-Mô Thanh-Tinh Đại-Hải chúng Bồ-Tát (3 lần)

 

SÁM DI ĐÀ

Muốn đi có một đường nầy,

Nhứt tâm niệm Phật khó gì thoát ra,

Vậy khuyên phải niệm Di Đà,

Hồng danh sáu chữ thật là rất cao.

Hay trừ tám vạn trần lao,

Tham thiền quán tưởng pháp nào cũng thua,

Di Đà xưa cũng làm vua,

Bỏ ngôi bỏ nước vô chùa mà tu,

Xét ra từ kiếp đã lâu,

Hiệu là Pháp Tạng Tỷ kheo đó mà.

Trong khi Ngài mới xuất gia,

Bốn mươi tám nguyện phát ra một lần.

Nguyện nào cũng lắm oai thần,

Nguyện nào cũng trọng về phần độ sanh,

Vì thương thế giới bất bình,

Nên chi đầu Phật mà đành bỏ ngôi,

Thầy là Bảo Tạng Như Lai,

Bạn là Bảo Hải tức ngài Thích Ca.

Thích Ca nguyện độ Ta bà,

Di Đà nguyện mở cửa nhà Lạc bang,

Mở ao chín phẩm sen vàng,

Xây thành bá bảo đồ đàng thất trân.

Lưu ly quả đất sáng ngần,

Lầu châu cát ngọc mười phần trang nghiêm.

Hoa trời rưới cả ngày đêm,

Có cây rất báu có chim rất kỳ,

Lạ lùng cái cảnh phương Tây,

Mười phương cõi Phật cảnh nào cũng thua.

Phong quang vui vẻ bốn mùa,

Nước reo pháp Phật gió khua nhạc trời.

Di Đà có thệ một lời,

Mở ra cõi ấy tiếp người vãng sanh,

Mười phương ai phát lòng lành,

Nhất tâm mà niệm hồng danh của Ngài.

Hằng ngày trong lúc hôm mai,

Niệm từ mười tiếng đến vài ba trăm,

Khi đi, khi đứng, khi nằm,

Chuyên trì niệm Phật, lòng chăm phát nguyền.

Nguyện sanh về cõi bảo liên,

Là nơi Cực lạc ở miền Tây phương,

Đến khi thọ mạng vô thường,

Thì Ngài phóng ngọn hào quang rước liền.

Biết bao phước đức nhơn duyên,

Đã về Cực lạc còn phiền não chi,

Sự vui trời cũng chẳng bì,

Đêm đêm thong thả ngày ngày vui chơi.

Sống lâu kiếp kiếp đời đời,

Không già không chết không dời đi đâu.

 

HỒI HƯỚNG

 Phúng kinh công đức, hạnh nhiệm mầu.

Thắng phước bao nhiêu con nguyện cầu

Tất cả chúng sanh trong pháp giới

Hướng về Phật Pháp tỏ đạo mầu. (o)

Nguyện cho ba chướng tiêu tan

Phiền não dứt sạch, huệ căn sáng ngời

Cầu cho con được đời đời

Hành Bồ Tát Đạo, cứu đời lầm than. 

Nguyện sanh Tây Phương, cõi Lạc Bang

Cha mẹ, sen vàng chín phẩm sanh

Hoa nở, thấy Phật, quả viên thành

Các vị Bồ Tát bạn lành với ta.  (o)

 

TAM QUY Y

Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sinh thể theo đạo cả, phát lòng vô thượng.                                             (o,1 lạy)

Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sinh thấu rõ kinh tạng, trí tuệ như biển.                                  (o,1 lạy)

Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sinh thống lý đại chúng, hết thảy không ngại. (o,1 lạy)

      

Nguyện đem công đức này,

Hướng về khắp tất cả:

Đệ tử và chúng sinh,

Đều trọn thành Phật đạo.