Chùa Phật Ân 475 Minnesota Avenue Roseville, MN 55113. Tel: (651) 482-7990 - Web: www.PhatAn.org. Email: chua_phatan@yahoo.com.
THƯ MỤC TÁC GIẢ

chương 3

13 Tháng Bảy 20162:19 CH(Xem: 2713)
chương 3

MƯỜI TÁM VỊ LA-HÁN

 Phần 3: (11-15)

 

11. LA-HỖ-LA

Tôn giả La-hỗ-la chính là La-hầu-la, con của thái tử Tất-đạt-đa. Ngài là vị La-hán thứ mười một trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài đang cùng một ngàn một trăm đệ tử trú tại Tất-lợi-dương-cù châu. Trong “Thập đại đệ tử Phật”, ngài được xưng tán là vị Mật hạnh đệ nhất.

Về cuộc đời Ngài, chúng tôi đã giới thiệu rất nhiều trong quyển “Thập đại đệ tử Phật” của Từ ân Phật giáo nhi đồng tùng thư, ở đây chỉ nói thêm vài mẫu chuyện thú vị khác.

Ba chữ “La-hầu-la” hán dịch là Phú Chướng. Vì sao đức Phật đặt cho ngài tên này? Câu chuyện được tương truyền:

Khi chưa ra đời, ngài ở trong bụng vương phi Da-du-đà-la suốt sáu năm. Thông thường, trẻ con ở trong bụng mẹ lâu nhất cũng chỉ có mười tháng, thế mà ngài lại ở đến sáu năm, thật kỳ lạ! Nguyên nhân là vì sao? Chuyện kể rằng vì tiền kiếp của ngài lúc còn là một đứa trẻ ngây thơ chưa biết gì, có lần nghịch ngợm lấy đá và bùn lấp một cái hang chuột khiến lũ chuột trong hang khốn đốn sáu ngày không ăn uống gì cả. Do đó, đời này ngài mắc quả báo ở trong bụng mẹ sáu năm.

Khi ngài lên chín tuổi, đức Phật sai Tôn giả Mục-kiền-liên, vị đại đệ tử thần thông đệ nhất, về vương cung dẫn ngài đến sống bên mình; rồi bảo Tôn giả Xá-lợi-phất thế độ cho ngài xuất gia. Vì vậy, trong sử Phật giáo, ngài là vị tiểu Sa-di đầu tiên.

Thời làm Sa-di, vì nghĩ mình là thái tử một nước nên ban đầu ngài chưa thoát khỏi tập quán xấu của thời quí tộc, đã bướng bỉnh lại còn hay gây sự phá rối, không chịu dụng tâm tinh tấn tu hành đàng hoàng.

Một hôm, đức Phật không chịu được bèn gọi ngài đến và kể cho ngài nghe câu chuyện:

- Thuở quá khứ, có một vị vua nuôi một con voi dũng mãnh thiện chiến. Mỗi lần giao chiến với kẻ địch không lần nào nó không đánh thắng.

Vua rất thương mến voi nên mặc cho toàn thân nó giáp sắt rất dày, tai, chân cũng bịt sắt, nhưng riêng vòi thì không. Vòi của nó là phần mềm nhất toàn thân, nếu không cẩn thận để bị trúng tên hay bị chém thì sẽ tử vong. Vì thế, để bảo vệ mạng sống mỗi lần tác chiến voi đều đặc biệt chú ý đến vòi.

- Này La-hầu-la, con cũng nên bắt chước như con voi bảo vệ cái vòi vậy, phải hết sức thận trọng trong lời nói, việc làm. Con thấy đó, đời trước con nhỏ dại nghịch ngợm lấp hang chuột mà bị mắc quả báo ở trong bụng mẹ sáu năm không thấy ánh sáng. Nếu như bây giờ con cũng như vậy, suốt ngày chỉ biết ăn chơi lêu lỏng quậy phá làm nhiều việc xấu, không chịu nỗ lực tinh tấn tu tập, con không sợ hậu quả sẽ là một chuỗi ngày dài bất hạnh sao?!

La-hầu-la nghe lời Phật dạy tỉnh ngộ. Từ đó, ngài hạ thủ công phu dụng công tu tập không dám biếng nhác nữa. Phát tâm dụng công tu tập, La-hầu-la thể hiện trọn vẹn những mỹ đức khiêm cung nhẫn nhục, không thích tranh cãi hơn thua nên phòng của ngài thường bị người khác chiếm ở; lắm lúc ngài phải vào nhà xí ngủ qua đêm. Một hôm, vì truyền đạo ngài bị tín đồ ngoại đạo đánh vỡ đầu. Thế nhưng, ngài vẫn không một lời than oán, lặng lẽ đến bờ suối rửa sạch máu dơ rồi dùng khăn băng vết thương lại.

Có lần, có một tín chủ cúng cho ngài một tịnh thất  làm nơi tu tập tọa thiền, giảng kinh thuyết pháp. Nhưng chẳng bao lâu tín chủ đó đòi lại rồi đem cúng cho người khác, ngài vẫn bình thản dọn ra khỏi phòng không chút giận hờn. Như thế đủ chứng minh hạnh nhẫn nhục của ngài thật sự là nhẫn nhục Ba-la-mật.

Năm hai mươi tuổi, ngài chứng quả A-la-hán. Tuy đã chứng quả nhưng sống trong chúng, ngài không thích phô trương mà chỉ lặng lẽ tu tập, lặng lẽ hoằng pháp nên được đức Phật Đặc biệt chọn vào hàng mười sáu vị La-hán lưu lại nhân gian.

Mấy trăm năm sau, vua Thiết-thưởng-ca nước Câu-thi-na-la không tin Phật pháp đến độ đập phá chùa chiền, thiêu kinh hủy tượng, số người xuất gia ngày càng giảm thiểu.

Hôm nọ, có một vị Hòa thượng già chống gậy ôm bát vào thành đến từng nhà khất thực. Nhưng cả thành chẳng ai để ý tới, khó khăn lắm ngài mới gặp được một gia đình tin Phật. Họ cung kính cúng cho ngài một bát cháo nóng. Sau khi hớp xong miếng cháo, ngài thở dài. Vị thí chủ thấy vậy liền hỏi:

- Thưa ngài! cháo không ngon sao?

- Ồ không, thời Phật pháp suy vi mà có một bát cháo để ăn là tốt lắm rồi.

- Không phải thế, vậy sao ngài thở dài?

- À, tôi chợt nhớ lại thuở xưa, lúc đức Thế Tôn còn tại thế, tôi thường ôm bát theo Ngài đến đây. Thời ấy, nhà nào cũng tin Phật, mọi người tranh nhau cúng dường, nhưng bây giờ thì khác hẳn, người tin Phật ngày càng ít, thật là chúng sanh phước mỏng nghiệp dày! – Vị Hòa thượng già không ngăn được nước mắt.

Người thí chủ thấy lạ hỏi:

- Thưa hòa thượng! Ngài nói chính mắt ngài thấy đức Phật và từng ôm bát theo Ngài sao?

- Đúng vậy!

- Xin hỏi ngài là ai?

- Này thí chủ, người có từng nghe nói La-hầu-la con của thái tử Tất-đạt-đa không?

- Dạ có nghe.

- Tôi chính là La-hầu-la. Suốt mấy trăm năm nay, tôi luôn dốc sức hoằng dương Phật pháp. – Nói xong, Hòa thượng biến mất.

Chuyện này được ngài Huyền Trang ghi lại trong tác phẩm nổi tiếng “Đại Đường Tây Vực ký”. Điều đó chứng tỏ việc ngài La-hầu-la lưu lại nhân gian là không chút ngụy biện.

 

12. NA-GIÀ-TÊ-NA

Tôn giả Na-già-tê-na là vị La-hán thứ mười hai trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài đang cùng một ngàn hai trăm vị đệ tử trú tại núi Bán-độ-ba. Trong kinh, tên ngài được gọi tắt là Na-tiên.  

Thật ra hai tên này chỉ là một nhưng do phiên âm khác nhau.

Tôn giả sinh ra và lớn lên ở phía bắc Ấn Độ, nhằm thời vua Di-lan cai trị. Vua Di-lan là người Hy Lạp rất thâm tín Phật pháp. Do đó, vua thường lui tới Na-tiên thỉnh vấn Phật pháp.

Là một người bác học đa văn, bản thân lại khắc khổ tu tập nên Tôn giả chứng quả A-la-hán rất sớm.

Có lần, vua Di-lan hỏi:

- Thưa tôn giả! Ngài là bậc thánh xuất gia chứng quả, vậy còn hàng Phật tử chúng tôi không xuất gia rốt cuộc có thể đắc quả A-la-hán không?

Na-tiên không do dự đáp: 

- Đương nhiên là có thể. Bất kỳ người nào chỉ cần chịu hạ thủ công phu nghiên cứu nghĩa lý Phật pháp, tinh tấn tu hành trang nghiêm, lâu ngày đạo hạnh ắt tự cao thâm, lúc đó lo gì mà không chứng quả!

- Thật không?- Vua bán tín bán nghi hỏi.

- Đương nhiên là thật!

- Nhưng theo trẫm biết thì sao các bậc A-la-hán hầu như toàn bộ đều là người xuất gia?

- À, vì người xuất gia tu hành ít bị các tạp niệm thế gian chi phối nên dễ thành tựu hơn.

Vua Di-lan nghe nói, đối với người lúc sắp lâm chung chỉ cần chí thành niệm Phật sẽ được vãng sanh cực lạc, không bị đọa địa ngục thì cảm thấy nghi ngờ nên nói:

- Trẫm không tin pháp môn niệm Phật.

- Này đại vương! Giả sử có người lấy một viên đá ném xuống nước, viên đá sẽ nổi hay chìm?

- Đương nhiên sẽ chìm!

- Còn nếu đem viên đá thả trong thuyền thì đá nổi hay chìm?

- Vậy thì sẽ không chìm.

- Vì sao không chìm?

- Vì đã có thuyền chở!

- Thế thì đúng rồi, đức Phật A Di Đà từng phát đại nguyện làm thuyền từ cứu độ chúng sanh. Do đó, nếu chúng ta nhứt tâm niệm danh hiệu Ngài thì Ngài sẽ phóng quang tiếp dẫn về thế giới Tây phương cực lạc không còn bị trầm luân trong biển khổ.

- Ồ, thì ra là vậy, trẫm thật cảm phục ví dụ của ngài, nó đã giúp trẫm hiểu được pháp môn niệm Phật thật thù thắng vi diệu, là chỗ dựa vững chắc không chút hư dối.

Cách mấy ngày sau, vua lại đến thăm Na-tiên và hỏi một vấn đề khác:

- Thưa tôn giả! Ngài chưa chứng Niết-bàn sao biết Niết-bàn là cảnh giới an lạc giải thoát.

- Tâu đại vương! Tuy tôi chưa chứng Niết-bàn nhưng chư Phật quá khứ đều nói Niết-bàn là cảnh giới an lạc giải thoát nên tôi biết.

- Điều đó liệu có đáng tin không?

- Đáng lắm chứ đại vương!

Tôi xin hỏi đại vương: chặt tay chân có đau không?

- Đương nhiên là đau!

- Đại vương! Từ trước tới giờ ngài chưa bị chặt tay chân sao biết chặt tay chân là đau?

- Vì trẫm thấy người bị chặt tay, chặt chân họ ngã nhào xuống đất kêu la rên xiết thống thiết nên trẫm biết.

- Cũng vậy đó, đại vương! Đức Phật là bậc đã thành Phật. Ngài nói Niết-bàn rất an lạc, tất nhiên là đáng tin lắm chứ.

Vua Di-lan cười liễu ngộ:

-Ồ, rất có lý!

Vua Di-lan rất cảm phục sự đa tài bác học của Na-tiên. Vì thế, họ nghiễm nhiên trở thành đôi bạn chí thân. Cuối cùng vua xin qui y làm đệ tử Na-tiên.

Vào một buổi chiều xuân ấm áp, hoa nở ngát hương, vua lại đến thỉnh giáo Na-tiên. Họ ngồi dưới gốc tùng đàm đạo với nhau rất vui vẻ tâm đầu ý hợp.

Vua hỏi:

- Thưa tôn giả, trẫm luôn thắc mắc không hiểu vì sao cũng là người mà có kẻ sống lâu, người chết yểu; kẻ đẹp, người xấu; kẻ giàu, người nghèo; kẻ thông minh, người ngu dốt?

- Tâu đại vương! Có gì lạ đâu. Ngài xem cũng là nho nhưng lại có trái ngọt, trái chua, trái to, trái nhỏ, trái tròn, trái méo, trái đen, trái hồng, nguyên nhân là do hạt giống khác nhau. Cũng vậy, con người vì chỗ tạo nghiệp lành dữ sai khác nên quả báo chiêu cảm không giống nhau.

- Tôn giả nói chí lý, khúc mắc của trẫm tợ mây đen được gió cuốn trôi không còn lưu dấu. - Vua Di-lan vội rời tọa sụp lạy để tỏ niềm tôn kính.

Nội dung đàm luận Phật pháp giữa Na-tiên và vua Di-lan được người đời sau kết tập, viết thành quyển kinh gọi là “kinh Na-tiên tỳ-kheo”. Đây là vị La-hán duy nhất trong mười tám vị La-hán có kinh sách lưu truyền đến đời sau.

Nhờ sự chỉ dạy của Na-tiên mà cuối cùng vua Di-lan trở thành một quân vương anh minh, dốc lòng ủng hộ Phật pháp, khiến Phật giáo ngày càng huy hoàng rực rỡ.

Một hôm, Na-tiên nói với vua:

 - Đại vương! Nay tôi muốn đi.

 - Dạ đi đâu?

 - Tôi muốn đến núi Bán-độ-ba.

 - Sao ngài muốn đến đó?

 - Khi đức Thế Tôn còn tại thế, Ngài dạy tôi phải đến đó.

 - Khi nào ngài đi?

 - Bây giờ.

 - Bây giờ ư ?

 - Đúng vậy!

Nói xong, Na-tiên nhảy lên một ngọn núi cao rồi bay về hướng núi Bán-độ-ba.

 

13. NHÂN-YẾT-ĐÀ

Tôn giả Nhân-yết-đà là vị La-hán thứ mười ba trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài cùng một ngàn ba trăm vị đệ tử trú trong núi Quảng Hiếp.

Tiền kiếp ngài là một con dơi sống trong hang núi. Một hôm, có đoàn lái buôn đi ngang qua núi, vì bên ngoài gió rét gào thét, tuyết bay đầy trời nên họ vào hang nhen lửa sưởi ấm.

 Trong đoàn buôn này có một người thâm tín Phật pháp, dù ở trong hang núi nhưng vẫn gõ mõ tụng kinh, niệm Phật; âm thanh du dương trang nghiêm khiến dơi vô cùng thích thú.

 Đêm càng khuya, khí trời càng lạnh, người lái buôn bỏ thêm nhiều củi vào để đủ ấm. Do đó, thoáng chốc củi khô hết sạch, ông ta đành ra ngoài chặt ít củi tươi mang vào để châm thêm lửa. Vì củi tươi khó cháy nên kết quả bốc lên một đám khói đen ngịt.

Dơi trong hang bị khói xông lên hít thở khó khăn, nhưng vì thích nghe tiếng tụng kinh nên không muốn bay đi. Cuối cùng, do hít quá nhiều khói nên dơi trúng độc chết ngay trong hang.

Sau khi chết, Nhân-yết-đàø chuyển kiếp đầu thai làm người, được xuất gia tu hành theo Phật và chứng quả A-la-hán.

Có lần, có một người ở nước Ô-trượng-na muốn tạc tượng Bồ-tát Di Lặc, nhưng vì chưa từng thấy diện mạo của Bồ-tát nên chần chừ không dám làm.

Một hôm, ông ta lập một hương án trong vườn hoa chí thành cầu nguyện:

- Kính bạch chư hiền thánh! Con nghe nói khi đức Thế Tôn sắp niết-bàn, ngài đã phó chúc cho mười sáu vị La-hán vĩnh viễn lưu lại thế gian hoằng dương Phật pháp, sao giờ đây con muốn tạc tượng Bồ-tát Di Lặc mà không có vị nào đến giúp con?

Ông ta vừa nói xong, thì có một vị La-hán xuất hiện nói:

 - Ta đến giúp ông đây!

 - Thưa, ngài là ai?

 - Ta là Nhân-yết-đàø có ý đến đưa ông lên cõi trời Đâu suất để gặp Bồ-tát Di Lặc.

Nhân-yết-đàø đưa người này lên cung trời Đâu Suất để ông ta chiêm ngưỡng pháp tướng trang nghiêm của Bồ-tát, trước sau cả thảy ba lần rồi biến mất.

Tượng Bồ-tát Di Lặc này được bảo tồn tại Đạt-lệ-la môn nước Ô-trượng-na. Nơi đây, trước kia là thủ đô của cả nước.

Sức ăn của Nhân-yết-đàø rất mạnh. Nghe nói mỗi bữa, ngài ăn gấp ba lần voi mà vẫn không no. Khi ngài du hóa đến nước Thấp-di-la, vì không biết ngài là La-hán nên mọi người chế giễu:

 - Mỗi ngày chỉ biết ăn, sống vậy có ích gì chứ?

Nghe vậy, ngài nói:

 - Này các vị, bởi kiếp trước tôi là một con dơi, kiếp trước nữa là một con voi, ưa ăn, biếng làm, do đó đời này ăn rất nhiều mà cũng không thấy no.

Mọi người cho rằng ngài nói khoác lác nên cười ồ lên:

 - Ha ha, chúng tôi không nghe ông bào chữa bậy đâu.

 - Nếu các vị không tin thì cứ tự nghiệm đi, Phật pháp không bao giờ dối gạt ai cả. Hy vọng các vị luôn luôn làm một Phật tử chơn chánh.

Nói xong, ngài bay lên không trung dùng chơn hỏa tam muội thiêu thân; Xá-lợi ngũ sắc rơi xuống dồn dập. Lúc này, mọi người mới tin ngài là một vị đại A-la-hán.

A-la-hán là bậc bất sanh bất diệt, đến đi tự tại. Vì vậy, sau đó không lâu mọi người lại thấy ngài ở nước Kiếp-tỷ-tha theo đức Phật lên cung trời Đao-lợi thuyết pháp cho hoàng hậu Ma-da, ba tháng sau mới trở về.

 

14. PHẠT-NA-BÀ-TƯ

Phạt-na-bà-tư là vị La-hán thứ mười bốn trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài đang cùng một ngàn bốn trăm vị đệ tử trú tại núi Khả Trụ.

Có lần, đức Phật  hàng phục con yêu long trong một cái đầm sâu ở nước Na-yết-la-hạt. Cảm phục ơn đức Phật, yêu long quỳ sát đất cung kính thưa:

- Bạch đức Thế Tôn! Bấy lâu nay con làm sóng, gió gây hại nhân dân, nay nhờ Thế Tôn dạy bảo, con đã tỉnh ngộ. Con xin Thế Tôn lưu lại đây cho con được cúng dường, gần gũi dạy bảo con để con khỏi làm sóng gió gây hại nhân dân nữa.

Đức Phật  dạy:

- Này yêu long! Công việc hoằng pháp lợi sanh của ta còn chưa xong, không thể ở lại lâu được. Thế này vậy, ta sẽ cử năm vị đại A-la-hán thay nhau đến đây nhận đồ cúng dường của ông. Ông thấy thế nào?

Yêu long vui mừng khôn xiết hỏi:

 - Dạ, là năm vị nào, thưa Thế Tôn?

 - À, là Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, Nhân Kiệt Đà, Tô-tần-đà và Phạt-na-bà-tư.

 - Dạ, thế thì tốt quá! Cảm ơn đức Thế Tôn.

Thế là năm vị đại A-la-hán này thay nhau đến đó tiếp nhận đồ cúng dường của yêu long và vị thứ năm, Phạt-na-bà-tư, chính là vị mà chúng ta đang nói.

Khi đến tiếp nhận cúng dường của yêu long, Phạt-na-bà-tư thường thích tọa thiền trên phiến đá lớn bên đầm, khi thì ngồi suốt tuần, lúc thì ngồi cả nửa tháng. Mãi đến nay, những di tích đó vẫn còn được lưu giữ.

Lúc đức Thế Tôn sắp niết-bàn, Ngài phó chúc cho Phạt-na-bà-tư:

- Này Phạt-na-bà-tư! Sau khi ta diệt độ bốn trăm năm, tại nước Na-kiện-đà-la sẽ xuất hiện một vị vua tên Ca-nị-sắc-ca. Ban đầu, ông ta không tin Phật pháp, do đó ông phải dốc sức hóa độ để ông ta trở thành vị quân vương anh minh hộ trì Phật pháp.

Quả nhiên, đến công nguyên năm 128, vua Ca-nị-sắc-ca ra đời. Ông ta không chút tin Phật, làm nhiều việc sai trái phá hoại Phật giáo.

Một hôm, vua ra ngoài săn bắn, vì mãi lo đuổi bắt một con thỏ nên bị lạc đường. Trong rừng cây hoang vắng, lúc đang tìm lối ra, vua thấy một mục đồng đang dùng bùn nắn tháp Phật.

Vua hỏi:

 - Ngươi đang làm gì vậy?

Mục đồng đáp:

 - Tôi đang thay vua làm tháp Phật.

Vua giật mình kinh sợ:

 - Sao, thay ta làm tháp Phật ư ?

 - Đúng vậy! Trước kia đức Thế Tôn từng nói bốn trăm năm sau vua sẽ xây tháp Phật ở đây. Hôm nay là lúc ngài tới nên tôi đến đây đợi ngài.

 - Thật sao? Vậy ngươi là ai?

- Tôi chính là Phạt-na-bà-tư, đại đệ tử của Phật. Tôi đã đợi ngài đã bốn trăm năm nay, con thỏ trắng vừa rồi là do tôi biến ra đó.

Nói xong, mục đồng biến mất.

Từ đó, vua Ca-nị-sắc-ca chí thành tin Phật. Trong thời gian tại vị, vua tôn tạo rất nhiều tự viện, tháp Phật, tượng Phật, là một đại quân vương hoằng dương Phật pháp. Có được như thế không thể không kể đến thâm ơn giáo hóa của Phạt-na-bà-tư.

 

15. A-THỊ-ĐA

Tôn giả A-thị-đa là vị La-hán thứ mười lăm trong mười sáu vị La-hán. Hiện tại, ngài đang trú trong núi Thứu Phong ở Ấn Độ. Núi Thứu Phong còn gọi là núi Linh Thứu, nơi đức Phật thường giảng kinh.

A-thị-đa là vị thị giả thường theo hầu bên cạnh đức Phật. Mọi người thường hiểu nhầm cho rằng ngàichính là Bồ-tát A-dật-đa. Thật ra không phải, A-dật-đa là Bồ-tát Di Lặc hay còn gọi là Bố Đại hòa thượng, hai vị này khác nhau chỉ một chữ.

 Ấn Độ thời đó, có một nước tên Đạt-ma-tất-thiết-đế nằm giáp sông Phược-sô1 thủ đô là Hôn-đà-la. Nhân dân nước này không tin Phật pháp, họ chỉ thờ một số quỷ thần sông núi.

Có lần, thái tử mà vua yêu quí nhất ngã bệnh rất nặng. Vua cho mời danh y khắp nước về chữa trị mà cũng không thấy thuyên giảm. Do đó, vua đi thỉnh giáo những vị tu hành ngoại đạo và được họ trả lời: “Đại vương! Xin ngài chớ lo, bệnh của thái tử không cần uống thuốc, sớm muộn gì cũng sẽ khỏi thôi”.

Khi ấy, A-thị-đa vừa du hóa đến nước này. Ngài đã chứng quả từ mấy năm trước.

Một hôm, giữa đường đi, ngài gặp vua với vẻ mặt lo âu đang hối hả ra ngoài tìm thuốc cho thái tử. Thấy vậy, ngài hỏi:

 - Thưa đại vương! Tôi là đệ tử của đức Như lai tên là A-thị-đa. Ngài có gì muốn hỏi tôi không?

 - Đệ tử Như lai? Tôi chưa từng nghe cũng không cần sự giúp đỡ của ông. – Vì trong lòng không vui, bình thường lại không tin Phật nên quốc vương lạnh nhạt đáp.

A-thị-đa khuyên:

 - Thật không có chuyện gì sao? Xin ngài nói đi, chớ khách khí làm gì!

Quốc vương vốn đã thấy khó chịu, song nghĩ lại thôi cứ hỏi thử xem bệnh của con mình có thể qua khỏi không:

 - Ông xem bệnh con ta có qua khỏi không?

A-thị-đa ưu tư nói:

 - À, bệnh của thái tử hết hy vọng rồi, hãy mau niệm Phật cầu vãng sanh đi!

- Hứ, tên Hòa thượng điên này chưa súc miệng hay sao mà nói những lời không tốt như vậy hả! – Quốc vương tức giận bỏ đi thẳng một mạch.

Một tuần sau, thái tử chết thật. Vua tạm thời không tổ chức tang lễ, cả tin thái tử mất cũng không tiết lộ ra ngoài.

Ngày thứ hai, vua đi tìm A-thị-đa. Thấy vua, A-thị-đa nói với giọng cảm thông:

 - Đại vương, xin chớ quá bi thương.

Quốc vương giả vờ không biết.

 -Ta bi thương chuyện gì?

 - Đại vương chớ giấu, hôm qua thái tử đã mất, người mất thì không thể sống lại chỉ nên thường xuyên niệm Phật để cầu được vãng sanh!

- Ôi, Ngài thật là thần cơ diệu toán! – Quốc vương cảm phục A-thị-đa đã biết trước mọi việc.

Sau đó, vua tức tốc đi tìm bọn ngoại đạo. Thấy vua đến, bọn chúng chúc mừng:

 - Chúc mừng, chúc mừng đại vương!

 - Chúc mừng ta chuyện gì?

 - Đại vương không cần nói chúng tôi cũng đã biết rồi.

 - Biết gì?

 - Biết bệnh của thái tử đã khỏi!

 - Hứ, bọn ngoại đạo đáng ghét, bản thân bất tài vô học, lại chuyên môn đi buôn thần bán thánh, gạt dân hại người.

Càng nói vua càng tức giận liền hạ lệnh:

 - Bắt hết bọn chúng, rồi phá sạch tất cả thần miếu của chúng cho ta.

Xong chuyện, vua vội quay về chỗ ngài A-thị-đa xin sám hối.

- Thưa tôn giả, bậc Sa-môn đáng kính! Ngài mới là vị đạo sư mà trẫm cần quy ngưỡng, tôn kính, thỉnh giáo, lễ bái.

Nhờ những khởi xướng hoằng dương Phật pháp của A-thị-đa mà Phật giáo được thịnh hành ở nước Đạt-ma-tất-thiết-đế.

Đã hơn hai ngàn năm rồi nhưng tại Ấn Độ vẫn còn có người nhìn thấy Tôn giả trị bệnh cho mọi người, có người thấy ngài tọa thiền trên núi Thánh Mẫu.