- Chương I: Duyên Kỳ Ngộ
- Chương II: Hiện Hữu Hay Không Hiện Hữu
- Chương III: Đi Tìm Một Người
- Chương IV: Vũ Trụ Trong Một Hạt Cát
- Chương V: Như Một Tia Chớp Trong Đám Mây Mùa Hạ - Sự Vô Thường Giữa Lòng Thực Tại
- Chương VI: Vấn Đề Thời Gian
- Chương VII: Nhị Nguyên (Tâm và Vật)
- Chương VIII: Về Rô Bốt
- Chương IX: Lý Trí Và Thiền Định
- Chương X: Vẻ Đẹp Trong Khoa Học Và Trong Phật Giáo
- Chương XI: Từ Thiền Định Đến Hành Động
- Kết Luận Của Nhà Khoa Học
- Kết Luận Của Nhà Sư
Matthieu Ricard – Trịnh Xuân Thuận - BS: Hồ Hữu Hưng dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2010
Chương III: Đi Tìm Một Người
Nếu chúng ta cảm nhận được sự hài hòa và sự chính xác tuyệt mỹ của vũ trụ, chúng ta không thể không nghĩ đến sự có mặt của một đấng sáng tạo toàn năng, hay chí ít theo một quan điểm thế tục, một thứ nguyên tắc sáng tạo nào đó đã kiến tạo một vũ trụ hết sức hoàn mỹ. Sự toàn năng của một đấng sáng tạo như vậy sẽ giải thích tất cả và chúng ta sẽ không còn thắc mắc về sự lập thành thật ra quá phức tạp của vũ trụ, về cách nào đời sống được tạo dựng và làm sao vật hữu tri lại có thể hòa hợp được với vô tri. Việc định ra có hay không một thượng đế sáng tạo đã làm nảy sinh ra sự khác biệt căn bản giữa các truyền thống tôn giáo của thế giới. Theo Phật giáo, định đề “một nguyên nhân đầu tiên” không chấp nhận được và nhiều khoa học gia cũng đồng quan điểm không viện dẫn Thượng đế sáng tạo lấy lý do là sự điều hành chính xác của vũ trụ, kết quả chỉ là sự tình cờ. Tuy nhiên một số khác lại cho rằng có một nguyên tắc tổ chức đã khởi đầu việc sáng tạo thế gian. Nhưng quan điểm này có đứng vững được không trước sự phân tích, và thực sự nó có cần thiết và hợp lý hay không?
Thuận: Từ thế kỷ 16 càng ngày mọi người càng nghĩ trái lại, đất không phải là trung tâm điểm của vũ trụ. Năm 1543, Đức cha người Ba Lan Nicolas Copernic chứng minh rằng trái đất chỉ là một hành tinh quay chung quanh mặt trời. Rồi người ta lại tưởng mặt trời là tâm điểm của vũ trụ cho đến ngày nhà thiên văn người Mỹ khám phá ra mặt trời chỉ là một ngôi sao nhỏ trong hàng trăm tỷ thiên hà trong vũ trụ trong đó có dãy ngân hà của chúng ta. Con người chỉ là một hạt cát trong vũ trụ. Và sự hạ thấp của con người này đã khiến Pascal phải kêu lên vào thế kỷ 17 “Sự im lặng của không gian vô cùng tận làm tôi phát sợ” và đến thế kỷ thứ 20 nhà sinh học người Pháp Monod cũng phát biểu: “Con người chìm trong vũ trụ bao la, nơi đó tình cờ anh đã sinh ra”. Và nhà vật lý người Mỹ Steven Weinberg: “Càng hiểu vũ trụ, người ta lại càng thấy nó không có ý nghĩa gì cả”.
Còn theo ý kiến tôi thì không phải tình cờ con người được sinh ra trong một vũ trụ vô hình. Trái lại cả hai đã cộng sinh rất chặt chẽ và sở dĩ vũ trụ mênh mông bao la là để chúng ta có mặt.
Matthieu: Bạn hãy coi chừng! Lời bạn nói giống như Bernardin De St Pierre “Quả bí có nhiều múi là để cả nhà cùng ăn”!
Thuận: Dĩ nhiên là phải dè chừng các lập luận độc đoán. Tuy nhiên theo vũ trụ học hiện đại, sự xuất hiện của con người có lẽ phụ thuộc vào đặc tính của các nguyên tử, các vì sao, các thiên hà và cũng phụ thuộc vào các luật vật lý điều hành vũ trụ. Sự tiến hóa của vũ trụ của chúng ta được xác định bởi cái mà người ta gọi là “điều kiện tiên khởi” và bởi khoảng mười lăm con số mà người ta gọi là hằng số vật lý. Đường đi của một viên đạn bắn ra trong không trung, trước khi rơi xuống đất được miêu tả rất chính xác. Để làm được điều này một nhà vật lý sử dụng luật hấp dẫn của Newton và sự hiểu biết các điều kiện tiên khởi như là vị trí và vận tốc của viên đạn khi bắn ra. Luật Newton lại phụ thuộc vào hằng số hấp dẫn để chỉ ra cường độ của lực hấp dẫn. Cũng như thế có ba con số để kiểm soát cường độ của các lực nguyên tử mạnh và yếu, lực điện từ. Kế đó là vận tốc ánh sáng và hằng số Planck để xác định kích thước các nguyên tử. Rồi đến những con số để chỉ ra khối của các hạt căn bản như dương tử, điện tử v.v... Những hằng số này giữ một vai trò quyết định trong sự tiến hóa của vũ trụ vì lẽ chúng xác định không những khối và kích thước các thiên hà, các vì sao của trái đất chúng ta và của các sinh vật nữa như bề cao cây cối, hình dáng cái bông hoa, sức nặng và chiều cao của con người và của muôn thú. Thực tại quanh ta sẽ khác hẳn nếu những hằng số có những giá trị khác nhau. Những hằng số này không hề thay đổi theo không gian và thời gian. Chúng ta đã có thể kiểm chứng khá chính xác khi quan sát các thiên hà xa xôi. Còn về các điều kiện tiên khởi khi tạo dựng vũ trụ thì gồm có số lượng vật chất mà nó sở hữu và phân xuất trương nở ban đầu của nó. Chỉ cần những hằng số và những điều kiện tiên khởi thay đổi một ít là toàn thể nhân loại sẽ bị diệt vong. Vũ trụ dường như đã chứa đựng sẵn một cái mầm mống sống để con người có thể xuất hiện.
Matthieu: Cho rằng đời sống của chúng ta phản ánh trong các nguyên tố của vũ trụ chứng tỏ sự hòa hợp của cả hai. Nếu từ đó mà nêu lên quan niệm cứu cánh là cả một sự khác biệt lớn.
Thuận: Phải, nhưng hiện nay chúng ta chỉ có một thuyết vật lý giải thích tại sao những hằng số ấy lại có những giá trị như vậy mà không có giá trị khác. Những hằng số ấy đã được tìm ra và chúng ta phải bằng lòng vậy.
Matthieu: Thật ra không có một giải thích nào khác sao?
Thuận: Ngoài sự tình cờ thuần túy còn có thuyết các siêu sợi theo đó những hạt nguyên sơ được tạo lập từ những rung động của những đầu sợi cực nhỏ. Khối hay diện tích của hạt này hay hạt khác được xác định bởi cách rung động của các sợi. Nhưng nếu như vậy chỉ là thay thế một vấn đề bằng một vấn đề khác, vì lý thuyết không giải thích vì sao những rung động của sợi lại có những giá trị như vậy mà không phải có một giá trị khác, hoặc giả những hạt từ những sợi rung động tạo ra lại có những đặc tính nhất định.
Matthieu: Những hằng số vật lý này có thể đi ở những vũ trụ khác hay không?
Thuận: Không có lý do nào ngăn cấm các hằng số thay đổi từ vũ trụ này đến vũ trụ khác. Các máy tính của các nhà thiên văn đã chỉ ra rằng chỉ cần thay đổi phần nào các hằng số vật lý và những điều kiện tiên khởi thì không thể có sự sống được.
Matthieu: Nếu thế thì các hằng số phải thay đổi bao nhiêu?
Thuận: Con số chính xác tùy vào hằng số và điều kiện tiên khởi mà chúng ta đã đề cập. Nhưng trong mọi trường hợp một thay đổi cực nhỏ cũng làm cằn cỗi vũ trụ. Thử xem tỷ trọng đầu tiên của vật chất trong vũ trụ. Vật chất có một lực hấp dẫn chống lại vụ nổ đầu tiên Big Bang và làm chậm bớt sự trương nở vũ trụ. Nếu tỷ trọng đầu tiên cao quá, vũ trụ sẽ tự sụp đổ trong vòng một triệu năm hoặc một trăm năm và cũng có thể trong một năm. Khoảng thời gian đó quá ngắn cho thuật luyện kim trên các vì sao có thể tạo ra các nguyên tố nặng như cácbon cần thiết cho sự sống. Ngược lại nếu tỷ trọng đầu tiên của vật chất quá thấp, lực hấp dẫn quá yếu sẽ ngăn trở việc tạo thành các vì sao. Và nếu không có các vì sao thì không có các nguyên tố nặng và như vậy không có sự sống. Thế thì tất cả nằm trong thế quân bình rất mong manh.
Ví dụ hiển nhiên nhất là tỷ trọng của vũ trụ vào lúc khởi đầu, nó cần điều chỉnh đến độ chính xác 10-60 . Nếu khác đi, nếu ta chỉ cần đổi một con số sau sáu mươi con số 0 thì vũ trụ sẽ khô cằn, không còn sự sống và cũng không có bạn và tôi ở đây để nói chuyện. Sự điều chỉnh chính xác đáng ngạc nhiên nói trên có thể ví như một người bắn cung đứng cách mục tiêu 15 triệu năm ánh sáng mà bắn trúng một điểm vuông có 1cm bề cạnh. Trước một sự chính xác lạ lùng như vậy, vài nhà vũ trụ học đã nghĩ đến việc vũ trụ được tạo dựng là để cho có sự sống và con người đều có thể ngắm nhìn vẻ đẹp và sự hài hòa của nó. Với ý niệm này người ta đặt ra nguyên lý “Nhân duyên” theo đó con người hay mọi sinh vật khác giữ một vai trò trung tâm trong vũ trụ. Đó là cường thuyết của nguyên tắc Nhân duyên.
Còn một nhược thuyết nữa của nguyên lý này cho rằng không có dự định nào khi tạo lập vũ trụ. Nhưng cũng gần như một sự trùng ý khi thuyết này cho rằng các đặc tính của vũ trụ cần phải hòa hợp với sự sống của con người. Tính từ “Nhân” đã được dùng không đúng chỗ vì lẽ vũ trụ không dành riêng cho con người mà cho cả mọi sinh vật. Những người theo thuyết Nhân duyên này cho rằng có một sự liên hệ chặt chẽ giữa con người và vũ trụ. Paul Claudel đã có thái độ với Pascal khi nói rằng: “Sự im lặng kéo dài của không gian vô tận không làm tôi sợ hãi. Tôi dạo chơi trong đó với một niềm tin thân thiện. Chúng ta không ở trong một xó của sa mạc hoang dại và không lối ra. Mọi thứ trong thế gian này đều là anh em quen thuộc với chúng ta”.
Matthieu: Theo Phật giáo thì không có một nguyên tắc tổ chức cũng như một nguyên nhân tối hậu nào đã tạo dựng vũ trụ một cách chính xác để cho đời sống xuất hiện. Sự hòa hợp giữa thế giới vô tri và thế giới hữu tri có thể có được vì chúng đã tồn tại song song trong một vũ trụ không có khởi đầu, như sự nổ Big Bang chẳng hạn cũng chỉ là một giai đoạn trong tiến trình bất tận. Những điều kiện trong vũ trụ hiện nay rất hài hòa với vũ trụ trước đây và sau này, vì lẽ sự nối tiếp các sự kiện gợi lên sự liên tục và sự hòa điệu giữa thiên nhiên giữa Nhân và Quả. Vũ trụ không phải được điều chỉnh bởi một ông thợ sửa đồng hồ vĩ đại để cho đời sống xuất hiện các điều kiện sinh tồn đã có từ những thời điểm không có khởi đầu và không loại trừ lẫn nhau, trái lại hòa hợp với nhau một cách hoàn hảo. Vấn đề của nguyên tắc “Nhân duyên” hay “Nguyên nhân tối hậu” là đặt những hằng số vật lý trước tâm thức và xác nhận rằng phải có những hằng số này thì tâm thức hay sự sống mới xuất hiện được. Nguyên tắc nhân duyên gần giống như ta nói: “Nửa quả dừa được tạo nên để nửa còn lại ráp nối vừa vặn với nửa quả trước”.
Thuận: Tôi hiểu với giả thuyết một sự đồng sinh không có thời điểm khởi đầu của tâm thức và vật chất, Phật giáo không cần đến nguyên lý “Nhân duyên” để giải thích sự sống và tâm thức. Nhưng giả thử giả thuyết này vô giá trị, và người ta cần phải giải thích sự điều chỉnh hoàn hảo các hằng số vật lý và những điều kiện tiên khởi của vũ trụ, ta có thể tự hỏi xem sự điều chỉnh ấy là tình cờ hay thật sự cần thiết. Nếu ta không chấp nhận nguyên lý “Nhân duyên” thì bắt buộc ta phải quay sang giả thuyết “sự tình cơ”. Giả thuyết này quyết định sự tồn tại vô số vũ trụ khác với nhiều sự phối hợp các hằng số và các điều kiện tiên khởi.
Matthieu: Những vũ trụ khác phải chăng là cái mà các nhà vật lý gọi là những vũ trụ song song?
Thuận: Có thể là như vậy. Cái quan niệm lạ đời “vũ trụ song song” đã xuất hiện nhiều lần trong vật lý. Quan niệm đó bắt nguồn từ sự khám phá ra cơ học lượng tử. Theo thuyết này, không thể tiên đoán một cách chính xác sự định vị của một hạt vi mô. Người ta chỉ tìm ra nó bằng cách ?nhiên mà thôi. Cũng không thể xác định quỹ đạo của nó giống như mô tả quỹ đạo một hành tinh quanh mặt trời. Sự không định vị chính xác ấy gọi là “Sự lờ mờ lượng tử” đưa đến sự mô tả gây ngạc nhiên về thế gian. Theo sự mô tả này, một điện tử có thể có mặt ở nhiều nơi khác nhau. Nhà vật lý người Mỹ Hugh Everett lại đề nghị một giả thuyết triệt để hơn: Vũ trụ được chia ra làm nhiều mẫu gần giống hệt nhau, ở mỗi nơi sẽ có mặt một điện tử thích hợp. Như vậy rất nhiều vũ trụ xuất hiện. Và những vũ trụ song song này không còn nối kết với nhau và không thể có liên lạc nào giữa những vũ trụ đó.
Matthieu: Trong trường hợp các sinh vật, giả thuyết này gợi ý làn sóng tâm thức sẽ phân hai, mỗi khi một tư tưởng nổi lên trong tâm thức hay nguyên tử chuyển động trong bộ não. Như vậy làn sóng tâm thức liên tục sẽ không còn ý nghĩa nữa.
Thuận: Đây là một lập luận sắc bén chống lại các thuyết vũ trụ song song. Chính tôi cũng rất ngạc nhiên về ý niệm vũ trụ phân hai mỗi khi cần chọn lựa hay quyết định. Rõ ràng là cơ thể chúng ta không thể chia chẻ mà chúng ta không ý thức.
Matthieu: Mỗi tư tưởng của chúng ta có khả năng tạo ra một vũ trụ riêng biệt. Phật giáo quan niệm có nhiều cõi khác nhau với những cách sống khác nhau, nhưng không đồng ý có nhiều vũ trụ song song không thể giao dịch với nhau được, vì lẽ như vậy sẽ đi ngược lại sự tương thuộc các hiện tượng cùng một bản chất. Nếu các hiện tượng tương thuộc lẫn nhau, ta không thể tách rời chúng được mà không làm chúng biến mất đi. Những vũ trụ không hòa hợp được không thể cùng tồn tại trong cái toàn nguyên vô tận ấy. Hơn nữa, nếu vào cùng một thời điểm mà có sự tạo dựng nhiều vũ trụ khác nhau, thì điều này sẽ làm tiêu tan mọi nguyên tắc nhân quả.
Thuận: Điều này đúng trong trường hợp cơ học lượng tử. Các vũ trụ song song đó diễn tả cái mà người ta gọi là “tình cờ thật sự” nghĩa là không có nguyên nhân nào hết.
Matthieu: Nếu các hiện tượng có thể xảy ra mà không có nguyên nhân nào hết thì mọi thứ đều có thể nảy sinh từ mọi thứ khác. Ngược lại nếu các hiện tượng đều tương thuộc thì sẽ không có cái “tình cờ thật sự” và sự tự do xuất hiện của các hiện tượng cũng phải dựa vào luật nhân quả. Điều này không hàm súc một sự tất định tuyệt đối vì lẽ các nguyên nhân và điều kiện là vô hạn.
Thuận: Tôi đồng ý với bạn, tôi cho là sự tạo dựng các vũ trụ song song không thiết thực, nhưng có thể có nhiều dạng vũ trụ khác. Tôi đã ghi nhận ý niệm về những chu kỳ vũ trụ theo đó vụ nổ Big Bang xảy ra nhiều lần vũ trụ kế tiếp, quan niệm này có vẻ được Phật giáo chấp nhận. Mỗi khi một vũ trụ mới được thành lập từ một vũ trụ cũ thì lại có những hằng số vật lý và những điều kiện tiên khởi mới. Hiện nay, việc quan sát thiên văn dường như chỉ ra rằng vũ trụ thiếu vật chất cần thiết để lực hấp dẫn của vật chất có thể đảo ngược lại việc tuôn chảy các ngân hà. Hơn nữa, dường như có một lực huyền bí mệnh danh là “lực đen” chống lại lực hấp dẫn và làm tăng tốc việc tuôn chảy các ngân hà. Như vậy, việc trương nở của vũ trụ cho đến bây giờ là bất tận. Nhà bác học người Mỹ LeeSmolin cho rằng Big Bang và tâm điểm hố đen đều có đặc tính vật chất có tỷ trọng cùng cực, và vì thế ông ta cho rằng một vũ trụ mới có thể hình thành từ lỗ đen không có liên hệ gì với vũ trụ của chúng ta. Nhưng hiện nay thuyết này cũng không kiểm nghiệm được, và có thể được liệt vào loại khoa học giả tưởng.
Matthieu: Vũ trụ mới này có thể là không liên hệ gì đến chúng ta, tuy nhiên về mặt nhân quả mà nói thì nó xuất hiện từ lỗ đen, là nơi mà chính vũ trụ của chúng ta khai sinh. Như vậy có thể có sự liên tục cũng như sự liên hệ giữa vũ trụ.
Thuận: Thuyết Big Bang cho phép quan niệm một cách khác về sự có mặt nhiều vũ trụ khác nhau. Nhà vật lý người Nga Andrey Linde cho rằng những sự dao động không ngừng của “bọt lượng tử” từ vụ nổ đầu tiên tạo ra vô số vũ trụ và vũ trụ của chúng ta chỉ là một bong bóng nhỏ trong đám bọt đó. Nhưng dù sao các thuyết trên không thể quan sát hoặc kiểm nghiệm được, và như vậy khoa học nếu không thực nghiệm thì lại rơi vào siêu hình học.
Matthieu: Tuy vậy những đề tài siêu hình học luôn luôn là mối băn khoăn của các nhà bác học. Cho rằng những điều không nhận biết được là không có, là một thái độ siêu hình. Còn phải chứng minh là có phải thật không có hay không? Dù sao khi đề cập đến vấn đề những giây phút đầu tiên của vũ trụ, không thể không nghĩ đến siêu hình dù cho rằng những khám phá của Big Bang, trước Big Bang, chỉ có siêu hình học mới đặt câu hỏi sau: “Có chăng một sự khởi đầu?” hoặc “Tại sao lại một sự khởi đầu?”. Nhiều nhà khoa học đã chia sẻ ý kiến này. Francois Jacob đã viết: “Một lãnh vực hoàn toàn thoát khỏi mọi nghiên cứu khoa học, đó là lãnh vực nói về nguồn gốc của thế gian, ý nghĩa về điều kiện làm người và số phận của con người. Không phải vì những câu hỏi đó vẩn vơ, vì mỗi chúng ta sẽ đặt cho mình những câu hỏi đó sớm hay muộn. Những câu hỏi ấy mà Karl Popper gọi là những câu hỏi tối hậu thuộc về tôn giáo, về siêu hình và cả về thơ ca nữa.
Thuận: Tôi đồng ý là đã có định kiến về siêu hình học. Nhưng trong khoa học chỉ có thực nghiệm, có quan sát là chứng minh được cho các lý thuyết. Ví dụ thuyết tương đối của Einstein đã thay thế thuyết hấp dẫn Newton vì lẽ tính tương đối giải thích được những quan sát mà Newton không thể làm được. Vì thế tôi nghiêng về cái mà người ta gọi là “Nguyên lý tiết kiệm” của nhà thần học và triết gia Guillaume d’Occam vào thế kỷ 14. Nguyên lý này loại bỏ mọi giả thiết không cần thiết để giải thích một sự kiện và chỉ giữ lấy một giả thiết đơn giản nhất. Như vậy tại sao lại tạo ra vô số vũ trụ khô cằn rồi lại chỉ giữ có một vũ trụ có thể cảm nhận được chính mình?
Matthieu: Bạn nói dường như có một Đấng sáng tạo đã làm hỏng nhiều lần, trước khi thành công tạo ra vũ trụ của chúng ta. Điều này giả thử rằng sự tạo ra đời sống và tâm thức có một mục tiêu. Nhưng mục tiêu của ai? Của một sinh vật có tâm thức chăng? Như vậy thì nó từ đâu đến? Hay là của một Đấng sáng tạo, do một Đấng sáng tạo khác lập ra? Hoặc giả là không có nguyên nhân nào? Nhưng một vật tạo ra là phải có một nguyên nhân? Để thoát ra cái bế tắc này, chỉ còn cách tưởng tượng một vũ trụ không có khởi đầu.
Thuận: Một lý do khác khiến tôi chống lại giả thiết tình cờ là tôi không thể hiểu nỗi vẻ đẹp, sự hài hòa, tính đồng nhất của thế gian lại có thể là kết quả của một sự tình cờ. Vũ trụ của chúng ta thật sự rất đẹp: những buổi hoàng hôn đỏ rực, nét đẹp tinh tế của nụ hồng, những hình ảnh của các vì sao và các thiên hà trên bầu trời làm rung động sâu xa trái tim chúng ta. Như vậy sở dĩ vũ trụ được hài hòa như thế là vì các định luật điều hành nó không thay đổi với thời gian và không gian.
Matthieu: Lập luận về vẻ đẹp của vũ trụ không đứng vững. Quan niệm về vẻ đẹp là hoàn toàn tương đối. Nụ hồng chỉ đẹp với thi nhân, tốt cho côn trùng còn không là gì cả với cá voi. Những hình ảnh các thiên hà chỉ đẹp cho một số ít người có phương tiện quan sát chúng vào thế kỷ thứ 20. Vẻ đẹp của các hành tinh không người ở hoặc các thiên hà mà không ai nhìn thấy được thử hỏi để làm gì?
Thuận: Còn một lập luận nữa chống lại sự tình cờ: đó là tính đồng nhất trong vũ trụ. Từ khi khoa vật lý tiến những bước dài, nhiều hiện tượng mà ta cứ tưởng là tách biệt đã có thể thống nhất lại với nhau.
Thế kỷ thứ 17, Newton nối liền trời và đất: đó là luật hấp dẫn đã làm rơi trái táo trong vườn và làm mặt trăng xoay quanh trái đất. Vào thế kỷ thứ 19, Maxwell đã chỉ ra điện và từ tính chỉ là hai dạng của cùng một hiện tượng. Và ông hiểu rằng sóng điện từ chỉ là sóng ánh sáng. Đầu thế kỷ thứ 20, Einstein đồng nhất thời gian và không gian và đầu thế kỷ thứ 21, các nhà vật lý đang cố gắng để thống nhất bốn luật căn bản của vũ trụ thành một lực duy nhất. Vũ trụ đang tiến đến Nhất nguyên. Vì vậy, tôi khó lòng tin sự tiến đến Nhất nguyên này là kết quả của sự tình cờ.
Matthieu: Sự kiện vũ trụ và đời sống của chúng ta đã phát triển theo luật nhân quả mà không có sự sáng tạo nào, và cũng ngụ ý rằng sự hài hòa của vũ trụ vẫn được bảo tồn cũng như đời sống con người. Sự tương thuộc giữa hiện tượng và tâm thức giúp chúng ta cảm nhận được ý nghĩa về sự toàn nguyên của vũ trụ.
Thuận: Tôi cần phải nói rõ với bạn là tôi không nghĩ rằng con người là sản phẩm tối hậu của vũ trụ. Vũ trụ sẽ tiếp tục phát triển, và con người cũng vậy. Đời sống càng ngày càng phức tạp. Tuy nhiên rất khó cho tôi để chấp nhận rằng mọi phát triển của vũ trụ dẫn đến sự có mặt của con người chỉ là một loạt những sự ngẫu nhiên may mắn. Sự tình cờ mà tôi đề cập đến rất khác với sự tình cờ của Jacques Monod. Khi nhà sinh hóa nói đến sự tình cờ, ông ta nghĩ đến sự gặp nhau tình cờ của các quark để tạo thành hạt nhân các nguyên tử giữa các vì sao để nung đốt cho chúng sáng lấp lánh hoặc từ các chất đốt đó nảy sinh các phần tử tạo thành các hành tinh. Cũng như sự phối hợp tình cờ các phân tử hữu cơ của Đại dương nguyên thủy để tạo thành các vòng xoắn AND.
Theo tôi, sự tình cờ thật sự là sự lựa chọn những hằng số vật lý và những điều kiện tiên khởi chớ không phải là sự gặp nhau của các hạt và các phân tử. Một khi các hằng số đó xác định, vật chất đã có sẵn những mầm sống của sự phát sinh tâm thức đưa đến con người hiện nay. Sau rốt, nếu ta gạt ra sự tình cờ và những thuyết về số nhiều vũ trụ, và chúng ta xác định là chỉ có một vũ trụ duy nhất của chúng ta, tôi nghĩ có lẽ phải theo Pascal là chấp nhận có một nguyên lý sáng tạo.
Matthieu: Tốt lắm, vậy hãy xét nguyên lý ấy. Trước hết nó có ngụ ý chí sáng tạo chăng?
Thuận: Nó có thể điều chỉnh những hằng số và những điều kiện điện đầu tiên để có thể đi đến một vũ trụ có thể ý thức về chính mình. Chúng ta có thể gọi nó là Thượng đế hay không cũng được. Theo tôi thì không phải là một Thượng đế nhân cách hóa mà là một nguyên lý phiếm thần có mặt khắp nơi trong thiên nhiên. Einstein cũng viết: Khoa học hiện nay cũng soi sáng khác đi một vài lập luận được các triết gia và các nhà thần học trong quá khứ sử dụng để chứng minh sự có mặt của Thượng đế. Trước tiên, là sự phức tạp của vũ trụ chỉ có thể là công trình của một đấng sáng tạo, một chiếc đồng hồ phải là do ông thợ đồng hồ tạo nên. Một quyển sách không thể được viết ra bằng cách đặt lên bàn một lọ mực, một cây viết và một xấp giấy. Nhưng lập luận này đã bị phá sản bởi khoa học hiện nay đã chứng minh rằng nhiều hệ thống rất phức tạp là kết quả tự nhiên của sự tiến hóa theo những định luật vật lý và sinh học và không cần kêu gọi đến Thượng đế.
Lập luận tiếp theo là “lập luận vũ trụ” được sử dụng bởi Platon, Aristote, St Thomas Aquin và Kant: Mọi vật đều có một nguyên nhân. Nếu thế thì sẽ có vô số nguyên nhân cho vô số hiện tượng. Và chỉ có thể có một nguyên nhân duy nhất là Thượng đế. Cơ học lượng tử đã đặt lại vấn đề mọi vật đều có một nguyên nhân. Năm 1927 với nguyên lý thời danh gọi là “Nguyên lý bất định” Werner Heisenberg đã chứng minh sự bất định và sự mờ mịt trong thế giới vi mô. Sự mờ mịt đó đã ngăn cản chúng ta cùng một lúc biết được năng lượng và thời gian tồn tại của một hạt. Với một hạt mà thời gian tồn tại cực ngắn, sự bất định về năng lượng của nó rất lớn và như thế nó sẽ vay mượn năng lượng nơi thiên nhiên để thị hiện mà không cần một nguyên nhân nào khác. Cũng giống như thế một vũ trụ, trên lý thuyết có thể đột ngột xuất hiện từ khoảng không mà không có một nguyên nhân tiên khởi nào ngoài sự dao động lượng tử.
Matthieu: Nếu Thượng đế là bất biến thì Ngài không thể sáng tạo được. Còn nếu Ngài bị dính mắc vào thời gian thì Ngài không thể bất biến được. Đó phải là sự mâu thuẫn dẫn đến quan niệm nguyên nhân đầu tiên. Trước tiên, nếu có một nguyên nhân đầu tiên, nguyên nhân này phải bất biến. Vì sao? Vì tự nó là đầu tiên thì nó phải không thay đổi. Mọi thay đổi đều ngụ ý có sự can thiệp của một nguyên nhân khác không giống với nguyên nhân đầu tiên.
Kế đến, làm thế nào mà một thực thể bất biến lại có thể sáng tạo? Nếu có sự sáng tạo thì người sáng tạo phải giữ vai trò gì trong đó? Nếu không thì sao gọi là đấng sáng tạo. Nếu có, vì lẽ sự sáng tạo được thể hiện bằng nhiều giai đoạn thì vật hay người có liên quan đến các giai đoạn ấy không thể bất biến được. Ta có thể chấp nhận ý kiến của thánh Augustin là Thượng đế đã sáng tạo ra thời gian cùng với vũ trụ nhưng dù là như vậy, sự sáng tạo cũng vẫn là một tiến trình và nếu là tiến trình thì không thể bất biến được. Còn thánh Thomas ở Aquin thì lại nói: “Nếu thế giới này hiện hữu thì đây là vấn đề đức tin, không phải là vấn đề cần chứng minh hay vấn đề khoa học”. Phật giáo thì cho rằng đức tin ở đây không cần thiết nếu ta không đặt vấn đề khởi đầu của vũ trụ.
Thuận: Có rất nhiều lập luận chống lại sự có mặt của Thượng đế. Riêng tôi, tôi chỉ đề cập đến một nguyên lý sáng tạo để giải thích sự lập thành của vũ trụ. Khoa học chưa chứng nghiệm được nguyên lý đó.
Matthieu: Nhưng người ta không thể đưa ra một nguyên lý mà không giải thích được gì. Nguyên lý ấy tự nó sinh ra nó không? Nó có thường hằng không? Nó có toàn năng không?
Thuận: Bạn vừa đề cập đến vấn đề toàn năng. Thật ra người ta đã cố đồng hóa nguyên lý ấy với Thượng đế sáng tạo. Nhưng các nhà vật lý chỉ đề cập đến các luật vật lý. Và những luật này có những đặc tính mà người ta thường gán cho Thượng đế. Chúng phổ biến khắp nơi trong không gian và thời gian ở trái đất chúng ta, cũng như ở các thiên hà bao la. Chúng là tuyệt đối, không lệ thuộc vào thời gian. Chúng ta sống trong một vũ trụ có thời gian được mô tả bằng những luật không thời gian. Những luật này là toàn năng và được áp dụng trên mọi vật ở mọi nơi. Nói tóm lại chúng có đặc tính của một Thượng đế sáng tạo.
Matthieu: Tôi không hiểu được vì sao những luật ấy lại ngụ ý sự có mặt của một nguyên lý sáng tạo hay tổ chức. Chúng chỉ phản ánh bản chất tương thuộc của các hiện tượng mà thôi.
Thuận: Tôi nhìn nhận rằng quan niệm tương thuộc có thể giải thích sự điều chỉnh chính xác các luật vật lý và những điều kiện tiên khởi cho phép có đời sống trên vũ trụ. Nhưng tôi không hiểu được vì sao quan niệm ấy có thể trả lời được câu hỏi của Leibniz: vì sao lại có vật gì thay vì không có gì cả?
Matthieu: Xác định có mặt của một nguyên lý sáng tạo cũng không trả lời được câu hỏi đó. Chỉ là cách đặt lại vấn đề mà thôi. Tại sao lại có một nguyên lý sáng tạo thay vì không có gì hết? Và bạn hiểu nguyên lý tổ chức như thế nào? Phải chăng là một thực thể, một hình dáng tâm thức đã nghĩ ra cái toàn nguyên vũ trụ và làm nó vận chuyển? Cái nguyên lý ấy có ý định sáng tạo hay không?
Thuận: Tôi nghĩ là có, nguyên lý ấy muốn sáng tạo một vũ trụ có người quan sát được. Đó là lý do vì sao vũ trụ của chúng ta được thành lập và tiến hóa như hiện nay.
Matthieu: Nhưng nếu nguyên lý ấy quyết định sáng tạo, phải nhìn nhận rằng nó không toàn năng vì nó còn bị ảnh hưởng bởi ý muốn sáng tạo. Ngược lại nếu nó quyết định không sáng tạo, nó cũng không toàn năng vì nó sáng tạo mà không quyết định trước. Như vậy nó không được tự do để sáng tạo hay không sáng tạo, và thế là nó không toàn năng. Nguyên lý ấy cũng không bất biến vì theo như chúng ta đã biết trong quá trình sáng tạo, nó buộc phải thay đổi. Sự sáng tạo ngụ ý phải có thay đổi. Sau khi sáng tạo, nguyên lý ấy không còn như trước nữa. Trước đó, nó không phải là đấng sáng tạo, sau đó nó trở thành đấng sáng tạo. Như vậy nó mất đi sự bất biến của nó. Một câu hỏi khác: một nguyên lý như vậy là tự nó sinh ra? Nói cách khác, không có nguyên nhân nào làm cho nó sinh khởi?
Thuận: Theo tôi, nó chính là nguyên nhân sinh ra nó.
Matthieu: Nếu nguyên lý ấy tự sinh thì theo Phật giáo nó phải bất biến và không có lý do nào làm nó thay đổi. Chỉ có vật nào do vật khác sản sinh thì mới thay đổi. Như thế ta lại phải đối mặt với một mâu thuẫn mới vì nếu nguyên lý ấy bất biến, nó không thể sáng tạo được. Mọi yếu tố sáng tạo đều thay đổi sau khi đã sinh khởi vật mình sáng tạo. Thuyết nhân quả luôn luôn có tác dụng hỗ tương.
Thuận: Nếu thế, mỗi sự kiện đều phải có một nguyên nhân và như vậy sẽ vô cùng tận.
Matthieu: Sự vô cùng tận đó đi ngược lại những tin tưởng siêu hình truyền thống của tôn giáo cũng như của khoa học; cả hai đều muốn cho vạn vật phải có một sự khởi đầu. Theo Bertrand Rousel, không có lý do gì tin rằng thế giới có một sự khởi đầu và nếu chúng ta tin như vậy là vì trí tưởng tượng của chúng ta quá nghèo nàn. Cái ý muốn có một sự khởi đầu cho vạn vật dựa trên sự xác tín là mọi vật thật sự hiện hữu và chúng ta cảm nhận được điều ấy. Vậy nếu một sự khởi đầu không cần thiết và riêng tôi cũng đồng ý như vậy, thì cái nguyên lý tổ chức cũng không cần thiết. Làm sao nó có thể tổ chức các hiện tượng không có khởi đầu. Nó có thể thay đổi hiện tượng dần dần mà thôi. Còn một lập luận khác chống lại nguyên lý sáng tạo đó là nếu nó tạo nên toàn thể các hiện tượng trong thế gian, nó phải chứa đựng toàn thể nguyên nhân của các hiện tượng ấy. Nếu không sẽ có một vật thể gì đó nằm ngoài sự sáng tạo của nó.
Thuận: Đúng thế.
Matthieu: Nhưng nền tảng của luật nhân quả quy định rằng nếu một sự kiện không xảy ra là vì thiếu nguyên nhân và điều kiện sản sinh ra nó. Nếu một hạt thóc không nẩy mầm thì có thể hạt ấy xấu, thiếu ẩm, thiếu ánh sáng v.v... Ngược lại nếu nguyên nhân và điều kiện ấy đủ thì bắt buộc sự kiện ấy phải xảy ra. Nếu nó không xảy ra nghĩa là nó còn thiếu một cái gì đó. Vậy nếu một nguyên lý sáng tạo chứa đầy đủ nguyên nhân và điều kiện để tạo nên vũ trụ thì nó có thể tạo nên toàn thể vũ trụ như một vụ nổ Big Bang thường hằng chẳng hạn.
Thuận: Bạn nói như vậy là nó sẽ hoạt động không ngừng nghỉ sao?
Matthieu: Đúng vậy, vì nếu nó ngừng nghỉ, điều ấy có nghĩa là nó đã thôi chứa đựng trong bản thể của nó những nguyên nhân và điều kiện của sự sáng tạo. Nó cần đến sự trợ giúp của một nguyên lý khác có chứa đựng một phần các nguyên nhân và như vậy, nó sẽ tùy thuộc vào nguyên lý mới này. Hoặc giả nó có thể nhờ đến một nguyên lý khác nữa để hãm bớt sự sáng tạo của nó. Trong tất cả các trường hợp, nó mất đi sự toàn năng của nó. Vậy thì chỉ còn có hai khả năng: hoặc là nó không chứa đựng tất cả các nguyên nhân và điều kiện và như vậy nó không sáng tạo được. Hoặc là nó chứa đựng tất cả và nó sẽ sáng tạo liên tục.
Thuận: Điều này quả thật vô lý.
Matthieu: Phật giáo đề nghị rằng trong thế giới hiện tượng không cần có nguyên lý sáng tạo và mỗi giây phút được xem như là một sự ngưng dứt và khởi đầu liên tục do sự vô thường của các hiện tượng theo luật Nhân quả. Trên bình diện chân lý tuyệt đối, tất cả các sự kiện quá khứ, hiện tại, vị lai đều giống hệt nhau vì chúng không có tự tính: chúng không có khởi đầu cũng như không có chấm dứt. Nếu một vật gì không thật sự được sản sinh thì không có lý do gì tìm hiểu về sự chấm dứt của nó. Vậy thì ta không cần đến một nguyên lý sáng tạo có thể làm được mọi việc nhưng chính nó lại được tạo ra không bởi cái gì cả.
Thuận: Như vậy là Phật giáo bác bỏ thẳng thừng quan niệm Thượng đế sáng tạo, đi ngược lại với các Nhứt thần giáo và như thế có trái lại hình ảnh khoan hòa từ lâu nay của Phật giáo không? Làm thế nào để dung hòa được nhận định của mình so với các tôn giáo khác?
Matthieu: Sự khoan hòa dù có lớn mấy đi chăng nữa cũng không ngụ ý một sự chấp nhận các quan điểm siêu hình mà mình không chia sẻ được. Tất cả đều tùy thuộc vào việc ta quan niệm Thượng đế như thế nào. Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói: “Nếu ta không xem Thượng đế như một vị thần linh mà như là nền tảng của con người với những đức tính như lòng từ bi, thì ta có thể dung hòa được các luồng tư tưởng khác”.
Những lập luận siêu hình cần được diễn đạt rõ ràng. Nếu chúng sai mà chúng ta chứng minh được thì Phật giáo sẵn sàng chấp nhận sai lầm của mình. Sự không khoan nhượng là ở chỗ ta cứ chấp nhận là ta đúng và ta muốn áp đặt ý kiến của ta cho mọi người đôi khi bằng cả vũ lực. Phải luôn luôn có tấm lòng rộng mở để hiểu rằng điều thích hợp với chúng ta có thể không thích hợp cho mọi người. Trên bình diện tâm linh, sự tin tưởng vào Thượng đế có thể đem lại cho một số người sự gần gũi với đấng thiêng liêng và khuyến khích họ vun trồng lòng bi mẫn và tánh vị tha. Đối với người khác, sự hiểu biết về sự tương thuộc các pháp và về luật Nhân quả cũng như quyết tâm đi đến giác ngộ đều là những nguồn cảm hứng mạnh mẽ để phát huy tình yêu đồng loại và lòng bi mẫn.
Để kết luận, khi ta đi vào con đường tâm linh thì sự hành trì miên mật là thích hợp nhất cho sự phát triển tinh thần và những thiên bẩm tâm linh. Nhờ vậy mà con người đi đến một sự chuyển hóa nội tâm, sự bình an trong tâm hồn khiến hắn trở nên một con người trưởng thành về mặt nội tâm đồng thời có một trái tim nhân hậu.