Chương VI: Vấn Đề Thời Gian

20 Tháng Chín 201611:07 CH(Xem: 2844)
Chương VI: Vấn Đề Thời Gian
ĐỐI THỌAI GIỮA KHOA HỌC VÀ PHẬT GIÁO
Matthieu Ricard – Trịnh Xuân Thuận - BS: Hồ Hữu Hưng dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

Chương VI: Vấn Đề Thời Gian

Khoa vật lý hiện đại đã đi từ vấn đề thời gian tuyệt đối và phổ cập của Newton đến thời gian tương đối và co giãn của Einstein. Thời gian theo Einstein có thể chậm lại hoặc tăng tốc tùy theo hoạt động của người quan sát và cường độ của lực hấp dẫn nơi đó. Thời gian không còn tính phổ cập nữa. Quá khứ của người này có thể là tương lai của người kia. Vậy sự khác biệt giữa thời gian tâm lý là thế nào? Phật giáo chối bỏ thời gian tuyệt đối và chỉ sử dụng thời gian tâm lý như một yếu tố kích thích sự hành trì tâm linh. Không có ở bình diện hạt nhân, có ở cùng khắp ở bình diện vũ trụ, mũi tên thời gian phải chăng chỉ là một nhãn hiệu của tinh thần?

Thuận: Suy tư về thời gian là việc đầu tiên của môn siêu hình, đó là lời của Gaston Bachelard: Thời gian không phải là một niệm để diễn tả như Saint Augustin đã nói vào thế kỷ thứ IV: “Thời gian là gì? Nếu có ai hỏi thì tôi biết. Nhưng khi tôi cần giải thích thì tôi lại không biết gì”.

Thời gian giữ một vai trò quan trọng không những trong siêu hình học mà cả trong vật lý học. Trong các cuộc nghiên cứu về thiên nhiên, luôn luôn các nhà vật lý phải đối đầu với vấn đề thời gian. Điều này có vẻ mâu thuẫn khi ta mới nhìn, vì lẽ thời gian thì phù du còn các nhà vật lý thì muốn tìm ra định luật tức là những quan hệ không thay đổi. Galilée vào thế kỷ 16, là người đầu tiên đã xem thời gian như một kích thước cơ bản để đo đạt sự chuyển động các vật thể. Nhưng chính Newton với những luật cơ học đã cho thời gian một định nghĩa minh bạch. Ông đã xác định việc di chuyển các vật thể trong không gian bằng vị trí và tốc độ của chúng vào những thời điểm kế tiếp nhau. Thời của Newton là duy nhất, tuyệt đối và phổ cập. Nó trôi chảy cùng một cách theo cái nhìn của mỗi người, và mỗi con người trên vũ trụ đều cùng chia sẻ một quá khứ, một hiện tại và một vị lai. Không gian và thời gian được phân định rõ ràng: thời gian trôi đi mà không có sự can thiệp nào của không gian. Năm 1905 quan niệm về một thời gian tuyệt đối đã được đặt lại bởi Einstein khi ông công bố lý thuyết hạn chế về lực tương đối. Với Einstein, thời gian không còn cố định và phổ cập như Newton đã nghĩ. Nó không còn dửng dưng với vũ trụ trong đó nó trôi chảy, mà trở nên co giãn khi nó lệ thuộc vào sự chuyển động của người quan sát. Khi người ta di chuyển càng nhanh thì thời gian càng chậm lại. Như vậy một nhà du hành vũ trụ di chuyển với tốc độ bằng 87% tốc độ ánh sáng sẽ thấy thời gian chậm lại một nửa. Trong tàu vũ trụ, anh ta sẽ già đi kém hai lần người em song sinh ở mặt đất. Ông em có nhiều nếp nhăn hơn, nhiều tóc bạc hơn, tim đập nhanh hơn, và đặc biệt những nhu cầu về đời sống như ăn nhiều hơn, uống nhiều hơn, đọc sách cũng nhiều hơn. Đó là nghịch lý anh em song sinh Langevin theo tên của nhà bác học Pháp đã diễn tả. Lý thuyết về luật hấp dẫn đã chỉ ra rất rõ ràng về sự chậm lại của thời gian: Khi tốc độ gia tăng, thì thời gian chậm lại. Khó nhận biết trong sinh hoạt hằng ngày, sự chậm lại của thời gian sẽ rõ rệt với những tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng (300000 km/s). Ở độ 99% tốc độ ánh sáng, thời gian chậm lại 7 lần. Ở độ 99,9% tốc độ ánh sáng thời gian chậm lại 22,4 lần. Sự chậm lại của thời gian này không phải một trò của tâm trí. Nó đã được quan sát trong trường hợp những hạt được phóng đi với tốc độ cao trong máy gia tốc: những hạt này sống lâu hơn là khi còn nằm im, trước khi tan rã.

Một cuộc cách mạng tư tưởng khác: không gian và thời gian không còn bị tách biệt rõ ràng và Einstein đã gom chúng lại thành một cặp duy nhất. Không gian cũng trở nên co giãn. Và hoạt động của hai thành viên này bổ sung cho nhau. Khi mà thời gian chậm lại thì không gian cũng co lại. Nếu một trong hai anh em song sinh ngồi trong tàu vũ trụ với tốc độ 87% tốc độ ánh sáng thì không những anh ta già đi kém hai lần ông em ở trái đất, mà không gian của anh ta cũng thu hẹp lại: ở mặt đất người em sẽ nhìn thấy con tàu của anh mình rút ngắn lại phân nửa.

Thời gian còn chậm lại không những do tốc độ mà còn do luật hấp dẫn nữa. Đây là điều mà Einstein đã công bố năm 1915 trong lý thuyết lực hấp dẫn phổ biến. Ở gần lỗ đen lực hấp dẫn rất lớn, đồng hồ của nhà du hành vũ trụ chậm lại so với đồng hồ của một người ở mặt đất. Sự chậm lại của thời gian còn được thực nghiệm khi các nhà vật lý có thể đo được một sự thay đổi của thời gian bằng 2,5 phần triệu của một phần tỷ giây đồng hồ giữa trên và dưới một tòa tháp cao 23m tại Đại học Harvard. Đồng hồ ở mặt đất chậm hơn vì lẽ nó nằm gần tâm điểm trái đất, nơi đó lực hấp dẫn hơi mạnh hơn ở trên. Đây thật sự là giá trị đúng đã được tiên đoán bởi thuyết lực hấp dẫn phổ biến. Tính co giãn của thời gian có một hậu quả cơ bản: nó mất đi tính chất phổ biến của nó, và nó không còn giống nhau ở mỗi người. Hiện tại của tôi có thể là quá khứ của một người khác, và là vị lai của người thứ ba nếu hai người sau chuyển động đối với tôi. Vì lẽ ý niệm đồng thời mất đi ý niệm của nó, chữ hiện thời hóa ra rắc rối. Và nếu đối với một người khác vị lai đã đến, trong khi quá khứ hãy còn là hiện tại, như vậy mọi thời điểm đều giống nhau. Không có thời gian nào là ưu tiên cả. Theo Einstein sự trôi chảy của thời gian chỉ là ảo tưởng và ông diễn tả ý này để làm dịu bớt nỗi buồn trong một bức thư viết năm 1955 khi bạn ông- Michelle Besso qua đời, và sau đó chưa đến một tháng ông cũng tạ thế. Ông nói: “Với chúng tôi, sự phân biệt quá khứ, hiện tại và vị lai chỉ là một ảo tưởng mặc dù rất dai dẳng”. Còn đối với nhà vật lý hiện đại thời gian không trôi chảy: nó chỉ bất động như một đường thẳng đi vào vô tận theo cả hai chiều hướng.

Matthieu: Theo Phật giáo, thời gian vật lý tuyệt đối chỉ là một ý niệm. Tự nó không có mà chỉ có tương quan với các hiện tượng, và với sự sống. Thời gian không thể nắm bắt được ngay ở giây phút hiện tại khi nó ngừng trôi, và như vậy nó vô thủy vô chung. Đối với hiện tại thì quá khứ đã chết còn tương lai thì chưa đến. Làm thế nào để có hiện tại khi nó bị treo giữa cái không còn nữa và cái chưa đến?

Thời gian vật lý không có tự tính vì lẽ người ta không thể biết một thời điểm rõ ràng trong các thời điểm liên tục của thời gian. Ta không thể nhận chân ra nó vào ban đầu, trong khi, hay lúc nó chấm dứt. Nếu ta định nghĩa một giới hạn gồm một tập hợp giữa ban đầu, trong khi, và khi chấm dứt, rõ ràng tập hợp này không có trong một của ba thành phần. Thời hạn cũng không thể có ngoài khi khởi đầu, khoảng giữa và khi chấm dứt và vì vậy quan niệm về một thời hạn chỉ có tính cách quy ước. Thời gian cũng như không gian chỉ có do kinh nghiệm của chúng ta khi tiếp xúc với các hiện tượng. Nếu không có hiện tượng thì không thể có thời gian.

Thuận: Phải phân biệt rõ ràng thời gian tâm lý và thời gian vật lý. Thời gian vật lý không tùy thuộc vào nhận thức của chúng ta. Đó là thời gian của đồng hồ mà người ta đo được nhờ vào một sự chuyển động đều đặn: sự rung động của một nguyên tử, hay sự chuyển động của trái đất chung quanh mình. Vì thế, nói về thời gian hay không gian trước khi vũ trụ được lập thành, không có ý nghĩa nào cả vì lẽ khi ấy không có một chuyển động nào có thể đo đạc được. Theo thuyết Big Bang, thời gian và không gian nảy sinh một lượt cùng với vũ trụ. Thánh Augustin cũng quan niệm thời gian xuất hiện cùng với thế gian. Ông cho rằng đáng buồn cười với ý nghĩa Thượng đế đã chờ đợi một thời gian vô tận trước khi quyết định tạo dựng thế gian. Theo ông thì thế gian không phải được tạo dựng theo thời gian mà cùng với thời gian.

Trái lại thời gian tâm lý thì không trôi chảy đều đặn. Nó thật sự rất co giãn. Thật vậy, khi xem cùng một vở kịch, một khán giả buồn nản sẽ thấy thời gian kéo dài lê thê, còn người bạn anh ta thì lại thích thú và không còn cảm thấy thời gian trôi qua nữa. Một giây phút sợ hãi hay thất vọng có thể xem như kéo dài cả thế kỷ, trong khi một thoáng hạnh phúc lại qua nhanh như một chớp mắt. Mặt khác, càng già đi thì chúng ta lại cảm thấy thời gian càng qua nhanh. Sự trái ngược giữa thời gian tâm lý và thời gian vật lý luôn luôn xuất hiện trong lịch sử tư tưởng. Với các triết gia tiền Socrates, thời gian gắn liền với hoạt động như thời gian vật lý. Heraclite đã nói: “Thời gian cũng giống như một đứa bé chơi trictrac (một loại cờ) còn Aristote thắc mắc nếu không có “tâm” thì liệu có thời gian hay không. Thế kỷ thứ IV St. Augustin phản bác lý luận của Aristote: “Thời gian không phải là sự di chuyển của một vật mà nó chỉ trôi chảy trong tâm hồn vì điều ta chờ mong (vị lai) trở thành điều để ta chú tâm (hiện tại) rồi lại rơi vào ký ức (quá khứ). Lập trường này được triết gia người Đức Edmund Husserl công nhận vào thế kỷ 20.

Matthieu: Kant cũng nói rằng ý niệm về thời gian và không gian tùy thuộc vào sự giao tiếp của chúng ta với thiên nhiên chớ không phải tự thiên nhiên mà có: “Thời gian chỉ là một điều kiện chủ quan do chúng ta trực giác, chứ nó không thể có ngoài chúng ta”. Một ý niệm tương tự cũng xuất phát từ các triết gia Phật giáo khi cho rằng thời gian không hề có tự tính, nếu không có hiện tượng và không có người quan sát thì cũng không có thời gian. Nếu nói về sự khởi đầu của thời gian thì chỉ là một ảo tưởng vì một khi đã đặt vấn đề khởi đầu thì người ta sẽ tự hỏi cái gì đã có trước sự khởi đầu ấy. Thay vì nói như Einstein, thời gian vật lý luôn luôn ở tại đó giống như một kích thước bất động, ta sẽ nói là nó không hề ở đó, như vậy khác gì nói thời gian là mộng ảo.

Thuận: Saint Augustin cũng nói không có một thứ thời gian nào khác ngoài thời gian tâm lý. Ngoài ký ức, sự chú tâm vào hiện tại và sự chờ mong tương lai, thời gian chỉ là cái “không”. Vì thế nên tất cả đều ở trong thời gian nên tất cả đều không thật có, chỉ là hiện tượng. Thời gian tâm lý mà chúng ta cùng cảm nhận được rất khác với thời gian vật lý. Chúng ta nghĩ rằng nó chuyển động. Theo chúng ta nó trôi chảy như một dòng sông. Trên con tàu chúng ta bỏ neo ở hiện tại, chúng ta ngắm nhìn thời gian rời xa quá khứ và ngóng chờ những đợt sóng kế tiếp của vị lai. Chúng ta cho thời gian một chiều hướng và chính sự hình dung thời gian trong không gian mà chúng ta cảm nhận quá khứ, hiện tại và tương lai. Quá khứ thì đầy dẫy kỷ niệm còn tương lai thì chứa đựng những ngóng chờ. Có thể là hoạt động của não bộ làm chúng ta cảm nhận được thời gian đang trôi qua. Những sự kiện của thế giới bên ngoài được chuyển từ các giác quan đến bộ não để tổng hợp thành một hình ảnh trong tâm thức. Hoạt động của não bộ đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ của nhiều vùng khác nhau với những chức năng khác nhau. Theo nhà thần kinh sinh học Francisco Valera, vì sự phức tạp của công việc nối kết và tổng hợp những hoạt động của não bộ, mà chúng ta mới cảm nhận được về thời gian. Từ hoạt động liên hợp và đồng bộ của những tế bào thần kinh, một trạng thái sinh học vượt trội hình thành. Vì lẽ hoạt động này chỉ vào khoảng thời gian từ vài phần mười đến vài phần trăm của một phần ngàn giây, chúng ta có cảm giác một hiện tại có bề dày nào đó. Nhưng sự đồng bộ của các tế bào thần kinh không cố định và không kéo dài, và tiếp tục các tế bào thần kinh đồng bộ khác đi vào hoạt động và tạo nên những trạng thái sinh học kế tiếp và chính những trạng thái này cho chúng ta cảm giác thời gian đang trôi và có sự liên tục về thời gian. Một trong những đặc tính quan trọng nhất của thời gian tâm lý là nó luôn luôn tiến về phía trước và đưa chúng ta từ lúc sinh ra cho đến khi chết. Giống như một mũi tên khi rời khỏi dây cung, thời gian tâm lý không bao giờ trở lui, và chính vì sự không trở lui đó mà chúng ta bị ám ảnh bởi cái chết. Chúng ta biết chắc chắn là chúng ta sẽ chết.

Matthieu: Phật giáo sử dụng thời gian tâm lý để chế ngự sự lo sợ về cái chết, và để tăng cường sự kiên trì trong thực hành việc chuyển hóa nội tâm. Một Phật tử thuần thành sẽ không sợ cái chết, vì nếu thiền định miên mật người Phật tử sẽ đón chờ một cách an lạc khi giờ chết đến. Gampopa, vị hiền triết Tây Tạng thế kỷ 14 đã viết: “khi còn trẻ, thì người ta sợ việc sinh và tử như một con nai muốn thoát ra khỏi bẫy. Ở tuổi trung niên thì không nên tiếc gì nữa dù có phải chết đi như người nông phu đã chăm bón cẩn thận mảnh ruộng của mình. Và khi đã già thì phải hạnh phúc như người đã thực hiện xong một công việc to lớn”.

Một ẩn sĩ Tây Tạng thường lật úp cái bát mỗi tối trước khi ngủ để phòng trường hợp không còn thức dậy được nữa (ở Tây Tạng người ta thường lật úp bát khi có người chết). Ông ta nghĩ rằng mỗi phút giây ông ta đang tiến gần đến cái chết. Mỗi khi thở ra, ông ta cảm thấy hạnh phúc khi được thở vào. Bồ tát Long Thọ đã viết:

Nếu cuộc đời bị vùi lấp bởi muôn ngàn đau khổ này

Lại mong manh hơn cả một bong bóng trên mặt nước

Thì có phải mầu nhiệm biết bao sau khi ngủ

Lại được thở vào, thở ra và thức dậy hoàn toàn khỏe khoắn

Tất cả những gì mà ta gom góp sau cùng rồi cũng mất đi

Cái gì mà ta xây dựng rồi cũng sẽ đổ sụp

Cái gì mà được kết nối rồi cũng sẽ chia lìa

Và cái gì sinh động rồi cũng sẽ biến mất trong cái chết.

Việc nhận thức thời gian trôi không thể đảo ngược được là liều thuốc kích thích sự tinh tấn của chúng ta. Liên Hoa Sanh, vị tổ khai sáng Phật giáo ở Tây Tạng đã nói:

Giống như dòng nước trôi về biển cả

Như mặt trời, mặt trăng đi về phía sau núi khi chiều xuống

Như ngày và đêm, giờ và những giây phút trôi qua

Cuộc đời luôn luôn tuôn chảy mà không hề lay động.

Đức Phật cũng dùng hình ảnh một lực sĩ nắm bắt bốn mũi tên đang bay do bốn cung nỏ bắn ra theo bốn phía khác nhau. Tuy vậy Người bảo: “Thời gian và cái chết còn đến mau hơn thế”. Đối với một phật tử thuần thành, thời gian là một vật quý vô giá và không nên lãng phí một phút giây nào.

Thuận: Thật vậy, việc thời gian trôi chảy so với tâm thức bất động của chúng ta không thích hợp với khoa vật lý đương đại. Nếu thời gian trôi thì tốc độ của nó sẽ là bao nhiêu? Một câu hỏi hoàn toàn vô lý. Tôi phải nói rõ rằng trên bình diện vi mô thời gian không còn đi theo một chiều nữa. Trong thế giới những hạt bụi, thời gian có thể trôi theo hai chiều. Hai điện tử hội tụ va chạm vào nhau và lại di chuyển. Nếu đảo ngược lại thứ lớp các sự kiện trong thời gian, chúng ta lại có hai điện tử hội tụ va chạm vào nhau và lại di chuyển. Cả hai cảnh trên đều giống hệt nhau. Những định luật vật lý để diễn tả sự kiện này không hề nói lên là thời gian đã đi theo một chiều. Những phim ảnh về thế giới các hạt bụi có thể chiếu theo hai chiều.

Matthieu: Thế tại sao trong thế giới những hạt bụi thời gian không còn tuyệt đối, thì trong thế giới vĩ mô lại có thứ thời gian khác tồn tại ngoài tâm thức của chúng ta.

Thuận: Như tôi đã nói với bạn, Einstein đã nghĩ rằng thời gian trôi lăn chỉ là một ảo tưởng. Khi đập tan ý niệm phổ cập của thời gian, ông đã phá vỡ sự phân biệt giữa quá khứ, hiện tại và thời gian. Ông hy vọng loại ra được ý niệm không đảo ngược được trong vật lý. Nhưng mũi tên thời gian lại xuất hiện trong những trạng huống khác cả trong thế giới vi mô của cơ học lượng tử, và thuyết phục hơn trong thế giới vĩ mô. Tất cả dường như có một mũi tên thời gian tâm lý luôn đi từ phía trước, và một mũi tên nhiệt động học chỉ đi theo một chiều hướng nhất định. Điều này dựa trên định luật thứ hai của môn Nhiệt động học cho rằng mọi thứ rồi cũng sẽ xáo trộn. Chúng ta có thể thấy những biểu hiện của sự gia tăng xáo trộn ấy khi quan sát một cục nước đá tan dưới mặt trời, hay những hòn đá của một lâu đài cũ bị bỏ hoang phế. Trong cả hai trường hợp trạng thái đầu tiên và trạng thái sau cùng khác hẳn nhau. Sự di chuyển từ quá khứ đến vị lai xác định chiều hướng trôi chảy của thời gian tâm lý, sự thay đổi từ một trạng thái trật tự đến một trạng thái mất trật tự nói lên chiều hướng của thời gian nhiệt động học. Phật giáo thường nói đến vô thường, vậy có đề cập đến một chiều hướng của sự vô thường đó chăng?

Matthieu: Chắc chắn rằng Phật giáo ý thức được chiều hướng của thời gian quy ước. Sự vô thường tế nhị của các hiện tượng gần giống như ý niệm nhiệt động học: nếu một cái nhà già đi theo năm tháng và sau cùng trở thành hoang phế, là vì không có hiện tượng nào dù nhỏ như hạt bụi cũng không bao giờ giữ được sự nguyên vẹn ban đầu nhưng luôn mang theo mình mầm móng của sự hủy hoại.

Thuận: Năm 1854 mũi tên nhiệt động học làm dấy lên tiếng kêu tuyệt vọng của nhà vật lý người Đức Herman Von Hemholtz: “Vũ trụ đi về cái chết!”. Theo ông một nhiệt động cứ tăng lên theo sau các tạo dựng của thiên nhiên bắt buộc phải đưa đến sự chấm dứt các hoạt động sáng tạo trong lòng vũ trụ. Tòa lâu đài vũ trụ bao gồm các ngôi sao, các hành tinh, các thiên hà v.v... những sáng tạo của những thiên tài con người như những bản nhạc của Mozart, tranh của Monet sẽ bị chôn vùi dưới những mảnh vụn của một vũ trụ hoang phế.

Nếu định luật thứ hai của môn nhiệt động học đưa đến một cách khắc nghiệt sự tàn lụi và cái chết của vũ trụ, làm sao để hiểu được chúng ta lại không sống trong một vũ trụ hoàn toàn bị xáo trộn? Làm sao để giải thích sự tổ chức có hệ thống và sự hài hòa của vũ trụ? Làm thế nào vũ trụ có thể thoát ra sự phức tạp đó? Làm sao từ một cái không chứa đầy năng lực lại có thể sản sinh những hạt bụi sơ khai, những thiên hà, những ngôi sao, hành tinh cả sự sống và tâm thức con người. Định luật thứ hai về nhiệt động học có bị xâm phạm ở một vài nơi nào đó trong vũ trụ chăng? Câu trả lời là không. Nhiệt động học không ngăn cấm một vài vùng có tổ chức, có trật tự xuất hiện trên vũ trụ với điều kiện chúng phải đi cùng với sự sáng tạo những nơi khác lộn xộn hơn. Để minh xác điều này hãy trở lại với ví dụ tòa lâu đài bị bỏ hoang. Một lực lượng thợ thuyền có thể tái tạo lại được nó, nhưng muốn làm được thế họ phải ăn uống nhiều hơn, và năng lượng đều đặn mà họ tạo ra với thức ăn lại đổ vào năng lượng tiêu hao cho công việc. Như vậy sau cùng sự lộn xộn mà các ông thợ tạo ra cao hơn trật tự do sự tái tạo lại cái lâu đài kia. Và như vậy định luật thứ hai về nhiệt động học vẫn được tôn trọng.

Mũi tên thời gian nhiệt động học gắn liền với mũi tên thời gian vũ trụ được đặt trên căn bản sự trương nở của vũ trụ. Khi thời gian trôi đi, các thiên hà rời xa nhau, vũ trụ nguội lại và loãng dần đi. Đến phút thứ ba của sự lập thành vũ trụ, nhiệt độ lên đến hàng triệu độ. Sau 15 tỷ năm tiến hóa, nhiệt độ rơi xuống– 2700 tức là nhiệt độ của ánh sáng hóa thạch. Trong lòng cái lạnh kinh người ấy, những ngôi sao trở nên nguồn nhiệt lượng và năng lượng nhờ vào những phản ứng nguyên tử đã xảy ra trong lòng chúng mà sức nóng lên đến hàng mười triệu độ. Sự giảm thiểu những sự lộn xộn gây ra bởi sự xuất hiện các cấu trúc phức tạp như những hành tinh, những ngôi sao, thiên hà được bù đắp bởi nhiệt lượng mà các ngôi sao thải ra trong không gian. Và như vậy định luật thứ hai về nhiệt động học lại được tôn trọng. Các mũi tên thời gian vũ trụ và thời gian nhiệt động học nối kết chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên những vấn đề về chiều hướng thời gian còn lâu mới được giải quyết vì bị che phủ bởi một màn sương mù dày đặc. Nếu một ngày nào đó vũ trụ tiến đến một sự trương nở tột bực và sụp đổ, thời gian nhiệt động học gắn liền với sự trương nở vũ trụ có đảo ngược lại chăng trong một vũ trụ bị co lại. Đống đá hỗn độn kia có đột nhiên biến trở lại thành một lâu đài tráng lệ chăng? Và thời gian tâm lý có trôi lăn theo chiều hướng đảo ngược? Thật ra, nếu điều này xảy ra cư dân của một vũ trụ bị co lại sẽ tưởng tượng như đang ở trong một vũ trụ trương nở vì các cấu trúc não bộ của họ cũng sẽ bị đảo ngược. Vấn đề đảo ngược thời gian do đó không thể đặt ra được, hay đó chỉ là một trò chơi của tinh thần.

Nhưng chúng ta hãy trở lại cuộc tranh luận về ý niệm thời gian vật lý của Einstein. Triết gia người Pháp Henri Bergson không chấp nhận lý thuyết của Einstein theo đó thời gian chỉ là một ảo tưởng không có thật cũng không có kỳ hạn. Theo Bergson thời gian phải có một “bề dày” và chỉ bề dày đó mới phù hợp với đời sống nội tâm. Chỉ có kỳ hạn của thời gian mới cho phép tự do sáng tạo, tiến bộ và phát minh cùng sự bừng sáng tinh thần. Triết gia người Đức Edmund Husserl cũng nói đến “thời gian không dồn nén được” mà khoa thần kinh sinh học công nhận. Thời gian vật lý theo quan niệm Einstein có phải là tất định và trái với đạo làm người không? Nếu mọi thứ sắp đến đều đã được định sẵn thì còn đâu là ý chí phấn đấu và hy vọng?

Matthieu: Ý niệm về mọi sự sắp xảy ra đều đã được định trước là vô lý. Như chúng ta đã biết khi nói về sáng tạo, nếu tất cả đều đã được định trước, tất cả nguyên nhân và điều kiện của tương lai đều phải có sẵn ở hiện tại. Và nếu được như thế thì không có gì ngăn cản chúng xảy ra lập tức. Và nếu như chúng không hiện diện tất cả ở hiện tại thì vẫn còn cái gì đó khiến chúng không xảy ra.

Thuận: Làm thế nào để dung hợp thời gian tâm lý và thời gian vật lý?

Matthieu: Ý niệm về thời gian vật lý phải chăng đơn giản là một sự trừu tượng hóa thời gian tâm lý, cái thời gian sinh ra từ sự phân biệt giữa cái gì đã xảy ra và cái gì chưa đến? Người ta có thể tháo gỡ ý niệm thời gian vật lý khi hiểu rằng một thoáng chốc không có thời hạn và như vậy tổng số những thoáng chốc cũng không thể có thời hạn. Thời gian chỉ là một nhãn hiệu mà ta dán lên cho nhận thức của ta về một sự thay đổi. Nếu thời gian vật lý có một tính cách tuyệt đối thì phải có sự liên tục, nghĩa là phải có một sự giao tiếp giữa quá khứ và hiện tại, hiện tại và tương lai.

Thuận: Đúng thế.

Matthieu: Một thoáng chốc là điểm không thời hạn giữa hiện tại và tương lai. Nhưng làm sao mà cái thoáng vừa trôi qua và cái thoáng hiện tại cùng có chung một cái gì không? Nếu có, hoặc là cái thoáng hiện tại biến thành quá khứ, và cái thoáng quá khứ trở thành hiện tại. Cũng thế, nếu cái thoáng hiện tại có điểm nào giao tiếp với cái thoáng tương lai, thì hoặc hiện tại trở thành tương lai và tương lai lại trở thành hiện tại. Như vậy muôn ngàn thoáng chốc đã qua và sắp đến đều có thể lẫn lộn với hiện tại.

Thuận: Người ta thấy một lập luận tương tự ở Aristote trong quyển “Vật lý”: “Nếu trước và sau cả hai cùng ở chung trong một thoáng chốc thì cái gì sẽ xảy ra nếu một sự kiện cách đây mười ngàn năm lại đồng thời với cái đang ở hiện tại”. Nhưng tôi cũng nhắc cho bạn rõ là với các nhà thần kinh sinh học như Valera cái thoáng chốc hay nói khác đi là cái hiện tại không phải là không có thời hạn. Thời hạn này không dưới vài phần mười của một phần ngàn giây tức là thời hạn tối thiểu để các tế bào thần kinh hoạt động.

Matthieu: Lập luận mà tôi đưa ra không đề cập đến thời gian sinh lý và chủ quan, mà chỉ nói đến thời gian vật lý. Nó phá vỡ cái cảm nghĩ xem thời gian như một thực tại đang trôi chảy. Nếu thời gian trôi chảy không thể bắt gặp được trong giây phút hiện tại mà hiện tại thì không dời đổi, làm thế nào trên bình diện chân lý tương đối ta có thể đi từ hiện tại sang tương lai? Bồ tát Thế Thân viết trong A tỳ đàm: “Do sự kết thức tức khắc của một thoáng chốc cho nên không có sự chuyển động thật sự, mà chỉ có sự sản sinh không ngừng dứt các thoáng chốc”.

Thuận: Người ta lại tìm thấy ý này trong câu nói của Bòece: “Cái hiện tại khi trôi qua là thời gian, còn cái hiện tại đang dừng lại là thiên thu”. Theo Kant thời gian không thể tách biệt khỏi dòng tư tưởng nhận ra nó. Ông đã nghĩ rằng thời gian cho phép sự kế tục các sự việc trong khi không gian thì giúp cho sự đồng thời xuất hiện các sự việc đang hiện thực. Nhưng ông ta vẫn xem không gian và thời gian tách biệt như Newton, và như vậy là trái với quan niệm của Einstein. Tôi nghĩ rằng Phật giáo cũng xem không gian và thời gian như những thực thể tách biệt?

Matthieu: Không hẳn như vậy vì lẽ Phật giáo không quan niệm không gian như một thực tại. Không gian cũng như thời gian tương quan với trải nghiệm mà chúng ta có được với những hiện tượng vật lý rõ ràng. Nếu ta quan sát một vùng trong không gian dù rộng lớn đến đâu, cái vùng đó cũng chỉ là một ý niệm. Không gian không thể được xem từ một thành phần của nó, hoặc tách rời khỏi các thành phần của nó. Nếu thực thể không gian gồm tất cả thành phần của nó, thì để đi vào không gian đó, ta phải đồng thời đi vào một lượt các thành phần của nó, điều không thể xảy ra được. Như vậy thực thể không gian chỉ là một nhãn hiệu tinh thần, không có tự tính.

Thuận: Còn quan niệm thời gian có giống như quan niệm Einstein là thời gian không trôi chảy chăng? Theo thuyết tương đối thời gian vật lý là bất động đứng im. Như vậy thì trong toàn bộ cái đôi “không, thời” có chứa đựng tất cả các sự kiện từ khi vũ trụ bắt đầu cho đến khi chấm dứt không?

Matthieu: Không, thời gian không bất động và đứng im vì lẽ thời gian không thực. Đôi “không, thời” của Einstein không thể xem như tuyệt đối mà chỉ là một quy ước. Bản thể tuyệt đối của thời gian là tánh không, nó không có tự tính. Người ta gọi điều này là “chiều hướng thứ tư” của thời gian vượt trên ba chiều kia là quá khứ, hiện tại, vị lai. Chiều hướng thứ tư này đôi khi được đồng hóa với hiện tại, vì lẽ hiện tại không có thời gian. Trên bình diện thiền định, thiền giả ở trong trạng thái an lạc của hiện tại và dễ dàng nhận ra tánh không sáng ngời của Tâm, và sự rõ ràng trong suốt của thế giới hiện tượng. Và điều này là bất di bất dịch, không phải theo nghĩa một thực thể thường hằng mà là một trạng thái chân xác của tinh thần và của hiện tượng, vượt khỏi mọi ý niệm đến và đi, hiện hữu hay không hiện hữu, một hay tất cả, khởi đầu hay chấm dứt.