Chùa Phật Ân 475 Minnesota Avenue Roseville, MN 55113. Tel: (651) 482-7990 - Web: www.PhatAn.org. Email: chua_phatan@yahoo.com.
Danh Mục Tam Tạng
THƯ MỤC TÁC GIẢ

40-pháp Hội Tịnh Tín Đồng Nữ

27 Tháng Bảy 20166:09 CH(Xem: 2087)
40-pháp Hội Tịnh Tín Đồng Nữ

KINH ĐẠI BẢO TÍCH 
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh 
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XL 
PHÁP HỘi
 
TỊNH TÍN ĐỒNG NỮ
 
THỨ BỐN MƯƠI
 
Hán dịch : Nhà Đường Pháp sư Bồ Đề Lưu Chi 
Việt dịch : Việt nam Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

 
Như vậy, tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Xá Vệ tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm người câu hội.

Đại Bồ Tát tám ngàn người, tất cả đều là tri thức của mọi người.Các Ngài đã được đà la ni vô ngại biện tài, có đủ các nhẫn hàng phục ma oán đến các pháp đã được của Như Lai.

Danh hiệu của các Ngài là : Trì Thế Bồ Tát, Trì Đạo Bồ Tát, Trì Địa Bồ Tát, Trì Đại Địa Bồ Tát, Lạc Ý Bồ Tát, Linh Tín Lạc Bồ Tát, Diệu Sắc Trang Nghiêm Bồ Tát, Bửu Diệm Bồ Tát, Bửu Tràng bồ Tát, Bửu Tư Bồ Tát, Bửu Xứ Bồ Tát, Bửu Huệ Bồ Tát, Bửu Đức Bồ Tát, Bửu Quang bồ Tát, còn có chư Bồ Tát Hiền Kiếp mà Di Lặc Bồ Tát làm thượng thủ, còn có sáu mươi vô đẳng dụ tâm chư Bồ Tát mà Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát làm thượng thủ, còn có mười sáu Đại Sĩ mà Hiền Hộ Bồ Tát làm thượng thủ, còn có hai vạn Thiên Tử Đâu Suất đều ở trong pháp hội.

Bấy giờ đức Thế Tôn ngồi tòa sư tử Đại Trang Nghiêm Tạng, vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh, quang minh chiếu sáng như nhựt nguyệt, oai đức thù thắng như Đế Thích Phạm Vương, cao vọi vượt chúng như núi Tu Di, tia sáng chói rực như lửa đuốc lớn, nhìn ngó an tường như đại tượng vương, thuyết pháp vô úy như sư tử hống, che trùm đại chúng như La Hầu La Vương, tướng hảo trang nghiêm oai quang xí thạnh, phát xuất phạm âm vang khắp tam thiên Đại Thiên thế giới, vì muốn giác ngộ tất cả chúng sanh khiến đều an trụ thắng nghĩa quyết định nên ở giữa đại chúng rộng tuyên pháp yếu.

Ái nữ của vua Ba Tư Nặc tên Tịnh Tín tuổi còn ấu trĩ, dung mạo đoan nghiêm được mọi người ưa nhìn, đời trước gieo trồng gốc lành tu tập đại thừa, cùng năm trăm đồng nữ sau trước vây quanh tay cầm vòng hoa xuất thành Xá Vệ tiến đến rừng Kỳ Đà đảnh lễ chưn Phật hữu nhiễu ba vòng đứng qua một phía. Rồi ở trước Phật, nàng nói kệ rằng :

“ Lâu tích phước thiện nghiệp thanh tịnh 
Đầy đủ vô biên biển công đức 
Khiến chúng tin ưa đều vui mừng 
Nên tôi đảnh lễ đấng Mâu Ni 
Hiển hiện oai quang tướng kỳ đặc 
Khai thị pháp môn tạng trân bửu 
Thân quang một tấm thường chiếu sáng 
Tôi lễ Đại Huệ ao thanh lương 
Cây to công đức phước vô tận 
Tối tôn trong người đời khen ngợi 
Bổn nguyện giới hạnh đã viên mãn 
Nên tôi đảnh lễ đấng Ứng Cúng 
An trụ diệu pháp thường yên lặng 
Lòng thương chúng sanh như con một 
Trí huệ thiện xảo biết các hành 
Chỉ đường bình thản như Đạo Sư 
Nếu có người kiên cố dũng mãnh 
Từ bi lợi ích loài chúng sanh 
Bồ Tát như vậy chánh tu hành 
Duy nguyện Như Lai tuyên dạy họ 
Thế nào sẽ được sức vững chắc 
An trụ sanh tử hàng phục ma 
Thế nào sẽ được pháp bình đẳng 
Thế nào thành thục các chúng sanh 
Thế nào như địa như hư không 
Như phong như thủy cũng như hỏa 
Thế nào tín tâm ở nơi pháp 
Như Tu Di Vương Sư Tử Vương 
Thế nào xa rời lòng ghét thương 
Tâm sạch trách trực không siểm khúc 
Thế nào xuất sanh thí giới nhẫn 
Tinh tiến thiền định và giải thoát 
Trí huệ phá các phiền não tối 
Mà thường an lạc đại phương tiện 
Tam muội tổng trì vô ngại biện 
Trụ tứ vô lượng ngũ thần thông 
Thế nào được ở gần chư Phật 
Thường thọ hóa sanh hóa túc mạng 
Đầu đà vô tránh ở lan nhã 
Điều phục tâm mình dứt phiền não 
Trì giới tu tập đạo Bồ đề 
Chứng đạo cam lồ hàng ma oán 
Thí chúng an lạc chuyển pháp luân 
Chánh đạo như vậy nguyện tuyên nói”.

Đức Thế Tôn bảo Tịnh Tín đồng nữ rằng : “ Bồ Tát nếu thành tựu được tám sức lực thì ở trong sanh tử kiên cố dũng mãnh không mỏi mệt.

Một là sức chí nguyện vì không dua dối. Hai là sức thắng giải vì lìa các ác. Ba là sức gia hạnh vì thường tu điều lành. Bốn là sức tịnh tín thâm tín nghiệp báo. Năm là sức Bồ đề tâm vì chẳng cầu Tiểu thừa. Sáu là sức đại từ vì chẳng hại chúng sanh. Bảy là sức đại bi và kham nhẫn các ác. Tám là sức thiện hữu vì luôn luôn cảnh giác. Nầy đồng nữ ! Đây gọi là tám sức lực, nếu Bồ Tát thành tựu sức lực nầy thì kiên cố dũng mãnh ở trong sanh tử không nhiễm trước”.

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :

“Chí nguyện dũng mãnh 
Rời lìa siễm cuống 
Thường hành chất trực 
Đúng đường Bồ đề 
Dùng sức thắng giải 
Xa lìa các ác 
Thuần tu hạnh lành 
An trụ chánh cần 
Gia hạnh đầy đủ 
Hằng khéo quan sát 
Tinh tiến kiên cố 
An lạc chúng sanh 
Do sức tịnh tín 
Biết rõ nghiệp báo 
Tin nơi Phật trí 
Nhiếp thọ thế gian 
Sức tâm Bồ đề 
Xa lìa Tiểu thừa 
Chẳng dứt Phật chủng 
An trụ pháp tánh 
Do sức đại từ 
Bình đẳng chúng sanh 
Không yêu không ghét 
Chẳng làm giận hại 
Do sức đại bi 
Chịu được các ác 
chẳng nhiễm sanh tử 
Cũng không mỏi mệt 
Do sức thiện hữu 
Thường cảnh tỉnh nhau 
Lòng chẳng thối chuyển 
An trụ Bồ đề 
Người tinh tiến tu 
Được tám sức nầy 
Sẽ ngồi đạo tràng 
Phá các chúng ma

Lại nầy đồng nữ ! Vì Bồ Tát đã thành tựu tám pháp nên an trụ nơi bình đẳng : 

Một là tất cả chúng sanh bình đẳng vì bổn vô ngã. Hai là tất cả pháp bình đẳng vì các pháp tịch tĩnh. Ba là tất cả thế giới bình đẳng vì đều nhập vào không giới. Bốn là tất cả trí bình đẳng vì bình đẳng thuyết pháp.Năm là tất cả hành bình đẳng vì nhơn duyên vô tánh. Sáu là tất cả thừa bình đẳng vì đồng vô vi. Bảy là tất cả tâm bình đẳng vì tâm như huyễn. Tám là tất cả ma bình đẳng vì phiền não làm trước bất khả đắc. Đây là tám pháp an trụ bình đẳng ».

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :

« Chúng sanh bổn vô ngã 
Niệm niệm bất khả đắc 
Người an trụ bình đẳng 
Phải quan sát như vậy 
Tất cả pháp bình đẳng 
Bổn tánh thường không tịch 
Văn tự có phân biệt 
Các pháp vốn không khác 
Mười phương các quốc độ 
Biên tế bất khả đắc 
Tánh nó như hư không 
Phật quốc thường bình đẳng 
Tam thế chư Như Lai 
Trụ pháp giới bình đẳng 
Vô biên trí giải thoát 
Chư Phật đều như vậy 
Chúng sanh bổn duyên khởi 
Tất cả đều bình đẳng 
Khéo biết họ sở hành 
Dùng chỗ khai ngộ họ 
Chúng sanh bao nhiêu thứ 
Biết rõ như huyễn hóa 
Trong ngoài vô sở thủ 
Tự tánh thường thanh tịnh 
Các thừa nói các pháp 
Tánh vô vi bình đẳng 
Đạo Sư thiện phương tiện 
Phân biệt nói ba thừa 
Hiện ở phiền não ma 
Phiền não vô sở hữu 
Thiên ma uẩn tử ma 
Cảnh giới nó đều không 
Lại nầy đồng nữ ! Vì Bồ Tát đã thành tựu tám pháp nên rời lìa ghét thương :

Một là từ, hai là bi, ba là thường làm lợi ích, bốn là chẳng nhiễm thế pháp, năm là chẳng luyến thân mình, sáu là thường tu định tâm, bảy là xả ly thân mạng, tám là quan sát phiền não. Tu tám pháp nầy thì có thể rời lìa ghét thương vậy ». 

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :

« Mặc vững giáp từ tâm 
Thương xót tất cả loài 
An trụ tâm bình đẳng 
Thì chẳng sanh yêu ghét 
Người trí làm lợi ích 
Thường ban cho an vui 
Được lợi chẳng tự cao 
Bị khi chẳng sanh giận 
Chẳng bị tám gió động 
Thì chẳng sanh yêu ghét 
Với mình và với người 
Chẳng nghĩ tưởng ghét yêu 

Đều bỏ lìa ý tưởng 
không luyến trước cảnh giới 
Thường tự xem thân mình 
Chẳng luyến tiếc thân mạng 
Người trí nơi khổ vui 
Bất động như hư không 
Khéo quan sát phiền não 
Lìa cả ngã ngã sở 
Gìn lòng hằng như đất 
Thì chẳng sanh yêu ghét

Lại nầy đồng nữ ! Vì Bồ Tát thành tựu tám pháp nên ở trong sanh tử không có mỏi mệt :

Một là vì thiện căn quảng đại. Hai là vì quan sát chúng sanh. Ba là vì thường được thấy Phật sắm đồ cúng dường. Bốn là vì được thấy vô lượng Phật độ. Năm là vì thường cầu Phật trí. Sáu là vì biết rõ sanh tử như mộng. Bảy là vì đối với pháp thù thắng không khiếp nhược. Tám là quan sát tiền tế và hậu tế đồng như thiệt tế ». 

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :

« Nếu những người hành đạo 
Tu lành không vết nhơ 
Như không nguyệt thanh tịnh 
Độ thoát khổ chúng sanh 
Vì nhiếp các công đức 
Ở sanh tử không mệt 
Quan sát tánh chúng sanh 
Bền vững tu tinh tiến 
Nơi vô lượng Phật độ 
Cung kính cúng dường Phật 
Thế nên bực thập lực 
Ở sanh tử chẳng mỏi 
Vô lượng vô biên đời 
Thuyết bất tư nghì pháp 
Chẳng dứt giống Tam bửu 
Sẽ thành giống Pháp Vương 
Người kiên trì cấm giới 
Ở sanh tử chẳng mệt 
Biết rõ tánh sanh tử 
Như mộng như mây chớp 
Nơi pháp được giải thoát 
Ở sanh tử chẳng mỏi 

An trụ nơi Bồ đề 
Lòng mừng luôn vui vẻ 
Đến nơi bờ phương tiện 
Ở sanh tử không mệt 
Thường tu pháp thù thắng 
Như không nguyệt thêm tròn 
Ưa thích Phật công đức 
Ở sanh tử chẳng mỏi 
Sanh tử không biên tế 
Thường an trụ thiệt tế 
Một niệm huệ tương ưng 
Ở sanh tử không mệt

Lại nầy đồng nữ ! Vì Bồ Tát thành tựu tám pháp nên tâm giới bình đẳng :

Một là tâm như địa. Hai là tâm như thủy. Ba là tâm như hỏa. Bốn là tâm như phong. Năm là tâm như hư không. Sáu là tâm đồng pháp giới. Bảy là tâm đồng giải thoát. Tám là tâm đồng Niết bàn. Đây gọi là tám thứ tâm giới bình đẳng ». 

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :

« Tâm bình đẳng như đất 
Gánh chở tất cả loài 

Với thiện và với ác 
Không có chỗ tăng giảm 
Tâm bình đẳng như thủy 
Rửa sạch các cấu dơ 
Dưỡng dục các thế gian 
Trừ khô khát phiền não 
Tâm bình đẳng như hỏa 
Đốt cháy tiêu phiền não 
Ánh sáng như đuốc lớn 
Không chỗ nào chẳng sáng 
Tâm bình đẳng như phong 
Không xứ sở không nương 
Thổi bay hương giới văn 
Khắp đến khứ lai kim 
Tâm bình đẳng hư không 
Lìa kiến chấp thanh tịnh 
Khắp nhập vào tất cả 
Mà chẳng theo chúng ma 
Tâm bình đẳng pháp giới 
Khéo được thường an trụ 
Chẳng tăng cũng chẳng giảm 
Thường nhập vào bình đẳng 
Thanh Văn và Duyên Giác 

Chỗ chứng được giải thoát 
Không còn có trói buộc 
Cũng không có cởi trói 
Sanh tử và Niết bàn 
Không lai cũng không khứ 
An trụ nơi tịch tĩnh 
Đi khắp trong tam thế

Lại nữa, nầy đồng nữ ! Có tám pháp mà Bồ Tát thành tựu được thì xuất sanh Bồ đề :

Một là bố thí xuất sanh vì xả sở hữu vậy. Hai là trì giới xuất sanh vì không phạm lỗi vậy. Ba là nhẫn nhục xuất sanh vì không sân khuể vậy. Bốn là tinh tiến xuất sanh vì chẳng giải đãi thối thất vậy. Năm là thiền định xuất sanh vì hành phương tiện vậy. Sáu là huệ xuất sanh vì thọ trì đa văn vậy. Bảy là phạm trụ xuất sanh vì giải thoát tịch tĩnh vậy. Tám là thần thông xuất sanh vì thường tại chánh định vậy”. 

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :

“Người thường hành bố thí 
Rời lìa tham nhiệt não 
Chẳng mong cầu quả báo 
Hồi hướng Phật bồ đề 

Trì giới tu Đại Thừa 
Đập đánh không sân hận 
Chí cầu đại an lạc 
Trừ tập khi chứng diệt 
Bồ Tát hành tinh tiến 
Nhiều kiếp vì chúng sanh 
Chịu khổ ở thế gian 
Sức tinh tiến tăng trưởng 
Người tu hành thiền định 
Rời xa các hí luận 
Đến bỉ ngạn thiền định 
Mà chẳng theo thiền sanh 
Đại huệ không gì bằng 
Rời hẳn các chấp kiến 
Biết rõ đời không tịch 
Si tối dứt không thừa 
Tịch tĩnh tu phạm trụ 
Trừ sạch các ác đạo 
Thường làm Thích Phạm Vương 
Siêng tu các nghĩa lợi 
Thần thông đạo Phật độ 
Hầu Phật nghe Phật dạy 

Khéo biết các tánh dục 
Thuyết pháp độ chúng sanh

Lại nầy đồng nữ ! Vì thành tựu tám pháp mà Bồ Tát được đà la ni biện tài vô ngại : 
Một là tôn trọng Phật pháp. Hai là kính thờ Hòa Thượng và A xà Lê. Ba là cầu pháp không chán. Bốn như chỗ được nghe mà thuyết pháp. Năm là chẳng bỏn xẻn chánh pháp. Sáu là chẳng rao lỗi người. Bảy là yêu kính pháp sư như Hòa Thượng. Tám là chẳng thấy lỗi người và khuyên người chừa lỗi ». 

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :

« Chí nguyện thường cầu pháp 
Thờ thầy gần thiện hữu 
Rời xa ác tri thức 
Được vô tận tạng trì 
Đa văn không chán đủ 
Dũng mãnh siêng cầu pháp 
Như nghe mà diễn thuyết 
Chẳng mong cầu lợi dưỡng 
Được biện tài thanh tịnh 
Khiến chúng đều hoan hỉ 
Vui thích làm pháp thí 

Rời xa bỏn xẻn ganh 
Hành pháp vô sở trước 
Chứng được đà la ni 
Hộ giới tự quán thân 
Chẳng tìm tội lỗi người 
Từ bi làm y chỉ 
Phát ngữ chẳng phi thời 
Sẽ được vô ngại biện 
Đến bỉ ngạn ngôn thuyết 
Với người thuyết pháp giỏi 
Yêu kính như thầy mình 
ẩn lỗi khuyên rời lỗi 
Được biển vô tận trì

Lại nầy đồng nữ ! Vì thành tựu tám pháp Bồ Tát ở trước chư Phật liên hoa hóa sanh :

Một là dầu cho đến mất mạng cũng chẳng nói lỗi người. Hai là khuyến hóa chúng sanh khiến quy y Tam Bảo. Ba là an trí tất cả nơi tâm Bồ đề. Bốn là phạm hạnh không nhiễm. Năm là tạo lập tượng Phật đặt trên tòa sen. Sáu là chúng sanh ưu não khiến trừ ưu não. Bảy là với kẻ cống cao thường tự khiêm hạ. Tám là chẳng não hại người ». 

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng : 
Dầu bị khổ bức thân 
Trọn chẳng nói lỗi người 
Thường ca ngợi Tam bảo 
Hóa sanh ở trước Phật 
Khuyên phát tâm Bồ đề 
Khiến cầu Nhứt thiết trí 
Thường tu hành phạm hạnh 
Hóa sanh ở trước Phật 
Vàng ròng trang nghiêm tượng 
Đặt trên tòa sen báu 
Trừ ưu não chúng sanh 
Hóa sanh ở trước Phật 
Với kẻ kiêu mạn kia 
Khiêm hạ như đệ tử 
Chẳng để họ não phiền 
Hóa sanh ở trước Phật

Lại nầy Tịnh Tín ! Có tám pháp mà Bồ Tát thành tựu công đức đầu đà thì thường thích an trụ nơi a lan nhã :

Một là thiểu dục. Hai là tri túc. Ba là mãn túc sở nguyện. Bốn là dùng thiện tự bồi dưỡng. Năm là thường trì thánh chủng. Sáu là thấy 

Khổ sanh tử lòng thường chán lìa. Bảy là hàng quán vô thường. Tám là tín sâu vững chắc chẳng theo lời người khác ». 

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :

« Thiểu dục tri túc bất phóng dật 
Pháp hỉ các thiện làm tư dưỡng 
Ưa thích thường tu nơi thánh chửng 
Thấy khổ sanh tử sanh lòng sợ 
Do đó thường thích hành đầu đà 
Như tê một sừng ở cô độc 
Quán pháp hữu vi khổ vô ngã 
Huệ tâm thâm tín trụ chánh cần 
Tự thấy nơi pháp chẳng theo người 
Thường ở không nhàn được Phât khen 
Đầu đà viễn ly không não hoạn 
Không các tranh luận những tội lỗi 
Xa lìa quyến thuộc tuyệt khen tặng 
Do đó thích ở a lan nhã

Lại nầy Tịnh Tín ! Bồ Tát thành tựu tám pháp thì hàng phục ma oán :

Một là nhập vào tánh không. Hai là tin vô tưởng. Ba là tin vô nguyện. Bốn là biết rõ vô tác. Năm là trong không nghi hoặc. Sáu là nhẫn nơi vô sanh. Bảy là quyết liễu vô tánh. Tám là nơi tất cả pháp phương tiện quan sát chẳng hoại như như ». 
Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :

« Nơi không vô tướng và vô nguyện 
Được ba giải thoát hàng ma oán 
Hữu vi vô vi không hai tướng 
Chứng nơi vô sanh được giải thoát 
Các pháp vô sanh nhẫn như vậy 
Người nầy hàng phục các ma oán 
Ở trong vô sanh vô diệt nầy 
Uẩn giới vô ngã dường như huyễn 
Quyết định biết rõ pháp vô tánh 
Chẳng hoại nơi như xảo phương tiện 
Phân biệt các pháp là nghiệp ma 
Xả ly phân biêt thì hàng ma 
Trí huệ phương tiện làm cả hai 
Hoặc có hoặc không vô sở trụ 
Tu tập thắng pháp như vậy thảy 
được thiện phương tiện diệu sắc thân. 

Lại nầy Tịnh tín ! Bồ Tát thành tựu tám pháp thì chẳng rời lìa Bồ đề : 

Một là chánh kiến vì thành thục chúng sanh tà kiến vậy. Hai là chánh niệm vì bi mẫn chúng sanh tà niệm vậy. Ba là chánh ngữ vì thương các chúng sanh tà ngữ vậy. . Bốn là chánh nghiệp vì nhiếp các chúng sanh tà nghiệp vậy. Năm là chánh tinh tiến vì độ các chúng sanh tà cần vậy. Sáu là chánh mạng vì chẳng bỏ tà mạng chúng sanh vậy. Bảy là chánh tư duy vì khiến chúng sanh lìa tà tư duy vậy. Tám là chánh định vì phát khởi tăng tiến các chúng sanh tà định vậy ». 

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :

« Người thành tựu chánh kiến 
Giáo hóa kẻ tà kiến 
Thường tu hành chánh niệm 
Thương xót kẻ tà niệm 
Thanh tịnh chánh ngôn thuyết 
Thương các kẻ tà ngữ 
An trụ nơi chánh nghiệp 
Nhiếp những kẻ tà nghiệp 
Thường tu hạnh chánh cần 
Chẳng bỏ kẻ tà cần 
Tương ưng chánh tịnh mạng 
Nhiếp các kẻ tà mạn 

Trí giả chánh tư duy 
Thương xót kẻ tà tư 
Thường an trụ chánh định 
Nhiếp những kẻ tà định 
Vô thượng bát chánh đạo 
An ổn qua dòng dữ 
Lại độ kẻ phiêu lưu 
Là đạo đại Bồ đề 
Thanh Văn và Duyên giác 
Bè cỏ chỉ tự độ 
Bồ Tát rộng cứu độ 
Như tối đại thuyền trưởng

Lại nầy Tịnh Tín ! Bồ Tát thành tựu tám pháp thì chứng đạo cam lộ

Một là an trụ pháp vô tránh. Hai là khéo giữ tâm vô chướng ngại. Ba là thường quán nghĩa như thiệt. Bốn là an trụ tâm Bồ đề tu sáu niệm. Năm là tinh tấn tu tập các Ba la mật. Sáu là chứa họp thiện căn thành thục chúng sanh. Bảy là an trụ đại bi nhiếp thọ chánh pháp. Tám là được vô sanh nhẫn an trụ bất thối chuyển » 

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :

« Thường tu hạnh vô tránh 
Trụ pháp đại Sa Môn 
Xa rời lỗi sân khuể 
Chứa họp các thiện căn 
Khéo quán nghĩa chơn thiệt 
Được những vô tận hiện 
An trụ tâm Bồ đề 
Thường niệm nơi vô niệm 
Tất cả Ba la mật 
Siêng tu không thối chuyển 
Được các phương tiện lực 
Do đây độ chúng sanh 
Hay đem của Pháp Vương 
Từ bi ban tất cả 
Mau chứng vô sanh nhẫn 
Bất thối chuyển Bồ đề 
Nếu tu hành được vậy 
Phật pháp chẳng khó được 
Chẳng lâu hàng chúng ma 
Chứng tối thượng Bồ đề ». 

Nghe pháp xong, Tịnh tín đồng nữ vui mừng hớn hở bạch đức Phật rằng : « Bạch đức

Thế Tôn ! Thành tựu mấy pháp có thể chuyển được nữ thân ? ». 

Đức Phật dạy : « Nầy Tịnh Tín ! Thành tựu tám pháp thì có thể chuyển nữ nhân :

Một là chẳng ganh ghét. Hai là chẳng bỏn xẻn. Ba là chẳng dua nịnh. Bốn là chẳng sân. Năm là thiệt ngữ. Sáu là chẳng ác khẩu. Bảy là xả ly tham dục. Tám là rời các tà kiến. ». 

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :

Chẳng tật đố người khác 
Lìa bỏn xẻn ưa pháp 
Chẳng có lòng siểm cuống 
Chán ghét thân nữ nhơn 
Tâm từ bỏ rời sân 
Thường tu nói lời thiệt 
Trừ tham lìa ác khẩu 
An trụ trong chánh kiến 
Nếu chán thân nữ nhơn 
Nên tu pháp như vậy 
Thì sẽ mau được chuyển 
Thọ thân thiện trượng phu. 
Lại nầy Tịnh Tín ! Nếu thành tựu tám pháp thì chuyển được nữ thân : 

Một là tôn trọng chư Phật rất thích chánh pháp. Hai là cung kính cúng dường các Sa Môn Bà La Môn trì giới nhẫn nhục đa văn. Ba là đối với chồng con và cư gia chẳng sanh lòng luyến ái. Bốn là thọ trì cấm giới không khuyết phạm. Năm và với các người chẳng sanh tà niệm. Sáu là có ý nguyện tăng thượng chán lìa nữ thân. Bảy là an tru tâm Bồ đề pháp đại trượng phu. Tám là xem gia nghiệp thế gian như ảo như mộng ». 

Đức Thế Tôn lại nói kệ rằng :

« Kính Phật rất ưa pháp 
Tôn trọng giới văn Tăng 
Chẳng sanh lòng tham ái 
Thân nữ sẽ chuyển mau 
Trì giới đủ tàm quý 
Chẳng vọng niệm người khác 
An trụ tâm Bồ đề 
Chẳng ưa pháp nhị thừa 
Do đây mau chuyển được 
Thân người nữ bất tịnh 
Thắng chí tâm chán lìa 
Tất cả đều như huyễn 
Các pháp bổn bất động 

Nhơn duyên tánh không tịch 
Siêng tu pháp như thiệt 
Chóng được thân trượng phu. 

Bấy giờ Tịnh Tín đồng nữ đem tràng hoa vàng mà cô đang cầm tán lên trên đức Phật, hoa ở trên hư không biến thành cung điện lâu các chơn kim, trong cung điện ấy có đức Hóa Phật ngồi tòa vàng. Năm trăm đồng nữ cũng cời đồ trang sức tán lên trên đức Phật biến thành lâu các chơn kim ở trên hư không có trướng báu lọng báu các thứ trang nghiêm. Thấy đại thần biến ấy, năm trăm đồng nữ khác miệng đồng lời nói kệ rằng :

“Thế Tôn thù thắng nhứt loài người 
Thương xót lợi ích các chúng sanh 
Nay tôi đã phát tâm Bồ đề 
Chí nguyện tương ưng trụ điều phục 
Làm thầy thế gian ban an lạc 
Tôi phải cúng dường Nhơn Trung Tôn 
Nghe pháp đã lìa các trần cấu 
Chúng tôi chẳng còn những nghi lầm 
Mới lìa thân nữ nhiều nhiểm ô 
Phá hẳn phiền não hàng ma oán 
Mười phương vô lượng câu chi Phật 

Tôi sẽ hoan hỉ thường cúng dường 
An trụ thí giới siêng tinh tấn 
Nhẫn nhục thiền định khéo điều tâm 
Trí huệ phương tiện nhiếp chúng sanh 
Sẽ chứng tối thượng đạo Bồ đề 
Lợi ích vô lượng chúng Trời Người 
đều khiến phát khởi tâm Đại thừa 
Chúng tôi sẽ hay sư tử hống 
Chúng tôi sẽ làm Thiên Nhơn Sư”. 

Đức Thế Tôn hiện mỉm cười. Theo lệ thường của chư Phật, lúc đức Phật mỉm cười thì từ miệng đức Phật có những tia sáng nhiều màu xanh vàng đỏ trắng hồng tía pha lê phóng ra chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới cao đến trời Phạm Thế rồi trở về nhiễu đức Phật ba vòng lại nhập vào đảnh của Phật. 

Trưởng lão A Nan làm lễ bạch rằng :” Bạch đức Thế Tôn ! Do nhơn duyên gì mà hiện mỉm cười ?”. 

Đức Phật dạy : “ Nầy A Nan ! Ông có thấy Tịnh Tín đồng nữ chăng ?

- Vâng, bạch Thế Tôn ! Tôi đã thấy. 
- Nầy A Nan ! Tịnh Tín và năm trăm đồng nữ thọ trong loài người sẽ bỏ thân 

nữ sanh Trời Đâu Suất thừa sự cúng dường Di Lặc Thế Tôn và chư Như Lai trong Hiền kiếp. Quá tám vạn bốn ngàn câu chi na do tha kiếp. Tịnh Tín sẽ được làm Phật tại ĐiệnQuang thế giới hiệu Quang Minh Trang Nghiêm Vương Như Lai, kiếp tên Thường Quang, Phật ấy thọ như Trời Đâu Suất mười hai ngàn tuổi, có vô lượng vô biên chúng đại Bồ Tát làm quyến thuộc, mà năm trăm đồng nữ nầy sẽ là thượng thủ nhứt trong đại chúng ấy, cũng như hiện nay Văn Thù Sư Lợi làm thượng thủ trong sáu mươi Bồ Tát vậy. ?

Nầy A Nan ! Nếu có nữ nhơn được nghe kinh nầy rồi họ trì đọc tụng, khi hết thân nữ nầy chẳng còn thọ thân nữ nữa và mau chứng được Vô thượng Bồ đề”. 

Đức Phật nói kinh nầy rồi, Tịnh Tín với năm trăm đồng nữ và tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành

PHÁP HỘI TỊNH TÍN ĐỒNG NỮ 
THỨ BỐN MƯƠI 
HẾT TẬP VI