42. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Sở Vấn

27 Tháng Bảy 20166:11 CH(Xem: 2257)
42. Pháp Hội Di Lặc Bồ Tát Vấn Sở Vấn

KINH ĐẠI BẢO TÍCH 
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh 
Xuất bản: Ban Văn Hóa Thành Hội TP. Hồ Chí Minh PL 2543 - DL 1999

XLII 
PHÁP HỘI DI LẶC BỒ TÁT SỞ VẤN
 
THỨ BỐN MƯƠI HAI
 
Hán Dịch: Nhà Đường, Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi 
Việt Dịch: Việt Nam, Tỳ Kheo Thích Trí Tịnh

Như vầy tôi nghe một lúc đức Phật ở nước Ba La Nại trong rừng Thí Lộc cùng chúng đại Tỳ kheo năm trăm người câu hội, tất cả đều là tri thức của đại chúng, danh hiệu các Ngài là:

A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Gia Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, A Nan, La Hầu La v.v... làm thượng thủ.

Còn có một vạn đại Bồ tát câu hội. Danh hiệu các Ngài là:

Thiện Ý Bồ tát, Tăng Thượng Ý Bồ tát, Kiên Cố Ý Bồ tát, Sư Tử Ý Bồ tát, Quan Thế Âm Bồ tát, Đại Thế Chí Bồ tát, Biện Tích Bồ tát, Mỹ Âm Bồ tát, Thắng Tràng Bồ tát, Tín Huệ Bồ tát, Thủy Thiên Bồ tát, Đế Thắng Bồ tát, Đế Thiên Bồ tát, Vô Phan Duyên Bồ tát, Cụ Biện Tài Bồ tát, Thần Thông Diệu Hoa Bồ tát, Di Lặc Bồ tát, Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử v.v... làm thượng thủ.

Đức Thế Tôn có vô lượng trăm ngàn đại chúng vây quanh cúng dường cung kính mà vì họ thuyết pháp.

Bấy giờ Di Lặc Bồ tát ở trong chúng đứng dậy trịch y vai hữu gối hữu chấm đất đảnh lễ chắp tay mà bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Tôi có chút nghi nay muốn thỉnh hỏi Như Lai, ngưỡng mong cho phép”.

Đức Phật dậy: “Nầy Di Lặc! Nếu có chỗ nghi cho phép ông hỏi, ta sẽ giải nói cho ông vui mừng”. 
Được Phật hứa cho, Di Lặc Bồ tát vui mừng hớn hở bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Bồ tát thành tựu mấy pháp được lìa ác đạo và ác tri thức mà mau chứng Vô thượng Bồ đề?”.

Đức Phật dạy: “Lành thay, lành thay, nầy Di Lặc! Nay ông thương xót tất cả muốn lợi ích an vui cho Trời Người mà hỏi nơi Như Lai về thâm nghĩa ấy. Ông nên lắng nghe khéo suy nghĩ, ta sẽ vì ông mà phân biệt giải nói.

- Vâng bạch đức Thế Tôn! Tôi xin ưa thích được nghe.

- Nầy Di Lặc! Có một pháp mà Bồ tát thành tựu thì lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Đó là phát tâm Bồ đề ý nguyện thù thắng.

Còn có hai pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là với xa ma tha thường siêng tu tập, hai là với tỳ bát xá na thì được thiện xảo.

Còn có ba pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là thành tựu đại bi, hai là tu tập pháp không, ba là nơi tất cả pháp chẳng sanh phân biệt.

Còn có bốn pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là an trụ tịnh giới, hai là lìa các lưới nghi, ba là thích a lan nhã, bốn là khởi tâm chánh kiến.

Còn có năm pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là an trụ pháp không, hai là chẳng cầu tìm lỗi người, ba là thường tự quan sát, bốn là yêu thích chánh pháp, năm là nhiếp hộ người.

Còn có sáu pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là không có tham dục, hai là chẳng sanh sân khuể, ba là chẳng khởi ngu si, bốn là thường lìa thô ngữ, năm là an trụ tánh không, sáu là tâm như hư không.

Còn có bảy pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là an trụ chánh niệm, hai là thành tựu trạch pháp, ba là phát khởi tinh tiến, bốn là thường sanh hoan hỷ, năm là thân được khinh an, sáu là trụ các thiền định, bảy là có đủ hành xả.

Còn có tám pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là chánh kiến, hai là chánh tư duy, ba là chánh ngữ, bốn là chánh nghiệp, năm là chánh mạng, sáu là chánh tinh tiến, bảy là chánh niệm và tám là chánh định.

Còn có chín pháp lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng Vô thượng Bồ đề. Một là xa lìa các pháp tham dục, ác bất thiện mà an trụ sơ thiền tầm từ hỉ lạc tâm nhứt cảnh tánh. Hai là xa lìa tầm từ an trụ nhị thiền nội tịnh hỉ lạc tâm nhứt cảnh tánh. Ba là xa lìa hỉ an trụ tam thiền xả niệm huệ lạc tâm nhứt cảnh tánh. Bốn là xa lìa ưu khổ và hỉ lạc an trụ tứ thiền xả niệm thanh tịnh vô khổ vô lạc tâm nhứt cảnh tánh. Năm là vượt quá sắc tưởng không phan duyên dị biệt an trụ vô biên hư không xứ định. Sáu là vượt qua vô biên hư không xứ định rồi có thể an trụ vô biên thức xứ định. Bảy là vượt qua vô biên thức xứ định rồi có thể an trụ vô sở hữu xứ định. Tám là vượt qua vô sở hữu xứ định rồi có thể an trụ phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Chín là vượt qua phi tưởng phi phi tưởng xứ định rồi có thể an trụ diệt thọ tưởng định.

Còn có mười pháp xa lìa ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề. Một là khéo có thể thành tựu kim cương tam muội. Hai là thành tựu xứ phi xứ tương ưng tam muội. Ba là thành tựu phương tiện hành tam muội. Bốn là thành tựu biến chiếu minh tam muội. Năm là thành tựu phổ quang minh tam muội. Sáu là thành tựu phổ biến chiếu minh tam muội. Bảy là thành tựu bửu nguyệt tam muội. Tám là thành tựu nguyệt đăng tam muội. Chín là thành tựu xuất ly tam muội. Mười là thành tựu thắng tràng tý ấn tam muội.

Nầy Di Lặc! Thành tựu các pháp như vậy rồi, Bồ tát lìa các ác đạo và ác tri thức mau có thể chứng được Vô thượng Bồ đề”.

Được nghe pháp rồi, Di Lặc Bồ tát rất vui mừng trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay cung kính ở trước Phật nói kệ tán thán:

“Phật ở kiếp quá khứ 
Bỏ vợ con yêu thương 
Đầu mắt và xương tủy 
Đến bờ kia bố thí 
Phật thường hộ cấm giới 
Như trâu mao mến đuôi 
Tối thắng không ngang sánh 
Đến bờ kia trì giới 
Phật dùng sức nhẫn nhục 
Bỏ lìa các đấu tranh 
Chẳng cầu tìm lỗi người 
Đến bờ kia nhẫn nhục 
Phật dùng sức tinh tiến 
Được vô thượng tịch tĩnh 
Cứu cánh thường an vui 
Đến bờ kia tinh tiến 
Phật dùng sức thiền định 
Hay diệt trừ tội nhơ 
Làm Đạo Sư Trời Người 
Đến bờ kia thiền định 
Phật dùng sức trí huệ 
Khéo biết rõ các pháp 
Tự tánh vô sở hữu 
Đến bờ kia Bát nhã 
Phật tại Bồ đề thọ 
Hàng phục các quân ma 
Đầy đủ trí tối thắng 
Thành tựu đạo vô thượng 
Đạo Sư sức vô úy 
Nơi nước Ba La Nại 
Chuyển pháp luân thanh tịnh 
Dẹp phá các ngoại đạo 
Trí huệ lớn vô thượng 
Ra khỏi các thế gian 
Hay phóng tịnh quang minh 
Khéo nói các pháp yếu 
Như Lai sắc thanh tịnh 
Trí huệ và công đức 
Vượt quá các thế gian 
Hay đến nơi bờ kia”.

Trưởng lão A Nan bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Di Lặc Bồ tát nầy rất hi hữu hay thành tựu vô lượng biện tài tùy theo tâm niệm của chúng sanh mà bình đẳng thuyết pháp, nhưng đối với văn tự không có chỗ buộc dính”.

Đức Phật dạy: “Đúng như vậy, đúng như lời ông nói. Nầy A Nan! Di Lặc Bồ tát đâu phải chỉ có hôm nay ở trước ta nói kệ tán thán đức Phật, mà từ quá khứ mười vô số kiếp, thuở ấy có Phật xuất thế hiệu Diệm Quang Du Hí Diệu Âm Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Bấy giờ có một Bà La Môn tên Hiền Thọ thân tướng đầy đủ ai thấy cũng đều vui mừng, từ trong vườn đi ra thấy đức Như Lai đoan chánh thù diệu các căn tịch tĩnh được xa ma tha như ao nước trong sạch không bợn nhơ, có ba mươi hai tướng và tám mươi tùy hảo để tự trang nghiêm, như cây ta la nở hoa, như núi Tu Di cao vọt hơn cả, vẻ mặt tươi vui như trăng tròn, chiếu sáng rực rỡ như mặt nhựt tỏ rạng, thân hình tròn trịa như cây ni câu đà.

Thấy tướng thù thắng của Phật Như Lai, Hiền Thọ sanh lòng tịnh tín suy nghĩ rằng: Hi hữu Thế Tôn hay thành tựu vô lượng công đức trang nghiêm như vậy. Tôi cũng nguyện tương lai cũng thành tựu thân công đức như vậy.

Phát nguyện xong, Hiền Thọ reo mình xuống đất lại tự nghĩ rằng: Nếu đời đương lai tôi sẽ được thân Phật nguyện chưn Như Lai đạp lên mình tôi.

Biết ý nghĩ ấy, đức Phật Như Lai liền lấy chưn mình dẫm lên thân Hiền Thọ. Lúc đức Phật Như Lai hạ chưn xuống, Hiền Thọ được vô sanh pháp nhẫn. Đức Phật Như Lai ngó ngoái lại bảo chúng Tỳ kheo rằng các ông chớ đạp lên mình Hiền Thọ, tại sao, vì đây là đại Bồ tát nay đã chứng vô sanh pháp nhẫn, lại hay thành tựu thiên nhãn thiên nhĩ tha tâm túc thần cảnh trí thông.

Hiền Thọ liền ở trước đức Phật Diệm Quang nói kệ tán thán rằng:

Phật ở mười phương cõi 
Tối tôn tối vô thượng 
Siêu quá các thế gian 
Nay tôi cúi đầu lạy 
Như Lai đại quang minh 
Chói che cả nhựt nguyệt 
Siêu quá các thế gian 
Nay tôi cúi đầu lạy 
Ví như sư tử hống 
Muôn thú điều kinh sợ 
Thế Tôn đại oai đức 
Xô dẹp các ngoại đạo 
Tướng lông trắng giữa mày 
Trong sáng như pha lê 
Chiếu khắp các thế gian 
Siêu quá hơn tất cả 
Thế Tôn không ai bằng 
Lòng chưn thiên bức luân 
Thanh tịnh hóa thế gian 
Hay chấn động trời đất 
Thành tựu đạo xuất ly 
Siêu quá biển phiền não 
Đem các của công đức 
Tùy ý ban tất cả 
Như Lai giới thanh tịnh 
Xuất sanh các công đức 
Không có lòng thương ghét 
Dường như cõi đại địa 
Do nơi sức trí huệ 
Biết rõ các pháp không 
Chúng sanh và tghọ giả 
Phân biệt bất khả đắc 
Khéo rành tánh chúng sanh 
Tâm hành và sở nguyện 
Làm đèn sáng cho đời 
Lợi ích tất cả loài 
Thế gian khổ bức bách 
Trôi chìm trong dòng sâu 
Phật thường vì chúng sanh 
Phát sức tinh tiến lớn 
Thế Tôn lìa phiền não 
Sanh lão và bịnh tử 
Ở đời như hư không 
Tất cả không nhiễm ô 
Trí huệ oai quang lớn 
Hay phá tất cả tối 
Lìa hẳn tham sân si 
Nay tôi cúi đầu lạy.

Hiền Thọ Bồ tát được thần thông đến nay chẳng còn thối thất. Nầy A Nan! Hiền Thọ thuở ấy chính là Di Lặc đại Bồ tát nay ở trong hội nầy vậy.

- Bạch đức Thế tôn! Di Lặc đại Bồ tát từ lâu đã chứng vô sanh pháp nhẫn cớ sao chẳng được Vô thượng Bồ đề?

- Nầy A Nan! Bồ tát có hai thứ trang nghiêm và hai thứ nhiếp thủ. Đó là nhiếp thủ chúng sanh và trang nghiêm chúng sanh, nhiếp thủ Phật quốc và trang nghiêm Phật quốc.

Thuở quá khứ lúc tu Bồ tát hạnh, Di Lặc Bồ tát thường thích nhiếp thủ và trang nghiêm Phật quốc, còn ta thì thường ưa nhiếp thủ và trang nghiêm chúng sanh. Di Lặc Bồ tát tu Bồ tát hạnh trải qua bốn mươi kiếp bấy giờ ta mới phát tâm Vô thượng Bồ đề, do vì ta có sức dũng mãnh tinh tiến nên siêu việt chín kiếp, ở trong Hiền kiếp nầy thành Vô thượng Bồ đề. 

Nầy A Nan! Ta do mười pháp mà chứng Bồ đề: Một là hay xả thí vật sở ái, hai là hay thí vợ sở ái, ba là hay thí con sở ái, bốn là hay thí đầu sở ái, năm la hay thí mắt sở ái, sáu là hay thí ngôi vua sở ái, bảy là hay thí trân bửu sở ái, tám là hay thí máu thịt sở ái, chín là hay thí xương tủy sở ái, mười là hay thí thân phần sở ái. Ta thật hành mười pháp nầy mà được Vô thượng Bồ đề.

Nầy A Nan! Còn có mười pháp hay chứng Bồ đề: Một là hộ giới công đức, hai là thành tựu nhẫn nhục, ba là phát khởi tinh tiến, bốn là được các thiền định, năm là có đại trí huệ, sáu là thường chẳng bỏ lìa các chúng sanh, bảy là khởi tâm bình đẳng đối với chúng sanh, tám là thường tu tập pháp không, chín là khéo hay thành tựu tánh không chơn thiệt, mười là khéo hay thành tựu vô tướng vô nguyện. Ta thật hành mười pháp nầy mà được Vô thượng Bồ đề.

Nầy A Nan! Thuở quá khứ lúc hành đạo Bồ tát, Di Lặc Bồ tát chẳng có thể xả thí tay chưn đầu mắt, chỉ dùng thiện xảo phương tiện đạo hạnh an lạc mà tích tập Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

- Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là Di Lặc Bồ tát thuở quá khứ lúc hành đạo Bồ tát chỉ dùng thiện xảo phương tiện đạo hạnh an lạc mà tích tập Vô thượng Bồ đề?

- Nầy A nan! Thuở quá khứ lúc hành đạo Bồ tát, Di Lặc ngày đêm sáu thời trịch y vai hữu gối hữu chấm đất chắp tay đảnh lễ ở trước chư Phật mà nói kệ rằng:

Nay tôi quy mạng lễ 
Tất cả Phật mười phương 
Bồ tát chúngThanh văn 
Đấng đại tiên thiên nhãn 
Cùng lễ tâm Bồ đề 
Lìa xa các ác đạo 
Hay được sanh lên trời 
Nhẫn đến chứng Niết bàn 
Nếu tôi phạm chút tội 
Theo tâm mà sanh ra 
Nay tôi ở trước Phật 
Sám hối cho tiêu diệt 
Nay thân khẩu ý tôi 
Chứa họp các công đức 
Nguyện làm nhơn Bồ đề 
Sẽ thành đạo Vô thượng 
Trong quốc độ mười phương 
Những người cúng dường Phật 
Và Phật vô thượng trí 
Nay tôi đều tùy hỉ 
Có tội đều sám hối 
Phước đức đều tùy hỉ 
Nay tôi lễ chư Phật 
Nguyện thành trí vô thượng 
Chư Bồ tát mười phương 
Chứng được bực thập địa 
Nay tôi cúi đầu lạy 
Nguyện mau chứng Bồ đề 
Được chứng Bồ đề rồi 
Xô dẹp các quân ma 
Chuyển pháp luân thanh tịnh 
Lợi ích loài chúng sanh 
Thường nguyện ở thế gian 
Vô lượng câu chi kiếp 
Gióng trống pháp lớn lên 
Độ thoát khổ chúng sanh 
Tôi bị ngập bùn dục 
Bị dây tham trói buộc 
Nhiều các thứ triền phược 
Nguyện Phật thương xem xét 
Chúng sanh dầu tội nặng 
Chư Phật chẳng chán bỏ 
Nguyện dùng đại từ bi 
Độ thoát biển sanh tử 
Hiện tại chư Thế tôn 
Quá khứ vị lai Phật 
Bồ tát đạo đã làm 
Nay tôi nguyện tu học 
Đầy đủ Ba la mật 
Thành tựu sáu thần thông 
Độ thoát các chúng sanh 
Chứng được đạo vô thượng 
Biết rõ các pháp không 
Không trụ không biểu thị 
Chẳng sanh cũng chẳng diệt 
Lại như đấng Đại Tiên 
Khéo rõ pháp vô ngã 
Không bổ đặc già la 
Nhẫn đến không thọ giả 
Nơi các sự bố thí 
Chẳng chấp ngã ngã sở 
Vì an lạc chúng sanh 
Thí cho không bỏn xẻn 
Nguyệt vật tôi bố thí 
Chẳng cần công dụng sanh 
Quan sát biết rõ không 
Đủ Thí ba la mật 
Trì giới không khuyết giảm 
Được Phật tịnh thi la 
Do vì vô sở trụ 
Đủ giới Ba la mật 
Nhẫn nhục như tứ đại 
Chẳng sanh tâm phân biệt 
Do vì không sân khuể 
Đủ Nhẫn ba la mật 
Nguyện dùng sức thân tâm 
Phát khởi đại tinh tiến 
Kiên cố không giải đãi 
Đủ Cần ba la mật 
Do như huyễn như hóa 
Và dũng mãnh tinh tiến 
Kim cương các tam muội 
Đủ Thiển ba la mật 
Nguyện chứng tam muội trí 
Nhập vào tam giải thoát 
Rõ tam thế bình đẳng 
Đủ Huệ Ba la mật 
Chư Phật diệu sắc thân 
Quang minh oai đức lớn 
Bồ tát tinh tiến hạnh 
Nguyện tôi đều tròn đầy 
Di Lặc Bồ tát ấy 
Siêng tu hạnh như vậy 
Đủ sáu Ba la mật 
An trụ bực thập địa.

Nầy A Nan! Di Lặc Bồ tát an trụ thiện xảo phương tiện như vậy tích tập Vô thượng bồ đề.

Nầy A Nan! Thuở xưa ta cầu đạo nhận lấy vô lượng khổ mới có thể tích tập Vô thượng Bồ đề.

Thuở xa xưa có Thái tử tên Kiên Nhứt Thiết Nghĩa đoan chánh đẹp lạ có đủ các tướng tốt ai thấy cũng đều vui mừng. Một hôm Thái tử du ngoạn thấy một bịnh nhơn đau khổ nặng, Thái tử xót thương hỏi thăm: Nay bịnh nầy của ngươi há lại không có thuốc để chữa lành sao? Bịnh nhơn nói kệ đáp Thái tử:

Bịnh tôi khó tìm thuốc 
Thế gian chẳng có được 
Huống là kẻ mắc bịnh 
Người giỏi nói y phương 
Thông đạt các sách vở 
Dầu muốn trị bịnh nầy 
Thuốc ấy khó có được.

Thái tử nói kệ bảo bịnh nhơn:

Vàng bạc châu ma ni 
Nhẫn đến các voi ngựa 
Cần gì xin người nói 
Để trừ khổ cho người.

Bịnh nhơn lại nói kệ bạch Thái tử:

Nếu uống huyết Thái tử 
Chắc tôi được an vui 
Xin Thái tử vui lòng 
Cho tôi hết đau khổ.

Thái tử liền nói kệ bảo bịnh nhơn:

Nếu tôi vì chúng sanh 
Mà phải đọa địa ngục 
Nhiều kiếp còn chịu được 
Huống là thân huyết nầy.

Lúc Thái tử lấy dao bén đâm vào thân chảy máu bảo bịnh nhơn tùy ý uống chẳng hề có một niệm hối hận.

Nầy A Nan! Thái tử Kiến Nhứt Thiết Nghĩa thuở xưa kia chính là thân ta vậy. Nước bốn đại hải còn có thể đong lường, lúc hành đạo Bồ tát ta xả thí máu nơi thân mình chẳng tính kể được.

Nầy A Nan! Thuở xa xưa có Thái tử tên Diệu Hoa đoan chánh đẹp lạ đủ các tướng tốt người thấy vui mừng. Một hôm Thái tử du ngoạn thấy một bịnh nhơn ốm gầy sanh lòng thương hỏi thăm: Nay bịnh của ngươi há lại không có thuốc chữa lành sao?

Bịnh nhơn nói kệ bạch Thái tử:

Thế gian có lương y 
Chẳng chữa được bịnh tôi 
Xin Ngài rủ lòng thương 
Trừ đau khổ cho tôi 

Thái tử nói kệ bảo bịnh nhơn:

Tất cả đều bố thí 
Thân phần và trân bửu 
Cần gì xin người nói.

Bịnh nhơn nói kệ bạch Thái tử:

Ví như đại dược vương 
Tùy ý chữa lành bịnh 
Cũng như nhựt nguyệt sáng 
Chiếu khắp các thế gian 
Nếu được tủy thân Ngài 
Thoa khắp thân thể tôi 
Bịnh nầy sẽ tiêu trừ 
Mãi mãi được an vui. 
Thái tử liền nói kệ bảo bịnh nhơn;

Nếu có các chúng sanh 
Đập thân tôi lấy tủy 
Vì lợi ích thế gian 
Lòng tôi chẳng ưu não.

Thái tử liền tự đập nát thân lấy tủy cho bịnh nhơn tùy ý dùng không có chút niệm hối hận.

Nầy A Nan! Nên biết thuở xưa Thái tử Diệu Hoa kia chính là thân ta. Nước bốn đại hải có thể đong lường, thuở xưa ta hành đạo Bồ tát xả thí xương tủy nơi thân mình không thể tính kể được.

Nầy A Nan! Thuở xa xưa có Quốc vương tên Nguyệt Quang đoan chánh đẹp lạ đủ tướng tốt người thấy vui mừng, du ngoạn thấy một người mù ăn xin, chạnh lòng thương nhà vua hỏi: Người cần dùng gì ta sẽ cấp cho, hoặc đồ ăn uống y phục đồ trang sức châu ngọc trân bửu, tùy ý người muốn đều sẽ được ban. 

Người mù nói kệ bạch Quốc vương:

Đại vương như nhựt nguyệt 
Quang minh soi thế gian 
Đầy đủ thắng công đức 
Chẳng lâu sanh lên trời 
Tất cả màu sắc đẹp 
Nay tôi đều chẳng thấy 
Xin vua đại từ bi 
Ban tôi mắt của vua.

Quốc vương nói kệ đáp người mù:

Người mau đến lấy mắt 
Cho người được an vui 
Người tôi đến đời sau 
Được mắt Phật thanh tịnh 
Tôi hành đạo Bồ tát 
Tất cả đều xả thí 
Nếu tôi chẳng cho người 
Thì trái với bổn nguyện.

Vua Nguyệt Quang liền tự móc tròng mắt mình thí cho người mù tùy ý dùng chẳng có một niệm hối hận. Nầy A Nan! Nên biết thuở xưa vua Nguyệt Quang kia chính là thân ta. Núi Tu Di còn có thể đo lường, lúc ta hành đạo Bồ tát bố thí con mắt của mình chẳng thể kể đếm được.

Nầy A Nan! Di Lặc Bồ tát lúc hành đạo Bồ tát có phát nguyện rằng: Nếu các chúng sanh tham sân si mỏng thành tựu thập thiện bấy giờ tôi sẽ thành Vô thượng Bồ đề.

Nầy A Nan! Đời đương lai có thuở các chúng sanh tham sân si mỏng thành tựu thập thiện, bấy giờ Di Lặc Bồ tát sẽ thành Vô thượng Bồ đề. Tại sao, vì do nơi bổn nguyện lực của Bồ tát vậy.

Nầy A Nan! Thuở xưa lúc hành đạo Bồ tát, ta phát lời rằng: Tôi nguyện sẽ ở nơi đời ác ngũ trược các chúng sanh ác tham sân si nặng, họ chẳng hiếu với cha mẹ chẳng kính bực tôn trưởng, nhẫn đến quyến thuộc chẳng hòa thuận nhau, bấy giờ tôi sẽ thành Vô thượng Bồ đề. Do bổn nguyện như vậy nên nay ta vào thành ấp tụ lạc, có nhiều chúng sanh khi mắng ta, họ dùng pháp đoạn pháp thường tụ chúng hội họp. Hoặc lúc ta đi khất thực, họ rải đất bụi, họ trộn thuốc độc cho ta ăn. Hoặc họ dùng nữ nhơn hủy báng ta. 

Nầy A Nan! Nay ta do sức bổn nguyện khởi tâm đại bi vì các chúng sanh ấy thuyết pháp”.

Trưởng lão A Nan bạch rằng: Bạch đức Thế Tôn! Đức Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác hay làm việc khó hay nhẫn việc khó, người chẳng điều phục đều khiến điều phục, mang gánh những chúng sanh tội cấu như vậy mà thuyết pháp cho họ”. 

Đức Phật dạy: “Đúng như lời ông nói. Tại sao, vì do đại bi của Như Lai nhiếp lấy vậy.

- Bạch đức Thế Tôn! Tôi nghe thệ nguyện vững chắc của đức Như Lai mà toàn thân lông dựng đứng. Bạch đức Thế Tôn! Kinh nầy tên là gì, chúng tôi phải phụng trì thế nào?

- Nầy A Nan! Kinh nầy tên là Di Lặc Sở Vấn, cũng tên là Vãng Tích Bổn Nguyện Nhơn Duyên, ông nên phụng trì như vậy”.

Đức Phật nói kinh nầy rồi, Di Lặc Bồ tát, Tôn giả A Nan, tất cả thế gian Trời, Người, A Tu La v.v... nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng tín thọ phụng hành.

PHÁP HỘI DI LẶC BỒ TÁT SỞ VẤN 
THỨ BỐN MƯƠI HAI 
HẾT