Chùa Phật Ân 475 Minnesota Avenue Roseville, MN 55113. Tel: (651) 482-7990 - Web: www.PhatAn.org. Email: chua_phatan@yahoo.com.

Chương 8 - Sự phân phái của đạo Phật

19 Tháng Sáu 20169:00 CH(Xem: 2767)
Chương 8 - Sự phân phái của đạo Phật

Phật Học Tinh Yếu
Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Tịnh Liên Đồ Thư Quán Tái Bản Lần Thứ Nhất tại Hoa Kỳ 2002

 

 

 

Thiên Thứ Nhất
Chương Tám
Sự Phân Phái Của Đạo Phật

Tiết Mục:

I. Nguồn gốc phân phái. 

II. Hai mươi bộ phái. 

III. Nhân duyên phát xuất của các bộ. 

IV. So sánh các bộ phái theo Nam Bắc truyền. 

Kinh sách tham khảo: Dị Bộ Tông Luân Luận, Tăng Kỳ Luật Tư Ký, Đại Tỳ Bà Sa Luận, Ấn Độ Phật Giáo Sử Lược, Tứ Phần Như Thích.

Đề yếu: Nguồn gốc phân phái theo Nam, Bắc truyền có nhiều thuyết khác nhau. Vì thế, nội dung của tiết thứ nhất đã nêu ra các thuyết sai biệt để làm một cuộc so sánh, và chọn tham khảo khỏi phải phân vân. Các bộ phái theo Nam, Bắc truyền lại cũng sai khác, cần phải giản trạch thuyết nào được lưu thông hơn, để làm tiêu điểm nghiên cứu. Tiết thứ hai đã trình bày về việc này. Phần đại khái của hai tiết sau, là lược thuật nhân duyên xuất phát của các bộ; cùng giảo định lại một lần nữa, sự sai biệt giữa Nam và Bắc truyền. Trong đây điểm chánh yếu là tuy Phật giáo có chia ra nhiều chi phái, song không phương hại gì đến tiêu chuẩn tự lợi lợi tha.

Đối với hàng thức giả, việc đó cũng không đáng lưu tâm, vì sự sai biệt vẫn là lẽ tất nhiên của cuộc đời tương đối.

Tiết I: Nguồn Gốc Phân Phái

Mối phân chia của giáo đoàn đạo Phật, là do sự đối lập của Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ. Từ hai bộ căn bản, lại chia thành nhiều chi phái. Những chi phái này, theo Bắc truyền và Nam truyền, có chỗ khác nhau, tiết sau sẽ đề cập đến.

Những thuyết về Thượng Tọa Bộ, Đại Chúng bộ căn bản của các chi phái về sau, cứ theo Nam và Bắc truyền, lại có nhiều sự việc không đồng. Nay nêu ra đây để so lại:

Theo Nam truyền thì sau khi đức Thế Tôn diệt độ 100 năm, vua Ca La A Dục ủng hộ tân phái của tỷ khưu Bạt Kỳ, do đó gây thành sự phân chia hai bộ. Và sau khi Phật niết bàn 200 năm, ở chùa Ma Yết Đà tại Kê viên (chùa này cũng gọi Kê Viên tự), chư Tăng có sự tranh chấp về đạo lý, A Dục Vương không biết phương pháp điều giải, mới hỏi ý kiến của Đại Thiên.

Theo Bắc truyền, sau khi Phật diệt độ 100 năm, có con của người thuyền chủ tên là Đại Thiên xuất gia trong Phật pháp, song vẫn giữ chủ thuyết của ngoại đạo. Lúc hai bộ phân tranh, vị quốc vương thời bấy giờ là A Dục Vương, ủng hộ phe phái của Đại Thiên, và có hỏi ý kiến vị Tỷ khưu này về sự tranh chấp ở Kê viên. Lại, sau khi đức Thế Tôn nhập diệt 200 năm, có người ngoại đạo tên là Đại Thiên xuất gia theo Phật pháp, thọ giới cụ túc trong Đại Chúng Bộ, học nhiều, tinh tấn, cư trú ở Chế Đa Sơn.

So sánh hai thuyết trên, ta thấy thuyết của Nam truyền có phần rành rẽ hơn. Còn thuyết của Bắc truyền thì có sự lầm lẫn về người và niên đại, đem vị quốc vương sau Phật 100 năm làm A Dục Vương, đem Bạt Kỳ làm Đại Thiên. Suy nghĩ kỹ, trước sau chỉ là một Đại Thiên; Đại Thiên tặc trụ Tỷ khưu là nhơn vật lịch sử, còn Đại Thiên sau Phật 100 năm chỉ là nhân vật ảnh tả. Cho nên, sau khi thẩm định ta thấy thuyết của Bắc truyền lấy sự việc sau khi Phật diệt độ 100 năm và 200 năm, hợp lại làm một. Lại, Phật giáo đồ Bắc phương phần nhiều lấy sự kiết tập kỳ hai do Đại Chúng Bộ và Thượng Tọa Bộ mà kéo lại sớm 100 năm, hợp lại đồng thời với sự kiện tập lần đầu do ngài Ca Diếp đề xướng. Bởi duyên cớ đó, thuyết A Dục và Đại Thiên của Bắc truyền A Dục và Đại Thiên của Bắc truyền mới sớm hơn thuyết Nam truyền 100 năm. Nhưng thuyết của Nam truyền cũng có chỗ sai lầm về vua A Dục. Thuyết này cho rằng sau Phật 100 năm có vua Ca La A Dục (Candàsoka) tức là Hắc A Dục sau Phật 200 năm có Pháp A Dục. Xét lại, trước sau cũng chỉ là một A Dục Vương thôi; vì vua A Dục trước tiên làm ác, nên dân chúng gọi là Hắc A Dục, sau khi nương về đạo Phật, trở lại làm lành, nên được xưng là Pháp A Dục.

Lại, theo thuyết của Nam truyền, thì sự phân phái là do mười điều phi pháp. Theo thuyết của Bắc truyền, có chỗ nói đồng như sự kiện trên, chỗ lại nói sự phân chia bộ phái là do năm điều tân thuyết của Đại Thiên. Nay cũng xin nêu việc ấy ra đây để bàn định.

Về lịch sử của Đại Thiên, trong Tông Luân Luận của Ngài Thế Hữu và Đại Tỳ Bà Sa Luận của ngài Long Thọ có những điểm khác nhau. Dung hòa ý chính của hai bộ luận, bỏ các chi tiết đáng nghi ngờ, chẳng hạn như việc Đại Thiên giết cha, giết mẹ, giết A la hán, thì lịch sự của Đại Thiên đại khái như sau:

Khi đức Thế Tôn niết bàn cách 200 năm về sau, ở nước Ma Thâu La (Mathurà) thuộc miền Trung Ấn, có con của một thuyền chủ, tên là Đại Thiên (Mahadeva Ma Ha Đề Bà). Trước tiên Đại Thiên xuất gia theo ngoại đạo, sau lại quy đầu Phật pháp. Vốn là người thông mẫn, sau khi thọ giới tu hành không bao lâu, Đại Thiên đã học suốt, ghi nhớ văn nghĩa trong ba tạng, và tự xưng mình đã chứng quả A la hán. Một hôm, nhân bị mộng tiết, ông sai đệ tử đem giặt y. Người đệ tử nghe thầy tự xưng là A la hán, sao nay lại có việc như thế, mới đem chuyện ấy ra hỏi. Đại Thiên đáp: "Sự di lậu có hai nguyên nhân: một là do phiền não, hai là do sinh lý. Bậc A la hán đã đoạn hết phiền não, nhưng vì còn có nhục thân, nên khi thể chất sung cường, lúc ngủ nghỉ bị ma dụ hoặc, cũng có di lậu". (Điều 1).

Muốn cho đệ tử hoan hỷ, Đại Thiên chọn người nào thông huệ, thọ ký cho một trong bốn đạo quả Sa môn. Đệ tử hỏi: "Tôi nghe bậc A la hán tự có chứng trí, tại sao chúng tôi chứng quả mà không tự biết?". Đại Thiên giải thích: "Sự không biết có hai thứ: một là nhiễm ô vô tri, hai là bất nhiễm vô tri. Bậc A la hán tuy đã dứt hết phiền não nhiễm ô, nhưng không phải biết hết chân tướng của mọi sự vật. Vì thế nên các ông không tự biết". (Điều 2).

Đệ tử lại hỏi: "Tôi nghe bậc A la hán đã lìa nghi hoặc, tại sao chúng tôi đã chứng quả mà còn có sự do dự hồ nghi?". Đại Thiên đáp: "Nghi có hai thứ: một là tùy miên nghi, hai là xứ phi xứ nghi. Bậc A la hán không còn cái thứ nhất, nhưng đối với công việc có khi sinh nghi ngờ thế nào là hợp lý, thế nào là không hợp lý". (Điều 3).

Lại một hôm, các đệ tử đọc kinh đến câu: "Bậc A la hán có huệ nhãn, tự biết mình được giải thoát", liền đến hỏi thầy rằng: "Chúng tôi đã là A la hán, nên tự chứng biết, tại sao do người khác bảo, mới biết mình chứng nhập?". Đại Thiên nói: "Bậc A la hán phải do người khác bảo mới biết mình đã chứng ngộ. Như Ngài Xá Lỵ Phất trí huệ đệ nhất, ngài Mục Kiền Liên thần thông đệ nhất, khi Phật chưa ấn chứng còn không tự biết, huống nữa là các ông". (Điều 4)

Đại Thiên đã có nhiều lầm lỗi như thế, song căn lành chưa đoạn. Nên một hôm, vào lúc nửa đêm, ông suy nghĩ đến việc quấy của mình, bất giác xướng lên: "Khổ thay! Khổ thay!". Các đệ tử nghe được kinh hãi, sáng ra hỏi thăm. Đại Thiên bảo: "Phàm thấy cuộc đời là khổ, là vô thường, mà không chí thành xưng khổ, thì thánh đạo không hiện khởi". (Điều 5)

Sau khi đã bịa ra năm điều ấy, nhân một ngày bố tát ở tại chùa Kê Viên (Kukkutarama), Đại Thiên đối trước chư Tăng, tự đọc ra bài kệ: "Dư sở dụ, vô tri. Do dự, tha linh nhập. Đạo nhân thanh cố khởi. Thị danh chân Phật giáo". Bài kệ này không ngoài ý thuật lại năm điều trên, và gán cho đó là đúng theo kinh Phật; tạm dịch: "Ma dụ hoặc, không biết. Nghi ngờ, người bảo chứng. Đạo nhân tiếng mà sinh. Đây chính là Phật giáo". Khi bố tát xong, ông còn đọc lại bài kệ ấy lần nữa, và nói với đại chúng: "Khi đức Như Lai còn ở đời, chư thiên và tứ chúng nói ra, đều phải được Phật Ấn chứng, mới gọi là kinh. Nay Thế Tôn đã diệt độ, nếu trong đại chúng người nào thông minh, đủ biện tài thuyết pháp, cũng có thể trứ tác kinh điển".

Bấy giờ, những vị Trưởng lão học rộng giữ giới, nghe bài tụng ấy đều kinh ngạc, rồi sửa lại câu sau: "Đây chính là ngoại giáo". Do đó, nguồn tranh biện nổi lên, các hàng sĩ thứ cho đến đại thần trong thành ngăn dứt không được. Lúc đó A Dục Vương nghe biết, đến Kê Viên Tự khuyên giải, nhưng hai bên đều tranh chấp không nhường nhau. Vua cũng nghi ngờ, hỏi ý kiến Đại Thiên, ông này bảo: "Theo pháp diệt tránh trong giới kinh, nên lấy theo sự chấp thuận của phần đông". Lúc ấy, phái Trưởng lão ít hơn phe của Đại Thiên, nên ông chiếm phần ưu thắng. Tuy nhiên sự phân tranh cũng không dứt, nhân đó mới chia ra các bộ phái về sau.

Trên đây là một thuyết của Bắc truyền, còn thuyết thứ hai, như trong Bộ Chấp Dị Luận bản dịch của đời nhà Lương, đồng cứ bản với Tông Luân Luận, thì không nói rõ việc Đại Thiên sáng chế năm điều, chỉ bảo: "Ngoại đạo lập ra năm thứ nhân duyên". Và, trong Thập Bát Bộ Luận của Ngài La Thập dịch, cũng không nói rõ việc ấy, chỉ thuật: "Bấy giờ có Tỷ khưu tên Năng, cũng gọi Nhân Duyên, Đa Văn, nói có năm pháp để dạy chúng sanh".

Y cứ theo các kinh sách của Nam, Bắc tông, dung hội lại những ý chính, ta có thể kết luận nguồn gốc phân phái như sau:

Khi đức Thế Tôn niết bàn, cách 100 năm sau, do chư Tăng thuộc khuynh hướng canh tân theo quan niệm khoáng đại trì giới, chư Tăng thuộc khuynh hướng bảo thủ theo quan niệm tồn cổ trì giới, tranh chấp với nhau về mười điều, nên mới chia thành Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ. Quan niệm của những phần tử thuộc hai bộ trên đây, vì không dung nạp lẫn nhau, nên mới phát sinh ra nhiều tư tưởng và từ đó dần dần phân tán thành nhiều bộ phái. Đây là nguyên nhân chính. Còn về việc của Đại Thiên thì sau khi đức Thế Tôn diệt độ 200 năm, nhằm thời A Dục Vương, Phật pháp được đại thạnh. Lúc bấy giờ, phần đông dân chúng đều hướng về chư Tăng để cúng dường. Do đó, các ngoại đạo mất nhiều lợi dưỡng, nên có một nhóm tự cạo râu tóc lẫn vào trong đoàn thể Tăng già. Nhưng vì hấp thụ theo ngoại giáo đã lâu, sau khi vào Phật pháp, họ vẫn giữ chủ thuyết cũ. Vì thế mới sinh ra sự tranh chấp ý kiến trong Tăng đoàn. A Dục Vương nghe biết được, mới tập hợp tất cả tăng chúng rồi gạn lọc lại, đưa những kẻ Tặc trụ tỷ khưu trở về đạo của họ. Nhưng trong nhóm ấy có độ ba trăm người bác đạt, thông thuộc tam tạng, thành thử họ không chịu khuất phục. Lúc đó thế lực ngoại đạo cũng khá mạnh, vua nghĩ họ thông minh và nhiều bè đảng, nếu đuổi đi hết e gây ra sự không hay cho Phật pháp, mới đem an trí riêng một nơi, tại chùa Kê Viên ở Chế Đa Sơn. Nhưng khi tới đây do kiến giải sai biệt, họ lại tranh chấp với chư Tăng cựu trụ. Người cầm đầu số đông trong cuộc tranh chấp này là Đại Thiên. Về sau, A Dục Vương hay tin, giải quyết không được, đến núi A Hô Hằng Già thỉnh tôn giả Mục Liên Đế Tu thanh lọc lần thứ hai, trục xuất những kẻ phá hoại, việc ấy mới yên. Về năm điều trên, có thể là những cựu thuyết mà Đại Thiên đã hấp thụ từ trước rồi nhân cơ hội gây nên thành quả, chưa chắc do ông ta sáng chế ra. Năm thuyết của Đại Thiên, xét ra, thật không đúng với chánh pháp. Nhưng dù sao, ông cũng đã dự phần gây ảnh hưởng chi rẽ trong đoàn thể Tăng già, một thời gian khá lâu.

Tiết II: Hai Mươi Bộ Phái

Sau lần kiết tập thứ hai, trong giáo đoàn đạo Phật, vì khuynh hướng tự do một ngày một nảy nở, các tư tưởng mới bộc hưng, nên sự phân môn rẽ phái mỗi ngày một nhiều. Việc phân chia này bắt nguồn từ hai phái căn bản là Thượng Tọa Bộ (Sthavira Theravada) và Đại Chúng Bộ (Mahàsànghikà). Về niên đại phân liệt của các bộ phái, theo Nam truyền, vào khoảng sau Phật diệt độ từ 100 năm đến 300 năm. Theo Bắc truyền thì sau khi đức Thế Tôn niết bàn, trong khoảng 100 đến hơn 200 năm là thời kỳ phân phái của Đại Chúng Bộ, trong khoảng 300 đến 400 năm là thời kỳ phân phái của Thượng Tọa Bộ.

Về số mục của các bộ phái, theo Nam truyền, trước tiên có 18 bộ, hai trăm năm về sau từ Đại Chúng Bộ xuất sinh thêm sáu bộ nữa, tổng cộng là 24 bộ; theo Bắc truyền thì có 18 bộ, gồm hai căn bộ căn bản là 20 bộ. Danh mục của các bộ phái Nam truyền so với Bắc truyền, có đôi chút khác nhau. Nay xin căn cứ theo Dị Bộ Tông Luân Luận của Ngài Thế Hữu (Huyền Trang dịch), một bộ sách rất được thông hành, để ghi lại sự phân chia của các bộ phái:

Trước tiên, bởi sớm phong phú về tư tưởng tự do, từ Đại Chúng Bộ xuất sinh ra ba bộ: Nhất Thuyết, Thuyết Xuất Thế, Kê Dẫn. Lần thứ hai phát sinh ra Đa Văn Bộ. Lần thứ ba phát sinh ra Thuyết Giả Bộ. Lần thứ ba phát sinh ra Thuyết Giả Bộ. Lần thứ tư lại có ba bộ: Chế Đa Sơn, Tây Sơn Trụ, Bắc Sơn Trụ xuất hiện. Như thế, trong vòng sau Phật diệt độ 100 đến 200 năm, từ Đại Chúng Bộ đă phân liệt ra chín phái, kể cả bản mạt.

Trong khoảng thời gian ấy, Thượng Tọa Bộ lui ẩn về xứ Ca Thấp Di La, giữ khuynh hướng bảo thủ, tôn trọng sự truyền thừa, hai bên cũng vẫn dung hòa nhau, không có sự tranh chấp. Nhưng sau vì chịu ảnh hưởng của Đại Chúng Bộ, tư tưởng bảo thủ, truyền thừa của Thượng Tọa Bộ cũng bị lay chuyển. Vì thế, trong khoảng thời gian từ 300 đến 400 năm sau phật diệt độ, từ Thượng Tọa Bộ phân chia ra mười bộ, kể cả bộ phái căn bản là mười một bộ. Sự xuất sinh của các phái này đã diễn ra như sau: Lần đầu tiên, từ Thượng Tọa Bộ phân ra Thuyết Nhất Thế Hữu Bộ (cũng gọi Tát Bà Đa). Lần thứ hai, từ Hữu Bộ phát sinh Độc Tử Bộ. Lần thứ ba, từ Độc Tử Bộ xuất hiện bốn bộ: Pháp Thượng, Hiền Trụ, Chánh Lượng, Mật Lâm Sơn. Lần thứ tư, từ Hữu Bộ phát xuất Hóa Địa Bộ. Lần thứ năm, từ Hóa Địa Bộ phân liệt ra Pháp Tạng Bộ. Lần thứ sáu, lại từ Hữu Bộ phát sinh Ẩm Quang Bộ (cũng gọi Thiện Tuế). Lần thứ bảy, cũng từ Hữu Bộ phát sinh Kinh Lượng Bộ (cũng gọi Thuyết Độ).

Về Thượng Tọa Bộ, sau khi phân ra Thuyết Nhất Thế Hữu Bộ rồi, thế lực bị suy kém, phải lui về ẩn dật ở Tuyết Sơn, nên lại có tên là Tuyết Sơn Bộ. Để tiện cho người học Phật, xin nêu ra biểu đồ phân phái như sau:

/ 2 Nhất Thuyết Bộ

I / 3 Thuyết Xuất Thế Bộ

/ 4 Kê Dẫn Bộ

1 Đại Chúng Bộ II 5 Đa Văn Bộ

III 6 Thuyết Giả Bộ

/ 7 Chế Đa Sơn Bộ

IV / 8 Tây Sơn Trụ Bộ

/ 9 Bắc Sơn Trụ Bộ

 / 4 Pháp Thượng Bộ

/ 3 Độc / 5 Hiền Trụ Bộ

1 Thượng Tọa Bộ II / III / 6 Chánh Lượng Bộ

/ Tử Bộ / 7 Mật Lâm Sơn Bộ

2 Thuyết Nhất IV / 8 Hóa Địa Bộ V

Thế Hữu Bộ VI / 9 Pháp Tạng Bộ VII / 10 Ẩm Quang Bộ

/ 11 Kinh Lượng Bộ

Tiết III: Nhân Duyên Phát Xuất Của Các Bộ

Các phái trên đây, bởi tư tưởng không đồng nên thành đối lập, vì thế phải phân chia ra. Những nhân duyên ấy, theo bản truyền của Ngài chân Đế, đại lược như sau:

1. Đại Chúng Bộ: Bộ này phát xuất sau khi có sự tranh chấp mười điều giới luật. Về sau bộ chúng dần dần thêm nhiều, cư trụ ở xứ Ương Quật Đa La (Angottara) thuộc phương Bắc thành Vương Xá.

2. Nhất Thuyết Bộ: Giáo đoàn của Đại Chúng Bộ nhân nghiên cứu các kinh đại thừa như: Hoa Nghiêm, Niết Bàn, Thắng Man, Duy Ma, Kim Quang Minh... có kẻ tin, kẻ không tin. Những người tin theo đại thừa lại có ba xu hướng, và tự tách ra thành ba bộ phái. Phái thứ nhất trong ba bộ này, cho rằng tất cả các pháp thế và xuất thế gian đều là giả danh không có thật thể. Đây là Nhất Thế Bộ, và điểm trên là tư tưởng chính của họ.

3. Thuyết Xuất Thế Bộ: Phái thứ hai tin theo đại thừa, là Thuyết Xuất Thế Bộ. Theo phái này, tất cả pháp thế gian đều bởi điên đảo sinh ra; nghĩa là do điên đảo nên khởi phiền não, từ phiền não mà gây nghiệp và từ nghiệp cảm chịu quả báo. Vì vậy các pháp thế gian đều là hư vọng, giả danh. Trái lại, pháp xuất thế gian là chân thật, vì từ thật cảnh giới thật trí, và do thật trí đạt đến thật cảnh.

4. Kê Dẫn Bộ: Phái thứ ba tin theo đại thừa là Kê Dẫn Bộ. Theo phái này, hai tạng Kinh và Luật là phương tiện giả thuyết của đức Thế Tôn. Như một bài kệ trong kinh nói: "Tùy nghi ăn, mặc, ở. Miễn mau dứt phiền não". Thế thì những hình thức bên ngoài đều thuộc phương tiện, mà sự diệt phiền não mới là chủ điểm. Cho nên chỉ có Luận tạng là giáo điển thiết thật, vì tạng này giải thích nghĩa lý tinh vi rõ ràng. Do đó, họ thành lập một bộ phái riêng.

5. Đa Văn Bộ: Khi đức Phật còn tại thế, có một vị A la hán tên là Tự Bì Y (Yajnavalkya). Nguyên Tự Bì Y là một tiên nhơn, mặc áo vỏ cây, thờ trời, sau xuất gia trong Phật pháp chứng được đạo quả. La hán Tự Bì Y thường theo Phật, ghi nhớ thọ trì tất cả giáo nghĩa. Trước khi đức Thế Tôn diệt độ, ngài vào nhập định ở Tuyết Sơn. Sau Phật Niết Bàn 200 năm, ngài xuất định, đến nước Ương Quật Đa La, thấy Đại Chúng Bộ chỉ hoằng dương nghĩa nông cạn của ba tạng, rất lấy làm kinh ngạc. Do đó, La hán Tự Bì Y đọc lại tất cả nghĩa thâm thúy về đại thừa của pháp tạng. Một số tăng sĩ thọ trì pháp giới của ngài, và biệt lập thành Đa Văn Bộ, để nghiên cứu những nghĩa lý rộng sâu trong Kinh, Luật, Luận.

6. Thuyết Giả Bộ: Ở nước Ma Ha Lạt Đà (Mahàrattha) có vị Tỷ khưu danh đức tên Đại Ca Chiên Diên (Mahàkàtyàyana). Ngài đem giáo nghĩa trong ba tạng phân tích thế nào là nhân, quả, thật thuyết, giả thuyết, chân đế, tục đế. Do nhân duyên đó, có một nhóm tăng sĩ chủ trương giải thích tam tạng theo lối này, để tùy nghi lựa chọn thủ xả, và biệt lập thành Thuyết Giả Bộ.

7. Chế Đa Sơn Bộ

8. Tây Sơn Trụ Bộ

9. Bắc Sơn Trụ Bộ: Như trên đã kể, do Đại Thiên cầm đầu nhóm bác đạt, gây ra cuộc tranh chấp trong nội bộ Tăng chúng. Khi A Dục Vương và tôn giả Mục Liên Đế Tu đến giải quyết, công việc mới yên. Nhưng từ đó, chư Tăng ở đây cũng bị ảnh hưởng ấy, chia nhau cư trụ ba nơi và lập thành ba bộ phái. Phái ở chỗ cũ gọi là Chế Đa Sơn Bộ; phái ở phía tây chế Đa Sơn gọi là Tây Sơn Trụ Bộ; phái ở phía tây Chế Đa Sơn gọi là Tây Sơn Trụ Bộ; phái ở phía bắc Chế Đa Sơn gọi là Bắc Sơn Trụ Bộ.

10. Thượng Tọa Bộ: Bộ này cũng phát xuất sau khi có sự tranh chấp về mười điều giới luật. Đại khái Thượng Tọa Bộ chủ trương bảo thủ cựu phong mà tu hành, lấy Kinh tạng làm bản vị. Chư Tăng trong bộ này cho rằng, Luật vì y theo người nên có sự bất định về các điều khai, giá (mở rộng, nghiêm cấm); còn Luận tuy giải thích kinh, nhưng lại hay đi xa với nghĩa căn bản của Kinh. Vì thế, họ lấy Kinh làm tiêu chuẩn, mà không mấy trọng Luật, Luận.

11. Thuyết Nhất Thế Hữu bộ (cũng gọi Thuyết Nhân): Thời đại thay đổi, tư tưởng con người cũng biến thiên; về sau các nhà học Phật dần dần theo khuynh hướng trọng Luận nhẹ Kinh. Sau khi đức Thế Tôn diệt độ 300 năm, có Ngài Ca Chiên Diên Ni Tử (Kàtyàyaniputtra) ra đời. Ngài là bậc thạc học trong Phật giáo, tinh thông tam tạng, nhưng không thích chủ trương lấy Kinh làm bản vị của Thượng Tọa Bộ. Trong khi tu trì ở chùa Ám Lâm (tàmasavanasamghàràma) nước Chi Na Bộc Để (Cinabhukti) thuộc Bắc Ấn, Ca Chiên Diên Ni Tử đã chế tác ra bộ Phát Trí luận. Tuy cũng hoằng cả Kinh và Luật nhưng ngài lại thiên trọng về Luận lập ra Thuyết Nhất Thế Hữu Bộ, lấy Luận tạng làm bản vị.

12. Độc Tử Bộ (cũng gọi Trụ Tử Bộ): Bộ này cũng lấy Luận tạng làm bản vị, nhưng sở y về Luận tạng khác hơn Hữu bộ. Chư Tăng phái này lấy bộ A Tỳ Đàm của Ngài Xá Lỵ Phất làm tiêu chuẩn. Đệ tử Ngài Xá Lỵ Phất là La Hầu La, đệ tử của Ngài La Hầu La là Độc Tử (Vàtsìputra). Về sau hậu duệ của Ngài Độc Tử lập ra phái này, nên nếu gọi cho đủ là: Độc Tử Đệ Tử Bộ.

13. Pháp Thượng Bộ

14. Hiền Trụ Bộ

15. Chánh Lượng Bộ

16. Mật Lâm Sơn Bộ: Bốn bộ này cũng lấy Luận tạng làm bản vị, và được phân xuất từ Độc Tử Bộ. Nguyên khi chư Tăng phái Độc Tử giải thích bộ A Tỳ Đàm của ngài Xá Lỵ Phất, đến đoạn nào quá đơn giản thì đem nghĩa của kinh thêm vào. Vì trong sự tăng bổ có nhiều ý kiến bất đồng, nên từ nơi bản bộ, lại phát xuất ra bốn bộ trên đây.

17. Hóa Địa Bộ: Bộ này cũng từ nơi Hữu Bộ mà biệt xuất. Nguyên sau khi Phật diệt độ 300 năm, có người Bà la môn tên là Hóa Địa, tinh thông mọi giáo nghĩa của Tứ phệ đà thánh điển. Sau ông xuất gia trong Phật pháp tu hành, chứng quả A la hán. Nhân khi giảng đọc kinh điển, đến chỗ nào thiếu sót, ông đem lời văn của kinh Phệ Đà và văn điển Phạn ngữ để tu sức, ý nghĩa đồng như Phật nói. Các đệ tử tin tưởng lời thuyết pháp của thầy, nên sau khi ông viên tịch, họ lập thành một phái riêng, lấy tên là Hóa Địa Bộ.

18. Pháp Tạng Bộ: Nhân duyên phát xuất của bộ này, do một vị tôn đức tên là Pháp Tạng (Dharmagupta). Nguyên trước kia A la hán Pháp Tạng là đệ tử của tôn giả Mục Kiền Liên. Nhân thường đi theo thầy du hóa, ngài ghi nhớ tất cả những điều gì tôn giả đã nói. Sau khi tôn giả Mục Kiền Liên viên tịch, ngài đem kinh điển chia thành năm tạng. Kinh, Luật, Luận, Mật Chú và Bồ tát tạng. Chư Tăng trong Hóa Địa Bộ có một số người tin tưởng theo thuyết này, nên biệt lập thành ra Pháp Tạng Bộ.

19. Ẩm Quang Bộ (cũng gọi Thiện Tuế): Khi đức Như Lai còn ở đời, tôn giả Ẩm Quang (Kasyapa - Ca Diếp) thọ trì rất nhiều pháp giáo của Phật. Về sau, ngài tập hợp những pháp giáo ấy, chia thành hai loại: bộ phận phá tà thuyết của ngoại đạo, và bộ phận đối trị phiền năo của chúng sinh. Do nhân duyên đó, người sau tin theo pháp giáo này, biệt lập thành một phái, lấy tên là Ẩm Quang Bộ.

20. Kinh Lượng Bộ: Bộ này lấy Kinh tạng làm lượng, không y theo Luật, Luận, nên gọi là Kinh Lượng. Kinh Lượng Bộ lại có tên là Thuyết Độ hoặc Thuyết Chuyển. Hai danh từ này có nghĩa: cá thể của hữu tình nếu nương theo kinh lượng, thì từ đời hiện tại chuyển đến vị lai, dù chưa đắc đạo nhưng hạt giống kinh pháp vẫn không tiêu diệt. Tóm lại, mục đích của phái này là phục cổ, chủ trương tái thiết lập trường của Thượng tọa Bộ.

Tiết IV: So Sánh Các Bộ Phái Theo Nam, Bắc Truyền

Trên đây là nhân duyên phát xuất các bộ phái theo Bắc truyền. Vì muốn cho người học Phật có chỗ quy nhất, nên nội dung của bản chương chỉ chọn lựa thuyết nào đơn giản và được thông hành trong Nam hoặc Bắc tông. Tuy nhiên, về thuyết của Nam truyền, cũng nên nêu ra đại lược cho tiện việc tham khảo.

Theo Nam truyền, trước tiên, về căn bản và chi mạt của Đại Chúng Bộ, gồm có sáu phái: 1. Đại Chúng Bộ. 2. Kê Dẫn Bộ. 3. Nhất Thuyết Bộ. 4. Thuyết Giả Bộ. 5. Đa Văn Bộ. 6. Thuyết Chế Đa Bộ.

Về văn bản và chi mạt của Thượng tọa Bộ, gồm 12 phái: 1. Thượng Tọa Bộ. 2. Hóa Địa Bộ. 3. Đọc Tử Bộ. 4. Pháp Thượng Bộ. 5. Hiền Trụ Bộ. 6. Lục Thành Bộ. 7. Chánh Lượng Bộ. 8. Thuyết Nhứt Thế Hữu Bộ. 9. Pháp Tạng Bộ. 10. Ẩm Quang Bộ. 11. Thuyết Chuyển Bộ. 12. Thuyết Kinh Bộ.

Trước sau, cả Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ, gồm có 18 bộ phái. Các bản cựu dịch gọi 18 bộ phái Tiểu thừa chính là thuyết này. Khi Phật diệt độ 200 năm về sau, từ Đại Chúng Bộ phát xuất thêm sáu bộ nữa là: Tuyết sơn, Vương Sơn, Nghĩa Thành, Tây Vương Sơn, Đông Sơn, Tây Sơn. Như thế, tổng cộng tất cả được 24 phái. Về nhân duyên xuất phái, bên Nam tông không thấy có lưu truyền.

So sánh lại, bên Nam truyền không có các bộ: Thuyết Xuất Thế, Bắc Sơn Trụ. Bên Bắc truyền không có các bộ: Đông Sơn, Tây Sơn, Thuyết Kinh, Thuyết Chế Đa. Ngoài ra, các bộ kia danh mục tuy khác, song ý nghĩa vẫn đồng, bất quá do sự chuyển đổi của ngôn ngữ mà thôi, như Thuyết Chuyển gọi là Kinh Lượng chẳng hạn. Lại, thứ lớp phát xuất của các phái theo Nam truyền và Bắc truyền cũng khác nhau. Vì không muốn có sự rối ren, nên trong đây không đề cập đến.

Tham khảo về chỗ đồng dị của các bộ phái theo Nam, Bắc truyền thì, như bên Nam truyền chia ra hai bộ: Thuyết Chuyển, Thuyết Kinh, bên Bắc truyền xem đồng một phái, nên chỉ gọi là Kinh Lượng Bộ. Bên Bắc truyền cho Thượng Tọa và Tuyết sơn đồng một bộ, bên Nam truyền cho Tuyết sơn là chi phái riêng thuộc Đại Chúng Bộ. Phái thuyết chế Đa bên Nam truyền có lẽ là Thuyết xuất thế Bộ theo Bắc truyền, vì về vấn đề cá nhân linh hồn, hai phái này lập luận giống nhau, và niên đại phát xuất cũng tương đồng. Theo Nam truyền thì sau khi Phật diệt độ 200 năm, từ Đại Chúng Bộ phát xuất sáu chi phái, hai bộ Đông Sơn, Tây Sơn trong đó, bên Bắc truyền cũng có. Như Tây Vức ký nói: "Ở xứ Đại An Đạt La thuộc miền Nam Ấn, có hai ngôi già lam kỳ cổ, tên là Đông Sơn, Tây Sơn. Hai ngôi chùa này do đục hang đá mà tạo thành. Tương truyền khi xưa hai chỗ này là cơ sở thuộc về Đại Chúng Bộ". Xem thế thì biết hai bộ ấy lập căn cứ nơi đây. Lục Thành Bộ tức là Mật Lâm Sơn Bộ; vì bên Nam truyền nói bốn bộ Pháp Trượng, Hiền Trụ, Lục Thành, Chánh Lượng phát xuất từ Độc Tử Bộ, bên Bắc truyền cũng gọi bốn bộ Pháp Thượng, Hiền Trụ, Mật Lâm Sơn, Chánh Lượng phát xuất từ Độc Tử Bộ. Các bộ phái: Vương Sơn, Tây Vương Sơn, Nghĩa Thành không có danh mục bên Bắc truyền, nhưng căn cứ theo Bồ Đề Sử (Bodhivamsa), ta có thể đoán định Vương Sơn chính là Chế Đa Sơn, Tây Vương Sơn chính là Tây Sơn Trụ, và Nghĩa Thành chính là Bắc Sơn Trụ. Vì trong tập sử này có nói: "Vào thời A Dục Vương, có các ngoại đạo cầu danh lợi mặc pháp phục xen trong đoàn thể chư Tăng, làm cho chánh tà lẫn lộn. Do đó trong Đại Chúng Bộ mới nảy sinh sáu chi phái, như Tuyết Sơn..."

Theo Bộ Tăng Kỳ Luật Tư Ký của ngài Pháp Hiển, vào thời tôn giả Ưu Ba Cấp Đa, chư Tăng bất đồng ý kiến về giới luật (đây nói về phương diện giới luật), nên dần dần chia thành năm bộ. Trong đây, Đàm Vô Đức chính là Pháp Tạng Bộ, Di Sa Tắc chính là Hóa Địa Bộ. Ca Diếp Di chính là Ẩm Quang Bộ, Tát Bà Đa chính là Thuyết Nhất Thế Hữu Bộ, Bà Sa Phú La chính là Độc Tử Bộ. Tôn giả Ưu Ba Cấp Đa là nhân vật sau đức Thế Tôn 100 năm, năm phái trên đều thuộc về Thượng Tọa Bộ. Cứ theo đây thì thuyết của Nam truyền nói sau khi Phật diệt độ trong khoảng 100 năm đến 300 năm, từ hai bộ căn bản lần lượt sinh ra các chi phái, dường như hợp với hình thế tự nhiên. Còn thuyết của Bắc truyền nói từ 100 đến 200 năm sau Phật diệt độ là thời kỳ phân phái của Đại Chúng Bộ, trong khoảng 300 đến 400 năm là thời kỳ phân phái của Thượng Tọa Bộ dường như có chỗ dụng ý. Hoặc giả người trong phái Nhất Thế Hữu muốn tỏ ra bộ môn căn bản của mình (Thượng Tọa Bộ) phân tán sau hơn cả, nên mới có thuyết này chăng?

Tóm lại, giáo đoàn đạo Phật tuy chia nhiều bộ phái, song không phương hại gì đến sự giải thoát. Thuở xưa, đức Thế Tôn đã có dự ký rằng: "Sau khi ta diệt độ, Kinh, Luật của ta chia thành năm bộ, cho đến 18 bộ, danh từ tuy khác nhưng đường lối quy hướng vẫn hợp với cảnh đại Niết bàn. Nếu có ai y theo đó mà tu hành, đều sẽ được giải thoát". Đức Phật cũng bảo ngài Văn Thù: "Trong đời vị lại, đạo pháp của ta hòa hợp với mọi căn cơ chia thành 20 bộ, làm cho ngôi nhà chánh giáo được vững bền. Trong 20 bộ này, nếu ai y theo tu hành, đều được chứng quả. Ví như nước biển tuy nhiều, song chỉ có một vị; và như người có hai mươi con trẻ, không đứa nào chẳng phải là con mình. Cũng như thế, tam tạng đều bình đẳng không có tạng nào hơn kém. Đây là lời chân thật của Như Lai".