Chùa Phật Ân 475 Minnesota Avenue Roseville, MN 55113. Tel: (651) 482-7990 - Web: www.PhatAn.org. Email: chua_phatan@yahoo.com.
Danh Mục Tam Tạng

KHÁI QUÁT VỀ LUẬT HỌC

15 Tháng Bảy 20162:18 CH(Xem: 2879)
KHÁI QUÁT VỀ LUẬT HỌC

LUẬT HỌC ĐẠI CƯƠNG 
Soạn giả: HT. Thích Thanh Kiểm 

KHÁI QUÁT VỀ LUẬT HỌC

I. TỰ LUẬN

Ba môn học, Giới học, Định học và Tuệ học, được gọi là “Tam vô lậu học”. Lậu nghĩa là phiền não, nương vào Tam học mà đoạn trừ được phiền não, siêu phàm nhập thánh, nên gọi là “Tam vô lậu học”.

Diệu quả Đại giác của Phật y vào Tuệ mà thành, nên có thể nói, trí tuệ phát sinh từ ở thiền định, thiền định phát sinh từ ở giới luật. Muốn cầu được trí tuệ, tất phải tu thiền định, muốn được thiền định, trước hết phải giữ giới luật. Nếu giới luật mà khuyết, thiền định sẽ khó thành, thiền định không thành tựu, trí tuệ cũng không thể do đâu mà phát sinh. Bởi thế, người học Phật chân chính cần phải tu tập “Tam vô lậu học”.

Ba học Giới, Định, Tuệ là những nhân tố then chốt nhất của người học Phật, như chiếc đỉnh ba chân, thiếu một tất không thể đứng vững. Nhưng giới học, hay là giới luật học, lại là căn bản nhất.

II. GIỚI LUẬT

Giới luật, tiếng Phạn là Vinaya (Tỳ-ni), dịch là Luật, có nghĩa là pháp luật, pháp cấm chế. Luật có 3 tên: 

1.- Tỳ-ni tức Tỳ -nại-da (Vinaya), dịch là Luật, hay Điều phục. 

2.- Mộc-xoa tức Ba-la-đề-mộc-xoa (Pràtimoksa), dịch là Biệt giải thoát. 

3.- Thi-la (Sila) dịch là Giới luật, Điều phục, hay Giới, tên có khác nhau, nhưng cùng chung một thể, vì thế nên có tên ghép là “Giới luật”. Luật cũng giống như pháp luật hiện nay là những quy giới cưỡng chế, nương vào chỗ phạm giới nặng hay nhẹ mà trị phạt. Vậy chỗ kết hợp giữa giới và luật là để thuyết minh về lập trường giáo lý về Luật tôn.

III. PHÂN LOẠI LUẬT ĐIỂN

Luật điển trong Tam tạng gồm có các bộ về Tiểu thừa luật và Đại thừa luật. Các bộ luật như Thập tụng, Tăng kỳ, Tứ phần, Ngũ phần thuộc Tiểu thừa luật; như Du Già, Phạm Võng thuộc Đại thừa luật.

Lại luật điển cũng có chia ra hai thứ, giới luật xuất gia và giới luật tại gia. Như các bộ luật thuộc luật điển Tiểu thừa, phần nhiều thuộc về giới luật xuất gia. Như Ưu-bà-tắc giới kinh, là giới luật tại gia. Giới luật xuất gia là những giới luật của Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Sa-di, Sa-di-ni phải tuân trì, tức là giới Cụ túc, rồi đến Thập giới.

Giới luật tại gia là những giới luật, nam nữ tại gia thọ trì, như Ngũ giới, Bát giới, Thập thiện giới. Thông thường, người tại gia không được xem luật điển của người xuất gia, vì chưa thọ giới xuất gia, không được nghe pháp cấm chế của Tăng Ni.

IV. TIỂU THỪA LUẬT BỘ

Tiểu thừa luật là các bộ luật hàng Tiểu thừa thọ trì. Những luật điển này đều thuộc trong Thanh Văn tạng, gọi là Tiểu thừa luật. Tiểu thừa luật được truyền trì gồm có 5 bộ: 

1.- Đàm Vô Đức bộ truyền luật Tứ phần. 

2.- Tát Bà Đa bộ truyền luật Thập tụng. 

3.- Di Sa Tắc bộ truyền luật Ngũ phần. 

4.- Ca Diếp Di bộ truyền Giải thoát giới. 

5.- Ma Ha Tăng Kỳ bộ truyền luật Tăng kỳ. 

Đó là 5 bộ luật của Tiểu thừa.

Khi Phật còn tại thế, Ngài đi hoằng hóa khắp nơi chế ra thứ quy giới để ước thúc các hàng đệ tử, tùy chỗ phạm lỗi mà chế định, đó là khởi nguyên của luật. Sau khi Phật diệt độ, khi các đệ tử Phật kết tập lần thứ nhất, ngài Ưu Ba Ly Tôn giả, 80 lượt đọc ra tạng Luật, do đó nên có tên gọi là Luật Bát Thập Tụng. Từ đó về sau khoảng 100 năm, qua sự truyền trì của 5 vị: Ca Diếp (Mahàkàsyapa), Át Nan (Ananda), Mạt Điền Địa (Madhyàntika), Thương Na Hòa Tu (Sàna vàsa), Ưu Bà Cúc Đa (Upagupta) đều thuần nhất một vị, chưa phân dị kiến về giới luật. Tới ngài Ưu Bà Cúc Đa có 5 người đệ tử: 1. Đàm Vô Đức, 2. Tát Bà Đa, 3. Di Sa Tắc, 4. Ca Diếp Di, 5. Bà Ta Phú La, đều truyền trì luật tạng riêng mà phát sinh thành 5 bộ như trên.

Luật điển về Tiểu thừa hiện còn được chép trong “Tần Già tạng” gồm có 71 bộ, 496 quyển, luật điển chủ yếu là các bộ “Tứ phần luật”, “Thập tụng luật”, “Ngũ phần luật”, “Tăng kỳ luật” và “Giải thoát giới” tức Giải thoát giới kinh; Quảng luật chưa truyền tới. Ngoài ra còn có “Tát Bà Đa bộ”, sau dịch là “Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ Tỳ nại da”, nay cũng nằm trong tạng Tiểu thừa. (1) - Đàm Vô Đức bộ Quảng luật (Dharmaguptalka) - Tứ phần luật 60 quyển. Diêu Tần Phật Đà Da Xá và Trúc Phật Niệm cùng dịch. (2) - Tát Bà Đa bộ Quảng luật (Sarvasti-vada) - Thập tụng luật 61 quyển. Hậu Tần Phật Nhã Đa La và La Thập cùng dịch. (3) - Di Sa Tắc bộ Quảng luật (Mahisà-saka) - Ngũ phần luật 30 quyển. Lưu Tống Phật Đà Thập và Đạo Sinh cùng dịch. (4) - Ma Ha Tăng Kỳ bộ Quảng luật (Mahà-sanghika) 40 quyển. Đông Tấn Phật Đà Bạt Đà La và Pháp Hiển cùng dịch. (5) - Ca Diếp Di bộ giới bản (Kàsyapiya) - Biệt giải thoát kinh 1 quyển. Nguyên Ngụy Cù Đàm Bát Nhã Lưu Chi dịch. (6) - Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ Tỳ nại da (Mulasarvàtivàda-vinaya) 50 quyển. Đường Nghĩa Tịnh dịch.

Ngoài Tứ phần luật, Quảng luật ra, còn lưu truyền giới bản của Tăng Ni và Yết-ma gồm 6 bộ như sau:

- Tứ phần luật Tỷ-kheo giới bản. 1 quyển. Hậu Tần Phật Đà Da Xá dịch.

- (Biệt hành bản) Tứ phần Tăng giới bản. 1 quyển. Hậu Tần Phật Đà Da Xá dịch.

- Tứ phần luật Tỷ-kheo-ni giới bản. 1 quyển. Hậu Tần Phật Đà Da Xá dịch.

- Đàm Vô Đức luật bộ Tạp Yết-ma. 1 quyển. Tào Ngụy Khang Tăng Khải dịch.

- (Dị dịch bản) Yết-ma. 1 quyển. Tào Ngụy Đàm Đế dịch.

- Tứ phần Tỷ-kheo-ni Yết-ma pháp. 1 quyển. Tống Cầu Na Bạt Ma dịch.

Ngoài Thập tụng luật, Quảng luật ra cũng có quyển giới bản của Tăng Ni và Yết-ma gồm 3 bộ:

- Thập tụng Tỷ-kheo Ba-la-đề-mộc-xoa giới bản. 1 quyển. Diêu Tần Cưu Ma La Thập dịch.

- Thập tụng Tỷ-kheo-ni Ba-la-đề-mộc-xoa giới bản. 1 quyển. Tống Pháp Hiển tập.

- Đại Sa-môn Bách Nhất Yết-ma pháp. 1 quyển. Mất tên người dịch. 

Ngoài Ngũ phần luật, Quảng luật ra cũng có truyền về giới của Tăng Ni và Yết-ma gồm 3 bộ:

- Di Sa Tắc Ngũ phần giới bản. 1 quyển. Tống Phật Đà Thập và Đạo Sinh dịch.

- Ngũ phần Tỷ-kheo-ni giới bản. 1 quyển. Lương Minh Huy tập.

- Di Sa Tắc Yết-ma bản. 1 quyển. Đường Ái Đồng lục.

Ngoài Tăng kỳ luật, Quảng luật ra cũng có truyền về giới bản của Tăng Ni gồm 2 bộ:

- Ma Ha Tăng Kỳ Đại Tỷ-kheo giới bản. 1 quyển. Đông Tấn Phật Đà Bạt Đà La dịch.

- Ma Ha Tăng Kỳ Tỷ-kheo-ni giới bản. 1 quyển. Đông Tấn Pháp Hiển và Giác Hiền cùng dịch.

Duy có Giải thoát luật chỉ truyền có “Giải thoát giới kinh” 1 quyển, còn Quảng luật và Yết-ma đều chưa truyền tới. Ngoài Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ Tỳ-nại-da Quảng luật ra cũng còn truyền các bộ về giới bản của Tăng Ni và Yết-ma như sau:

- Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ Bí-sô-ni Tỳ-nại-da (Ni quảng luật). 20 quyển. Đường Nghĩa Tịnh dịch.

- Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ giới kinh (Tăng giới bản). 1 quyển. Đường Nghĩa Tịnh dịch.

- Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ Bí-sô-ni giới kinh (Ni giới bản). 1 quyển. Đường Nghĩa Tịnh dịch.

- Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ Bách nhất Yết-ma (Yết-ma). 10 quyển. Đường Nghĩa Tịnh dịch.

- Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự (Yết-ma). 40 quyển. Đường Nghĩa Tịnh dịch.

Ngoài các bộ Quảng luật kể trên, các Tổ y vào luật để tạo luận, còn có 5 bộ luận như sau:

1- Tỳ-ni mẫu luận kinh, 8 quyển. (Thất dịch).

2- Ma Đắc Lặc Già luận, gọi đầy đủ là Tát Bà Đa bộ Tỳ-ni Ma Đắc Lặc Già, 10 quyển. Lưu Tống Tăng Già Bạt Ma dịch, 2 bộ luận nay y ở luật bộ Tất Bà Đa.

3- Thiện kiến luận, vốn gọi là Thiện kiến luật Tỳ Bà Sa 18 quyển. Tiêu Tề Tăng Già Bạt Ma dịch.

4- Tát Bà Đa luận, vốn gọi là “Tát Bà Đa Tỳ-ni Tỳ-bà-sa, 9 quyển, mất tên người dịch. Luận này giải thích luật Thập tụng.

5- Minh Liễu luận, vốn gọi là “Luật Nhị Thập Nhị Minh Liễu luận”, 1 quyển, Tần Chân Đế dịch. Luận này giải thích giới - luật thuộc Chính lượng bộ.

Trong các bộ luật, luật điển được lưu hành rộng rãi nhất là Tứ phần luật do Phật Đà Da Xá và Trúc Phật Niệm phiên dịch, từ đời Đông Tấn. Hoằng truyền và giảng tập luật này đầu tiên là Pháp Thông luật sư (Bắc Ngụy Hiếu Văn Đế, 471-499). Pháp Thông truyền cho đệ tử là Đạo Phú luật sư. Đạo Phú truyền cho Tuệ Quang luật sư, rồi đến Trí Thủ luật sư, đều soạn chú sớ để hoằng truyền Tứ phần luật. Tiếp đến Nam Sơn Đạo Tuyên luật sư (596-666), Ngài căn cứ vào nghĩa Đại thừa để giải thích luật Tứ phần trước tác các phần sớ, thích để thành lập Tứ phần luật tôn gọi là “Nam Sơn Tôn”. Lại cũng ở thời ấy còn có Pháp Lệ luật sư, sáng lập “Tướng Bộ Tôn” và Hoài Tố luật sư (625-698) sáng lập “Đông Tháp Tôn”. Các luật sư này đều y cứ vào Tứ phần luật làm các sớ thích, cùng với Nam Sơn Đạo Tuyên luật sư, đều hoằng truyền 3 tông luật. Ba tông này, chỉ có Nam Sơn Tôn là đời đời hoằng truyền không dứt, vẫn thịnh hành mãi tới hiện nay. Vì sự hoằng truyền Tứ phần luật rất rộng, nên các chú sớ về luật Tứ phần từ xưa tới nay, cũng rất nhiều. Nay tóm lược những chú sớ chủ yếu như sau:

- Tứ phần luật sớ, 6 quyển. Đạo Phú soạn.

- Tứ phần luật sớ, 4 quyển. Tuệ Quang soạn.

- Tứ phần luật sớ, 20 quyển (hiện còn quyển 9). Đường Trí Thủ soạn.

- Tứ phần luật Ngũ Đại Bộ sớ sao (Hành sự sao, Giới sớ, Nghiệp sớ, Thập Tỳ-ni nghĩa sao, Tỷ-kheo-ni sao), 38 quyển. Đường Đạo Tuyên soạn.

- Tứ phần luật sớ, 20 quyển. Đường Pháp Lệ soạn.

V. ĐẠI THỪA LUẬT BỘ

Đại thừa luật, vì là luật của hàng Đại thừa thọ trì thuộc Bồ-tát tạng, nên gọi là Đại thừa luật bộ. Giới luật chủ yếu trong Đại thừa luật là “Phạm Võng giới” và “Du Già giới”. Thông thường ngày nay gọi là Bồ-tát Tăng giới. Giới Phạm Võng, y vào kinh Phạm Võng mà lập thành 10 giới trọng và 48 giới khinh. Giới Du Già, y vào Bồ-tát giới bản, thành lập 4 giới trọng và 41 giới khinh. Lại kinh Phạm Võng thuộc Tính Tôn, nên lại gọi là “Đại thừa Tính Tôn giới”. Bồ-tát giới bản thuộc Tướng Tôn, nên lại gọi là “Đại thừa Tướng Tôn giới”. Hai thứ giới luật Đại thừa này hoằng truyền rất thịnh hành ở Trung Quốc.

Kinh Phạm Võng gọi đầy đủ có tên là “Phạm Võng Kinh Lô Xá Na Phật Thuyết Bồ Tát Tâm Địa Giới Phẩm”. Các chú sớ có 4 bộ trọng yếu như sau:

- Phạm Võng kinh bản sớ, 6 quyển. Đường Pháp Tạng soạn.

- Phạm Võng kinh cổ tích ký, 6 quyển. Đường Thái Hiền tập.

- Phạm Võng kinh nghĩa sớ phát ẩn, 5 quyển. Tùy Trí Giả sớ. Minh Châu Hoằng phát ẩn.

- Phạm Võng kinh hợp chú, 7 quyển. Minh Trí Húc chú.

“Bồ-tát giới bản” là phần lưu hành riêng biệt của Bồ-tát địa giới phẩm trong Du-già-sư-địa luận. “Bồ-tát địa trì kinh” và “Bồ-tát thiện giới kinh” lại đều là những bản dịch riêng của “Bồ-tát địa”. Nên trong 2 kinh này đều có một phẩm của “giới phẩm” này. Nay chỉ có lưu hành riêng rẽ “giới phẩm” trong “Địa trì kinh” và “Du-già luận” tức là “Bồ-tát giới bản kinh” và “Bồ-tát giới bản”. Nay tóm lược những chú sớ lưu hành chủ yếu như sau:

- Bồ-tát giới bản kinh (một phần trong Địa trì kinh), 1 quyển. Bắc Lương Đàm Vô Sấm dịch.

- Bồ-tát giới bản kinh tiên yếu, 1 quyển. Minh Trí Húc tiên yếu.

- Bồ-tát giới bản (một phần trong Du-già luận), 1 quyển. Đường Huyền Trang dịch.

- Bồ-tát giới bản ký, 1 quyển. Đường Đạo Luân ký.

- Bồ-tát giới Yết-ma văn, 1 quyển. Đường Huyền Trang dịch.

- Bồ-tát giới Yết-ma văn thích, 1 quyển. Minh Trí Húc thuật.

Ngoài ra còn có “Ưu-bà-tắc giới” và “Thập thiện giới”, là giới Đại thừa của chúng tại gia thọ trì, có các luật điển như sau:

- Ưu-bà-tắc giới kinh, 7 quyển. Bắc Lương Đàm Vô Sấm dịch.

- Thập thiện nghiệp đạo kinh, 1 kinh. Đường Thực Xoa Nan Đà dịch.

- Thọ Thập thiện giới kinh, 1 quyển. Mất tên người dịch.

VI. LUẬT TẠNG (VINAYA-PITAKA)

(Trong kinh điển tiếng Pàli).

Luật tạng Pàli chia thành 3 bộ phận:

1. Kinh Phân biệt (Suttavibhanga) giải thích về các giới điều của Tỷ-kheo và Tỷ-kheo-ni, chia thành 2 bộ phận là Đại phân biệt và Tỷ-kheo-ni phân biệt.

1- Đại phân biệt (Bhikkhu-vibhanga). - Chú thích Tỷ-kheo giới kinh, tức giải thích về 227 giới điều của Tỷ-kheo.

2- Tỷ-kheo-ni phân biệt (Bhikkhuni-vibhanga). - Chú thích Tỷ-kheo-ni giới kinh, tức giải thích về 311 giới điều của Tỷ-kheo-ni.

2. Kiền-độ (Khandhaka). - Phần bổ khuyết của kinh Phân biệt, bao quát các điều hạn quyết định về sinh hoạt của Tăng già, lại chia thành 2 bộ phận:

A. ĐẠI PHẨM (Mahavagga), gồm 10 thiên, tức 10 Kiền-độ:

 1- Đại Kiền-độ (Mahakhandhaka) (thọ giới)

 2- Bồ-tát Kiền-độ (Uposatha - K.)

 3- Nhập vũ an cư Kiền-độ (Vassupanayika - K.)

 4- Tự tứ Kiền-độ (Pavarana - K.)

 5- Bì cách Kiền-độ (Camma - K.)

 6- Dược Kiền-độ (Bhasajja - K.)

 7- Ca-hi-na-y Kiền-độ (Kathina - K.)

 8- Y Kiền-độ (Cirara - K.)

 9- Chiêm-ba Kiền-độ (Campeyya - K.)

 10- Câu-thiểm-di Kiền-độ (Kosamba - K.)

B. TIỂU PHẨM (Cullavagga), gồm 12 thiên, tức 12 Kiền-độ:

 1- Yết-ma Kiền-độ (Kamma-khandhaka)

 2- Biệt trụ Kiền-độ (Pàsivâsika - K.)

 3- Phú tàng Kiền-độ (Samuccaya - K.) 

 4- Diệt tránh Kiền-độ (Samatha - K.)

 5- Tạp sự Kiền-độ (Khuddavatthu - K.)

 6- Phòng xá Kiền-độ (Senàsana - K.)

 7- Phá Tăng Kiền-độ (Samghabhedaka - K.)

 8- Oai nghi Kiền-độ (Vatta - K.)

 9- Giá Bồ-tát Kiền-độ (Patimakhathapana - K.)

 10- Tỷ-kheo-ni Kiền-độ (Bhikkani - K.)

 11- Ngũ bách nhân Kiền-độ (Pancasatika - K.)

 12- Thất bách nhân Kiền-độ (Sattasatika - K.)

C. PHỤ TÙY (Parivara), gồm có 19 chương, là những điều văn huấn giới có quan hệ về giới luật ở 2 bộ phận trên.

VII. BẢNG SO SÁNH 

Các giới điều (Ba-la-đề-mộc-xoa) Tỷ-kheo giới và Tỷ -kheo-ni giới kinh trong các bộ luật Pàli, Tứ phần, Thập tụng, Ngũ phần, Tăng kỳ và Căn bản Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ như sau: