- Chương 1 Vài Nét Khái Quát Về Đạo Phật
- Chương 2 Chánh Kiến Trong Cuộc Sống Hàng Ngày
- Chương 3 Giáo Lý
- Chương 4 Các Việc Thiện
- Chương 5 Phát Triển Tâm Trí
- Chương 6 Phật
- Chương 7 Pháp
- Chương 8 Tăng
- Chương 9 Cái Chết
- Chương 10 Cuộc Sống
- Chương 11 Phát Triển Samatha
- Chương 12 Vipassanå
- Chương 13 Bát Chánh Đạo
- Chương 14 Các Chi Của Bát Chánh Đạo
- Chương 15 Chánh Tinh Tấn
- Chương 16 Chánh Niệm
- Chương 17 Chánh Định
Giáo lý của Đức Phật ảnh hưởng như thế nào đối với hành động của mọi người? Bằng cách nào Giáo lý của Đức Phật có thể giúp mọi người làm việc thiện một cách hiệu quả? Liệu có thể làm việc thiện bởi vì một người có quyền năng nói với chúng ta: “Hãy xả ly và làm việc thiện” hay không?
Từ kinh nghiệm, chúng ta biết rằng một tấm gương tốt có thể hỗ trợ ở một mức độ nào đó, nhưng nguồn gốc thực sự của nghiệp thiện là ở bên trong chúng ta: Tâm thức của chúng ta sẽ xác định hành động của chúng ta. Nếu ai đó muốn hết sức giúp đỡ người khác, người ấy nên hiểu bản thân mình trước đã. Người ấy nên hiểu những nguyên nhân nào khiến người ấy hành động theo cách này hay cách kia. Nếu người ấy phát triển hiểu biết đúng về các nguyên nhân này, người ấy sẽ có thể có thêm thiện pháp trong cuộc sống và có thể giúp đỡ người khác theo cách hiệu quả nhất.
Tâm là nguồn gốc mà từ đó nghiệp sẽ được thực hiện; vì vậy không thể xác định mức độ của thiện pháp chỉ bằng vẻ bề ngoại của các việc làm. Có nhiều mức độ thiện pháp tùy thuộc vào loại tâm thức nào thúc đẩy nghiệp thiện.
Một số người đưa tiền cho người nghèo, nhưng điều đó không có nghĩa là không có ngã mạn hay các động cơ ích kỷ khác. Những người khác có thể cho mà không có ngã mạn, nhưng vẫn có thể có dính mắc: họ chỉ cho những người mà họ thích. Có những người cho với tâm từ trong sạch, không có bất kỳ suy nghĩ dính mắc nào. Đó là một cách bố thí thiện hơn.
Chúng ta có thể phân vân liệu việc nghiên cứu quá chi tiết như vậy có cần thiết không. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta sẽ thấy rằng rất hữu ích khi biết các loại citta khác nhau và biết loại citta nào thúc đẩy loại hành động nào. Citta thì luôn thay đổi, nối tiếp nhau rất nhanh. Nếu chúng ta biết phân biệt các loại citta khác nhau, chúng ta sẽ thấy ngay cả khi chúng ta làm việc thiện, vẫn có tâm bất thiện ngay sau khi tâm thiện vừa diệt đi.
“Thiện” được dịch từ từ “kusala” trong tiếng Pali. Một nghiệp thiện, theo nghĩa rộng nhất, là một việc làm không gây hại cho bản thân cũng như người khác tại khoảnh khắc việc đó được làm và sau đó.
Trong Kinh Bahitika (Trường bộ kinh Tập II, Mục 88), chúng ta đọc về những việc làm thiện, lời nói thiện và suy nghĩ thiện. Đức vua Pasenadi đã hỏi Đại đức Ananda về bản chất của những việc làm thiện và bất thiện. Đối với những việc làm thiện hay thiện thân hành, chúng ta đọc đoạn hội thoại sau:
“Thưa Thưa Tôn giả, thế nào là thiện thân hành “
“Thưa Đại vương, phàm thân hành nào không có tội”
“Thưa Tôn giả, thế nào là thân hành không có tội?”
“Thưa Đại vương, phàm thân hành nào không có hại”
“Thưa Tôn giả, thế nào là thân hành không có hại?”
“Thưa Đại vương, phàm thân hành nào có lạc báo”
“Thưa tôn giả, thế nào là thân hành có lạc báo ?”
“Thưa Đại vương, phàm thân hành nào không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, từ nơi thân hành ấy, các bất thiện pháp thối giảm, các thiện pháp tăng trưởng…”
Đoạn hội thoại tương tự cũng nói về thiện khẩu nghiệp và thiện ý nghiệp. Những từ này để chỉ hàm ý của thiện hay “kusala” theo nghĩa rộng nhất. Có nhiều loại và mức độ của kusala. Trong phát triển “chánh kiến” hay trí tuệ, có thể có kusala ở mức độ cao hơn.
Trí tuệ hay hiểu biết được dịch từ từ Pali là “paññå”. Paññå không chỉ có nghĩa là kiến thức thu được từ nghiên cứu sách vở, paññå còn bao gồm cả tuệ giác, hiểu biết đúng về các thực tại trong cuộc sống hàng ngày. Paññå có thể được phát triển trong cuộc sống hàng ngày. Khi paññå đi kèm với tâm thiện, kusala citta, sẽ có mức độ thiện cao hơn. Có nhiều mức độ paññå và mỗi mức độ sẽ mang đến kết quả tương ứng.
Cách tiếp cận tiêu biểu của Phật giáo là suy xét và hay biết các hiện tượng tinh thần và hiện tượng vật chất khác nhau được kinh nghiệm qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Nếu chúng ta chưa quen với cách tiếp cận này, chúng ta có thể cảm thấy bối rối lúc đầu. Tuy nhiên, sau khi chúng ta đã có sự suy xét hơn về các hiện tượng thân và tâm, chúng ta sẽ nhận ra rằng chỉ nhờ như vậy mới có thể hiểu được các cách thức hành xử khác nhau của bản thân mình và những người khác, và để biết loại nhân nào sẽ mang đến kết quả nào trong cuộc sống. Sẽ không có nghĩa gì khi nói về các thực tại một cách mơ hồ, chung chung, bởi vì cái hiểu thực sự về các kinh nghiệm trong cuộc sống của chúng ta không bao giờ có thể phát triển được bằng cách đó.
Có người nói với tôi về một vị sư giảng pháp theo một cách giúp được nhiều cho mọi người trong cuộc sống hàng ngày. Khi tôi hỏi rằng, vị sư đó đã giảng những gì, câu trả lời là vị ấy giảng về “citcai”. “Citcai” là một từ tiếng Thái để chỉ “trạng thái tâm”, tiếng Pali là citta. Vị sư này đã có cách tiếp cận cuộc sống đúng đắn. Chúng ta nên noi theo tấm gương của Đức Phật; chúng ta không nên chỉ nói mọi người làm việc thiện, mà chúng ta còn nên dạy cho họ biết làm việc thiện như thế nào. Để biết làm việc thiện như thế nào, chúng ta nên quay về với nguồn gốc của việc thiện: đó chính là trạng thái tinh thần hay “citta”. Sử dụng từ Pali “citta” sẽ thích hợp hơn là dịch từ tiếng Pali sang, vì từ được dịch không thể hiện đủ hàm ý tương ứng. Chẳng hạn, từ “citta” được dịch sang tiếng Anh thành “trạng thái tâm” hay “trạng thái tinh thần” ám chỉ cái gì đó trường tồn, không thay đổi. Nhưng đó không phải là đặc tính của citta. Khi chúng ta được học thêm về các citta, chúng ta sẽ nhận thấy rằng không có citta nào kéo dài, dù chỉ một giây. Mỗi citta đều sinh rồi diệt ngay, được nối tiếp bới citta tiếp theo. Các citta hình thành nên cuộc sống của chúng ta và của những người khác; chúng tạo duyên cho hành động của chúng ta trong cuộc đời.
Nhiều người không quen cách tiếp cận này; họ quen nhìn vẻ bề ngoài của các hiện tượng. Các nhà khoa học đi đầu trong việc nghiên cứu thế giới bên ngoài, nhưng biết rất ít cái gì đang diễn ra bên trong con người. Mọi người quen chú ý đến mọi thứ họ thấy và nghe, nhưng họ không quen để ý đến nhãn thức và nhĩ thức. Họ không nghĩ đến citta đang thực hiện chức năng thấy và nghe.
Nhãn thức và nhĩ thức là các thực tại và vì vậy, việc biết hơn về chúng là rất quan trọng. Mảng Giáo lý của Đức Phật phân tích và giải thích tường tận về các hiện tượng vật chất và tinh thần được gọi là “Vi diệu pháp” (Abhidhamma).
Abhidhamma đề cập đến tất cả những gì là thực. Nghiên cứu Abhidhamma có thể làm thay đổi cuộc đời chúng ta.
Nhiều người Thái đã nghe giảng về Abhidhamma, không chỉ những người học trung học và đại học, mà còn có cả những người không được học hành nhiều. Tôi đã biết đến những trường hợp mà qua việc nghiên cứu các citta khác nhau đã giúp họ có được một cuộc sống thiện hơn. Tôi nghe có người có xu hướng cảm thấy muốn trả thù người khác, nhưng người ấy đã dần vượt qua cảm giác ấy bằng cách hiểu những cảm giác ấy là gì. Nhiều người Thái biết về các thực tại được dạy trong Abhidhamma, và học áp dụng hiểu biết của mình trong cuộc sống hàng ngày. Người nước ngoài thường không được nghe về những điều này, vì người ta thường không nói về Abhidhamma với họ. Các trạng thái tinh thần bất thiện hay “akusala cittas” và trạng thái tinh thần thiện hay “kusala citta” là các thực tại trong cuộc sống hàng ngày. Để biết hơn về những thực tại này, chúng ta nên cố gắng hiểu về bản thân mình trước. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng chúng ta phải đợi hết cả cuộc đời mình trước khi chúng ta có thể bắt đầu giúp đỡ người khác. Ngay cả những người mới bắt đầu hiểu mọi thứ như chúng là vẫn có thể giúp người khác có được cái hiểu đúng đắn.
Paññå, trí tuệ hay sự hiểu biết, thì đối nghịch với vô minh, gốc rễ của mọi phiền não và đau khổ. Paññå rất quan trọng trong phát triển kusala citta. Có thể làm việc thiện mà không có paññå, nhưng nếu có hiểu biết về cái gì là bất thiện và cái gì là thiện, và hiểu nghiệp bất thiện và nghiệp thiện sẽ mang đến kết quả gì, chúng ta có thể sẽ có một cuộc sống thiện hơn. Vì vậy, phát triển paññå mang đến lợi ích lớn lao cho cả bản thân chúng ta và người khác.
Có nhiều mức độ paññå. Khi một vị thầy giải thích cho học trò rằng kusala citta với lòng biết ơn hay sự chân thành sẽ mang đến kết quả tốt lành và rằng nghiệp bất thiện do tham lam hay sân hận thúc đẩy sẽ mang đến kết quả không tốt lành, cách giải thích như vậy có thể là nhân duyên cho họ có mức độ paññå nào đó. Với paññå, họ có thể phát triển kusala citta và làm được thêm các thiện nghiệp.
Có mức độ paññå cao hơn khi mọi người nhận ra sự vô thường của tất cả mọi thứ họ hưởng thụ trong cuộc sống. Khi mọi người thấy cuộc đời con người ngắn ngủi như thế nào, họ sẽ cố gắng không dính mắc quá nhiều vào những thứ dễ chịu. Hiểu này sẽ khuyến khích họ có thêm lòng quảng đại và sẵn sàng giúp đỡ người khác hơn. Họ sẽ bớt vị kỷ.
Những người có mức độ paññå này có thể thay đổi cách sống và thoải mái với cuộc sống mà không cần bất kỳ sự xa sỉ nào. Những người khác có thể quyết định “xuất gia”, họ có thể quyết định trở thành một vị sư. Cuộc sống của một vị sư là cuộc sống không dễ dàng. Vị ấy phải sống không có gia đình và là người “hài lòng với ít ỏi”. Trong Kinh sáu thanh tịnh (Trung bộ kinh Tập III, số 112), chúng ta đọc rằng Đức Phật nói về các tì kheo đã tuyên bố về sự từ bỏ thế gian của mình như sau:
Chư Hiền, một thời gian sau, tôi từ bỏ tài sản nhỏ hay từ bỏ tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay từ bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình…
Đức Phật đã giải thích rằng con người quá dính mắc vào những gì cảm nhận qua mắt, tai, mũi, lưới và thân. Ngài nói về “Năm dục trưởng dưỡng”. Chúng ta đọc trong Kinh Subha (Trung bộ kinh Tập II, số 99) rằng Đức Phật đã nói với Subha về năm dục trưởng dưỡng:
Này Thanh niên Bà-la-môn, có năm dục trưởng dưỡng này. Thế nào là năm? Các sắc do mắt nhận thức, sắc này khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn; tiếng do tai nhận thức… hương do mũi nhận thức… vị do lưỡi nhận thức… xúc do thân nhận thức khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Này Thanh niên Bà-la-môn, như vậy là năm dục trưởng dưỡng. Này Thanh niên Bà-la-môn, Bà-la-môn Pokkharasati thuộc dòng họ Upamanna, trú ở rừng Subhaga bị trói buộc, bị đam mê, bị tham trước bởi năm dục trưởng dưỡng này, thụ hưởng chúng mà không thấy sự nguy hiểm, không soi thấu sự thoát ly khỏi chúng…
Chúng ta muốn có những cảm nhận giác quan dễ chịu và chúng ta có xu hướng quá coi trọng chúng. Chúng ta bị hấp dẫn bởi những gì chúng ta thấy hay nghe đến nỗi chúng ta quên rằng cảm nhận giác quan không phải là hạnh phúc thực sự. Trong Kinh Magandiya (Trung bộ kinh tập II, số 75), chúng ta đọc rằng Đức Phật đã nói với Magandiya:
Này Magandiya, Ta thuở trước, khi còn là tại gia, Ta sống hưởng thụ một cách đầy đủ, một cách sung mãn, năm dục trưởng dưỡng, … Rồi Ta sau một thời gian, sau khi như chơn biết được sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly của các dục vọng, sau khi đoạn tận dục ái, sau khi trừ diệt nhiệt não của các dục, Ta trú với khát ái được đoạn trừ, với nội tâm an tịnh. Rồi Ta thấy các chúng sanh khác, chưa xả ly tham ái đối với các dục đang bị các dục ái nhai nghiến, đang bị dục nhiệt não thiêu đốt, đang chạy theo các dục. Ta không ước vọng được như họ; ở đây, Ta không ham thích…
Những người hiểu rằng có hạnh phúc lớn hơn cả sự thích thú mà chúng ta có thể hưởng thụ từ ngũ dục có thể phát triển sự an tịnh hay “samatha”. Sự an tịnh được phát triển trong samatha là sự giải phóng tạm thời khỏi tham, sân và các phiền não khác. Có nhiều đề mục thiền của samatha, như niệm ân Đức Phật, chánh niệm trên hơi thở hay tâm từ. Tùy thuộc vào tích lũy của mỗi người mà chọn đề mục thiền nào để tạo duyên cho sự an tịnh. Samatha không phải là việc chỉ chú tâm trên một đề mục. Điều quan trọng là hiểu biết đúng về đề mục thiền và về cách đạt được sự an tịnh, cái là thiện pháp, nhờ vào đề mục thiền. Nếu chúng ta không biết sự khác biệt giữa kusala citta và akusala citta, chúng ta dường như coi sự dính mắc vào sự tĩnh lặng là kusala –thiện pháp và khi đó, samatha không thể được phát triển. Chúng ta phải biết đặc tính của sự an tịnh là thiện pháp thực sự, khác với bất thiện pháp. Khi đó có thể có nhân duyên cho sự an tịnh hơn. An tịnh trong samatha có thể đạt đến mức độ cao đến mức chúng ta hoàn toàn bị hút chặt vào đề mục thiền. Có những giai đoạn khác nhau của sự an tịnh hay còn gọi là các tầng thiền – “jhåna”. Trong jhåna, chúng ta không nhận được các cảm giác qua năm căn và vì vậy, tại giây phút đó, chúng ta không bị chúng chi phối. Chúng ta hưởng thụ một hạnh phúc cao hơn. Ở giai đoạn jhåna cao nhất, chúng ta đạt được trạng thái tâm yên tĩnh hơn cho đến khi không còn cảm thấy hỷ lạc nữa; chúng ta vượt qua cảm giác hạnh phúc và thay vào đó chỉ có tâm xả. Tuy nhiên, khi citta không còn là jhånacitta, lại có các cảm nhận giác quan.
Samatha là một cách vun bồi thiện pháp. Những người thực hành samatha có thể trở nên rất an bình và dễ mến. Họ có thể mang đến nhiều cảm giác dễ chịu cho những người luôn bất an. Tuy nhiên, trong samatha, phiền não vẫn chưa được tận diệt. Mặc dù chúng ta không còn bị ngũ dục chi phối trong suốt thời gian nhập thiền, nhưng chúng ta vẫn còn dính mắc vào chúng khi citta không còn là jhånacitta nữa. Jhåna thì không trường tồn; chúng là vô thường. Hơn nữa, có sự dính mắc vi tế hơn, sự dính mắc vào hỷ lạc của jhånas. Chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta sẽ không còn dính mắc khi chúng ta không đắm chìm trong ngũ dục. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể dính mắc vào jhåna – mà chẳng hề liên quan đến ngũ dục, chúng ta có thể dính mắc vào cảm thọ lạc hoặc tâm xả đi kèm với jhånacitta.
Để phát triển samatha, paññå là rất cần thiết, nhưng loại paññå này không thể tận diệt phiền não. Có một mức độ paññå cao hơn có thể tận diệt mọi phiền não, kể cả những loại dính mắc vi tế nhất. Paññå này được phát triển trong “thiền minh sát” hay “vipassanå”. Trong vipassanå, paññå sẽ dần dần diệt trừ vô minh, nguồn gốc của mọi phiền não. Chúng ta sẽ học thêm về các loại thực tại xuất hiện thông qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý căn tại bất kỳ khoảnh khắcc nào. Chúng ta biết quá ít về những thứ thông thường nhất trong cuộc sống hàng ngày. Chúng ta hay biết về cử động của thân trong một ngày được bao nhiêu? Chúng ta hay biết được bao nhiêu về các hiện tượng trên thân, như cái cứng, cái mềm trong khi chúng ta co duỗi tay, hay khi chúng ta mấp máy môi để nói? Chúng ta không thực sự biết âm thanh là gì, cái nghe là gì hay cái gì chúng ta coi là “ta” trong khi đang nghe. Chúng ta không biết về các hiện tượng xuất hiện tại giây phút hiện tại.
Khi chúng ta bị đắm chìm vào vẻ bề ngoài và chi tiết của mọi thứ, chúng ta không thể hay biết các thực tại ở giây phút hiện tại. Chừng nào chúng ta còn bị cuốn theo việc thích hay không thích những gì chúng ta thấy và nghe, chừng đó chưa thể thấy mọi thứ như chúng là. Đức Phật đã tỉnh thức hoàn toàn và Ngài có tuệ giác hoàn hảo về mọi loại hiện tượng tinh thần và vật chất khác nhau. Vì vậy, Ngài có thể tự gọi mình là “Bậc toàn giác”; Ngài hoàn toàn giác ngộ về sự thật. Chúng ta cũng nên giác ngộ về sự thật.
Trong vipassanå, paññå sẽ phát triển dần dần và nó sẽ biết mọi thứ như chúng là. Bằng việc hay biết về thực tại đang xuất hiện tại giây phút hiện tại, chúng ta sẽ học rằng có hai loại thực tại: hiện tượng vật chất hay sắc (rúpa) và hiện tượng tinh thần hay danh (nåma). Rúpa thì không biết cái gì cả, trong khi nåma kinh nghiệm cái gì đó; nó kinh nghiệm một đối tượng. Chẳng hạn, đối tượng thị giác là rúpa; nó không biết cái gì cả. Cái thấy là một loại nåma; nó kinh nghiệm một đối tượng: đối tượng thị giác. Cái nghe và suy nghĩ là những loại nåma khác, khác với cái thấy. Có nhiều loại nåma và rúpa khác nhau, và trong vipassanå, chúng ta học kinh nghiệm đặc tính của chúng
Trong phát triển vipassanå, đặc tính vô thường của nåmas và rúpas cần phải được hay biết trực tiếp. Trước kia, chúng ta có thể suy xét về sự vô thưởng của mọi thứ trong cuộc sống. Suy xét về sự thật là cần thiết, nhưng nó không giống như hay biết trực tiếp về sự vô thường của mọi thực tại trong và xung quanh bản thân mình. Khi mới bắt đầu, sự sinh diệt của nåma và rúpa cũng chưa thể được nhận biết. Tuy nhiên, nếu chúng ta học hay biết về các đặc tính khác nhau của nåma và rúpa xuất hiện một lần tại một thời điểm, và nếu chúng ta nhận ra rằng mỗi một nåma và rúpa xuất hiện bây giờ đều khác với nåma và rúpa trước đó, chúng ta sẽ bớt xu hướng suy nghĩ rằng nåma và rúpa là trường tồn, và chúng ta sẽ bớt xu hướng coi chúng là “ta”.
Trong Đại kinh mãn nguyện (Trung bộ kinh Tập III, số 109), chúng ta đọc rằng Đức Phật, khi ngự tại gần Savatthi trong Lộc mẫu Giảng đường ở Đông Viên, đã nói với các tì kheo:
“Các Ông nghĩ thế nào, này các Tỷ-kheo, sắc là thường hay vô thường?”
“ Vô thường, bạch Thế Tôn”
“ Những gì vô thường là khổ hay lạc?”
“ Là khổ, bạch Thế Tôn”
“ Những gì vô thường, khổ, bị biến hoại, có hợp lý chăng khi xem : “Cái này của tôi, cái này là tôi, cái này là tự ngã của tôi ?”
“ Thưa không vậy, bạch Thế Tôn”
Đức Phật đã hỏi tương tự như vậy về các hiện tượng tinh thần.
Trong Kinh Thân hành niệm (Trung bộ kinh Tập III, số 119), chúng ta đọc rằng Đức Phật, khi ngự ở gần Savatthi, tại Động Jeta, đã nói với các tì kheo về chánh niệm trên thân và về những lợi ích của nó. Có đoạn nói như sau:
Vị ấy là người nhiếp phục được Lạc và bất lạc, và bất lạc (và lạc) không nhiếp phục vị ấy. Vị ấy là người nhiếp phục được khiếp đảm sợ hãi khi khởi lên, và khiếp đảm sợ hãi không nhiếp phục vị ấy. Vị ấy kham nhẫn được lạnh, nóng, đói, khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, mặt trời, các loài rắn rết, các cách nói khó chịu, khó chấp nhận; vị ấy có khả năng chịu đựng được những cảm thọ về thân khởi lên, khổ đau, nhói đau, thô bạo, chói đau, bất khả ý, bất khả ái, đưa đến chết điếng…
Chúng ta sẽ dần học bớt dính mắc và giận dữ hay sân hận khi chúng ta nhận ra rằng chỉ có các loại nåma khác nhau sinh khởi bởi nhân duyên và rồi lại diệt đi ngay lập tức.
Chúng ta không nên đợi khi đã già hay được nghỉ hưu mới phát triển tuệ giác, hay chánh kiến, về các thực tại. Khi chúng ta phát triển trí tuệ này, chúng ta sẽ biết hơn về bản thân mình, chúng ta sẽ hay biết thường xuyên hơn về các giây phút akusala citta sinh khởi, ngay cả trong khi chúng ta đang làm việc thiện. Ngã mạn về việc thiện của mình có thể sinh khởi và chúng ta có thể mong đợi được đền đáp cái gì đó từ việc thiện ấy, như sự khen ngợi hay danh tiếng Khi chúng ta dần thấy rõ hơn rằng chỉ có nåma và rúpa sinh khởi bởi nhân duyên, sẽ bớt dính mắc vào khái niệm về một cái “tôi” thực hiện những nghiệp thiện hay bất thiện. Khi có bớt dính mắc vào tự ngã, các việc thiện sẽ càng trở nên trong sạch hơn. Paññå được phát triển trong vipassanå là chi “chánh kiến” của Bát chánh đạo – con đường dẫn tới niết bàn. Tất cả mọi người đều phải tự mình bước đi trên con đường này. Chúng ta chỉ có thể làm trong sạch bản thân mình. Chúng ta không thể nhờ người khác làm trong sạch; người khác cũng chỉ có thể giúp chúng ta tìm thấy chánh đạo. Sẽ không có thế giới an bình chừng nào còn có tham, sân và si. Cần tham gia các tổ chức thế giới nhằm thúc đẩy hòa bình và phúc lợi của các quốc gia, và để cứu trợ cho những người thực sự cần thiết. Tuy nhiên, chúng ta nên nhận thấy rằng như thế chưa đủ, điều đó chỉ giúp ích ở mức độ nào đó. Nguyên nhân thực sự của chiến tranh là tham lam, sân hận và si mê. Chỉ bằng phát triển paññå, chúng ta mới có thể tận diệt được tham, sân và si.
Bát chánh đạo dẫn tới niết bàn. Niết bàn là sự chấm dứt mọi phiền não. Niết bàn có thể được chứng ngộ tại đây và bây giờ, trong kiếp sống này. Khi paññå đã được phát triển từng giai đoạn một, nó có thể đạt tới mức độ đạt được sự giác ngộ. Tại khoảnh khắc đó, niết bàn được kinh nghiệm. Khi chúng ta đã nhận ra niết bàn, chúng ta sẽ hiểu “giác ngộ chân lý” nghĩa là gì.