Cư sĩ Hạnh Cơ biên soạn,
đánh máy và trình bày trang sách
Cư sĩ Tịnh Kiên đọc và sửa chữa bản thảo
T
Ta-bà: là dịch âm từ chữ Phạn “saha”, dịch ra Hán ngữ là nhẫn, kham nhẫn, hay nhẫn độ; chỉ cho thế giới Ta-bà (Saha-lokadhatu), nơi đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra đời hóa độ chúng sinh, mà giáo pháp của Ngài hiện còn đang truyền bá rộng rãi. Chúng sinh ở thế giới này đa phần làm mười điều ác, cam chịu bao nhiêu đau khổ do vô minh phiền não hành hạ, mà không có ý muốn thoát li; đó là ý nghĩa của chữ “nhẫn”, tức là chịu đựng. Mặt khác, đức Phật và chư vị Bồ-tát ở thế giới này, trong công cuộc hành đạo để cứu độ chúng sinh, cũng phải chịu đựng nhiều khổ não để tỏ rõ đức vô úy và tâm từ bi; có thế mới đem lại lợi lạc cho chúng sinh một cách hữu hiệu; đó cũng là ý nghĩa của từ “kham nhẫn”. Ngoài ra, thế giới Ta-bà cũng được hiểu là nơi có ba đường dữ, có năm loài Trời, Người, Bàng-sinh, Ngạ-quỉ, và Địa-ngục cùng ở chung lộn với nhau. Từ “Ta-bà” nguyên được dùng chỉ cho châu Diêm-phù-đề, nơi cư trú của con người chúng ta, nhưng về sau nó được dùng để chỉ rộng ra cả một “ba ngàn đại thiên thế giới”, tức là toàn thể phạm vi giáo hóa của đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
Tà định (hay tà thiền): là loại thiền định sai lạc, không đúng chánh pháp. Thiền định để xuất hồn đi đây đi đó; thiền định để được gặp vị Bồ-tát này, vị thánh kia; v.v... chỉ toàn là ma mị, là tà định.
Tà mạng. Thầy tì kheo không khất thực, cũng không hoằng pháp, chỉ làm những việc không đúng chánh pháp để nuôi mạng sống, gọi là “tà mạng”. Bốn loại sinh kế sau đây bị cho là “tà mạng”: 1) Gieo ruộng trồng vườn, hòa chế thuốc thang, gọi là “hạ khẩu thực”. 2) Ngước lên xem tinh tú, suy đoán đầy vơi, gọi là “ngưỡng khẩu thực”. 3) Dua nịnh kẻ giàu sang, đi du thuyết bốn phương, gọi là “phương khẩu thực”. (Chữ “phương” ở đây là chỉ cho 4 phương chính: Đông, Tây, Nam, Bắc.) 4) Dùng chú thuật hô hoán quỉ thần, hoặc dùng các cách bói quẻ, đoán mạng, coi tướng để làm nghề sinh sống, gọi là “duy khẩu thực”. (Chữ “duy” ở đây là chỉ cho 4 phương xéo: Đông Nam, Tây Nam, Đông Bắc, Tây Bắc.)
Tác pháp: là một thuật ngữ Phật học được dùng trong nếp sống tu hành hằng ngày của người xuất gia. Đó là những pháp tắc phải tuân thủ trong các hành vi đi, đứng, ngồi, nằm, học tập, ăn uống, thăm bệnh, v.v...; những cách thức qui định trong các nghi thức thọ giới, xả giới, bố tát, sám hối, kì nguyện, v.v... Riêng trong truyền thống Mật giáo, từ “tác pháp” được dùng để nói về “tác pháp quán đảnh”, tức nghi thức “điểm đạo” trong truyền thống này, bao gồm các cách thức như dẫn nhập (dẫn đệ tử vào đàn tràng), đầu hoa (ném hoa trên đồ hình mạn-đà-la), trao mão và gương soi, v.v...
Tác ý: là tên của một loại tâm sở (trong 51 tâm sở). Khi tâm đối cảnh thì nảy sinh sự chú ý, đó là tác dụng của tâm sở “tác ý”.
Tam Phong (1573-1635). Ngài họ Tô, hiệu là Hán Nguyệt, còn gọi là Pháp Tạng, hay Hán Nguyệt Pháp Tạng, quê ở huyện Vô-tích, tỉnh Giang-tô, là khai tổ của thiền phái Tam Phong, một chi phái của tông Lâm Tế thời nhà Minh. Ngài xuất gia năm 15 tuổi, rất ham thích học Thiền, nhân đọc Cao Phong Ngữ Lục có điểm nghi ngờ, bèn để tâm tham cứu. Trải hơn 10 năm, một hôm bỗng nghe tiếng cây tre gẫy mà hốt nhiên đại ngộ. Năm 52 tuổi ngài đến chùa Kim-túc tham yết thiền sư Mật Vân Viên Ngộ (1566-1642), được ấn khả phú pháp. Sau đó ngài khai pháp tòa ở thiền viện Tam-phong (núi Ngu-sơn, Tô-châu), được người đời xưng là Tam Phong Tạng Công. Ngài cũng cư trú tại nhiều chùa khác để hoằng pháp. Đương thời, tông Tào Động bài xích tông chỉ của “năm nhà”, chỉ đề xướng thuyết “tự tánh tự ngộ” do truyền thuyết “niêm hoa vi tiếu” của đức Phật Thích Ca mà thôi. Nhân đó ngài liền soạn sách Ngũ Tông Nguyên để phản bác, trong đó nhấn mạnh, từ Phật Oai Âm Vương cho đến nay, không một lời, một pháp nào mà không phù hợp với tông chỉ của “năm nhà”. Sự việc này đã làm khơi dậy cuộc tranh luận sôi nổi một thời trong giới học Phật ở Trung-quốc. Ngài thị tịch năm 1635, thế thọ 62 tuổi.
Tam Tần: tức ba triều đại ở miền Giang-bắc (phía Bắc sông Trường-giang) đều lấy tên là Tần; và để phân biệt, các sử gia đã gọi đó là Tiền-Tần, Hậu-Tần và Tây-Tần.
Năm 316 tộc Hung-nô đã tiêu diệt nhà Tây-Tấn (265-316), chiếm cứ miền Giang-bắc (toàn vùng đất phía Bắc sông Trường-giang), thành lập một quốc gia cho tộc Hung-nô, lấy tên nước là Triệu, đóng đô ở thành Trường-an; sử gọi đó là Tiền-Triệu (304-329). Lúc đó, một người trong hoàng tộc nhà Tấn là Tư-mã Duệ, đã kéo những người còn lại trong vương thất nhà Tấn, xuống phương Nam, chiếm miền Giang-nam (cũng gọi là Giang-tả, tức toàn vùng đất phía Nam sông Trường-giang), tự xưng đế, dựng nên triều đại Đông-Tấn (317-420) để tiếp nối triều đại Tây-Tấn (xem mục “Đông-Tấn”), định đô ở thành Kiến-khang (tức Kiến-nghiệp, nay là Nam-kinh). Như vậy, kể từ năm 317 cho tới năm 436, nước Trung-quốc bị chia cắt thành hai miền Bắc và Nam, lấy sông Trường-giang làm ranh giới: Miền Giang-nam là lãnh thổ của vương triều Đông-Tấn, còn miền Giang-bắc là lãnh thổ của năm bộ tộc người thiểu số (Hung-nô, Tiên-ti, Yết, Chi, và Khương); mà sử gọi là Ngũ-Hồ. Năm bộ tộc này đều thành lập nhiều nước nhỏ khác nhau, mỗi ngày mỗi nhiều; mà con số chính thức của các sử gia thường ghi là có 16 nước (sử Trung-quốc gọi là “Ngũ-Hồ thập lục quốc”), gồm có: hai nước Triệu (nhị Triệu: Tiền-Triệu và Hậu-Triệu); ba nước Tần (tam Tần: Tiền-Tần, Hậu-Tần và Tây-Tần); bốn nước Yên (tứ Yên: Tiền-Yên, Hậu-Yên, Nam-Yên và Bắc-Yên); năm nước Lương (ngũ Lương: Tiền-Lương, Hậu-Lương, Tây-Lương, Nam-Lương và Bắc-Lương); Hạ; và Nhiễm-Ngụy. Thật ra không phải chỉ có 16 nước, vì ngoài 16 nước trên, sử sách còn ghi thêm 4 nước khác là Thành, Hán, Đại, và Tây-Yên; vả lại, trong số các nước này thì 3 nước Tiền-Lương, Tây-Lương và Bắc-Yên là do người Hán dựng lập, chứ không phải do các dân tộc thiểu số. Có lẽ vì vậy, bộ từ điển Từ Nguyên (trong phần phụ lục kê niên biểu các triều đại của lịch sử Trung-quốc), đã gọi chung các nước này là “Đông-Tấn liệt quốc” (các nước nhỏ dưới vương triều Đông-Tấn), chứ không gọi là “Ngũ-Hồ thập lục quốc”. Các nước này đã chia cắt lãnh thổ miền Giang-bắc để cai trị trong suốt 120 năm. Vậy, ba nước Tần (Tam-Tần) là 3 trong số nhiều nước nhỏ ở miền Giang-bắc dưới vương triều Đông-Tấn.
Tạng 1 (pitaka): nghĩa là cái kho chứa; trong Phật học có ý nói là cái kho chứa giữ tất cả giáo pháp cần phải biết – tức thâu gồm tất cả thánh điển của Phật giáo. Tất cả thánh điển này được chia làm ba loại, mỗi loại là một cái kho; có ba cái kho, cho nên gọi là “Ba Tạng” (Tam Tạng): đó là tạng Kinh, tạng Luật và tạng Luận.
Ba tạng Kinh Luật Luận được hình thành sơ khởi trong kì kết tập kinh điển lần thứ nhất, 3 tháng sau ngày Phật nhập diệt. Bởi vậy, ở buổi đầu, nói đến “Ba Tạng” là nói đến thánh điển của Phật giáo Nguyên thỉ và Phật giáo Bộ phái, cũng tức là “ba tạng giáo” của tiểu thừa. Về sau, khi Phật giáo đại thừa phát triển, thì Ba Tạng được phân làm hai loại: Ba Tạng hạ thừa (hay tiểu thừa) được gọi là Thanh Văn Tạng; và Ba Tạng thượng thừa (hay đại thừa) được gọi là Bồ Tát Tạng; gộp chung gọi là “hai Tạng” (nhị Tạng). Hợp tất cả ba tạng tiểu thừa và ba tạng đại thừa, gọi chung là “sáu Tạng” (lục Tạng). Ngoài ba tạng căn bản Kinh Luật Luận, theo Phật Quang Đại Từ Điển, Đại Chúng Bộ còn thêm Tạp Tập Tạng, làm thành “bốn Tạng”; Độc Tử Bộ thì thêm Cấm Chú Tạng, cũng làm thành “bốn Tạng”; Pháp Tạng Bộ thêm Cấm Chú Tạng và Bồ Tát Tạng để lập nên “năm Tạng”; Nhất Thuyết Bộ lại thêm Tạp Tập Tạng và Cấm Chú Tạng, luận Thành Thật thì thêm Tạp Tập Tạng và Bồ Tát Tạng, kinh Lục Ba La Mật thêm Bát Nhã Ba La Mật Tạng và Đà La Ni Tạng, đều lập nên “năm Tạng”.
Tạng 2 (garbha): nghĩa là cái ổ (như ổ chim); trong Phật học được chuyên dùng với ý nghĩa là “thai tạng”, từ đó mà làm thành cái ý nghĩa của “Như Lai Tạng” (tathagata-garbha). Chữ “tạng” ở đây có nghĩa là hàm chứa, ẩn giấu. Như em bé được chứa đựng, nuôi dưỡng và giấu kín trong thai mẹ, gọi là “thai tạng”; trong thân tâm dầy đặc phiền não của chúng sinh, vốn ẩn tàng pháp thân Như Lai thanh tịnh, thường hằng bất biến, gọi là “Như Lai Tạng”.
Tạng 3 (kosa). Tiếng Phạn “kosa”, dịch âm ra Hán ngữ là “câu-xá”, dịch nghĩa là “tạng”, có nghĩa là dựa vào, bao hàm. Bồ Tát Thế Thân (Vasubandhu, thế kỉ thứ 5 TL) trước tác bộ Câu Xá Luận, gọi tên đầy đủ là A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận (Abhidharmakosa-sastra), dịch ra Hán ngữ là Đối Pháp Tạng Luận. Bộ luận này do dựa vào luận thuyết của các bộ luận (tiểu thừa) ra đời trước nó mà làm thành, cho nên nó hàm chứa giáo nghĩa của các bộ luận khác, nghĩa lí hoàn chỉnh, thù thắng; vì vậy nó cũng được gọi là “Tạng” (tức Đối Pháp Tạng).
Tạng 4 (alaya). Chữ “tạng” ở đây có nghĩa là chỗ ở, nhà; trong Phật học nó được dùng để gọi thức a-lại-gia – tức “Tạng thức”, hay “Tàng thức”, là nơi tiềm phục của tất cả mọi chủng tử.
Tạng Luật tiểu thừa. Trong kì kết tập kinh điển lần đầu tiên sau ngày Phật nhập diệt, tôn giả Ưu Ba Li đã lãnh trọng trách kết tập phần Giới Luật, và hình thành bộ Bát Thập Tụng Luật. Bộ Luật nguyên thỉ này được truyền tới Tổ thứ năm là tôn giả Ưu Ba Cúc Đa (từ Sơ Tổ là tôn giả Ma Ha Ca Diếp). Năm vị đệ tử của tôn giả Ưu Ba Cúc Đa bèn đem bộ Luật này, tùy theo chỗ sở đắc của mình, mỗi vị lập thành một bộ Luật khác nhau, gọi chung là “năm bộ Luật” (ngũ bộ Luật – đều thuộc về tiểu thừa), truyền cho hậu thế; gồm có:
1) Bộ Đàm Vô Đức, cũng gọi là Pháp Tạng Bộ, về quảng luật (tức là nội dung tường tận, đầy đủ của giới luật, như trường hợp phạm lỗi, nguyên nhân chế giới, v.v...) thì có bộ Tứ Phần Luật; về giới bản (sách ghi các điều luật phải hành trì) có Tứ Phần Tăng Giới Bản, Tứ Phần Luật Tì Kheo Giới Bản, Tứ Phần Tì Kheo Ni Giới Bản.
2) Bộ Tát Bà Đa, cũng gọi là Hữu Bộ, về quảng luật có Thập Tụng Luật; về giới bản có Thập Tụng Tì Kheo Ba La Đề Mộc Xoa Giới Bản, Thập Tụng Tì Kheo Ni Ba La Đề Mộc Xoa Giới Bản, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Giới Kinh, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Bật Sô Ni Giới Kinh.
3) Bộ Di Sa Tắc, cũng gọi là Hóa Địa Bộ, về quảng luật có Ngũ Phần Luật; về giới bản có Di Sa Tắc Ngũ Phần Giới Bản, Ngũ Phần Tì Kheo Ni Giới Bản.
4) Bộ Ca Diếp Di, cũng gọi là Ẩm Quang Bộ, về quảng luật có Giải Thoát Luật; về giới bản có Giải Thoát Giới Kinh.
5) Bộ Ma Ha Tăng Kì, cũng gọi là Đại Chúng Bộ, về quảng luật có Ma Ha Tăng Kì Luật; về giới bản có Ma Ha Tăng Kì Luật Đại Tì Kheo Giới Bản, Ma Ha Tăng Kì Tì Kheo Ni Giới Bản.
Tánh, tướng, thể, dụng: là bốn khía cạnh của sự vật. THỂ là bản thể hay thật thể của sự vật; TÁNH là tánh chất của sự vật; TƯỚNG là hình sắc của sự vật; DỤNG là công dụng của sự vật.
Tánh giới: là giới bản chất, giới bản tánh, giới nặng, đối ngược lại với “già giới”. Có những hành động mà tự nó đã sai quấy từ bản chất. Bốn hành động giết hại, trộm cắp, tà dâm và gian dối, đối với bất cứ ai, dù ở địa phương, hoàn cảnh nào, vẫn là những hành động tội lỗi. Dù đức Phật có chế luật hay không chế luật, chúng vẫn là những hành động tội lỗi. Bất cứ ở xã hội nào, những hành động đó đều bị lên án. Dù có bị trừng phạt ở thế gian hay không, chúng vẫn là nguyên nhân chính để đem tới những quả báo đau khổ (ở đời này và cả ở đời sau). Trong luật gọi bốn giới sát, đạo, dâm, vọng là bốn giới “ba-la-di”, tức giới nặng, hay “tánh giới”; tất cả những giới khác đều thuộc “già giới”. Vi phạm “tánh giới” thì bị “tánh tội”, tức là những hành vi mang tính tội ác từ bản chất, là nguyên nhân chính đưa chúng sinh đọa lạc vào ba đường dữ.
Tánh tông. Các tông phái phá bỏ cái tướng của vạn pháp để nêu rõ chân tính không tịch của vạn pháp, gọi là Pháp Tánh tông, nói tắt là Tánh tông. Đốn giáo và Viên giáo trong Năm Giáo của tông Hoa Nghiêm, cũng như Biệt giáo và Viên giáo trong Bốn Giáo của tông Thiên Thai, và tông Tam Luận trong 13 tông phái ở Trung-quốc, đều thuộc về Tánh tông.
Tánh và tu. Cái năng lực chúng sinh vốn có sẵn từ vô thỉ kiếp thì gọi là “TÁNH”, thuật ngữ Phật học gọi là “tánh đức”, hay “tánh đắc”; nói rõ ra, những tính chất như thiện, ác, mê, ngộ, v.v... đều đã vốn có đầy đủ trong bản tính của chúng sinh từ vô thỉ đến nay, đó là “tánh đức”. Trong khi đó, cái năng lực có được do công phu tu hành ở đời này thì gọi là “TU”, thuật ngữ Phật học gọi là “tu đức”, hay “tu đắc”. Đức TÁNH bao hàm ý nghĩa “lí tính bất biến” (lí tính không bao giờ biến đổi); đức TU bao hàm ý nghĩa “ứng dụng tùy duyên” (tùy trường hợp mà ứng dụng khác nhau). Từ ý nghĩa căn bản này mà các ý niệm đối đãi sau đây được lập nên: tánh và tập (hai tánh); tánh tịnh và phương tiện tịnh (hai thứ niết bàn); bản giác và thỉ giác; chân tu và duyên tu; bản hữu và tân huân; v.v... Về Phật tánh cũng vậy: có loại Phật tánh nhờ công phu tu hành ở đời này mà phát huy ra được, gọi là “tu đức Phật tánh”; còn loại Phật tánh chúng sinh vốn có sẵn từ vô thỉ kiếp, gọi là “tánh đức Phật tánh”. Tông Thiên Thai chủ trương rằng, đức TÁNH vốn có đầy đủ xưa nay nơi chúng sinh, chỉ vì vọng tình, mê chấp, mà không thấy được; nay nhờ TU tập mà trừ khử vọng tình, rồi trí sáng làm cho đức TÁNH ấy hiện rõ ra. Vậy TÁNH và TU không phải là hai (bất nhị), mà chỉ là một thể (nhất thể); giống như nước và sóng, hình tướng tuy khác nhau, nhưng sự thật chỉ là một thể.
Tào Khê giữ lưới thợ săn. Tào-khê là tên đất, nằm cách phủ Thiệu-châu (tỉnh Quảng-đông) ba mươi dặm, về hướng Đông Nam, là đạo tràng của đại sư Tuệ Năng, tổ thứ sáu của Thiền tông, đời Đường; người đời sau thường dùng hai chữ “Tào Khê” để chỉ cho Lục Tổ Tuệ Năng. Lục Tổ đã đắc pháp từ Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn (602-675), nhưng thời cơ hoằng pháp chưa tới, nên tạm ẩn mình trong một toán thợ săn. Tổ được toán thợ săn giao cho việc trông chừng lưới, bèn thừa lúc họ đi vắng, thả hết những chim thú bị mắc lưới. Trải qua 16 năm như vậy, khi cơ duyên đã tới, Tổ mở đạo tràng ở Tào-khê, hoằng dương tông chỉ Thiền tông.
Tạp Tập Tạng và Cấm Chú Tạng. Ngoài ba tạng Kinh, Luật, Luận, Đại Chúng Bộ còn lập thêm Tạp Tập tạng và Cấm Chú tạng, làm thành năm tạng. Tạp Tập Tạng cũng gọi là Tạp Tạng, gồm thâu các kinh điển hoặc do Phật, hoặc do các vị A-la-hán hay Bồ-tát nói về túc duyên bản hạnh của mình. Cấm Chú Tạng cũng gọi là Minh Chú Tạng, hay Chú Tạng, hoặc Đà La Ni Tạng, thâu thập tất cả các kinh điển có các thần chú, các chân ngôn bí mật do Phật nói. Trong Phật Quang Đại Từ Điển (mục “Tứ Tạng”) lại nói, ngoài ba tạng Kinh, Luật, Luận, Đại Chúng Bộ lập thêm Tạp Tạng, làm thành bốn tạng; và Độc Tử Bộ thì lập thêm Minh Chú Tạng, cũng làm thành bốn tạng.
Tăng 1 (về sự phát triển của Tăng đoàn). “Tăng” là đoàn thể của những người cùng sống chung trong sự hòa hợp và nguyện tu tập theo giáo pháp của Phật để chứng đạt đạo quả cao tột cuối cùng là giải thoát, niết bàn, tức quả Phật. Tăng không phải chỉ có một đoàn thể, mà có nhiều đoàn thể – có thể gọi là “chúng”. Tổng quát thì có hai chúng: xuất gia và tại gia. Từ khi Phật chuyển pháp luân lần đầu tiên ở vườn Lộc-dã cho đến khi thu nạp hai vị Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên tại thành Vương-xá hơn một năm sau đó, số đệ tử xuất gia của Phật kể có trên 1.300 vị, tất cả đều đã xuất gia làm “sa-môn” từ trước, và bây giờ đều trở thành “tì-kheo” – mà tuyệt nhiên chưa hề có “giới tì kheo” (hay “giới cụ túc”). Chữ “tăng” lúc đó là chỉ cho tăng đoàn của Phật; và cả hơn 1.300 vị tì kheo đó đều đã chứng thánh quả A-la-hán, nên “tăng” cũng là tiếng để chỉ cho một trong Ba Viên Ngọc Quí (Tam Bảo): Phật, Pháp, Tăng. Sau đó, khi hoàng tôn La Hầu La theo Phật xuất gia thì trong tăng đoàn của Phật có thêm chúng Sa-di. Từ đó, tăng đoàn của Phật có hai chúng xuất gia: Tì-kheo và Sa-di. Đến khi thái hậu Ma Ha Ba Xà Ba Đề cùng nhiều công nương thành Ca-tì-la-vệ được Phật cho phép xuất gia thì tăng đoàn của Phật xuất hiện thêm một chúng nữa, là chúng Tì-kheo-ni. Chấp nhận hành trì “bát kính pháp” là điều kiện tiên quyết để Phật cho phép phái nữ xuất gia. Ngay trong “bát kính pháp” này, từ “thức-xoa-ma-na” (hai năm tập sự trước khi được chính thức thọ giới tì kheo ni) đã được đề cập; cho nên chúng Thức-xoa-ma-na cũng đã có từ lúc chúng Tì-kheo-ni được thành lập. Chúng tôi chưa tra cứu được để biết vị sa-di-ni đầu tiên là ai và có vào lúc nào, nhưng rõ ràng là tăng đoàn thời Phật đã gồm có năm chúng xuất gia: Tì-kheo, Tì-kheo-ni, Sa-di, Thức-xoa-ma-na và Sa-di-ni. Giới luật tì kheo chắc chắn là đã được đức Phật chế ra về sau, khi tăng đoàn đã trở nên quá đông đảo và có xen lẫn những phần tử mất phẩm hạnh. – Theo Luật Tì Kheo Giới Bổn Sớ Nghĩa (Tì Kheo Thích Đỗng Minh dịch, in năm 1996), mãi đến năm thứ 13 sau ngày thành đạo, đức Phật mới chính thức chế giới luật; trước đó Ngài và chư tăng chỉ lược nói đến giới luật mà thôi. Điều đó cho thấy, trước khi giới luật được chính thức chế định, không nhất thiết phải thọ giới cụ túc mới được gọi là “tăng”. Sau nữa, khoảng một trăm năm trước sau kỉ nguyên Tây lịch, ý niệm và danh từ “bồ-tát” được xuất hiện; trước tiên là phát xuất từ các đoàn Phật tử cư sĩ, và sau đó được các vị xuất gia ủng hộ. Từ đó mà các kinh điển đại thừa dần dần được kết tập và hình thành. Dĩ nhiên, sự kiện này đã làm cho tăng đoàn Phật giáo có thêm hai chúng mới: chúng Bồ-tát xuất gia và chúng Bồ-tát tại gia. Ngày nay, theo định nghĩa của danh từ “tăng” như trên, chúng ta thấy, TĂNG không phải chỉ có bấy nhiêu chúng như vừa nêu, mà còn có cả chúng Cư-sĩ tại gia nam và nữ, dù mới chỉ thọ trì năm giới. Vậy, nếu kể đầy đủ, TĂNG ĐOÀN PHẬT GIÁO gồm có chín chúng sau đây: Bồ-tát xuất-gia, Tì-kheo, Tì-kheo-ni, Sa-di, Thức-xoa-ma-na (ni), Sa-di-ni, Bồ-tát tại-gia, Cận-sự-nam và Cận-sự-nữ. Theo ý nghĩa này, tất cả các chúng đều bao gồm trong TĂNG BẢO. Và “qui y Tăng Bảo” có nghĩa là: nếu chưa là Phật tử thì xin quay về nương tựa chư tăng để trở thành Phật tử; nếu đã là Phật tử thì vừa quay về nương tựa nơi tăng chúng, vừa quay về nương tựa nơi chính mình.
Tăng 2 (các thuật ngữ liên hệ). “Tăng” là tiếng nói tắt của từ “tăng-già”; ý nghĩa chủ yếu của nó là số đông (chúng) và hòa hợp; vì vậy mới có các danh từ “hòa hợp chúng”, “hòa hợp tăng”, hoặc “hải chúng” (tăng chúng hòa hợp như nước biển chỉ có một vị mặn). Đầu mối của “Tăng” bắt nguồn từ năm vị tì-kheo nhóm Kiều Trần Như, được đức Phật hóa độ trong lần chuyển pháp luân đầu tiên tại vườn Lộc-dã sau ngày Ngài thành đạo. Vậy, TĂNG là một trong Ba Viên Ngọc Quí (Phật, Pháp, Tăng), chỉ cho những người tin nhận và phụng hành giáo pháp của đức Phật, cạo tóc, xuất gia, tu tập đầy đủ giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến, nhằm đạt được một đời sống giải thoát, chứng nhập các quả vị thánh trong Phật pháp. “Tăng” cũng chỉ rộng cho tất cả các đoàn thể (chúng) tin nhận Phật pháp, tu hành theo con đường giác ngộ của Phật. Như vậy, theo ý nghĩa nguyên thỉ, danh xưng “tăng” dùng để chỉ chung cho tì-kheo và tì-kheo-ni; nhưng về sau, trong truyền thống Phật giáo Bắc-truyền ở các nước như Trung-quốc, Việt-nam, Nhật-bản v.v..., tì kheo thì gọi là “TĂNG” (nếu kể luôn sa-di thì tì-kheo gọi là “ĐẠI TĂNG”, sa-di gọi là “TIỂU TĂNG”); còn tì-kheo-ni thì gọi là “NI” (nếu kể luôn thức-xoa-ma-na và sa-di-ni thì tì-kheo-ni gọi là “ĐẠI NI”, thức-xoa-ma-na và sa-di-ni thì gọi là “TIỂU NI”); – hợp tăng và ni lại, gọi chung là “TĂNG NI”. Ngoài ra, trong Phật điển cũng có nhiều danh từ liên quan đến “tăng”: Danh từ “nhị chúng” (hay “nhị bộ chúng”) dùng để chỉ cho hai chúng tì-kheo và tì-kheo-ni. Danh từ “tứ chúng” dùng để chỉ cho bốn chúng tì-kheo, tì-kheo-ni, sa-di, và sa-di-ni – trường hợp này, chúng thức-xoa-ma-na không được kể như một chúng chính thức, nhưng được gộp chung vào chúng sa-di-ni. Danh từ “thất chúng” dùng để chỉ cho bảy chúng tì-kheo, tì-kheo-ni, thức-xoa-ma-na, sa-di, sa-di-ni, ưu-bà-tắc, và ưu-bà-di. Danh từ “cửu chúng” dùng để chỉ cho bảy chúng trên, cộng thêm hai chúng: cận-trụ-nam (nam cư sĩ tu bát quan trai giới 24 giờ đồng hồ) và cận-trụ-nữ (nữ cư sĩ tu bát quan trai giới 24 giờ đồng hồ) – nhưng có lẽ hợp lí hơn, theo chúng tôi, hai chúng cận-trụ-nam và cận-trụ-nữ cũng chỉ là cư sĩ nam và cư sĩ nữ; vì vậy, nếu cần thành lập chín chúng, nên thay hai chúng cận-trụ-nam và cận-trụ-nữ bằng hai chúng bồ-tát xuất gia và bồ-tát tại gia.– Danh từ “tứ phương tăng” dùng để chỉ cho tất cả các vị tì-kheo và tì-kheo-ni ở khắp bốn phương. Chư tì-kheo và tì-kheo-ni thường trụ trong giáo đoàn thì gọi là “hiện tiền tăng”. Hiện tiền tăng thì phải gồm bốn vị trở lên mới được phép cử hành các pháp yết ma. Theo luật định, khi hiện tiền tăng tập hợp đủ số bốn vị, thì được cử hành tất cả các pháp yết ma như pháp, ngoại trừ ba việc: tự tứ, thọ đại giới và xuất tội; nếu tập hợp đủ số năm vị thì được cử hành tất cả các pháp yết ma như pháp, ngoại trừ hai việc: thọ đại giới và xuất tội; nếu tập hợp đủ số hai mươi vị thì được cử hành tất cả các pháp yết ma như pháp. TĂNG, trong ý nghĩa “hòa hợp về lí” (tức phụng hành Phật pháp, lấy đạo quả niết bàn tịch tịnh làm mục đích tu tập), thì chỉ một vị cũng xưng được là “tăng”; trong ý nghĩa “hòa hợp về sự” (tức thực hành nếp sống lục hòa), thì phải có tối thiểu là ba vị ở chung một chỗ mới xưng được là “tăng”; trên phương diện hành sự (tác pháp yết ma), thì phải tập hợp tối thiểu là bốn vị, mới xưng được là “tăng”.
Tăng Duệ (?-?): một vị cao tăng Trung-quốc đời Đông-Tấn (317-420), quê ở huyện An-dương, tỉnh Hà-nam, năm sinh và năm mất đều không rõ. Từ thuở nhỏ ngài đã có chí xuất trần, 18 tuổi xuất gia, đến 20 tuổi đã học thông kinh luận. Ngài từng nghe đại sư Tăng Lãng giảng Kinh Phóng Quang Bát Nhã, thường hỏi những chỗ nghi ngờ, rất được đại sư chú ý. Năm 24 tuổi ngài bắt đầu chu du các nơi để giảng thuyết, thính chúng đông đảo. Ngài vẫn ước ao tu tập thiền pháp, nhưng lúc đó chưa có ai truyền, cho nên năm 401, khi pháp sư Cưu Ma La Thập đến Trường-an (bấy giờ là kinh đô nước Hậu-Tần), ngài liền theo pháp sư học thiền. Pháp sư dịch bộ Thiền Pháp Yếu Giải, ngài y theo đó mà tu tập, ngày đêm chuyên cần, rất được vua Diêu Hưng của nhà Hậu-Tần kính ngưỡng. Ngài từng cùng với quí vị cao tăng khác như Đạo Sinh, Đạo Dung, Tăng Triệu tham dự đạo tràng dịch kinh của pháp sư La Thập; 4 vị này đã được người đương thời coi là 4 đệ tử lớn của pháp sư La Thập, và được xưng là 4 vị thánh tăng của đất Quan-trung (Quan-trung tứ thánh). Sau khi pháp sư La Thập dịch bộ Luận Thành Thật, chính ngài đã được ủy nhiệm giảng thuyết về bộ luận ấy, rất hợp với ý chỉ của pháp sư. Bình sinh ngài vẫn cầu nguyện được vãng sinh về Tịnh-độ. Trong mọi trường hợp đi đứng ngồi nằm, ngài không dám xoay lưng thẳng về phương Tây. Khi biết đã tới giờ phút lâm chung, ngài bèn cáo biệt cùng đồ chúng, rồi đi tắm rửa, vào phòng đốt hương lễ bái, ngồi nhìn về hướng Tây, chắp tay mà viên tịch; thế thọ 67 tuổi.
Tăng-già-lam: hay “già-lam” là tiếng gọi tắt của “tăng-già-lam-ma” (samgharama), dịch ra Hán ngữ là “chúng viên” hay “tòng lâm”, là tiếng thường dùng để chỉ cho chốn viên lâm, tự viện, tức nơi cư trú hành đạo của tăng chúng.
Tăng Khải (Samghavarman, âm dịch là Tăng Già Bạt Ma, ?-?): cũng gọi là Khương Tăng Khải, là vị cao tăng dịch kinh ở Trung-quốc vào thời Tam-quốc. Tương truyền ngài là người Ấn-độ, nhưng cứ theo chữ “KHƯƠNG” ở đầu tên ngài, thì nhiều học giả tin rằng ngài là người nước Khương-cư, hay ít ra, nguồn gốc của ngài cũng có quan hệ khắng khít với nước ấy. Năm 252 ngài đến Lạc-dương (kinh đô nước Tào-Ngụy), ở chùa Bạch-mã, dịch ra Hán văn các kinh Úc Già Trưởng Giả và Vô Lượng Thọ. Riêng về bộ Kinh Vô Lượng Thọ (gồm 2 quyển), vì ngữ văn không đồng nhất với Kinh Úc Già Trưởng Giả, cho nên có nhiều học giả ngờ rằng, đó không phải là dịch phẩm của ngài.
Tăng Mãnh (507-588). Ngài họ Đoàn, quê ở Kinh-dương (thuộc tỉnh Thiểm-tây), xuất gia từ thuở nhỏ, thông tuệ khác thường. Đời vua Văn đế nhà Tây-Ngụy (535-551), ngài được mời vào cung giảng Kinh Bát Nhã, cả triều đình đều kính ngưỡng đạo phong của ngài. Năm 557, nhà Bắc-Chu diệt nhà Tây-Ngụy. Dưới đời vua Minh đế (559-560) của triều đại này, ngài vẫn được vua mời thuyết pháp ở trong cung. Sang đời vua Vũ đế (561-578) thì lệnh phá hủy Phật giáo được ban hành. Ngài liền vào thẳng cung điện, cùng vua và đạo sĩ Trương Tân biện giải chánh tà, khuyên vua không nên phá hủy Phật giáo. Nhưng vì nhà vua đã quyết tâm tôn phụng Đạo giáo và tiêu diệt Phật giáo, nên đã không nghe theo lời khuyên giải ấy. Ngài bèn lánh về chốn dân dã sống mai danh ẩn tích. Năm 581, tể tướng Dương Kiên soán ngôi vua Bắc-Chu, tự xưng đế, sáng lập triều đại nhà Tùy (581-619), ban chiếu phục hưng Phật giáo. Liền đó vua Tùy Văn đế (tức Dương Kiên, tại vị 581-604) cho sứ giả đi tìm, thỉnh ngài về kinh đô trú trì chùa Đại-hưng-thiện, phong chức Tùy quốc đại thống tam tạng pháp sư, ủy thác trách nhiệm chấn hưng Phật giáo, danh tiếng lừng lẫy. Nhờ vậy mà Phật giáo đã hưng thịnh rực rỡ trong thời đại nhà Tùy. Ngài thị tịch năm 588, thế thọ 82 tuổi.
Tăng thượng: là một thuật ngữ Phật học, chỉ cho cái tác dụng thêm sức mạnh để giúp cho sự tiến triển, làm cho gia tăng, tiến thêm, lớn hơn, mạnh hơn, thậm chí làm cho quá độ. Những điều kiện giúp cho một hiện tượng (tức một pháp, như một vật, một việc thiện, một việc ác v.v...) phát sinh và tăng trưởng, gọi là “tăng thượng duyên”; sức tăng thượng ấy giúp cho một nhân đạt thành kết quả, gọi là “tăng thượng quả”. Tính kiêu mạn quá đáng gọi là “tăng thượng mạn”, như người học giáo lí, chưa hiểu tỏ tường mà tự khoe mình đã liễu ngộ, chưa chứng đắc mà tự xưng mình đã chứng quả này quả nọ, v.v... Do chuyên cần tu tập quán chiếu, dứt trừ phiền não vọng niệm mà đạt được tâm định, gọi là “tăng thượng tâm”.
Tăng Triệu (374-414): là vị cao tăng thời Đông-Tấn. Ngài họ Trương, quê ở Kinh-triệu (tỉnh Thiểm-tây), thiếu thời nhà nghèo, phải làm nghề chép sách mướn để sinh sống; nhưng cũng do làm nghề này mà được đọc nhiều, và trở thành người bác thông kinh sử. Tính thích lẽ huyền vi, nên ban đầu sùng bái tư tưởng Lão Trang, nhưng rồi vẫn cảm thấy đó không phải là chỗ cứu cánh. Sau gặp duyên đọc được Kinh Duy Ma Cật, bèn vui mừng tỉnh ngộ, biết đó mới là nơi qui hướng, bèn xuất gia học Phật. Ngài đọc khắp Ba Tạng, tinh chuyên các kinh phương đẳng đại thừa. Đến năm 20 tuổi thì danh tiếng ngài vang khắp bốn phương. Ngài suy tư uyên áo, lại có biệt tài biện luận, bao nhiêu bậc túc Nho cùng ngài tranh biện đều bị bẻ gẫy. Khi nghe có pháp sư Cưu Ma La Thập đang ở Cô-tàng (kinh đô nhà Hậu-Lương, Lương-châu, tỉnh Cam-túc), ngài liền sang đó xin theo học, được pháp sư La Thập khen ngợi là bậc kì tài.
Khi Diêu Hưng (vua nhà Hậu-Tần) đánh Hậu-Lương, rước pháp sư La Thập về Trường-an (năm 401), ngài cũng theo về. Tại đây, ngài vâng mệnh vua, cùng với ngài Tăng Duệ (?-?) cư trú tại vườn Tiêu-diêu, vừa biên soạn luận sớ, vừa phụ giúp pháp sư La Thập trong việc dịch kinh, được người đời xưng là bậc “giải không đệ nhất”. Khi pháp sư La Thập dịch bộ Kinh Đại Phẩm Bát Nhã (năm 404), ngài soạn bộ Bát Nhã Vô Tri Luận, được ngài La Thập và cả đại sư Tuệ Viễn duyệt đọc và khen ngợi, cho là chưa từng có. Tiếp đó ngài lại soạn các cuốn Tông Bản Nghĩa, Bất Chân Không Luận, Vật Bất Thiên Luận, Niết Bàn Vô Danh Luận, v.v... cùng chú thích Kinh Duy Ma Cật. Ngài tịch năm 416, thế thọ 41 tuổi. Người sau đã đem cuốn Tông Bản Nghĩa và bốn cuốn luận Bát Nhã Vô Tri, Bất Chân Không, Vật Bất Thiên, và Niết Bàn Vô Danh của ngài, gộp lại thành một bộ lớn, gọi là Triệu Luận.
Về năm sinh của ngài Tăng Triệu, các sách truyện như Cao Tăng Truyện v.v... đều nói đó là năm thứ 9 niên hiệu Thái-nguyên (376-396), tức năm 384 TL. Như thế thì tuổi thọ của ngài chỉ có 31 tuổi. Sách Cao Tăng Truyện có nói: “Hậu La Thập chí Cô-tàng, Triệu tự viễn tùng chi.” (Về sau, khi ngài La Thập đến Cô-tàng thì Tăng Triệu từ nơi xa xôi cũng đến đó xin được làm môn đệ.) Pháp sư La Thập đến Cô-tàng vào năm 386 (xem mục “Cưu Ma La Thập”). Nếu ngài Tăng Triệu sinh năm 384, thì đến năm 386, ngài mới lên 3 tuổi, làm sao mà đến Cô-tàng để theo học với pháp sư La Thập? Thậm chí, năm 401, pháp sư La Thập được rước vào Trường-an, ngài Tăng Triệu cũng chỉ mới lên 18 tuổi. Mà như trên đã cho biết, năm Tăng Triệu sang Cô-tàng thọ học với ngài La Thập, phải là sau 20 tuổi, cho nên nói ngài ra đời năm 384 là không hợp lí. Ngày nay có vài học giả suy định rằng, năm sinh của ngài Tăng Triệu là năm thứ 2 niên hiệu Ninh-khang (tức năm 374 TL) đời vua Vũ đế nhà Đông-Tấn. Chúng tôi thấy thuyết này rất hợp lí, nên đã chọn ghi niên đại của ngài Tăng Triệu là “374-414”.
Lại nữa, có sách ghi rằng, ngài Tăng Triệu đã bị “họa chặt đầu”. Về việc này, trong các sử liệu như Cao Tăng Truyện, Xuất Tam Tạng Kí Tập, v.v... đều không thấy nói đến; chỉ thấy trong bộ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (quyển 27) có ghi vắn tắt như vầy: “Pháp sư Tăng Triệu gặp phải nạn vua Tần. Trước phút thọ hình có nói bài kệ: Bốn đại nguyên không chủ, năm uẩn vốn đều không, đưa đầu cho dao chém, như chém ngọn gió xuân.”
Tăng Xán (?-606): là vị tổ đời thứ ba của Thiền tông Trung-quốc, sống vào thời đại nhà Tùy, không rõ quê quán ở đâu. Từ trước khi xuất gia, ngài đã bị bệnh phong, chữa trị không khỏi, đầu rụng sạch tóc, cho nên người địa phương đã gọi ngài là Xích Đầu Xán (Xán đầu hói). Khi còn mang thân cư sĩ, ngài đã đến xin tham yết Nhị Tổ Tuệ Khả, đắc pháp, được truyền y bát; bấy giờ đã hơn 40 tuổi – sử liệu không ghi rõ ngài xuất gia năm nào. Vào triều đại Bắc-Chu (559-581), khi vua Vũ đế diệt Phật, ngài phải ở ẩn lánh nạn tại núi Hoãn-công (tỉnh An-huy), người đời không ai biết. Đến đời nhà Tùy (581-619), Phật giáo được phục hưng, ngài mới mở đạo tràng độ chúng. Năm 592 (đời vua Tùy Văn đế), ngài Đạo Tín đến xin qui y, bấy giờ mới 13 tuổi; sau 9 năm dạy dỗ, thấy cơ trí đã xứng hợp, ngài bèn truyền tâm ấn cho ngài Đạo Tín. Vào năm 606 (đời vua Tùy Dạng đế), một hôm, khi thấy nhân duyên đã thuần thục, ngài đứng trước tịnh thất, chắp tay trước ngực mà viên tịch.
Tâm. Tự thân mỗi một chúng sinh, rõ ràng nhất là con người, gồm có hai phần chính: phần tinh thần và phần thể xác. Phần thể xác tức là phần sinh lí, được gọi là “thân”, hoàn toàn do vật chất cấu thành; phần tinh thần tức là phần tâm lí, được gọi là “tâm”, có tác dụng nhận biết, suy nghĩ, phân biệt, xét đoán, mong muốn, v.v... Theo thuật ngữ Phật học, trong “năm uẩn” tập hợp cấu tạo nên con người, thì phần thân thuộc uẩn sắc; còn phần tâm gồm bốn uẩn thọ, tưởng, hành và thức.
Tâm có 8 tác dụng (thuật ngữ Phật học gọi là tám thức), gồm: tác dụng chứa giữ (a-lại-da thức), tác dụng tư duy, lường đoán (mạt-na thức), tác dụng phân biệt rõ ràng (ý thức), tác dụng chạm biết (thân thức), tác dụng nếm biết (thiệt thức), tác dụng ngửi biết (tị thức), tác dụng nghe biết (nhĩ thức), và tác dụng thấy biết (nhãn thức). Với 8 tác dụng ấy, tâm luôn luôn chủ động trong mọi tư tưởng và nhận thức, cho nên 8 thức cũng được gọi chung là “tâm vương”. Khi tâm vương khởi tác dụng thì luôn luôn có các tác dụng phụ thuộc của nó khởi theo, như mừng, giận, ham muốn, hối hận, lo buồn, v.v...; thuật ngữ Phật học gọi các tác dụng phụ thuộc (của tâm vương) này là “tâm sở”.
Lại nữa, trong các kinh luận Phật giáo, phần tinh thần của con người đôi khi cũng được phân làm 3 phần với 3 tác dụng khác nhau, là: tâm, ý và thức. Tâm là chỉ cho thức a-lại-da, là bản thể của vạn pháp, có tác dụng chứa đựng tất cả chủng tử của vạn pháp, và phát sinh ra vạn pháp. Ý là chỉ cho thức mạt-na, có tác dụng suy nghĩ, tính toán, xét đoán. Thức là chỉ cho cả 6 thức trước (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, và ý thức), có tác dụng phân biệt, nhận biết rõ ràng mọi cảnh vật.
Phật giáo chủ trương TÂM và VẬT cùng tồn tại, cùng liên quan mật thiết và cùng làm thành nhau; có tâm là có vật, không có một thứ thì cả hai đều không có, không có thứ nào tồn tại độc lập. Bởi vậy, không thể bảo Phật giáo là “duy tâm” hay “duy vật”; chỉ có điều, khi nói về tác dụng thực tiễn trong đời sống, thì Phật giáo luôn luôn nhấn mạnh tác dụng của TÂM là chủ động đối với vật, TÂM là chủ thể, cho nên Phật giáo mới bị coi là một thứ “duy tâm luận”.
Tâm ấn. “Tâm” là tâm Phật, “ấn” là ấn khả, hoặc ấn định. Thiền tông không lập văn tự, không y ngôn ngữ, chỉ lấy tâm truyền tâm, lấy tâm Phật ấn định tâm chúng sinh, thể nhập tướng không hai, cho nên gọi là “tâm ấn”.
Tâm địa. Thuật ngữ này có 3 ý nghĩa:
1) Tâm địa tức là GIỚI, đó là từ được dùng trong Kinh Phạm Võng. Giới lấy Tâm làm gốc, giống như thế gian lấy đại địa làm chỗ nương tựa căn bản; cho nên giới được gọi là “tâm địa”.
2) Hàng Bồ-tát căn cứ nơi Tâm mà tu hành, giống như mọi cây cỏ đều mọc lên từ đất, nhân loại và động vật đều sống trên đất; cho nên 50 giai vị tu hành của Bồ-tát (gồm trong 5 cấp Thập-tín, Thập-trụ, Thập-hạnh, Thập-hồi-hướng và Thập-địa) được gọi là “tâm địa”.
3) Thiền tông Trung-quốc gọi đạo bồ đề do tổ Đạt Ma truyền dạy là TÂM ĐỊA.
Tâm hành: là chỉ cho tất cả những trạng thái, hoạt động, tác dụng, cùng những biến chuyển, chí hướng, ước nguyện, quyết chí của tâm.
Tâm pháp: tức là các pháp thuộc về TÂM. Vạn pháp trong vũ trụ được chia làm 5 nhóm, nói theo thuật ngữ Duy Thức Học là: tâm pháp (tâm ý), tâm sở hữu pháp (thuộc tính của tâm, tức các hiện tượng tâm lí), sắc pháp (vật chất), tâm bất tương ưng hành pháp (không thuộc tâm pháp cũng không thuộc sắc pháp), và vô vi pháp (không do duyên sinh, không có sinh diệt). Tâm pháp cũng gọi là “tâm vương”. Vạn pháp trong 5 nhóm trên được bộ Luận Câu Xá (tiểu thừa) chia ra làm 75 loại, trong đó, tâm pháp chỉ gồm có 1 pháp, tức là ý thức tâm vương; trong khi đó, Luận Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn thì chia ra làm 100 loại, trong đó, tâm pháp (tức tâm vương) gồm có 8 pháp, tức 8 thức (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý, mạt-na, và a-lại-da). Nếu phân loại vạn pháp một cách tổng quát thì có hai nhóm đối lập nhau: tâm pháp và sắc pháp; trong trường hợp này, tâm vương và tâm sở đều thuộc về tâm pháp.
Tâm sở: nói cho đủ là tâm sở hữu pháp. “Tâm sở” là thuộc tính của Tâm vương – mà triết học Tây phương gọi là những hiện tượng tâm lí. Nói rõ hơn, tâm sở là những tác dụng tinh thần vô cùng phức tạp của tâm, như buồn, vui, giận, ghét, xấu hổ, tin tưởng, v.v... Do sự quan hệ giữa vật và tâm mà khởi lên tác dụng của tâm, đó là tâm sở. Bởi vậy, mối quan hệ tương ưng giữa tâm và tâm sở luôn luôn đồng nhất, mà thuật ngữ Phật học gọi là “bình đẳng”. Theo sự phân tích của Hữu Bộ thì mối quan hệ tương ưng ấy có năm nghĩa bình đẳng:
1) Chỗ y cứ bình đẳng (sở y bình đẳng): Tâm vương và tâm sở cùng có một nơi y cứ đồng nhất, ví dụ, khi tâm vương y cứ nơi nhãn căn thì tâm sở cũng y cứ nơi nhãn căn;
2) Cảnh duyên bình đẳng (sở duyên bình đẳng): Tâm vương và tâm sở cùng duyên một đối tượng đồng nhất, ví dụ, khi tâm vương duyên một bông hoa thì tâm sở cũng duyên cùng bông hoa đó;
3) Hành tướng bình đẳng: Hình thái của đối tượng hiển hiện trong tâm và tâm sở đều đồng nhất;
4) Thời gian bình đẳng (thời bình đẳng): Tâm vương và tâm sở luôn luôn khởi tác dụng cùng một lúc;
5) Sự bình đẳng: Khi tâm vương và tâm sở khởi tác dụng thì chỉ có một tâm vương cùng một tâm sở đồng chủng loại khởi tác dụng; không có hai tâm vương hoặc hai tâm sở trở lên phát khởi đồng thời. – Tông Duy Thức (tức Pháp Tướng) chỉ nói tới bốn nghĩa bình đẳng là chỗ y cứ, cảnh duyên, thời gian, và sự việc; không nói tới hành tướng.
Lại nữa, tâm sở hữu pháp cũng còn được gọi là “tâm tương ưng hành pháp”. Vì tâm vương và tâm sở khởi tác dụng cùng lúc, cho nên nói là “tương ưng”; và vì tâm vương và tâm sở đều là pháp hữu vi, cho nên nói là “hành”.
Về số lượng và phân loại tâm sở, Hữu Bộ phân tích có cả thảy 46 loại tâm sở (như tham lam, xấu hổ, lười biếng, v.v...), bao gồm trong sáu nhóm:
1) Đại địa pháp (10 tâm sở);
2) Đại thiện địa pháp (10 tâm sở);
3) Đại phiền não địa pháp (6 tâm sở);
4) Đại bất thiện địa pháp (2 tâm sở);
5) Tiểu phiền não địa pháp (10 tâm sở);
6) Bất định địa pháp (8 tâm sở).
Trong khi đó, tông Pháp Tướng lại phân tích có tất cả 51 loại tâm sở, cũng bao gồm trong sáu nhóm:
1) Biến hành (5 tâm sở);
2) Biệt cảnh (5 tâm sở);
3) Thiện (11 tâm sở);
4) Căn bản phiền não (6 tâm sở);
5) Tùy phiền não (20 tâm sở);
6) Bất định (4 tâm sở).
Tâm vô trụ. Dù ở hoàn cảnh nào, dù đứng trước đối tượng nào, tâm vẫn không chấp trước vào bất cứ một thứ gì. Tâm không chấp trước vào đối cảnh thì không bị ràng buộc, không bị biến đổi, sinh diệt; trái lại, sẽ được tự tại, giải thoát, thể ngộ được chân lí như thật của thực tại vạn hữu. Kinh Kim Cang có câu: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm”. Lục Tổ Tuệ Năng nhờ nghe được câu kinh này nơi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn mà tâm trí triệt ngộ, được truyền y bát để đi về phương Nam hành đạo.
Tầm tư. Tầm và tư (cũng gọi là tầm và từ, tương đương với giác và quán) là hai tâm sở bất định (có thể là thiện, có thể là ác, không nhất định). Ở đây, chúng là hai pháp tu tập của hành giả Bồ-tát ở hai bậc Noãn và Đảnh, cho nên chúng là hai tâm sở thiện. “Tầm” là suy nghĩ, tìm hiểu sự lí một cách sơ lược; có thể nói, đó là bước đầu ý thức chú ý đến đối tượng và biết được cái bề ngoài của đối tượng đó, như ta chú ý đến cái hoa và đến đứng nhìn cái hoa, biết hoa tên gì, màu gì. “Tư” là suy nghĩ, tìm hiểu sự lí một cách kĩ càng, sâu sắc, là đi vào từng chi tiết của nội dung đối tượng; như khi đã nhìn cái hoa, ta lại đặt ra các câu hỏi: Hoa này do đâu mà có; cái gì nuôi sống nó; nó liên quan đến vũ trụ như thế nào; có phải là vật trường cửu không; ý nghĩa sinh diệt của nó thế nào; v.v..., và ta tìm những câu trả lời.
Tấm lưới ngọc của Trời Đế Thích (Đế võng). Trời Đế Thích treo tấm lưới toàn bằng ngọc báu để trang sức cung điện, ánh sáng của các hạt ngọc chiếu rọi lẫn nhau, một hạt ngọc chiếu hiện tất cả hạt ngọc, tất cả hạt ngọc hiện hết trong một hạt ngọc; mỗi một hạt ngọc đều như vậy, ảnh hiện trùng trùng vô tận.
Tập khí: tức là tập quán. Tông Pháp Tướng đem các vọng hoặc của chúng sinh phân ra làm ba loại: chủng tử, hiện hành và tập khí. Tuy rằng, khi đoạn được chủng tử của hoặc thì cũng đoạn được hiện hành của hoặc, nhưng tướng của hoặc vẫn còn hiện ra do những thấm nhiễm của hoặc; đó là hơi hướng của hiện hành từng huân tập lâu đời mà thành, gọi là tập khí. Nói rộng ra, những tư tưởng và hành vi của chúng ta (thường là xấu, những phiền não) luôn luôn sinh khởi, rồi huân tập vào tâm tính thành những thói quen; hoặc những tập nhiễm do sự sống gần gũi với cha mẹ, anh chị em, bà con, bạn bè, hàng xóm, xã hội, đất nước, v.v... từ lúc tấm bé; hoặc những thói tật từ bao đời trước còn ảnh hưởng lại; tất cả những thứ đó đã hun đúc, ăn sâu dần vào tâm tính chúng ta, trở thành như những thói tật tự nhiên, khiến ta có những cử chỉ vụng về không cố ý, nhưng rất khó kềm chế, khó dứt bỏ, gọi là “tập khí”. Bậc A-la-hán đoạn trừ hoàn toàn các thứ phiền não, nhưng tập khí vẫn còn. Như trong Luận Đại Trí Độ ghi chép, dù đã chứng quả A-la-hán, tôn giả Xá Lợi Phất vẫn còn tập khí sân hận; tôn giả Nan Đà vẫn còn tập khí dâm dục; nhiều vị khác còn có những tập khí khác. Chỉ có Phật mới dứt trừ trọn vẹn các tập khí.
Tất-địa. Theo Mật giáo, do ba mật tương ưng mà thành tựu diệu quả, tiếng Phạn gọi đó là “tất-địa”. Vậy, “tất-địa” có nghĩa là thành tựu.
Tây-Ngụy (535-556): là một triều đại ở Bắc-triều, từ nước Bắc-Ngụy tách ra. Năm 534, vua Hiếu-vũ đế (532-534) của nhà Bắc-Ngụy bị thừa tướng Cao Hoan (496-574) bức hiếp, phải bỏ Lạc-dương chạy trốn về Trường-an, sống dựa vào đại đô đốc Vũ-văn Thái (507-556). Năm 535, Hiếu-vũ đế lập triều đình mới, gọi là Tây-Ngụy, phong Vũ-văn Thái làm thừa tướng, đóng đô tại Trường-an. Nhưng liền sau đó, Thái đã giết Hiếu-vũ đế, đưa Nguyên Bảo Cự lên ngôi, tức vua Văn đế (535-551). Năm 557, con của Vũ-văn Thái là Vũ-văn Giác phế bỏ vua cuối cùng của Tây-Ngụy là Cung đế (554-556), tự lên ngôi đế, kiến lập vương triều Bắc-Chu.
Tây-Tấn (265-316). Tây-Tấn là thời đại kế tiếp thời đại Tam-quốc trong lịch sử nước Trung-hoa. Vào cuối thời Đông-Hán (25-220), những người trong dòng họ Tư-mã đã giúp cho Tào Phi (178-226) soán ngôi vua Hán Hiến đế (189-220), diệt nhà Hán, tự xưng đế (tức Ngụy Văn đế), lập nên nhà Ngụy. Văn đế chết, Minh đế (227-239) nối ngôi, một người trong họ Tư-mã là Tư-mã Ý (178-251) liền nắm hết quyền hành, tự phong mình làm thừa tướng nước Ngụy. Năm 265, cháu của Tư-mã Ý là Tư-mã Viêm (236-290) đã phế bỏ vua cuối của nhà Ngụy là Nguyên đế (260-265), tự xưng đế, sáng lập vương triều Tấn, đóng đô ở thành Lạc-dương (là kinh đô cũ của nhà Ngụy). 15 năm sau (năm 280), Tư-mã Viêm lại diệt luôn nhà Đông-Ngô, thống nhất Trung-quốc. Sử gọi đây là nhà Tây-Tấn (vì kinh đô Lạc-dương của nhà Tây-Tấn nằm về phía Tây-Bắc của kinh đô Kiến-khang của nhà Đông-Tấn sau này). Vương triều Tây-Tấn truyền nối được 4 đời vua, kéo dài 52 năm.
Tây-thiên. Chữ “thiên” tức Thiên-trúc, là nước Ấn-độ. Phật giáo từ Ấn-độ truyền sang Trung-quốc, đối với Trung-quốc thì Ấn-độ nằm ở phía Tây, nên người Trung-quốc đã gọi Ấn-độ là Tây-thiên, hay Tây-trúc. Ngược lại, đối với Ấn-độ thì Trung-quốc nằm ở phía Đông, nên người Trung-quốc tự gọi nước mình là Đông-độ.
Tây-vực. Tây-vực là khu vực gồm nhiều nước ở miền lục địa phía Tây Trung-quốc thời xưa. Thực ra thì không có một phạm vi nhất định nào để chỉ cho khu vực này; lại nữa, số lượng và danh xưng của các quốc gia trong khu vực này cũng thay đổi hoài theo thời gian. Trong các sách sử Phật giáo, Tây-vực thường được dùng để chỉ cho các nước trong khu vực nằm trên con đường bộ thông thương giữa Bắc Ấn-độ và Trung-quốc, từ thế kỉ thứ 3 tr. TL, khi Phật giáo Ấn-độ hưng thịnh và bắt đầu truyền bá ra khỏi biên thùy Ấn-độ. Các nước đó, từ Tây sang Đông gồm có: Ca-thấp-di-la (Kashmir), Kế-tân (Dardisthan), Bàng-già-phổ (Punjab), Kiền-đà-la (gồm Pakistan và miền Đông Nam A-phú-hãn ngày nay), Khương-cư (Sag-diane), An-tức (Iran), Đại Nhục-chi (Kusana), Vu-điền (Khotan), Sa-xa (Yarkan), Qui-tư (Kucina), Sớ-lặc (Kashgar), Cao-xương (Turfan). Khoảng năm 260 tr. TL (dưới triều đại vua A Dục), do sự sai phái của vua A Dục, các phái đoàn cao tăng Ấn-độ đã đem Phật giáo truyền vào các nước vùng Tây-vực này, cho nên Phật giáo ở đây sớm phát triển. Buổi đầu Phật giáo được truyền vào Trung-quốc, cũng do các vị cao tăng ở Tây-vực trước nhất; sau đó, từ thời Đông-Tấn, mới có chư tăng đến từ Ấn-độ.
Tế Tỉnh: tức đại sư Mộng Đông (xem mục “Mộng Đông”).
Thả cá phóng sinh, bệnh mụt nhọt được chữa lành (truyền thuyết Trung-quốc). Lí Cảnh Văn tin thuyết thần tiên, thường chưng nấu đơn sa để ăn. Ông tính nhân từ, thường đến các thuyền đánh cá để mua cá sống, rồi thả xuống nước. Vì ăn đơn sa lâu ngày, nhiệt tích tụ thành bệnh, nhọt độc mọc trên lưng, đau nhức vô cùng, đến nỗi hôn mê. Trong cơn mê, ông thấy như có một đàn cá nhổ nước miếng trên mụt nhọt. Tỉnh dậy, ông cảm thấy chỗ mụt nhọt trở nên mát mẻ, rồi khỏi bệnh.
Thạch Đầu Hi Thiên (700-790): cũng gọi là đại sư Vô Tế. Ngài họ Trần, quê huyện Cao-yếu, tỉnh Quảng-đông, bẩm sinh đã thông minh. Dân làng vì sợ quỉ thần, thường giết trâu nấu rượu cúng tế. Ngài thấy việc ấy rất là tệ hại, bèn phá hủy miếu thờ quỉ thần. Ngài kính lễ Lục-tổ Tuệ Năng và thiền sư Thanh Nguyên Hành Tư làm thầy, sau được Thanh Nguyên Hành Tư ấn khả. Năm 742 ngài vào núi Hành-sơn, kết am trên một tảng đá lớn, chuyên tu thiền quán, hiển dương tông phong, người đời xưng là Thạch Đầu hòa thượng. Thời bấy giờ, ở vùng Giang-tây thì ngài Mã Tổ được coi là chủ yếu, còn ở vùng Hồ-nam thì ngài Thạch Đầu được coi là chủ yếu; người học bốn phương đều qui tụ về hai đạo tràng của hai vị thiền sư này. Ngài tịch lúc được 91 tuổi đời.
Thai-tạng giới: gọi đủ là “Đại bi thai tạng sinh”, là một trong hai bộ căn bản của Mật giáo. Từ “thai tạng” hàm ý chứa đựng, nhiếp giữ, bao che, bảo hộ. Hành giả bắt đầu phát tâm, như chủng tử của thức, được mẫu thai chứa giữ, bảo hộ, cho đến khi các căn đầy đủ thì sinh ra đời; rồi trưởng thành, học các thứ kĩ năng, sau đó sẽ xây dựng sự nghiệp; cũng như y vào lí tính vốn sẵn có nơi chúng sinh mà học muôn hạnh đại bi, hiển bày tịnh tâm, phát khởi phương tiện, tự lợi lợi tha, rốt ráo viên mãn, gọi đó là “đại bi thai tạng sinh”. Bởi vậy, “thai tạng” là chỉ cho lí tính vốn có nơi chúng sinh, và pháp môn bình đẳng của lí tính gọi là “Thai-tạng giới”; đối lại, pháp môn sai biệt của trí tuệ thì gọi là “Kim-cương giới”.
Tham (參). Chữ “tham” nghĩa là dự vào, nghiên cứu, tìm cầu học hỏi. Học trò xin yết kiến thầy để hỏi đạo, gọi là “tham yết” hay “tham vấn”; thực tập thiền quán gọi là “tham thiền”. Trong thiền môn, khi đại chúng vân tập để nghe sư trụ trì khai thị, thuyết giáo, cũng gọi là “tham” – vào buổi sáng thì gọi là “tảo tham”; vào buổi xế chiều gọi là “vãn tham”; tọa thiền trước thời khóa tụng gọi là “tọa tham”; lên giảng đường theo định kì gọi là “đại tham”; lên giảng đường vào lúc bất thường gọi là “tiểu tham” v.v...
Tham dịch: cũng gọi là “Chứng Phạn ngữ”, là một trong chín vị pháp sư thuộc hội đồng phiên dịch ở Trung-quốc thời xưa (xem mục “Dịch Kinh”), giữ nhiệm vụ đối chiếu giữa Phạn văn và Hán văn, coi chỗ nào đúng, chỗ nào sai.
Tham thoại đầu. Chữ “tham” hay chữ “khán” là một thuật ngữ Thiền học, có nghĩa là chỉ nhìn đối tượng một cách chăm chú mà không phát ra tiếng nói. Đối tượng nổi hiện thường trực trên ý thức, và hành giả dùng trí tuệ để chiếu soi nó, cho tới khi thấy được chân tướng của nó tức là được khai ngộ. “Thoại đầu” cũng là một thuật ngữ Thiền học, chỉ cho một câu nói được dùng làm đề tài tham cứu cho hành giả trong lúc thực tập thiền quán. Những lời dạy của Phật trong kinh điển, những lời huấn thị của các vị tổ sư ngộ đạo, những lời đối đáp giữa các vị thiền sư, đều là những pháp tắc, mô phạm mà các hành giả trong thiền môn phải lấy đó để chiêm nghiệm, tu tập, nhờ đó mà được khai ngộ. “Khán thoại đầu” (hay tham thoại đầu) tức là dùng trí tuệ để chiêm nghiệm, quán chiếu một lời dạy của Phật, một câu nói của bậc tổ sư ngộ đạo, cho đến khi toàn vẹn yếu nghĩa của nó bùng vỡ, đó là lúc hành giả được khai ngộ.
Tháng Vesaka (Vaisakha – Vesaka là chữ Pali): là tháng thứ hai của lịch Ấn-độ. Lịch Ấn-độ cũng tính theo tuần trăng, chia một năm làm 12 tháng, mỗi tháng có 29 hoặc 30 ngày. 12 tháng lần lượt có tên tiếng Phạn như sau: Caitra (tháng đầu), Vaisakha (tháng thứ hai), Jyaistha (tháng thứ ba), Asadha (tháng thứ tư), Sravana (tháng thứ năm), Bhadrapada (tháng thứ sáu), Asvayuja (tháng thứ bảy), Karttika (tháng thứ tám), Margasirsa (tháng thứ chín), Pausa (tháng thứ mười), Magha (tháng thứ mười một), Phalguna (tháng thứ mười hai). Về thời tiết thì có ba mùa: mùa Nóng (Grisma), tương đương với mùa Xuân, gồm bốn tháng, bắt đầu từ ngày 16 tháng Caitra đến ngày 15 tháng Sravana; mùa Mưa (Varsakala), tương đương với mùa Hạ, gồm bốn tháng, bắt đầu từ ngày 16 tháng Sravana đến ngày 15 tháng Margasirsa; và mùa Lạnh (Hemanta), tương đương với mùa Đông, gồm bốn tháng, bắt đầu từ ngày 16 tháng Margasirsa đến ngày 15 tháng Caitra.
Thanh Biện (Bhavaviveka): là vị đại luận sư của học phái Trung Quán thuộc Phật giáo đại thừa ở Nam Ấn-độ vào đầu thế kỉ thứ 6 TL. Có thuyết nói ngài xuất thân từ vương tộc của nước Mạt-lị-da-na (Malyara) ở Nam-Ấn; có thuyết lại nói ngài thuộc chủng tánh quí tộc của nước Ma-kiệt-đà ở Trung- Ấn. Ban đầu ngài học theo ngoại đạo, đặc biệt nghiên cứu về học thuyết phái Số Luận. Sau ngài bỏ ngoại đạo, theo Phật giáo, đến Trung-Ấn thờ ngài Tăng Hộ (Samgharaksita) làm thầy, tinh cần tu học kinh điển đại thừa, đặc biệt chuyên tâm nghiên cứu giáo nghĩa của hai vị Bồ Tát Long Thọ và Đề Bà. Sau đó ngài trở về Nam-Ấn, lấy nước Đà-na-yết-trách-ca (Dhanakataka) làm trung tâm hành đạo. Tại đây, ngài chuyên tuyên dương giáo nghĩa Thực Tướng luận (cũng tức là Không tông) của Bồ Tát Long Thọ, và bài xích Duyên Khởi luận (cũng tức là Hữu tông) của đại luận sư Hộ Pháp (Dharmapala) ở nước Ma-kiệt-đà; tạo nên phong trào “Tranh luận giữa Không và Hữu” (Không Hữu tranh luận). Cuối đời, ngài vào ẩn cư trong một hang núi ở phía Nam nước này, chuyên trì chân ngôn cho đến khi viên tịch. Truớc tác quan trọng của ngài có Đại Thừa Chưởng Trân Luận (thuyết minh giáo nghĩa “hữu vi không, vô vi không”), Bát Nhã Đăng Luận Thích (giải thích Trung Luận của ngài Long Thọ), và Trung Quán Tâm Luận Tụng (được truyền sang Tây-tạng).
Thanh giáo. Giáo pháp được Phật và các vị Bồ-tát nói ra thành lời, có âm thanh cho người nghe mà tu tập, gọi là “thanh giáo”. Thanh là một trong sáu cảnh, và là đối tượng của nhĩ căn. Tùy theo nhiều loại người hay chúng sinh khác nhau, thích dùng phương tiện gì để dễ tu tập, thì Phật dùng phương tiện đó để chỉ bày giáo pháp. Những phương tiện đó có thể là hình sắc (sắc cảnh – đối tượng của mắt), âm thanh (thanh cảnh – đối tượng của tai), mùi hương (hương cảnh – đối tượng của mũi), v.v... Vì vậy mà Phật có thể dùng cả sáu cảnh để làm phương tiện giáo hóa chúng sinh (lục trần thuyết pháp).
Thanh Lương (738-839): tức Trừng Quán, một vị danh tăng đời Đường, Trung-quốc. Ngài quê huyện Thiệu-hưng, tỉnh Triết-giang, họ Hạ-hầu, tự Đại Hưu, hiệu Thanh Lương. Năm 11 tuổi, ngài xin xuất gia với thiền sư Bái ở chùa Bảo-lâm; đến 14 tuổi được thế độ. Từ năm 758 (20 tuổi) trở đi, ngài theo học Luật với luật sư Lễ ở chùa Thê-hà, và luật sư Đàm Nhất ở Nhuận-châu; rồi lại theo học Tam Luận với ngài Huyền Bích ở Kim-lăng. Sau đó ngài lại đi các nơi để tham học về Luận Đại Thừa Khởi Tín, Tam Luận, Kinh Niết Bàn, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Duy Ma, thiền pháp Nam-tông, thiền pháp Bắc-tông, v.v... Ngoài ra, ngài còn nghiên cứu các kinh điển Phệ Đà, ngũ minh của Ấn-độ, và cả các bộ Kinh, Sử, Tử, Truyện của Trung-hoa. Năm 776, ngài chu du các núi Ngũ-đài, Nga-mi; rồi về trú tại chùa Đại-hoa-nghiêm ở núi Ngũ-đài, chuyên tu Phương Đẳng Sám Pháp. Tại đây, ngài thường giảng dạy về tông chỉ của Kinh Hoa Nghiêm, tiếng tăm lừng lẫy, vang động đến tận triều đình, được vua Đường Đức-tông (780-805) thỉnh về Trường-an dịch kinh. Nhân ngày sinh nhật của vua, ngài được triệu vào cung giảng về tông chỉ Kinh Hoa Nghiêm. Nhà vua nhờ đó mà tỏ ngộ, bèn ban tặng cho ngài danh hiệu Thanh Lương quốc sư. Các vua kế tiếp là Thuận-tông (805) và Hiến-tông (806-820), cũng đều nhờ ngài mà tỏ ngộ đạo lí, cho nên ngài đã được tôn lên tước vị tăng thống quốc sư. Ngài viên tịch năm 839, dưới triều vua Đường Văn-tông (827-840), thế thọ 102 tuổi. Ngài sống trải qua 9 đời vua (Đường Huyền-tông, Túc-tông, Đại-tông, Đức-tông, Thuận-tông, Hiến-tông, Mục-tông, Kính-tông, Văn-tông), trong số đó, tới 7 vị (từ vua Đại-tông đến vua Văn-tông) được ngài giáo hóa. Đệ tử đắc pháp của ngài có hơn trăm vị. Trước tác của ngài rất nhiều: Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh Sớ, Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao, Hoa Nghiêm Kinh Cương Yếu, Ngũ Uẩn Quán, Tam Thánh Viên Dung Quán Môn, v.v... Ngài chuyên về Hoa Nghiêm, nên được tông Hoa Nghiêm Trung-quốc tôn xưng là vị Tổ thứ tư; đồng thời ngài cũng xiển dương pháp môn niệm Phật (như trong bộ Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm Kinh Sớ, quyển 56, ngài có nêu ra 5 phương pháp niệm Phật), nên cũng được coi là một trong các vị tôn sư của tông Tịnh Độ.
Thanh Lương Văn Ích (885-958): là vị khai tổ của tông Pháp Nhãn, một trong “năm nhà bảy tông” của Thiền tông Trung-quốc. Ngài họ Lỗ, người huyện Dư-hàng, tỉnh Triết-giang. Ngài xuất gia khi lên 7 tuổi, chuyên học Luật; về sau theo học thiền pháp với thiền sư Tuệ Lăng (854-932) ở Trường-khánh viện (Phúc-châu), trải thời gian lâu mà không khế ngộ. Tình cờ ngài gặp thiền sư La Hán Quế Sâm (867-928) ở Đàm-châu, bèn tỏ ngộ đắc pháp; từ đó ngài ra sức xiển dương thiền pháp. Về sau, vua nước Nam-Đường (937-9580 – một trong 10 nước thời Ngũ-đại-thập-quốc) kính mộ, thờ ngài làm thầy, thỉnh về Kim-lăng, trú tại thiền viện Báo-ân, ban hiệu là Tịnh Tuệ đại sư. Sau đó, nhà vua lại xin thọ giới với ngài, và xây dựng Thanh-lương già lam để ngài mở đạo tràng giáo hóa đồ chúng; chính nơi đây ngài đã khai sáng thiền phái Pháp Nhãn. Môn nhân của ngài rất đông, trong đó có cả các sư tới từ Nhật-bản và Cao-li. Năm 74 tuổi ngài thị tịch, thụy hiệu là Đại Pháp Nhãn.
Thanh Nguyên Hành Tư (?-740). Ngài họ Lưu, quê ở huyện An-phước, tỉnh Giang-tây, xuất gia từ thuở nhỏ, theo học với Lục Tổ Tuệ Năng, cùng với ngài Hoài Nhượng, được coi là hai vị đệ tử thượng thủ và cùng kế thừa đạo nghiệp của Lục Tổ. Về sau ngài đến trụ tích tại chùa Tĩnh-cư ở núi Thanh-nguyên (tỉnh Giang-tây), nên được xưng là Thanh Nguyên Hành Tư. Tại đây ngài xiển dương thiền pháp của Lục Tổ, môn đồ vân tập tu học đông đảo, lập thành dòng phái gọi là Thanh Nguyên Hạ. Dòng phái này về sau đã sản xuất ra ba pháp phái nổi tiếng khác là các tông Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Ngài viên tịch năm 740, không rõ tuổi thọ, thụy hiệu là Hồng Tế thiền sư.
Thanh-văn thừa và Duyên-giác thừa. Chữ “thừa” là chỉ cho giáo pháp. Những hành giả chính mình được nghe lời Phật dạy, tỏ ngộ lí “tứ đế”, đoạn trừ kiến, tư hoặc mà chứng quả A-la-hán, thì thuộc về Thanh-văn thừa. Những vị sinh nhằm thời Phật tại thế, được nghe Phật nói giáo pháp “mười hai nhân duyên”, tu hành đoạn diệt vô minh, giải thoát dòng sinh tử, gọi là Duyên-giác; những vị sinh ra đời không gặp lúc có Phật tại thế, nhưng tự mình quán chiếu các cảnh hoa rơi lá rụng mà ngộ được lẽ vô thường, nhân đó mà tu đạo chứng quả, gọi là Độc-giác; cả hai quả vị này đều thuộc về Duyên-giác thừa.
Thành - Trụ - Hoại - Không. Theo vũ trụ quan Phật giáo, quá trình sinh diệt của một thế giới trải qua bốn thời kì – thuật ngữ Phật học gọi là “bốn kiếp” (tứ kiếp):
1) Kiếp Thành, là thời kì khí thế gian (tức các loài vô tình như quả đất cùng núi, biển, sông, hồ, cây, cỏ, v.v...) và tình thế gian (tất cả muôn loài chúng sinh hữu tình) được thành lập.
2) Kiếp Trụ, là thời kì mà các loài vô tình cũng như hữu tình đã được ổn định, tiếp tục cuộc sống ở thế gian. Thời kì này, con người từ tuổi thọ lúc ban đầu là vô lượng tuổi, giảm dần xuống cho đến khi chỉ còn 10 tuổi; đó là trung kiếp thứ nhất của kiếp Trụ. Sau đó trải qua 19 trung kiếp (tuổi thọ con người từ 10 tuổi ở cuối trung kiếp thứ nhất, tăng dần cho đến 84.000 tuổi, gọi là một lần tăng; rồi từ 84.000 tuổi lại giảm dần cho đến 10 tuổi, gọi là một lần giảm; cứ một lần tăng và một lần giảm như vậy là một trung kiếp), tức cả thảy là 20 trung kiếp, là hết kiếp Trụ. Chư Phật phần nhiều xuất hiện ở thế gian vào những lần kiếp giảm.
3) Kiếp Hoại, là thời kì có 3 thứ tai nạn lớn (đại tam tai) là lửa, nước và gió, lần lượt xuất hiện để hủy hoại thế giới.
4) Kiếp Không, là thời kì thế giới đã bị hủy diệt hoàn toàn, mọi thứ chỉ còn là hư không trong một thời gian dài, trước khi có sự chuyển biến để một thế giới khác lại được thành lập, và rồi cũng trải qua bốn kiếp như vậy.
Ba kiếp Thành, Hoại và Không cũng dài bằng kiếp Trụ, cho nên thời gian tổng cộng của cả bốn thời kì là 80 trung kiếp, tức là một đại kiếp. Có chỗ gọi “trung kiếp” là “tiểu kiếp”. Theo cách gọi này thì mỗi thời kì Thành, Trụ, Hoại, Không kéo dài một trung kiếp; mỗi trung kiếp gồm 20 tiểu kiếp (một tiểu kiếp gồm một lần tăng và một lần giảm như trên); vị chi, 1 đại kiếp có 4 trung kiếp, gồm cả thảy 80 tiểu kiếp.
Thành Duy Thức Luận Thuật Kí: gồm 20 quyển, do đại sư Khuy Cơ (632-682) soạn, được thu vào quyển 43 của Tạng Đại Chánh. Bộ sách này được soạn để chú giải bộ Thành Duy Thức Luận của đại luận sư Hộ Pháp (Dharmapala – ngài Huyền Trang dịch ra Hán văn), rất được các học giả về tông Pháp Tướng tán thưởng, coi đó thuộc loại thánh điển căn bản của Duy Thức Học.
Thánh - Chí thánh. Trong đạo Phật, danh từ “thánh” được dùng để tôn xưng các bậc đã chứng một quả vị nào đó trong hàng Thanh-văn, Duyên-giác hay Bồ-tát. Các tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, La Hầu La, Kiều Đàm Di, v.v... là những bậc thánh; các đức Bồ-tát Quán Thế Âm, Văn Thù, Phổ Hiền, v.v... là những bậc thánh; vua Tịnh Phạn, trưởng giả Cấp Cô Độc, v.v... là những bậc thánh. Ngoài ra, có những vị mà người ta không thể biết được là có chứng được quả vị gì hay không, nhưng cứ trông vào các hành động tràn đầy uy dũng, từ bi, trí tuệ, cứu khốn phò nguy, hi sinh vì đạo, làm lợi ích chúng sinh, sống đời phạm hạnh giải thoát..., mọi người khởi tâm khâm phục, qui ngưỡng, tôn thờ, thân cận, thì cũng tôn xưng họ là thánh. Cư sĩ Duy Ma Cật thời Phật tại thế, chư Tổ đời xưa, hòa thượng Quảng Đức đời nay, v.v... là những bậc thánh đó. Các ngài chứng đắc quả vị gì thì con mắt phàm tục không thể nào thấy được, mà chính các ngài thì đâu có ai tự nói mình có chứng đắc! Những bậc thánh như vậy trong đạo Phật, đã không do “bề trên” nào phong cho cả, mà hoàn toàn do Phật tử tôn xưng bằng lương tri con người, bằng trí tuệ và đạo tâm thanh tịnh của người Phật tử. Và trên hết các bậc thánh ở trên, đức Phật được đặc biệt tôn xưng là bậc “chí thánh” (bậc thánh tối thượng, không ai hơn).
Thánh hạnh: là một trong năm hạnh của hàng Bồ-tát. Bồ-tát tu tập ba nghiệp vô lậu giới định tuệ, đó là “thánh hạnh”.
Thánh Lượng: tức đại sư Ấn Quang (xem mục “Ấn Quang”).
Thánh ngôn lượng: tức là tin chắc chắn lời dạy của Phật là hoàn toàn chân thật, tuyệt đối không sai lầm, nương vào lời dạy ấy làm tiêu chuẩn để nhận thức mọi nghĩa lí ở thế gian.
Thánh tài: là tài sản của bậc thánh nhân. Hoàn toàn khác với loại tài sản của kẻ phàm phu (như nhà cửa, tiền bạc, ruộng vườn v.v...), các thứ tài sản này có khả năng làm cho người tu hành thành tựu được Phật đạo, cho nên gọi là thánh tài. Tài sản này gồm có 7 thứ: 1) Tín: lòng tin tưởng vững chắc vào chánh pháp; 2) Giới: hành trì giới luật; 3) Văn: chuyên cần học hiểu giáo pháp; 4) Tàm: luôn luôn tự thấy xấu hổ về mình mà không tạo các hành vi xấu ác; 5) Quí: thấy các việc bất thiện tâm liền sinh niệm xấu hổ, xa lánh, không a dua theo, không để bị mê hoặc; 6) Xả: không mê đắm, giữ chặt các của cải vật chất, thường phát tâm bố thí làm lợi ích cho người; 7) Tuệ: thường giữ chánh niệm để thấy rõ chân tướng các pháp.
Thắng Luận: tức học phái Thắng Luận (Vaisesika), một trong 6 phái triết học ở Ấn-độ. Học phái này được sáng lập trong khoảng từ thế kỉ 3 tr. TL đến thế kỉ đầu TL; trước khi Bồ Tát Long Thọ ra đời, nó đã được thịnh hành. Tương truyền, trong khoảng thời gian đó, một vị luận sư ngoại đạo tên Ưu Lâu Kha (Ulaka), đã trước tác bộ Thắng Luận Kinh (Vaisesika-sutra), là thánh điển của học phái Thắng Luận. Bên cạnh phái Thắng Luận còn có phái Số Luận (Samkhya), là hai học phái ngoại đạo đương thời rất hay gây tranh luận với Phật giáo.
Thắng nghĩa: cũng tức là “đệ nhất nghĩa”, là một thuật ngữ Phật học, dùng chỉ cho cái đạo lí chân thật, thù thắng hơn hết, không có thứ đạo lí nào của thế tục sánh bằng. Đó là cái cảnh giới vô tướng, siêu việt lên trên mọi khái niệm, không thể dùng ý thức để suy tư, không thể dùng văn tự để biểu thị, không thể dùng ngôn thuyết để diễn đạt, dứt tuyệt mọi tranh luận. Ví dụ, khi nói đến Chân Như, Niết Bàn, Như Lai v.v..., đó là nói đến thắng nghĩa. Những sự thật tương đối trong phạm vi thế gian, gọi là “tục đế”; những sự thật tuyệt đối thuộc xuất thế gian, gọi là “thắng nghĩa đế” (hay chân đế, hoặc đệ nhất nghĩa đế).
Thắng nghĩa bổ-đặc-già-la. “Bổ-đặc-già-la” (pudgala) được dịch là nhân (người), chúng sinh, hay sác thủ thú; tức chỉ cho cái chủ thể chuyển sinh trong luân hồi. – Từ “sác thủ thú” có nghĩa là nhiều lần qua lại trong các nẻo luân hồi. Nói rõ hơn, bổ-đặc-già-la là một tên gọi khác của NGÃ, vốn là một trong những kiến chấp trọng yếu của ngoại đạo. Pháp sư Khuy Cơ có liệt kê 16 tông (tức hệ phái) ngoại đạo ở Ấn-độ thời cổ đại, trong đó có Kế Ngã Thật Hữu tông, vọng chấp có một cái NGÃ chân thật, thường nhất; và giải thích rằng, cái ngã đó vừa là năm uẩn, vừa ở ngoài năm uẩn (tức li uẩn ngã), vừa không phải năm uẩn vừa không ở ngoài năm uẩn (phi tức phi li uẩn ngã). Luận Thành Duy Thức phân loại có 3 thứ ngã:
1) Ngã chính là cái thân ngũ uẩn này (tức uẩn ngã); đó là kiến chấp thông thường của mọi người thế gian.
2) Ngã ở ngoài cái thân năm uẩn (li uẩn ngã); đó là quan điểm của các phái ngoại đạo như Số Luận, Thắng Luận, v.v...
3) Ngã không phải là thân ngũ uẩn này, mà cũng không ở ngoài thân ngũ uẩn này (phi tức phi li uẩn ngã); đó là chủ trương của các bộ phái Độc Tử và Chánh Lượng.
Độc Tử Bộ đã có một lập luận rõ ràng về bổ-đặc-già-la: Khi người ta tạo nghiệp lành dữ, tất phải có một năng lực liên hệ giữa nghiệp nhân và nghiệp quả, mới dẫn đến sự hiện hữu trong tương lai. Cái năng lực đó chính là bổ-đặc-già-la. Nếu không có bổ-đặc-già-la, khi người ta chết rồi, năm uẩn tan rã, thì cái gì dẫn đến sự hiện hữu trong tương lai? Phải có bổ-đặc-già-la duy trì nghiệp, thì mới có luân hồi hay giải thoát. Nhưng, bổ-đặc-già-la không hẳn là năm uẩn, cũng không nằm ngoài năm uẩn. Bổ-đặc-già-la cũng không phải tâm và tâm sở. Tâm và tâm sở biến diệt vô thường, không thể biết hết mọi pháp, hoặc hễ biết pháp này thì không thể cùng lúc biết pháp khác, cho nên không làm cho phàm phu thành bậc Nhất Thiết Trí; còn bổ-đặc-già-la thì trái lại, đó là thực thể thường trú bất biến, quán thông cả ba đời, biết tất cả mọi pháp, vì vậy mà chúng sinh từ địa vị phàm phu mới có thể tiến lên thành bậc Nhất Thiết Trí. Bởi vậy, không thể nói bổ-đặc-già-la thuộc năm uẩn hữu vi, cũng không thể nói nó thuộc niết bàn vô vi; nó là “bất khả thuyết”. Chánh Lượng Bộ và Kinh Lượng Bộ cũng đồng quan điểm này của Độc Tử Bộ. Các bộ phái Phật giáo này cùng với ngoại đạo đều công nhận thật có cái NGÃ, gọi là “bổ-đặc-già-la”, vì vậy, để phân biệt chánh tà, các bộ phái Phật giáo trên lại gọi cái bổ-đặc-già-la do mình chủ trương là “thắng nghĩa bổ-đặc-già-la”, tức là chân ngã, cũng tức là thánh pháp ở trong chúng sinh; nhờ đó mà chúng sinh có thể thành Phật.
Thân căn - Khí giới. “Thân căn” tức thân thể với sáu căn, là chánh báo của chúng sinh. “Khí giới” cũng gọi là “khí thế gian”, tức quốc độ với tất cả khí vật, là y báo của chúng sinh.
Thân-chứng. Người chứng quả Bất-hoàn có căn tánh nhạy bén, tự thân họ chứng diệt tận định mà nhập niết bàn, gọi là “Thân-chứng”. Theo tông Thành Thật, đây là địa vị thứ 18 (trong 27 địa vị) trên tiến trình tu tập của hành giả Thanh-văn-thừa.
Thân kim cương. “Kim cương” tức là đá kim cương, là loại khoáng vật kết tinh có 8 hoặc 12 mặt, có độ cứng tối cao trong muôn vật. Thân kim cương là ví dụ cho sự kiên cố của thân Phật, không gì có thể hủy hoại được.
Thân kim cương na-la-diên. Tiếng Phạn “na-la-diên” (narayana) dùng để chỉ cho vị thần có sức mạnh trong tín ngưỡng của Ấn-độ thời cổ. Bà-la-môn giáo thì cho na-la-diên tức là trời Phạm Thiên; Phật giáo thì gọi na-la-diên là báo thân của Phật và Bồ-tát. Báo thân đó đầy đủ sức mạnh, cứng chắc như kim cương, không có gì có thể hủy hoại được, cho nên thân Phật được gọi là thân kim cương na-la-diên.
Thân một trượng sáu (trượng lục thân). Đức Như Lai đã vì các hàng Nhị-thừa, Bồ-tát Địa-tiền và phàm phu mà thị hiện ứng thân yếu kém, cao một trượng sáu thước (thước đo cũ của Trung-quốc), là thân lượng thông thường của Phật ứng hóa. Khi đức Thích Tôn trụ thế, thân người Ấn-độ bình thường cao trung bình 8 thước, Ngài đã ứng hiện kim thân cao một trượng sáu – tức gấp đôi.
Thân thọ dụng (thọ dụng thân). Nói chung, thân thọ dụng tức là báo thân của Phật, có hai loại khác nhau: tự thọ dụng và tha thọ dụng. Theo sự giải thích của tông Pháp Tướng, thân Phật tự chứng nhập niềm vui pháp lạc, gọi là “thân tự thọ dụng”; và thân Phật có năng lực làm cho chúng sinh thọ hưởng pháp lạc, gọi là “thân tha thọ dụng”. Chi tiết hơn, thân tự thọ dụng là cái thân mà đức Phật tự thọ hưởng pháp lạc. Đó là cái thân thật trí, là cái thân mà thức a-lại-da đã chuyển biến thành vô lậu trí, tương ưng với đại viên cảnh trí; là cái thân đức Phật đã từng trải vô số kiếp, tích tụ vô lượng phước trí, tu hạnh tự lợi, sinh khởi vô biên công đức chân thật và cùng cực thanh tịnh, viên mãn; với cái thân này, đức Phật tự thọ hưởng niềm hỉ lạc vi diệu. Trong ý nghĩa này, thân tự thọ dụng chính là báo thân của Phật. Trong khi đó, thân tha thọ dụng là cái thân công đức vi diệu thanh tịnh do từ bình đẳng tánh trí của Phật thị hiện ra. Đức Phật đem tâm từ bi ứng theo căn tánh của hàng Bồ-tát từ Sơ-địa trở lên, ở nơi Phật độ thuần tịnh, hiện thân thuyết pháp, khiến cho hàng Bồ-tát thọ hưởng pháp lạc đại thừa; đức Phật cũng vì tất cả chúng sinh phàm phu mà ứng hiện nhiều loại hình tướng, nói nhiều loại pháp môn, làm cho tất cả đều thọ hưởng pháp lạc, cho nên gọi là “thân tha thọ dụng”. Vì thân này mang ý nghĩa ứng hiện, nên cũng chính là ứng thân của Phật.
Thân trung ấm (trung ấm thân). Trung ấm cũng gọi là trung hữu. Con người, từ lúc chết cho đến lúc thọ sinh thân khác, cái thân trong thời gian đó được gọi là thân trung hữu (hay trung ấm). Theo luận Câu Xá, cái quá trình lưu chuyển trong vòng sinh tử luân hồi của chúng sinh, được chia làm bốn giai đoạn – gọi là bốn hữu (tứ hữu); ở đây xin lấy con người để nói cho dễ hiểu:
1) Cái sát na cuối cùng (ngay lúc vừa chết) của thân đời trước, là “tử hữu”.
2) Từ sau khi chết cho đến khi đủ duyên đầu thai thân đời này, sự hiện hữu của “con người” trong khoảng thời gian đó, gọi là “trung hữu”.
3) Cái sát na đầu tiên (ngay lúc vừa đầu thai) của thân đời này, là “sinh hữu”.
4) Thời gian từ sinh hữu (tức từ lúc đầu thai) cho đến lúc chết (tử hữu), gọi là “bản hữu”.
Thân trung hữu (trung ấm) này là “thức thân”, tức là nó không do tinh huyết cha mẹ sinh ra, mà là thân hóa sinh do ý, cho nên nó cũng có tên là “ý sinh” (chữ “ý” ở đây tức là thức mạt-na); nó sống nhờ mùi hương, nên còn được gọi là “hương ấm”; nó mong cầu, tìm kiếm nơi thích hợp để thọ sinh thân kế tiếp, nên cũng được gọi là “cầu sinh”; nó chỉ khởi lên tạm thời trong khoảng thời gian từ tử hữu cho đến sinh hữu, cho nên cũng có tên là “khởi”. Đó là năm tên của thân trung ấm.
Thân trung ấm này quả thật là có hay không có? Đại Chúng Bộ (Mahasamghikah), Thuyết Xuất Thế Bộ (Lokottaravadinah), Kê Dận Bộ (Kaukkutikah) và Hóa Địa Bộ (Mahisasakah) thì chủ trương không có; Chánh Lượng Bộ (Sammitiyah) và Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivadah) chủ trương có. Bộ sau này còn nói, thân trung ấm của loài người dạng như con nít năm sáu tuổi, có đủ sáu căn, nhưng đó là thứ tịnh sắc cực vi tế, nên mắt trần không thể thấy được; chỉ có đồng loại trung ấm mới thấy được nhau, hoặc những người tu chứng được thiên nhãn cực tịnh mới có thể thấy được.
Vì thân trung ấm được cấu tạo bởi loại tịnh sắc cực vi tế nên các giác quan của nó nhạy bén hơn con người rất nhiều; khả năng thấy, nghe v.v... rất xa, thấu suốt vũ trụ; khả năng di chuyển vô cùng mau lẹ, đến đi chỉ trong nháy mắt, không bị các loại vật chất thế gian làm chướng ngại; nhưng một khi đã nhập bào thai thì những khả năng ấy liền mất hết, và không thể nào chui ra khỏi bào thai được.
Thời gian tồn tại của thân trung ấm là bao lâu? Luận Tì Bà Sa (Vibhasa) cho rằng, sau khi chết liền đầu thai, cho nên thân trung ấm chỉ tồn tại trong khoảnh khắc. Luận sư Thế Hữu (Vasumitra) thì nói, nó tồn tại lâu nhất là 7 ngày. Luận sư Thiết Ma Đạt Đa cho rằng, nó tồn tại lâu nhất đến 49 ngày. Luận sư Pháp Cứu (Dharmatrata) lại nói, thời gian tồn tại của thân trung ấm không nhất định, đủ duyên thì liền đầu thai, chưa đủ duyên thì còn đó mãi.
Cho đến ngày nay, những quan điểm khác nhau về thân trung ấm vẫn còn tồn tại. Phật giáo Nam-truyền không chấp nhận có thân trung ấm, mà nói rằng, người chết rồi liền tái sinh ngay. Hầu hết các tông phái Phật giáo Bắc-truyền đều chủ trương có thân trung ấm; đặc biệt Phật giáo Tây-tạng đã nghiên cứu rất kĩ về thân trung ấm, lại còn dùng định lực để khai thị, chuyển hóa, hướng dẫn thần thức. Nhưng tại sao chúng ta không theo quan điểm dung hòa của kinh Niết Bàn để giải quyết thỏa đáng về vấn đề này? Kinh nói: Thân trung ấm, không nhất định có, cũng không nhất định không có. Đối với những nghiệp cực ác hoặc cực thiện (tức là xu hướng đã trở thành nhất định), thì sau khi chết liền đọa ngay vào ác đạo hoặc sinh ngay về các cảnh giới lành, không có thân trung ấm. Đối với những nghiệp không rõ ràng là cực ác hay cực thiện (tức là chưa thành xu hướng nhất định), thì có thân trung ấm trước khi tái sinh.
Dù có nhiều thuyết khác nhau như vậy, từ trước tới nay người ta vẫn quen cho rằng, thân trung ấm tồn tại trong vòng 7 tuần (mỗi tuần 7 ngày), tức 49 ngày. Và từ đó mà sinh ra tập tục thiết lễ cầu siêu 49 ngày để cầu phước cho người chết; nghĩa là, sau khi chết, cứ một tuần (7 ngày) làm lễ tụng kinh siêu độ một lần, hết 7 tuần là hoàn mãn – hết thân trung ấm. Người thế tục quan niệm rằng, trong thời gian 49 ngày đó, vong hồn người chết ở trong cõi âm, mơ hồ, không sáng suốt, cho nên cần phải cầu xin phước lành cho họ.
Về tập tục tụng kinh siêu độ cho người chết, theo một vị cao tăng Trung-hoa hiện đại là hòa thượng Đạo An (1907-1977), vốn không phải là một tập tục truyền thống của Phật giáo. Tập tục này chỉ bắt đầu có ở Trung-quốc từ đời nhà Đường. Điều này có thể đúng, vì theo sử chép, thì năm 738, vua Đường Huyền-tông (712-756) đã ban sắc lệnh cho toàn quốc, ở mỗi quận đều xây một ngôi chùa, đều đặt tên là chùa Khai-nguyên. (Khai-nguyên là niên hiệu thứ nhì của vua Huyền-tông, từ năm 713 đến năm 741.) Đó là chùa công, do các quan lại địa phương trông coi, dùng làm nơi tổ chức các lễ tiết quốc gia, kì cầu quốc thái dân an. Việc làm này vừa có ý nghĩa đem ân huệ của Phật ban đến quốc dân, cũng vừa để biểu thị quyền uy của chính quyền trung ương. Nguyên vì, vào năm 755, An Lộc Sơn (?-757) nổi loạn, kéo binh về chiếm kinh thành, khiến vua Huyền-tông phải chạy vào Tứ-xuyên lánh nạn. Một năm sau thì quân triều đình dẹp yên giặc loạn. Trong một năm chiến tranh này, số người chết (chiến sĩ của cả hai bên và thường dân) nhiều vô kể. Triều đình bèn ra chỉ dụ cho tất cả các chùa Khai-nguyên trong toàn quốc, thỉnh chư vị cao tăng đại đức, thiết lễ tụng kinh siêu độ cho chiến sĩ và thường dân đã chết trong cuộc chiến vừa qua, đồng thời an ủi các gia đình nạn nhân. Nhân dân thấy triều đình làm như thế, bèn bắt chước làm theo, cứ mỗi khi trong nhà có người chết, liền thỉnh chư tăng tụng kinh siêu độ. Từ đó mà lễ cầu siêu độ cho người chết, trở thành một tập tục trong dân gian.
Thần Hội (668-760): là một trong những vị đệ tử lớn của Lục Tổ Tuệ Năng. Ngài họ Cao, quê ở huyện Tương-dương, tỉnh Hồ-bắc. Thuở nhỏ học Nho, Đạo, thông suốt Ngũ Kinh, Lão Trang và các sách sử, nhưng rồi bỏ hết, vào chùa xin xuất gia, đọc tụng kinh điển cũng dễ dàng như đọc sách Nho, Lão. Năm 13 tuổi, ngài đến xin tham yết Lục Tổ Tuệ Năng, trở thành người đệ tử nhỏ tuổi nhất, nhưng đắc pháp ngang hàng với các vị lớn tuổi khác. Khi Lục Tổ thông báo ngày giờ nhập tịch sắp đến, trong chúng ai cũng xúc động khóc thương, chỉ có Thần Hội là bất động, nên Tổ nói: “Thì ra chỉ có Thần Hội, người nhỏ nhất mà được cái tâm vui buồn bất động…” Sau khi đức Lục Tổ thị tịch (năm 713), ngài đi tham phỏng bốn phương. Năm 720, ngài phụng sắc vua, về trú trì chùa Long-hưng ở Nam-dương, xiển dương thiền pháp. Trong thời gian 20 năm sau khi Lục Tổ viên tịch, dòng thiền Tào Khê có vẻ như chìm lắng; trong khi đó, dòng thiền Thần Tú thì vẫn thịnh hành ở hai kinh đô Lạc-dương và Trường-an. Thấy thế, vào năm 732, ngài đến Lạc-dương thiết lập đại hội Vô-già, cực lực hiển dương tông phong của Lục Tổ, xác lập hệ thống thiền Nam-tông Tuệ Năng là dòng truyền thừa chính thống, phân rõ Nam - Bắc, đốn - tiệm, làm cho dòng thiền Nam-tông từ đó ngày càng lớn mạnh, đặt được địa vị vững vàng ở phương Bắc, còn dòng thiền Bắc-tông thì bị suy yếu dần. Trong thời gian An Lộc Sơn nổi loạn (755-757), ngài lập đàn tràng gây quĩ ủng hộ quân lính triều đình. Sau khi dẹp yên giặc loạn, vua Đường Túc-tông (756-762) thỉnh ngài nhập cung để cúng dường. Nhà vua cũng lập thiền viện ở chùa Hà-trạch (trong kinh thành Lạc-dương), mời ngài trú trì để giáo hóa đồ chúng. Tại đây ngài tiếp tục phát dương thiền phong của Lục Tổ Tuệ Năng, sáng lập tông Hà Trạch, được người đời gọi là Hà Trạch đại sư. Ngài thị tịch năm 760, thế thọ 93 tuổi, thụy hiệu là Chân Tông đại sư. Năm 796, vua Đường Đức-tông (780-805) triệu tập các thiền sư khắp nước để xác lập tông chỉ thiền môn, và lập thiền sư Thần Hội làm vị tổ thứ bảy của Thiền tông Trung-quốc, nhưng vị trí ấy của ngài đã không được đời sau thừa nhận; rốt cuộc, Thiền tông Trung-quốc chỉ có 6 vị tổ mà thôi. Tông Hà Trạch của ngài kéo dài khoảng 150 năm thì trầm một.
Thần thông: là sức tác dụng siêu nhân gian, vô ngại tự tại, không thể nghĩ bàn, do tu tập thiền định mà đạt được. Thông thường, thần thông có năm tác dụng: 1) Mắt thấy thấu suốt tất cả những cảnh tượng khổ vui, lớn nhỏ, ở gần hoặc ở xa trong thế gian, không có gì làm cho ngăn cách (thiên nhãn thông); 2) Tai nghe tất cả những âm thanh vui buồn trong thế gian, không có gì ngăn trở được (thiên nhĩ thông); 3) Biết rõ tâm ý người khác đang suy nghĩ những việc thiện, ác, v.v... (tha tâm thông); 4) Đến đi tự tại, biến hóa tùy ý, không có gì làm trở ngại (thần túc thông); 5) Biết rõ các kiếp trước của mình và chúng sinh (túc mạng thông). Nếu dứt trừ hoàn toàn các kiến và tư hoặc (phiền não) trong ba cõi thì đạt thêm một loại thần thông cao tột, gọi là “lậu tận thông”. Chỉ có bậc A-la-hán trở lên mới đạt đủ sáu thứ thần thông (lục thông) như vậy; các hành giả dưới quả vị A-la-hán chỉ có thể đạt được tối đa là năm thứ thần thông ở trước mà thôi. Riêng ba loại túc mạng thông, thiên nhãn thông và lậu tận thông của chư Phật là vi diệu thù thắng tột bực, cho nên chúng được gọi đặc biệt là “ba minh” (tam minh).
Thần thông du hí (du hí thần thông). Người đời dùng từ “du hí” để chỉ cho việc đi đây đó vui chơi không mục đích; trong Phật giáo, “du hí” có nghĩa là đi đó đây để giáo hóa độ sinh. Chư Phật và Bồ-tát đi đây đó giáo hóa độ sinh một cách tự tại, không bị bất cứ sức mạnh nào làm cho trở ngại, chùn bước, gọi là “thần thông du hí”.
Thần Tú (605-706). Ngài họ Lí, người ở huyện Khai-phong, tỉnh Hà-nam. Ngài có thân hình cao lớn, mày rậm mắt sáng, uy đức nguy nguy. Thuở nhỏ đã đọc khắp kinh sử, nổi tiếng là bác học đa văn, nhưng sớm cạo tóc xuất gia, tìm thầy học đạo. Về sau ngài tìm đến chùa Đông-sơn ở núi Song-phong (huyện Hoàng-mai, tỉnh Hồ-bắc), xin tham yết Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, được Tổ tin cẩn, cử làm thầy giáo thọ, trở thành người đệ tử số một của Tổ, cho nên thường được gọi là thượng tọa Thần Tú. Sau khi Ngũ Tổ truyền y bát cho Lục Tổ Tuệ Năng và bảo đi về phương Nam hoằng hóa, thì ngài Thần Tú vẫn ở tại chùa Đông-sơn để hầu cận Ngũ Tổ. Sau khi tổ Hoằng Nhẫn viên tịch (năm 675), ngài dời sang núi Đương-dương (huyện Giang-lăng, tỉnh Hồ-bắc) để truyền pháp, tăng chúng cảm phục cao đức của ngài, qui tụ về tham học đông đúc. Ảnh hưởng của ngài tỏa trùm khắp vùng Trường-an, Lạc-dương; nữ hoàng Võ Tắc Thiên (684-705) nghe danh đức, liền thỉnh ngài vào đạo tràng cung nội để kính lễ, lại ban sắc xây chùa Độ-môn ở núi Đương-dương để nêu rõ đức phong của ngài. Ngài từng tâu xin Võ hậu cung thỉnh ngài Tuệ Năng vào cung, và chính ngài cũng viết thư cung thỉnh, nhưng Lục Tổ cố từ, lấy cớ bị bệnh, xin được ở yên xứ Lĩnh-nam để hoằng hóa; từ đó mà có tên gọi “Nam Năng Bắc Tú”. Vua Đường Trung-tông tức vị, cũng kính lễ ngài. Ngài viên tịch năm 706, thế thọ 102 tuổi, thụy hiệu là Đại Thông thiền sư. Đó là lần đầu tiên trong thiền môn được vua ban thụy hiệu. Ngài Thần Tú xiển dương thiền pháp, chú trọng thuyết “tiệm ngộ”, trong khi đó, ngài Tuệ Năng chú trọng thuyết “đốn ngộ”; cho nên trong thiền sử Trung-quốc đã có tên gọi “Nam Đốn Bắc Tiệm”. Vì pháp hệ của ngài thịnh hành ở phương Bắc, nên ngài được xưng là Thiền tổ Bắc-tông; nhưng dòng thiền của ngài chỉ thịnh hành được vài đời thì bị suy vi, rồi mai một.
Thật Hiền: tức đại sư Tỉnh Am (xem mục “Tỉnh Am”).
Thật thể. Chữ “thật” ở đây có nghĩa là không bị nhân duyên chi phối, không sinh không diệt, siêu việt khỏi thế giới khái niệm của ý thức phàm phu. “Thật thể” là thể tánh chân thật của vạn pháp. Thể tánh chân thật ấy hoàn toàn tịch tịnh, không bị nhân duyên chi phối, không sinh không diệt, không thêm không bớt, chỉ có trí tuệ giác ngộ của chư Phật mới chứng nghiệm được. Bởi vậy, cái “thật thể” ấy, không thể dùng trí phàm phu để nghĩ ngợi, không thể dùng lời nói phàm phu để trình bày, không thể dùng ý thức phàm phu để biết; ngay cả tên gọi “thật thể” cũng chỉ là giả danh. Những gì chúng ta thấy có thấy không, thấy còn thấy mất, thấy nhỏ thấy lớn, thấy tốt thấy xấu, thấy cao thấy thấp, v.v... đều là “hiện tượng” của vạn pháp, do nhân duyên mà thành, do ý thức phân biệt của phàm phu mà có; không phải là thật thể.
Thật tướng: là tướng chân thật, thường trú bất biến của vạn pháp, chỉ có trí tuệ xuất thế gian mới nhận biết được. Thật tướng tức là tướng “vô”, nghĩa là cái tướng không hình tướng, không sinh diệt, không thể diễn tả, không thể suy lường. Tất cả các pháp thế gian đều có sắc tướng, do nhân duyên sinh, vô thường, hoại diệt, cho nên đều là hư vọng; chỉ có phật tính, pháp tính, chân như, pháp thân là những thứ chân thật, không có sắc tướng, không thay đổi, không hoại diệt, đó mới là thật tướng. Ở trong pháp môn tu Tịnh Độ, thật tướng là một trong bốn cách niệm Phật, gọi là “thật tướng niệm Phật”; tức là quán niệm chân tướng của tự thân và tất cả các pháp là không hình không tướng, giống như hư không, tâm và chúng sinh, xưa nay vốn bình đẳng. Niệm niệm nối tiếp nhau, ngày đêm không gián đoạn, thì chánh định hiện tiền. Tông Tịnh Độ cho rằng, danh hiệu đức Phật A Di Đà chính là pháp thật tướng; cho nên, nhất tâm chuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà tức là “thật tướng niệm Phật”.
Thật tướng trung đạo (trung đạo thật tướng). “Thật tướng” là tướng chân thật của vũ trụ vạn hữu; “trung đạo” là con đường chính giữa, tức không nghiêng về một bên nào, không cố chấp vào một quan điểm cực đoan nào (như: có và không; nhiều và ít; thường và đoạn; v.v...). Trong tư tưởng đại thừa, “trung đạo” còn biểu thị cho tướng chân thật của vũ trụ vạn hữu (như nói rằng: thật tướng của vạn pháp là không có không không; không sinh không diệt; không thêm không bớt; không lớn không nhỏ; không nhiều không ít; v.v...); như vậy, thật tướng tức là trung đạo, trung đạo tức là thật tướng, cũng tức là “thật tướng trung đạo” (trung đạo thật tướng).
Thật Xoa Nan Đà (Siksananda, 652-710). Ngài người nước Vu-điền, học thông cả tiểu lẫn đại thừa. Năm 695 (dưới triều Tắc Thiên hoàng đế) ngài mang nguyên bản Phạn văn Kinh Hoa Nghiêm đến Lạc-dương, vâng mệnh nữ hoàng Tắc Thiên, trú tại chùa Đại-biến-không ở đại nội, cùng với các ngài Bồ Đề Lưu Chí, Nghĩa Tịnh, dịch Kinh Hoa Nghiêm ra Hán văn, gồm 8 quyển, gọi là Bát Thập Hoa Nghiêm Kinh. Ngoài ra ngài còn dịch các kinh Đại Thừa Nhập Lăng Già, Văn Thù Thọ Kí, v.v... cả thảy 19 bộ, gồm 107 quyển. Năm 704 ngài trở về Vu-điền, nhưng lại mấy lần được mời, nên năm 708 (dưới triều vua Đường Trung-tông) ngài lại sang Trung-hoa, được vua Trung-tông ra tận biên giới để nghinh tiếp. Nhưng chỉ vài năm sau thì ngài bị bệnh mà viên tịch. Sau khi trà tì, cái lưỡi của ngài vẫn còn nguyên vẹn. Môn đồ bèn đưa linh cốt và cái lưỡi của ngài trở về Vu-điền xây tháp cúng dường. Người đời sau đã xây ngôi tháp 7 tầng ngay tại nơi trà tì nhục thân ngài, gọi đó là tháp Hoa-nghiêm Tam-tạng.
Thấy tánh: tức là thấy tất cả chúng sinh vốn có đầy đủ Phật tánh; tánh đó tức là Phật, cho nên gọi là “Phật tánh”. Người thấy được Phật tánh nơi chính mình thì ngay tức khắc cùng với chư Phật không khác; nhà thiền gọi đó là “thấy tánh thành Phật”. (Xem thêm mục “Kiến Tánh”.)
Thế giới. Chữ “thế” ở đây có nghĩa là trôi chảy, chỉ cho thời gian, tức là thời gian trôi chảy không ngừng, quá khứ, hiện tại và vị lai (tam thế) nối tiếp nhau mãi mãi. Chữ “giới” chỉ cho phương vị, tức là không gian có mười phương. Vậy, “thế giới” là một hợp thể của không gian và thời gian, cũng tức là “thế gian”, bao hàm cả các loài có tình thức (tình thế gian) và không có tình thức (khí thế gian) cư trú; nhưng thông thường người ta quen hiểu rằng, “thế giới” là chỉ cho khí thế gian (đất liền, sông, núi, v.v...), là nơi y cứ để cư trú của các loài hữu tình. Theo Phật giáo, một cách tổng quát, có hai loại thế giới: thế giới hữu vi (tức thế giới tương đối, chỉ cho tam giới, là các cảnh giới của sáu loài chúng sinh: trời, người, a tu la, địa ngục, ngạ quỉ và súc sinh); và thế giới vô vi (tức thế giới tuyệt đối, chỉ cho các cảnh giới tịch tịnh của chư Phật). Chi tiết hơn, có mười loại thế giới, gồm sáu thế giới hữu vi (tức là sáu nẻo luân hồi) là Trời, Người, A-tu-la, Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh; và bốn thế giới vô vi (tức bốn cõi thánh) là Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát, Phật.
Thế Hữu (Vasumitra – dịch âm là Bà Tu Mật Đa): cũng gọi là Thiên Hữu, là một trong các vị tổ của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvasti-vadin – gọi tắt là Hữu Bộ, là một trong 20 bộ phái tiểu thừa). Tôn giả là người nước Kiền-đà-la ở vùng Tây-Bắc Ấn-độ, sống vào khoảng từ thế kỉ đầu sang thế kỉ thứ 2 TL, ra đời sau tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử (Katyayaniputra) và trước tôn giả Hiếp. Tôn giả đã được vua Ca Nị Sắc Ca cung thỉnh làm thượng thủ trong kì kết tập kinh điển lần thứ tư tại Ca-thấp-di-la, để biên tập bộ luận Đại Tì Bà Sa, tổng kết tất cả học thuyết của Hữu Bộ. Tôn giả, cùng với các tôn giả Pháp Cứu, Diệu Âm và Giác Thiên, đã được người đương thời xưng là “Bà Sa tứ đại luận sư”. Tôn giả cũng là tác giả của bộ Dị Bộ Tông Luân Luận. Kinh Sư Tử Nguyệt Phật Bản Sinh nói rằng, trong tương lai tôn giả sẽ thành Phật kế tiếp Phật Di Lặc, hiệu là Sư Tử Như Lai.
Thế Thân 1 (Vasubandhu). Trong ba anh em cùng có tên Bà Tẩu Bàn Đậu, thì người anh cả lấy biệt danh là A Tăng Già – tức Vô Trước; người em út lấy biệt danh là Tỉ Lân Trì Bạt Bà; chỉ có người ở giữa là không có biệt danh, mà vẫn dùng tên Bà Tẩu Bàn Đậu – tức Thiên Thân, hay Thế Thân (xem mục “Vô Trước”). Bồ Tát Thế Thân, cùng với anh là Bồ Tát Vô Trước, là sáng tổ của phái Du Già Hành của Phật giáo đại thừa Ấn-độ. Buổi đầu, cả ba anh em Bà Tẩu Bàn Đậu đều xuất gia theo Hữu Bộ (tiểu thừa). Ngài Tỉ Lân Trì Bạt Bà thì ở hẳn bên Hữu Bộ, chứng quả A-la-hán, không có hạnh gì đặc biệt. Ngài Vô Trước thì sớm chuyển hướng sang đại thừa. Trong khi đó, ngài Thế Thân lại đi thẳng vào Kinh Lượng Bộ (tiểu thừa, tách ra từ Hữu Bộ), lập chí cải thiện giáo nghĩa của Hữu Bộ, bèn sang nước Ca-thấp-di-la (Kasmira) để nghiên cứu Tì Bà Sa Luận. Sau bốn năm, ngài trở về bản xứ (tức kinh thành Bố-lộ-sa-bố-la, nước Kiền-đà-la), giảng thuyết Luận Tì Bà Sa, và sáng tác A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận. Sau đó, khi Bồ Tát Vô Trước trở về quê nhà tĩnh cư, thì ngài chuyển sang nước A-du-xà để hành đạo. Tại đây, không những ngài đã hăng say xiển dương giáo lí tiểu thừa, mà còn cực lực đả kích đại thừa, cho rằng kinh điển đại thừa đã không phải do Phật nói. Về sau, phải nhờ Bồ Tát Vô Trước dùng phương tiện khai thị, ngài mới tỉnh ngộ, chuyển sang tín phụng và hoằng dương giáo pháp đại thừa.
Theo Bà Tẩu Bàn Đậu Pháp Sư Truyện ghi chép, lúc bấy giờ ngài Thế Thân đang hành đạo tại nước A-du-xà, cực lực xiển dương giáo pháp tiểu thừa và hủy báng kinh điển đại thừa. Anh của ngài là Vô Trước (lúc đó đang cư trú ở quê nhà là kinh thành Bố-lộ-sa-bố-la, nước Kiền-đà-la), biết em mình là bậc trí tuệ hơn người, thông hiểu sâu rộng cả giáo nghĩa nội ngoại. Ngài sợ rằng Thế Thân sẽ phải chịu ác báo do tội hủy báng, phá hoại giáo pháp đại thừa, nên đã cho sứ giả sang nước A-du-xà báo tin khẩn cấp cho Thế Thân, rằng ngài đang bị bệnh trầm trọng, Thế Thân hãy về gấp cho ngài được gặp mặt. Được tin báo, Thế Thân tức tốc theo sứ giả trở về nước. Ngài vào phòng thăm anh và hỏi thăm bệnh tình, Bồ Tát Vô Trước nói: “Anh đang bị tâm bệnh rất nặng, là do em gây ra đó!” Ngài sửng sốt hỏi lại: “Vì sao tâm bệnh của anh lại do em gây ra?” Bồ Tát Vô Trước nói: “Em không tin giáo pháp đại thừa, ngày đêm hủy báng. Do ác nghiệp này mà em sẽ vĩnh viễn trầm luân trong ác đạo. Anh vì em mà quá lo lắng, sầu khổ, sợ tính mạng khó toàn!” Thế Thân nghe thế thì sợ sệt vô cùng, tức khắc xin anh giảng cho nghe về giáo nghĩa đại thừa. Bồ Tát Vô Trước liền vì em mà thuyết giảng tóm tắt các yếu nghĩa của giáo pháp đại thừa. Ngài Thế Thân vốn là bậc trí tuệ siêu quần, nên nghe đến đâu là thâm nhập đến đấy, hoàn toàn rỗng suốt, và nhận ra rằng, giáo pháp đại thừa thật sự cao sâu vượt quá giáo pháp tiểu thừa.
Từ đó, ngài tôn anh làm thầy để học hỏi đại thừa. Ngài Vô Trước bèn đem tất cả sở học và sở đắc của mình về giáo pháp đại thừa truyền dạy hết cho em. Càng thâm nhập yếu nghĩa đại thừa, ngài Thế Thân càng ân hận về việc ngày trước mình vì quá si mê mà đã kịch liệt hủy báng đại thừa. Khi lòng ăn năn đã lên đến cao độ, ngài liền đến trước Bồ Tát Vô Trước để bày tỏ lòng sám hối. Để đền tội cũ, ngài nói: “Trước kia em đã dùng cái lưỡi của mình để hủy báng giáo pháp đại thừa, thì hôm nay em phải cắt bỏ cái lưỡi này để tạ tội.” Ngài Vô Trước vội vàng khuyên bảo: “Dù em có cắt cả ngàn cái lưỡi cũng không thể nào diệt được tội cũ; chi bằng, nếu ngày trước em đã dùng cái lưỡi của mình một cách khéo léo trong việc hủy báng đại thừa, thì ngày nay em cũng cứ dùng chính cái lưỡi ấy của mình một cách khéo léo để tuyên dương giáo pháp đại thừa. Được như thế thì tội lỗi ngày xưa chắc chắn sẽ tiêu trừ hết.”
Sau đó thì Bồ Tát Vô Trước viên tịch; và Bồ Tát Thế Thân trở lại A-du-xà để khởi đầu một chương trình mới, thật vĩ đại, chuyên việc xiển dương giáo nghĩa đại thừa. Ngài đã trước tác các bộ luận đại thừa, đặc biệt là về hai môn học Du Già và Duy Thức; chú giải các bộ luận đại thừa đã lưu hành từ trước; và luận giải các kinh điển đại thừa. Tương truyền, khi còn ở tiểu thừa, ngài đã soạn đến 500 bộ luận để tuyên dương giáo nghĩa tiểu thừa và bài xích đại thừa; và sau khi đã qui hướng sang đại thừa, ngài cũng lại soạn đến 500 bộ luận để tuyên dương giáo pháp đại thừa. Vì vậy, người đời đã tôn gọi ngài là vị Thiên Bộ Luận Sư. Tất cả những tác phẩm của ngài, dù thuộc phạm vi tiểu thừa ngày trước, hay thuộc phạm vi đại thừa lúc về sau, văn nghĩa đều tinh diệu; bất cứ ai được thấy được nghe cũng đều tin tưởng và cầu học, đều lấy đó làm điển tịch căn bản cho sự học tập. Chúng nhân thuộc các bộ phái Phật giáo khác, và ngay cả ngoại đạo cũng vậy, không ai nghe danh ngài mà không nể sợ. Ngài viên tịch tại nước A-du-xà năm 80 tuổi.
(Chúng ta có thể thấy được có hai lí do để ngài chọn nước A-du-xà làm căn cứ hành đạo: Trước hết, A-du-xà vào thời đó là trung tâm văn minh của Ấn-độ, lại cũng là trung tâm của Phật giáo đại thừa. – Trước đây, chính ngài Vô Trước cũng từng chọn nước này để mở đạo tràng hành hóa; và Bồ Tát Di Lặc cũng đã truyền thọ kinh luận đại thừa cho ngài Vô Trước tại đây. – Khi còn hăng say với tư tưởng tiểu thừa, ngài phải ở ngay tại đây để trực tiếp đả phá đại thừa. Sau khi từ bỏ tiểu thừa và qui hướng về đại thừa, ngài cũng phải ở ngay tại đây để có môi trường thuận tiện xiển dương đại thừa. Thứ nữa, vua Tân Nhật [Baladitya] của nước A-du-xà, và cả bà thái hậu [mẹ của vua], đều là đệ tử của ngài. Họ cung thỉnh ngài sang ở hẳn tại nước này để luôn được cúng dường, giúp cho việc hành đạo của ngài thành công mĩ mãn. – Có lẽ vì cả hơn nửa đời người ngài sống và hành đạo tại nước A-du-xà, cho nên có người đã nhầm lẫn cho rằng ngài đã được sinh ra tại nước này.)
Những tác phẩm trọng yếu của ngài gồm có: Câu Xá Luận, Nhiếp Đại Thừa Luận Thích, Thập Địa Kinh Luận, Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh Luận, Quảng Bách Luận, Bồ Đề Tâm Luận, Tam Thập Duy Thức Luận Tụng, Đại Thừa Bách Pháp Minh Môn Luận, Vô Lượng Thọ Kinh Luận, v.v...
Thế Thân 2. Theo sự khảo chứng của một vị học giả phương Tây hiện đại, thì ngài Thế Thân tác giả của Câu Xá Luận và ngài Thế Thân em của Bồ Tát Vô Trước là hai người khác nhau mà trùng tên. Tác giả của Câu Xá Luận được gọi là Tân Thế Thân, là vị luận sư của Hữu Bộ; em của Bồ Tát Vô Trước được gọi là Cổ Thế Thân, là vị luận sư của Phái Du Già Hành. Vị học giả này cho rằng, sở dĩ có sự trộn lộn giữa hai nhân vật như trên là do ngài Chân Đế (Paramartha – 499-569), khi dịch sách Bà Tẩu Bàn Đậu Pháp Sư Truyện, đã đem hai người ghép lẫn chung thành một người. Những tài liệu ghi ở phần đầu và phần cuối của truyện “Thế Thân” là thuộc về ngài Cổ Thế Thân; những tài liệu ghi ở phần giữa của truyện “Thế Thân” là thuộc về ngài Tân Thế Thân. Vị học giả ấy đã phân biệt rõ rằng, ngài Cổ Thế Thân sống vào khoảng năm 320-380, là em của ngài Vô Trước, con của quốc sư Kiều Thi Ca ở thành Bố-lộ-sa-bố-la, ban đầu xuất gia theo Hữu Bộ, sau chuyển hướng sang đại thừa; trong khi đó, ngài Tân Thế Thân (tác giả của Câu Xá Luận) sống vào khoảng năm 400-480, không rõ quê quán, xuất gia theo Hữu Bộ, đồ đệ của ngài Phật Đà Mật Đa La (Buddhamitra, tổ thứ 9 của dòng Phú Pháp Tạng), nhưng sau lại nghiêng về Kinh Lượng Bộ, từng được vua Chánh Cần Nhật và thái tử Tân Nhật của nước A-du-xà kính lễ cúng dường.
Thế Thân 3. Lại cũng có một vị nữa tên Thế Thân, họ Tì-xá-khư, người thành Xá-vệ, là tổ thứ 21 của dòng Phú Pháp Tạng. Cha mẹ ngài thuộc hạng giàu có, nhưng không có con, cho nên thường đến các tháp thờ Phật lễ bái cầu con. Một hôm bà mẹ nằm mộng thấy được nuốt hai hạt ngọc, một sáng một tối; khi thức dậy thì biết mình có thai, một tháng sau thì sinh một bé trai (xin xem Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Tạng Đại Chính quyển 51, trang 213), đó chính là tôn giả Thế Thân. Năm 15 tuổi, Thế Thân xuất gia với A La Hán Quang Độ, rồi thọ giới với Bồ Tát Tì Bà Ha. Ngài tu tập chuyên cần, chỉ ăn một bữa mỗi ngày, chỉ ngồi mà không nằm, mỗi ngày lạy Phật sáu thời, thân tâm thanh tịnh, không hề có dục niệm, rất được đại chúng qui ngưỡng. Vị tổ thứ 20 là Bồ Tát Xà Dạ Đa, thấy ngài có đạo phong như thế, muốn độ cho, bèn đứng trước đại chúng nói lớn: “Ta không cầu đạo, cũng không điên đảo. Ta không lạy Phật, cũng không khinh mạn. Ta không ngồi hoài, cũng không lười biếng. Ta không ăn mỗi ngày một bữa, cũng không ăn tạp. Ta không biết đủ, cũng không tham dục. Tâm không mong cầu gì cả, đó gọi là Đạo.” Ngài Thế Thân vừa nghe mấy lời ấy, liền phát trí tuệ vô lậu. Sau được Bồ Tát Xà Dạ Đa truyền cho y bát, kế thừa Tổ nghiệp. Từ đó ngài chuyên việc hành hóa, độ cho đồ chúng rất đông. Sau đến nước Na-đề (Nadi), truyền pháp cho đệ tử là Ma Nô La (con thứ hai của quốc vương Thường Tự Tại), rồi thị tịch.
Thế Tôn: là dịch nghĩa từ tiếng Phạn “Bà-già-bà”. Đức Phật có đầy đủ muôn đức, được cả thế gian tôn kính, địa vị của Ngài là địa vị tôn quí nhất trên đời, cho nên xưng Ngài là “Thế Tôn”.
Thế trí biện thông: là trí thông minh lanh lợi của người thế tục chỉ thấy biết những việc thường tình, chuyên phục vụ cho những tham vọng bất lương, những đam mê vật chất, những đức tin mù quáng. Loại trí ấy có rất nhiều sai lầm, giúp ích cho người thì ít, mà làm hại người thì nhiều. Nó làm chướng ngại cho sự học đạo tu hành, cho nên Phật giáo coi nó là một trong những tai nạn của con người. Người có “thế trí biện thông” thì thường cố chấp, kiêu ngạo; đó là thứ chướng ngại rất lớn làm cho không thể tu học đạo giải thoát. Trong khi đó, một người tầm thường, vì không có “thế trí biện thông” nên ít cố chấp, kiêu ngạo, lòng nhẹ nhàng, trong sáng, giúp cho việc học đạo giải thoát được dễ dàng.
Thể, tướng, dụng: được gọi là “ba đại” (tam đại), tức là ba phương diện rộng lớn, vô hạn của vạn pháp. Theo lập thuyết của Luận Đại Thừa Khởi Tín, thể tánh của vạn pháp gọi là “chân như”. Thể tánh này bình đẳng, thường hằng bất biến, không sinh không diệt, trùm khắp pháp giới; đó là THỂ của chân như. Cái thể tánh chân như ấy có đầy đủ vô lượng đức tướng như đại từ bi, đại trí tuệ, thường, lạc, ngã, tịnh, ánh sáng chiếu soi cùng khắp v.v...; đó là TƯỚNG của chân như. Thể tánh chân như ấy có công năng làm phát sinh tất cả nhân thiện và quả thiện thuộc trong thế gian và cả xuất thế gian; đó là DỤNG của chân như.
Thi Hộ (Danapala): là vị cao tăng dịch kinh ở đời Tống. Ngài người nước Ô-điền-nang (Udyana, Udnvanaka) ở phía Tây-Bắc Ấn-độ. Năm 980 (dưới triều vua Tống Thái-tông), ngài đã cùng với ngài Thiên Tức Tai (người nước Ca-thấp-di-la ở phía Bắc Ấn-độ) đến Biện-kinh (tức phủ Khai-phong, kinh đô nhà Triệu-Tống), trú tại Dịch-kinh viện của chùa Thái-bình-hưng-quốc, chuyên việc dịch kinh. Ngài đã dịch được các bộ như Đại Thừa Trang Nghiêm Bảo Vương Kinh, Cấp Cô Trưởng Giả Nữ Đắc Độ Nhân Duyên Kinh, Quảng Thích Bồ Đề Tâm Luận, Đại Thừa Nhị Thập Tụng Luận, Lục Thập Tụng Như Lí Luận, Thủ Hộ Đại Thiên Quốc Độ Kinh, Biến Chiếu Bát Nhã Ba La Mật Kinh, v.v... tất cả là 115 bộ, gồm 255 quyển. Người đời xưng ngài là Hiển Giáo đại sư. Không ai biết năm sinh và năm mất của ngài.
Thí thân cho cọp đói (chuyện tiền thân). Đây là một chuyện tiền thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni, trong thời kì Ngài còn tu tập hạnh Bồ-tát. Ở thời quá khứ xa xưa, có một chàng thanh niên vốn là tín đồ đạo Bà-la-môn, thông minh tài trí hơn người, từ thuở nhỏ đã nổi tiếng là thần đồng. Càng trưởng thành chàng càng nhận rõ, giáo lí Bà-la-môn còn nhiều thiếu sót, không thể giúp chàng phát triển trí tuệ cao tột, không đáng tin tưởng và hành trì một cách hoàn toàn. Bởi vậy, chàng quyết định tự tìm cho mình một con đường mới, có thể giải thoát sinh tử. Chàng bèn lìa bỏ gia đình và tài sản, cắt đứt ái dục, tìm vào chốn núi rừng sâu thẳm, sống trong không khí tịch tĩnh, quyết tâm tu tập. Một thời gian sau, các bạn hữu của chàng ngày trước, ngưỡng mộ đạo đức và trí tuệ của chàng, cũng rủ nhau tìm vào rừng xin được tu tập dưới sự hướng dẫn của chàng. Một ngày nọ, chàng dẫn một người đồ đệ cùng đi bách bộ trên con đường núi. Bỗng chàng nhìn xuống sườn núi, thấy một con cọp gầy yếu đang kêu rên, xem chừng đang đói rũ riệt. Bên cạnh nó là một con cọp con, hình như mới sinh không lâu. Cọp mẹ có vẻ như đã đến lúc không còn chịu đựng nổi cơn đói, cứ lăm lăm nhìn cọp con, miệng nhỏ dãi, gầm gừ, như muốn ăn thịt. Thấy tình cảnh vô cùng thảm thương đó, chàng động lòng từ bi, gọi người đồ đệ đến, chỉ xuống chỗ con cọp mà bảo: “Thật đáng thương cho chúng sinh! Vì cơn đói hành hạ, đến nỗi quên đi tình mẹ con. Con cọp con kia có thể sắp bị cọp mẹ ăn thịt. Bạn hãy đi tìm gấp thức ăn để giải cứu cái tình cảnh bi thương này!” Người đồ đệ đi rồi, chàng lại suy nghĩ: “Ta nay thấy khổ không cứu, thì còn đâu là tinh thần của kẻ tu đạo! Ta có thể gieo cái thân xác giả tạm này xuống dưới đó, vừa giúp cho cọp có một bữa ăn, cứu mạng sống của cả hai mẹ con, lại vừa cổ lệ người đời, phát khởi tình thương đối với các loài động vật.” Suy nghĩ như vậy rồi, chàng liền gieo mình xuống chỗ con cọp đói, bố thí xác thân để cứu mạng sống của cả hai mẹ con cọp đói.
Thích-ca (Sakya): là tên một bộ tộc, có nghĩa là “có năng lực”. Bán đảo Ấn-độ thời bấy giờ chia ra rất nhiều vương quốc, mỗi vương quốc do một bộ tộc cai trị. Bộ tộc Thích-ca chiếm cứ vùng đất nằm giữa chân núi Hi-mã-lạp (Himalaya) ở phía Bắc, các vương quốc Câu-lị (Koliya) ở phía Đông, Mạt-la (Malla) ở phía Nam, và Kiều-tát-la (Kosala) ở phía Tây. Theo truyền thuyết, tổ tiên của bộ tộc Thích-ca khởi nguồn từ vua Cam Giá (Iksvaku), ở thành Potala, xứ Ayodhya (nay là vùng Ngũ-hà - Panjab), trên lưu vực sông Ấn (Indus). Vua Cam Giá có người vợ cả, sinh được bốn hoàng tử; sau lấy vợ thứ, sinh được một hoàng tử. Bà vợ thứ muốn con mình sau làm vua, nên xúi vua Cam Giá đuổi bốn hoàng tử con của bà vợ cả ra khỏi nước. Bốn anh em phải ra đi lang thang vô định. Khi đến chân núi phía Nam của dãy Hi-mã-lạp thì họ dừng lại. Tại đây họ đã lập nên sự nghiệp hùng mạnh, làm chủ một bộ tộc, và dựng lập thành Ca-tì-la-vệ. Vua Cam Giá biết được tin này, liền vui mừng khen rằng: Đó quả là những hoàng tử “có năng lực” (tiếng Phạn là “sakya”). Từ đó, bộ tộc và vương quốc do bốn hoàng tử sáng lập được đặt tên là “Sakya” (Thích-ca). Sau đó, khi ba trong bốn anh em qua đời, người còn lại trở thành vua của vương quốc Thích-ca, kinh đô là thành Ca-tì-la-vệ. Vua Sư Tử Giáp (Simhahanu) là đời thứ tư của dòng Thích-ca (tức đời thứ năm kể từ vua Cam Giá), sinh bốn trai và một gái: đó là các hoàng tử Tịnh Phạn (Suddhodana), Bạch Phạn (Suklodana), Hộc Phạn (Dronodana), Cam Lộ Phạn (Amrto-dana) và công chúa Cam Lộ (Pamita). Tịnh Phạn được nối ngôi vua của vương quốc, và là phụ vương của Phật. Đương thời, Thích-ca là một nước nhỏ, đất đai không phì nhiêu lắm, hết phân nửa lãnh thổ về phía Bắc là vùng cao nguyên, toàn đồi núi; phân nửa còn lại ở phía Nam là vùng đồng bằng. Kinh thành Ca-tì-la-vệ nằm trong vùng đồng bằng ấy. Vương quốc này ngày nay là địa phận xứ Tilorakot ở vùng Terai, miền Nam nước Nepal, giáp ranh giới phía Bắc của nước Ấn-độ.
Thích-ca mâu-ni (Sakya-muni). “Thích-ca” là tên bộ tộc của Phật, có nghĩa là có năng lực, cho nên dịch “năng nhân” (能仁) là không đúng, mà phải dịch là “năng” (能). “Mâu-ni” nghĩa là vắng lặng, nhân từ, bậc thánh, người hiền, ẩn sĩ, là tiếng được dùng rất phổ biến vào thời Phật tại thế, để chỉ chung cho những vị ẩn tu trong rừng sâu núi thẳm, thân miệng ý đều vắng lặng. Đa số các nhà Phật học Trung-quốc xưa đã dịch một cách chính xác: “Thích-ca” là năng, và “ mâu-ni” là tịch (寂), tịch tịnh (寂靜), tịch mặc (寂默), nhân (仁). Gộp cả lại, “Thích-ca mâu-ni” được dịch là năng tịch (能寂) hay năng nhân (能仁); – vì chữ “mâu-ni” vừa có nghĩa là “tịch mặc” mà cũng vừa có nghĩa là “nhân”, cho nên đã có người dịch lầm “Thích-ca” là “năng nhân” và “mâu-ni” là “tịch mặc”. Lại nữa, “mâu-ni” cũng được gọi là “văn-ni” (文尼), hoặc gọi tắt là “văn”, cho nên “Thích-ca mâu-ni” cũng có khi trở thành “Thích-ca văn”. Đức Phật thuộc bộ tộc Thích-ca, khi còn là thái tử thì có tên là Tất Đạt Đa, sau khi thành đạo thì được người đời xưng hiệu là Thích Ca Mâu Ni, có nghĩa là bậc thánh của bộ tộc Thích-ca. Lại nữa, thỉ tổ của bộ tộc Thích-ca là vua Cam Giá, cũng gọi Cồ Đàm (Gautama); cho nên, Thích-ca đã được coi là một phân tộc của họ Cồ-đàm. Bởi vậy, người đương thời cũng gọi đức Phât là sa môn Cồ Đàm, hay đạo sĩ Cồ Đàm. Có sách nói, Cồ-đàm, Cam-giá, Nhật-chủng, Thích-ca và Xá-di, là năm họ của Phật; đó là một đại quí tộc thuộc giai cấp Sát-đế-lị của thời cổ Ấn-độ, thuộc giống người Aryan (từ miền Trung-Á xâm nhập và làm chủ vùng Bắc và Tây Bắc Ấn-độ khoảng 3.000 năm trước Tây lịch).
Thích Tôn. “Tôn” tức là Thế Tôn, tiếng mà người đời dành riêng để chỉ tôn xưng các đức Phật; “Thích” tức Thích Ca. “Thích Tôn” tức là Thích Ca Thế Tôn. Vậy, Thích Tôn là tiếng dùng để tôn xưng riêng cho đức Phật Thích Ca Mâu Ni, còn tiếng Thế Tôn thì dùng để tôn xưng chung cho cả đức Phật Thích Ca và chư Phật.
Thiên hạnh: là một trong năm hạnh của hàng Bồ-tát. “Thiên” tức là lí lẽ của thiên nhiên, hàng Bồ-tát thuận theo lí lẽ của thiên nhiên mà nên hạnh nhiệm mầu, đó là “thiên hạnh”.
Thiên không: nghĩa là nghiêng chấp về lí không.
Thiên ma: tức ma vương Ba-tuần ở cõi trời thứ sáu (tức cõi trời Tha-hóa-tự-tại của cõi Dục), có vô số quyến thuộc, thường gây chướng ngại cho những người tu hành theo đạo giác ngộ.
Thiên nhãn - Thiên nhãn thông - Thiên nhãn minh. “Thiên nhãn” là con mắt của chư thiên, có thể thấy biết tất cả mọi hình sắc lớn, nhỏ, xa, gần, không bị chướng ngại. Có hai loại thiên nhãn: loại do quả báo mà có được và loại do tu tập mà có được. Thiên nhãn của chư thiên thì do quả báo mà có. Các bậc thánh từ A-la-hán trở lên là do tu tập mà có được thiên nhãn, nhưng so với con mắt chư thiên thì các ngài còn sáng tỏ hơn nhiều, cho nên đặc biệt gọi là “thiên nhãn thông”; thiên nhãn của Phật còn vượt trội hơn nữa, có thể thấy suốt tướng trạng sinh tử của chúng sinh ở đời vị lai, nên được gọi là “thiên nhãn minh”.
Thiên Nhiên (739-824): là vị thiền sư đời Đường, đệ tử của thiền sư Thạch Đầu Hi Thiên. Ban đầu ngài theo Nho học, sau nhân gặp một vị thiền sư mà được tỉnh ngộ; liền đến Nam-nhạc xin làm môn nhân của ngài Thạch Đầu, hầu hạ 3 năm, được cạo đầu thọ giới. Sau đó ngài tìm đến Giang-tây, xin yết kiến Mã đại sư, được đặt cho pháp hiệu là Thiên Nhiên. Ngài trú tại ngọn Hoa-đỉnh của núi Thiên-thai 3 năm, rồi sang Kính-sơn tham bái thiền sư Quốc Nhất. Sau đó lại trụ tích tại núi Đan-hà ở Nam-dương. Năm 824 (cuối đời vua Đường Mục-tông) ngài viên tịch, thế thọ 86 tuổi.
Thiên Như (1286-1354): tức Duy Tắc, một vị thiền sư thuộc thiền phái Lâm Tế đời Nguyên, Trung-quốc, đệ tử đắc pháp của thiền sư Trung Phong Minh Bản (1263-1323). Ngài họ Đàm, tự Thiên Như, quê huyện Vĩnh-tân, tỉnh Giang-tây. Lúc nhỏ, ngài xuống tóc ở núi Hòa, sau đến núi Thiên-mục, theo học với thiền sư Nguyên Bản, đắc pháp và trở thành người thừa kế của thiền sư. Năm đầu niên hiệu Chí-chánh (1341) đời vua Nguyên Thuận-đế (1333-1368), ngài trú tại rừng Sư-tử ở Tô-châu. Tại đây, năm sau, chư đồ chúng góp sức, xây cất chùa Bồ-đề-chánh-tông, thỉnh ngài trú trì hoằng hóa, trở thành ngôi đạo tràng lớn của thiền phái Lâm Tế. Ngài được vua cúng dường pháp y và ban tặng hiệu Phật Tâm Phổ Tế Văn Tuệ Đại Biện thiền sư. Dù vậy, vua nhiều lần thỉnh ngài vào cung, ngài đều cáo bệnh không đi. Cùng lúc hoằng dương tông phong của thiền phái Lâm Tế, ngài cũng nghiên cứu kĩ càng giáo chỉ của chư tổ tông Thiên Thai; lại xiển dương giáo pháp Tịnh Độ. Ngài viên tịch năm 69 tuổi. Trước tác của Ngài có: Thiền Tông Ngữ Lục, Thập Phương Giới Đồ Thuyết, Lăng Nghiêm Kinh Hội Giải (phụ chú), Lăng Nghiêm Kinh Viên Thông Sớ, Tịnh Độ Hoặc Vấn (phá trừ những nghi hoặc về giáo pháp Tịnh Độ).
Thiên-trúc. Vào thời cổ, nước Ấn-độ được người Trung-quốc gọi là Thiên-trúc. Về danh xưng của nước này, theo sách sử Trung-quốc, trước tiên nó được ghi trong sách Sử Kí của Tư Mã Thiên (145-86 tr.TL) với tên là Thân-độc; sau đó, trong sách Hậu Hán Thư của Phạm Việp (389-445), nó được gọi là Thiên-trúc; từ đời Đường (618-907) về sau, nó thường được gọi là Ấn-độ. Trong Phật điển, tên Thiên-trúc được dùng rất nhiều. Ngoài ra, một số danh xưng khác của nước Ấn-độ cũng thấy được dùng rải rác trong các kinh sách thời xưa: Thiên-đốc, Thiên-độc, Càn-đốc, Hiền-đậu, Ấn-đệ-á, v.v... Vào thời trung cổ, nước Ấn-độ chia làm năm khu vực: Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung-ương, gọi là “Ngũ Thiên-trúc” (gọi tắt là “Ngũ-Trúc”), hay “Ngũ Ấn-độ” (gọi tắt là “Ngũ-Ấn”). Do vậy mà có các địa danh như Nam Thiên-trúc, Tây Thiên-trúc v.v...
Thiên Tức Tai (?-1000). Ngài là người nước Ca-thấp-di-la ở phía Bắc Ấn-độ, nguyên cư trú tại chùa Mật-lâm, nước Xà-lan-đạt-la (Jalandhara), cũng phía Bắc Ấn-độ. Năm 980, ngài đã cùng với ngài Thi Hộ sang đến Biện-kinh, được vua Tống Thái-tông triệu kiến và tiếp đãi trọng vọng. Nhà vua liền cho xây viện Dịch-kinh ở mé Tây chùa Thái-bình-hưng-quốc, rồi ban sắc mời ngài cùng với hai ngài Pháp Thiên và Thi Hộ vào đây cư trú để chuyên việc dịch kinh. Ngài được vua ban hiệu là Minh Giáo đại sư. Trước sau ngài đã dịch được 22 bộ kinh, gồm 75 quyển. Ngài viên tịch năm 1000 (dưới triều vua Tống Chân-tông), thụy hiệu là Tuệ Biện. Có thuyết nói rằng, vào năm 987, ngài đã vâng chiếu vua (Thái-tông), đổi tên lại là Pháp Hiền.
Thiên Y (989-1060): tức Nghĩa Hoài, một vị cao tăng đời Tống, Trung-quốc. Ngài họ Trần, quê huyện Vĩnh-gia, tỉnh Triết-giang. Tuổi niên thiếu, ngài vào chùa Cảnh-đức ở kinh thành xin làm chú tiểu để chuẩn bị xuất gia. Khoảng niên hiệu Thiên-thánh (1023-1032) đời vua Tống Nhân-tông (1023-1063), sau khi đỗ các kì khảo hạch kinh điển, ngài được thế độ. Sau đó ngài chu du các nơi cầu học, cuối cùng, ngài đến chùa Thúy-phong ở Cô-tô, y chỉ thiền sư Minh Giác (tức Tuyết Đậu Trọng Hiển, thiền phái Vân Môn), ngày ngày kiếm củi gánh nước, nhưng tâm chí chuyên cần tu học. Một hôm đang gánh nước, bỗng nhiên cây đòn gánh bị gẫy, ngài liền tỏ ngộ, bèn viết bài kệ kiến giải trình lên, được thầy ấn chứng. Sau đó, trước sau ngài đã chủ trì năm ngôi đạo tràng; đầu tiên là chùa Thiết-Phật, sau cùng là chùa Thiên-y, giáo hóa đồ chúng vô cùng đông đảo. Ngài vừa ra sức xiển dương tông chỉ của thiền phái Vân Môn, lại vừa khuyến khích mọi người thực hành pháp môn niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh-độ.
Thiền cơ: là một thuật ngữ trong thiền môn, chỉ cho cái trạng thái mẫn nhuệ của một thiền sinh khi tiếp nhận giáo pháp do thầy trao truyền. Để thu nhận đồ đệ hay khảo nghiệm trình độ tu chứng của môn đồ, thiền sư thường gửi ý tứ vào một hành vi bất chợt hay lời nói vu vơ, vô nghĩa nào đó, rồi quan sát phản ứng của đối tượng, từ đó mà biết được căn cơ của đối tượng.
Thiền định hữu lậu (hữu lậu thiền - hữu lậu định). Các loại thiền định còn ở trong vòng ba cõi như Tứ-thiền, Tứ-vô-sắc, vì chưa giải thoát khỏi ba cõi nên gọi là thiền định hữu lậu. Trái lại, thiền định của các bậc A-la-hán trở lên, đã giải thoát khỏi ba cõi, gọi là thiền định vô lậu.
Thiền tông môn (tông môn thiền): là chỉ cho thiền pháp do Thiền tông truyền.
Thiện căn. Nghiệp lành của thân miệng ý, chắc chắn như rễ cây, không thể nhổ bật lên. Lại có thể lấy tính thiện làm gốc, chứa giữ tất cả hạt giống thiện, phát sinh tất cả mọi hành động thiện, nở hoa kết quả, như rễ cây vậy. Ví dụ, người có khả năng giữ giới không giết hại và bảo vệ sự sống, là chắc chắn đã có thiện căn từ đời trước; và nếu như đời này lại tiếp tục giữ giới hạnh, làm việc thiện cứu giúp chúng sinh, để bồi đắp nhân lành thâm sâu, khiến cho thiện căn càng thêm to lớn, thì phúc đức còn trải cả đời sau.
Thiện Đạo (613-681): là vị cao đồ của ngài Đạo Xước, và là tổ thứ ba tông Tịnh Độ (theo Phật Quang Đại Từ Điển), Trung-quốc. Ngài họ Châu, hiệu là Chung Nam đại sư, quê ở huyện Lâm-truy, tỉnh Sơn-đông (có thuyết nói là huyện Hu-di, tỉnh An-huy). Lúc nhỏ, ngài xuất gia với Minh Thắng pháp sư ở Mật-châu, chuyên trì tụng các kinh Pháp Hoa, Duy Ma, v.v... Về sau, nhân được đọc kinh Quán Vô Lượng Thọ, ngài liền tu tập 16 phép quán (quán mặt trời, quán nước, quán đất, quán cây báu, quán ao báu, v.v...). Năm 28 tuổi, ngài đến chùa Huyền-trung ở Tây-hà, yết kiến đại sư Đạo Xước, nghe giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ; từ đó, dốc lòng chuyên tu pháp môn niệm Phật, chuyên cần tinh tấn, chứng được “niệm Phật tam muội”, ở trong định từng được trông thấy cảnh giới trang nghiêm của cõi Tịnh-độ. Về sau, ngài đến chùa Quang-minh ở Trường-an, truyền bá pháp môn Tịnh Độ cho bốn chúng đệ tử. Mỗi ngày ngài quì niệm Phật, đến khi nào kiệt sức mới nghỉ. Sau khi niệm Phật lại diễn giảng pháp môn Tịnh Độ và khuyến khích đại chúng niệm Phật. Ròng rã hơn 30 năm, ngài không ngủ ở một chỗ nhất định, không nhìn ngó phụ nữ, không nhận lễ bái của các chú sa-di, xa lánh danh lợi, không nhận cúng dường. Ngài viên tịch năm 681, thế thọ 69 tuổi. Có thuyết nói rằng, ở trước chùa Quang-minh có cây liễu, ngài đã leo lên cây và gieo mình xuống tự xả bỏ thân mạng. Trước tác của ngài có Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, Tịnh Độ Pháp Sự Tán, Quán Niệm Pháp Môn, Vãng Sinh Lễ Tán Kệ, v.v...
Thiện Đạo leo lên ngọn cây gieo mình. Theo Phật Quang Đại Từ Điển, đại sư Thiện Đạo là vị tổ thứ ba của tông Tịnh Độ Trung-quốc. Nhưng theo các sách Phật Tổ Thống Kỉ, Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Liên Tông Thập Tam Tổ, đều nói ngài là tổ thứ hai của tông Tịnh Độ. Theo Phật Tổ Thống Kỉ (quyển 26) và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục (quyển 2) ghi chép về giờ phút lâm chung của ngài Thiện Đạo: Bỗng một hôm, đại sư Thiện Đạo gọi mọi người bảo rằng: “Thân này thật đáng chán, tôi sắp trở về cố hương Tây-phương Cực-lạc đây!” Nói xong, ngài leo lên cây liễu ở trước chùa, hướng về phương Tây kì nguyện: “Xin đức Phật A Di Đà tiếp dẫn con. Xin chư vị Bồ-tát hộ niệm, giúp cho con không mất chánh niệm, được vãng sinh về thế giới Cực-lạc!” Kì nguyện vừa xong, ngài liền gieo mình xuống đất tự tuyệt. Vua Đường Cao-tông biết tin, vô cùng cảm kích, bèn ban tên cho ngôi chùa là Quang-minh. Về việc “gieo mình tự tuyệt” này của ngài Thiện Đạo, trong Tục Cao Tăng Truyện (quyển 27) cũng có nói tới.
Thiện Hiện: là dịch ý từ tiếng Phạn “Subhuti”, tức tên của tôn giả Tu Bồ Đề, một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật. Tôn giả là con của một gia đình Bà-la-môn ở thành Xá-vệ. Ngài vốn là bậc có trí tuệ hơn người, nhưng tính tình nóng nảy, bị bạn bè chán ghét, bèn vào núi ở ẩn; rồi được sơn thần dẫn đường tìm đến chỗ Phật ngự. Ngài được Phật chỉ dạy cho biết cái hại của tâm nóng giận, nhân đó mà ăn năn sám hối tội lỗi, dốc lòng tu tập, và chứng quả A-la-hán. Vì vốn có trí tuệ lỗi lạc, tôn giả đã mau lẹ chứng ngộ lẽ KHÔNG, trở thành đương cơ của đức Phật trong các pháp hội Bát Nhã; được mọi người xưng tụng là bậc “giải không đệ nhất” trong giáo đoàn.
Thiện Tài Đồng Tử (Sudhana-sresthi-daraka): là vị Bồ-tát đệ tử Phật, rất nổi tiếng với hành trình tham vấn 53 vị thiện tri thức để cầu đạo Bồ-tát, được ghi chép trong Kinh Hoa Nghiêm. Ngài là con một vị trưởng giả, khi vừa sinh ra đời thì mọi vật trân quí tự nhiên xuất hiện, cho nên được đặt tên là Thiện Tài. Sau ngài phát tâm đến tu học với đức Bồ Tát Văn Thù. Vâng lời dạy của đức Bồ Tát, ngài đi dần về phương Nam của nước Thiên-trúc, tham bái cả thảy 53 vị thiện tri thức, học đủ mọi pháp môn, cuối cùng đến đạo tràng của đức Bồ Tát Phổ Hiền thì thành tựu Phật đạo, chứng nhập pháp giới vô sinh.
Thiện tri thức. Trong Phật giáo, những người chánh trực, có đức hạnh, có khả năng dạy dỗ, hướng dẫn người khác đi theo con đường chánh, bỏ ác làm lành, dứt trừ phiền não, phát triển trí tuệ, v.v... đều được gọi là “thiện tri thức”, hoặc “thiện hữu tri thức”; – ngược lại là “ác tri thức”.
Thiện Vô Úy (Subhakara-simha, 637-735): là một trong những vị tổ sư của Mật tông Trung-quốc, cùng với hai ngài Kim Cương Trí và Bất Không, được người đời xưng là “Khai-nguyên tam Đại-sĩ” (ba vị Bồ-tát thời Khai-nguyên). Ngài là người nước Ô-trà (Odra) ở Đông-Ấn (có người nói là Trung-Ấn), thuộc dòng Sát-đế-lị, vốn là hậu duệ của Cam Lộ Phạn vương (chú ruột của đức Thích Ca). Năm 13 tuổi ngài nối ngôi vua, nhân vì nội loạn, ngài đã nhường ngôi rồi đi xuất gia. Ngài đi về bờ biển phía Nam, gặp được ngài Thù Thắng Chiêu Đề, và ngộ được Pháp-hoa tam-muội. Sau đó ngài đi ngược lên Trung-Ấn, đến chùa Na-lan-đà, cầu học với ngài Đạt Ma Cúc Đa (Dharma-gupta), được trao truyền trọn vẹn pháp Tam-mật Du-già và thọ lễ a-xà-lê quán đảnh, trở thành vị đại học giả của Mật giáo. Năm 716, ngài vâng mệnh sư phụ rời Thiên-trúc, đi xuyên qua vùng Trung-Á để đến Trường-an, được vua Đường Huyền-tông dùng trọng lễ tôn làm quốc sư, mời ở chùa Hưng-phước, rồi chùa Tây-minh. Năm 717 ngài vâng chiếu dịch kinh tại chùa Bồ-đề, và đã dịch được quyển Hư Không Tạng Bồ Tát Năng Mãn Chư Nguyện Tối Thắng Tâm Đà La Ni Cầu Văn Trì Pháp. Và từ đó ngài dốc lòng chuyên việc dịch kinh.
Ngài là người đầu tiên đem Mật giáo truyền vào Trung-quốc; và cùng với ngài Kim Cương Trí, được coi là những người đã có công đặt định cơ sở cho Mật tông Trung-quốc. Thánh điển căn bản của Mật giáo là Kinh Đại Nhật (tức Kinh Đại Tì Lô Giá Na Thành Phật Thần Biến Gia Trì) là do ngài khẩu tụng, và đệ tử của ngài là ngài Nhất Hành (638-727) ghi chép làm thành. Ngoài ra, ngài đã dịch các bộ kinh quan trọng khác thuộc Mật giáo như Tô Bà Hô Đồng Tử Kinh, Tô Tất Địa Yết La Kinh, v.v... Năm 735 ngài dâng biểu xin trở về nước, nhưng chưa được vua chuẩn hứa thì ngài viên tịch, thế thọ 99 tuổi. Vua Huyền-tông vô cùng thương tiếc, truy tặng là Hồng-lô khanh, an táng tại chùa Quảng-kỉ ở Long-môn. Phú pháp đệ tử của ngài có các vị: Nhất Hành, Huyền Siêu, Nghĩa Lâm, Trí Nghiêm, Hỉ Vô Úy, Bất Khả Tư Nghị (người Cao-li), Đạo Từ (người Nhật), v.v...
Thiếu Khang (?-805). Ngài họ Châu, ở núi Tiên-đô, tỉnh Triết-giang, năm sinh năm tịch đều không rõ. Ngài xuất gia lúc mới lên 7 tuổi, 15 tuổi thọ đại giới tại chùa Gia-tường ở Việt-châu, học rộng kinh luận. Về sau ngài đến chùa Bạch-mã ở Lạc-dương, nhân đọc được bài văn “Tây Phương Hóa Đạo” của đại sư Thiện Đạo (613-681), bèn quyết tâm chuyên tu Niệm Phật. Ngài đem số tiền khất thực được, bảo các trẻ con, cứ niệm một câu A Di Đà Phật thì cho một tiền. Một năm sau, tất cả số con trai con gái ấy, hễ trông thấy ngài thì liền niệm A Di Đà Phật. Về sau ngài đến núi Ô-long ở Mục-châu mở đạo tràng Tịnh Độ, qui tụ đồ chúng chuyên niệm Phật. Cứ một câu niệm Phật, một đức Phật xuất ra từ miệng ngài, niệm 10 câu thì xuất ra 10 đức Phật; người đương thời gọi ngài là hậu thân của đại sư Thiện Đạo. Năm 805 ngài thị tịch.
Thọ 1: là chi thứ bảy trong “mười hai nhân duyên”, là cảm giác gây nên do sự tiếp xúc giữa các giác quan (căn) và đối tượng (trần cảnh).
Thọ 2: là nhận lãnh, cảm thọ, là tên của một tâm sở (trong 51 tâm sở), cũng là tên một uẩn (trong 5 uẩn). Khi có sự tiếp xúc hòa hợp giữa căn (giác quan), cảnh (đối tượng) và thức (chủ thể nhận thức), thì sinh ra cảm thọ. Những đối tượng khi tiếp xúc có thể là thuận, nghịch hay không thuận không nghịch; do đó, cảm thọ cũng có thể là vui, khổ, hay không vui không khổ. Cho nên, THỌ là những ảnh hưởng của ngoại giới vào sinh lí, tâm tình, hay tư tưởng, mà sinh ra các cảm giác như đau, ngứa, vui, buồn, lo, mừng, ưa, ghét, v.v... Do những hoàn cảnh có lợi (thuận), hại (nghịch), hay không lợi không hại mà phát sinh những cảm thọ vui, buồn, v.v... tương ứng; từ đó dẫn đến những ý niệm xa lánh điều hại, tìm cầu điều lợi, v.v...; cả một chuỗi dài ái dục liền lạc phát sinh từ “thọ”. Có nhiều cách phân loại về cảm thọ, ở đây xin nêu ra ba cách thường gặp:
a) Hai loại cảm thọ (nhị thọ): - cảm thọ của thân (thân thọ): những cảm thọ của năm thức trước (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân) thuộc về nhục thể, cho nên gọi là “thân thọ”; - cảm thọ của tâm (tâm thọ): cảm thọ của ý thức thuộc về tinh thần, cho nên gọi là “tâm thọ”.
b) Ba loại cảm thọ (tam thọ): - cảm thọ khó chịu (khổ thọ): những cảm thọ khó chịu, buồn phiền, đau khổ sinh ra khi tiếp xúc với những hoàn cảnh ngang trái, bất lợi, xấu xa, ác độc; - cảm thọ dễ chịu (lạc thọ): những cảm thọ dễ chịu, vui thích, sung sướng sinh ra khi tiếp xúc với những hoàn cảnh thuận lợi, hợp ý, thích thú; - cảm thọ trung tính (xả thọ): những cảm thọ trung hòa, không dễ chịu cũng không khó chịu, không đau khổ cũng không vui sướng, hoặc không có cảm giác gì cả.
c) Năm loại cảm thọ (ngũ thọ): - cảm thọ khổ đau (khổ thọ): những cảm giác khó chịu của năm thức trước; - cảm thọ lo lắng (ưu thọ): những lo lắng bồn chồn của ý thức; - cảm thọ sung sướng (lạc thọ): những cảm giác vui sướng của năm thức trước; - cảm thọ mừng vui (hỉ thọ): sự mừng vui của ý thức; - cảm thọ trung tính (xả thọ): những cảm thọ không vui không khổ của thân và tâm.
Ngoài ra, cũng có thuyết chủ trương gom lại, chỉ còn một loại cảm thọ (nhất thọ) mà thôi. Thuyết này cho rằng, tuy thọ có lạc thọ, nhưng khi niềm vui đã tàn thì lại rơi vào đau khổ, cho nên thuộc về “hoại khổ”; tuy có xả thọ, nhưng xét kĩ thì đó chẳng qua là một phương diện của khổ đau (vì niệm niệm liên tục trôi chảy, không có giây phút nào đứng yên), gọi là “hành khổ”; còn khổ thọ thì dĩ nhiên là khổ, được gọi là “khổ khổ”. Tất cả đều là khổ, cho nên chỉ có một loại thọ là khổ thọ mà thôi.
Thọ kí. Nguyên gốc, “thọ kí” là một loại kinh văn có tính cách phân tích giáo thuyết, hoặc hỏi đáp về những phương thức giải thuyết giáo lí; là một trong mười hai bộ kinh. Rồi từ này được chuyển sang dùng để chỉ cho sự chứng đắc hay nơi sẽ tái sinh sau khi chết của các vị đệ tử Phật. Về sau nó được chuyên dùng để chỉ cho những chứng ngôn của Phật về quả Phật mà các vị đệ tử sẽ chứng đắc trong đời vị lai, cùng danh hiệu, quốc độ, v.v... của những vị ấy.
Thổ từ vi kinh, cử túc vi pháp (nói ra lời nào cũng là kinh điển, tỏ ra cử chỉ nào cũng hàm chứa giáo pháp): là một thành ngữ Phật học, có ý nói, các bậc đã giác ngộ – đặc biệt là chư Phật – thì thường trực tỉnh thức, cho nên bất cứ hành vi, cử chỉ, ngôn từ nào phát sinh từ các Ngài cũng là những khuôn thước làm lợi lạc cho mọi người. Chúng ta chỉ cần được thân cận với các Ngài, nhìn ngắm cách đi đứng nằm ngồi của các Ngài, nghe cách nói năng, đối đáp của các Ngài..., là chúng ta hưởng được niềm an lạc vô biên rồi; nếu quyết tâm thành ý tu học với các Ngài thì chắc chắn sẽ đạt được thành quả giác ngộ giải thoát.
Thôi Hạo (381-450): tự là Bá Uyên, quê ở đất Thanh-hà (Bắc-Ngụy), từ thuở nhỏ đã hiếu học, từng theo cha là Thôi Hoằng học hết kinh sử và bách gia chư tử, lập chí thực hiện lí tưởng chính trị của Nho gia trong việc ổn định xã hội. Ông là một nhà thư pháp nổi tiếng ở Bắc-Ngụy, lại giỏi cả thiên văn, lịch số, được vua Minh-nguyên đế (Thác-bạt Tự, tại vị 409-423) phong chức bác sĩ tế tửu. Dưới triều Thái-vũ đế ông được phong tước Đông quận công, sau đánh giặc có công, được thăng thị trung, rồi Phủ quân đại tướng quân, dần dần lên đến chức tư đồ (tể tướng). Ông đa mưu túc kế, tất cả quân quốc đại sự trong triều đình đều do ông thảo hoạch; Thái-vũ đế rất tin tưởng, việc gì cũng nghe theo lời ông. Ông cũng rất tín phụng Đạo giáo, kết giao thân thiết với đạo sĩ Khấu Khiêm Chi; cả hai người này đều được Thái-vũ đế trọng dụng. Hai người đã ra sức chiêu dụ Thái-vũ đế thọ lễ làm tín đồ Đạo giáo, rồi cải niên hiệu thành Thái-bình-chân-quân (440-451) để tỏ lòng trung thành với Thái Thượng Lão Quân. Thôi Hạo vốn rất ghét Phật giáo, cho nên, từ khi vua Thái-vũ đã tin theo Đạo giáo, ông với đạo sĩ Khấu Khiêm Chi lúc nào cũng đi sát với vua để bài xích và nói xấu Phật giáo; làm cho nhà vua ban đầu vốn tin kính Phật pháp, bây giờ lại tỏ ra nghi ngờ Phật giáo. Thấy vậy, Thôi Hạo bèn thúc đẩy vua triệt để tiêu diệt Phật giáo trên toàn lãnh thổ Bắc-Ngụy. Kết quả, vào năm 444, Thái-vũ đế đã hạ chiếu tiêu diệt Phật giáo.
Theo sách Phật Tổ Lịch Đại Thông Tải thì chính sách tiêu diệt Phật giáo một cách triệt để này là chủ trương của Thôi Hạo; mặc dù đạo sĩ Khấu Khiêm Chi không đồng ý, nhưng ông vẫn cương quyết thi hành. Theo chính sách này, tất cả chùa tháp đều bị phá hủy hay biến đổi làm công thự hoặc tư dinh cho các quan; tất cả kinh tượng đều phải đốt ra tro; tất cả tăng ni đều phải hoàn tục hoặc bị chôn sống; tất cả từ vương công cho đến thứ dân, không ai được dung dưỡng tăng ni, nếu thấy tăng ni ẩn trốn ở đâu thì phải khai báo, nếu ai trái lệnh sẽ bị giết cả họ; như thế tức là Phật giáo phải bị tiêu diệt một cách triệt để trên toàn lãnh thổ Bắc-Ngụy! Dù lệnh đã ban hành, nhưng con của vua Thái-vũ là thái tử Thác-bạt Hoảng vẫn một lòng trung kiên với Phật giáo, vẫn giữ thầy mình là đại sư Huyền Cao trong cung, rồi một mặt dâng sớ can vua không nên thi hành chính sách diệt Phật, một mặt mật sai người thân tín đi khắp nơi khẩn báo cho chư tăng ni biết để kịp thời lánh nạn và bảo tồn kinh sách. Thôi Hạo sợ sau này thái tử lên ngôi sẽ bất lợi cho mình, bèn gièm pha với nhà vua, nói rằng: Thái tử đã chống lại mệnh vua, cùng với sư Huyền Cao mưu đồ làm phản, phải trừ đi, nếu không thì về sau sẽ bị thái tử hại. Thế là ngay trong năm đó (444), thái tử Hoảng đã bị bắt giam và bị giết ngầm trong ngục. Đại sư Huyền Cao cũng bị bắt đem treo cổ chết ở một góc kinh thành.
Người vợ của Thôi Hạo thường tụng kinh Kim Cang. Một hôm Hạo trông thấy, liền giật quyển kinh đem đốt, bỏ tro ở cầu tiêu. Mỗi khi ra đường, hễ trông thấy có kinh tượng rơi rớt ở đâu, liền dừng xe lại và tiểu tiện trên kinh tượng ấy. Hạo vốn khéo tay, đã viết chữ đẹp lại khắc chữ lên đá cũng giỏi. Khi ở chức tể tướng, ông đã được vua Thái-vũ giao phó trọn quyền hành trong triều đình, được xem tất cả mọi tài liệu bí mật quốc gia tàng trữ trong văn khố. Vua Thái-vũ lại sai ông soạn bộ quốc sử của Bắc-Ngụy (gồm 30 quyển). Vào năm 450, bè đảng tâng bốc, khuyên ông nên khắc bộ quốc sử ấy lên bia đá để cho mọi người thấy rõ lòng ngay thẳng của người chép sử. Ông rất đắc ý, liền làm y như lời. Bộ sử khắc xong được đặt ở đàn Giao (nơi triều đình cúng tế trời đất), mọi người đều đọc. Các quan lại người Tiên-ti đọc bộ sử ấy, thấy rõ ông có ý miệt thị tộc người Tiên-ti, nên đã bí mật tâu trình lên Thái-vũ đế, nói ông đã viết bộ quốc sử ấy để nói xấu các hoàng đế và triều đình Bắc-Ngụy. Vua tức giận vô cùng (vì triều đại Bắc-Ngụy là do người Tiên-ti sáng lập, các vua và phần đông triều thần đều là người Tiên-ti), lập tức sai Hữu-ti bắt Thôi Hạo xử tội.
Việc đã quá rõ, Hạo không biện bạch gì được. Ông liền bị nhốt vào tù xa, đem để bên lề đường ở góc Nam kinh thành. Vua cho vệ sĩ và người đi đường tự do đến tiểu tiện vào mặt ông. Bấy giờ ông mới biết nghĩ lại, bèn than rằng: “Đây chính là quả báo do ta đã phá hủy và tiểu tiện trên kinh tượng!” Sau đó Hạo bị giết bằng cách chém ngang lưng; cùng với năm họ gồm trên 120 người cũng đều bị giết hết. Năm đó ông được 70 tuổi.
Thối-pháp-tướng. Các vị A-la-hán mà căn tánh trì trệ, nếu gặp ác duyên thì có thể bị trở lui quả Bất-hoàn, gọi là “Thối-pháp-tướng”. Theo tông Thành Thật, đây là địa vị thứ 19 (trong 27 địa vị) trên tiến trình tu tập của hành giả Thanh-văn thừa.
Thông giới. Ba nhóm tịnh giới (tam tụ tịnh giới), cả xuất gia và tại gia đều thọ trì được, cho nên gọi là “thông giới”.
Thông-lĩnh: là dãy núi lớn nằm ở phía Tây-Nam tỉnh Tân-cương, trên cao nguyên Pamir, cao trên dưới 8.000m, là cái trục chính của các mạch núi vùng Trung-Á, chia vùng Tây-vực ra làm hai khu vực Đông và Tây. Từ xưa nó vẫn được gọi là cái nóc nhà của thế giới. Núi này, Nam tiếp giáp với Ấn-độ và núi Hi-mã-lạp, Đông tới Tân-cương, Bắc nối liền với dãy núi Thiên-sơn, Tây giáp A-phú-hãn. Theo Đại Đường Tây Vực Kí, vì thổ sản chính của núi này là cây hành, vả lại, toàn núi màu xanh biếc, cho nên được gọi tên là Thông-lĩnh. (Chữ Hán, “thông” (蔥) nghĩa là cây hành, cũng có nghĩa là xanh biếc, xanh ngắt.) Ngày xưa, sự giao thông qua lại giữa Trung-quốc và các nước vùng Tây-vực cùng Ấn-độ (trong đó có các phái đoàn chư tăng truyền giáo), đều xuyên qua Thông-lĩnh. Ngài Huyền Trang Tây hành sang Ấn-độ cũng từng đi qua con đường này.
Thơ tự: cũng gọi là “thơ tự Phạn học tăng”, là một trong chín vị pháp sư thuộc hội đồng phiên dịch ở Trung-quốc thời xưa (xem mục “Dịch Kinh”), có nhiệm vụ nghe đọc Phạn văn, rồi theo âm tiếng Phạn mà viết thật đúng y ra chữ Hán.
Thời A Hàm (A Hàm thời). Theo sự phân lập của tông Thiên Thai, đây là thời kì thứ hai trong năm thời thuyết giáo của đức Phật. Sau thời Hoa Nghiêm, đức Phật đã lượng định được căn cơ của chúng sinh đương thời, cho nên trong 12 năm tiếp theo, Ngài đã du hóa khắp mười sáu nước lớn của xứ Ấn-độ, giảng nói bốn bộ kinh A Hàm, giáo nghĩa thấp cạn, thích hợp với căn cơ tiểu thừa; ví như mặt trời lên hơi cao, chiếu xiên vào các hang hốc – thuật ngữ Phật học gọi là “nhật chiếu u cốc”. Trong suốt thời kì này đức Phật chỉ nói kinh A Hàm; lấy kinh làm tên, cho nên gọi là thời A Hàm. Thời này bắt đầu tại vườn Nai, cho nên cũng gọi là thời Lộc-uyển. Về ý nghĩa, giáo pháp mà đức Thích Tôn tuyên thuyết trong thời kì này, mang tính chất phương tiện, để dắt dẫn những đối tượng có căn cơ thấp cạn, cho nên cũng được gọi là thời dụ dẫn (nghĩa là hướng dẫn làm cho ham thích).
Thời Bát Nhã (Bát Nhã thời). Theo tông Thiên Thai, đây là thời thuyết giáo thứ tư (sau thời Phương Đẳng) của đức Phật, kéo dài trong 22 năm. Thời kì này Phật nói các bộ kinh thuộc hệ Bát Nhã, cho nên gọi là thời Bát Nhã. Nội dung thuyết giáo là nêu rõ tính không của vạn pháp, phá trừ pháp chấp của tiểu thừa, cùng sự phân biệt, thiên chấp giữa đại thừa và tiểu thừa, dung hợp hai thừa làm một; lại từ tính “không” dẫn tới tính “bất không” của lí trung đạo; ví như mặt trời ở vào lúc gần đúng ngọ (nhật chiếu ngung trung).
Thời Hoa Nghiêm (Hoa Nghiêm thời): là một trong năm thời thuyết giáo của đức Thích Tôn, do tông Thiên Thai phân lập. Trong suốt thời gian 21 ngày sau khi thành đạo, đức Phật chỉ nói kinh Hoa Nghiêm. Giáo lí kinh này được gọi là loại giáo lí “nhật xuất tiên chiếu” (mặt trời mới mọc, chiếu sáng trước tiên trên những nơi cao và trực diện nhất), hoặc “nhật chiếu cao sơn” (mặt trời chiếu trên đỉnh núi cao), là giáo lí nhất thừa, khác biệt với giáo lí tam thừa, nhưng bao trùm cả tam thừa; đối tượng thuyết pháp gồm toàn chư vị Bồ-tát lớn và những phần tử ưu tú có cơ trí siêu việt, cho nên được tông Thiên Thai lập riêng ra một thời, gọi là thời Hoa Nghiêm. Đây là thời thuyết pháp đầu tiên sau khi thành đạo, đức Thích Tôn nói ngay về cái tuệ giác siêu việt của Phật mà Ngài vừa chứng được, để thử xem giáo pháp ấy có thích hợp với căn cơ của chúng sinh hay không, cho nên thời Hoa Nghiêm này cũng được gọi là thời “nghĩ nghi” (nghĩa là thử nghiệm). Lại nữa, kinh Hoa Nghiêm gồm có hai phần: Phần trước gồm 38 phẩm đầu (từ phẩm “Thế Chủ Diệu Nghiêm” đến phẩm “Li Thế Gian”), Phật nói ở 8 pháp hội, trong thời gian 21 ngày ngay sau khi thành đạo, thính chúng gồm toàn bậc trí tuệ thượng thừa, chưa có chúng Thanh-văn; Phần sau gồm 1 phẩm chót (phẩm 39, “Nhập Pháp Giới”), Phật nói ở pháp hội thứ 9, tại rừng Thệ-đa. “Thệ-đa” là tiếng phiên âm khác của “Kì-đà” (Jeta), là tên của vị thái tử con vua Ba Tư Nặc, nước Kiều-tát-la. Vậy, rừng Thệ-đa tức là vườn Kì-thọ-Cấp-cô-độc ở thành Xá-vệ, nơi có tu viện Kì-viên. Lúc tu viện này được xây dựng thì chúng Thanh-văn đã có rồi; vì vậy, khi Phật nói phẩm “Nhập Pháp Giới” cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm nơi rừng Thệ-đa, thì có sự hiện diện của các vị đại A-la-hán như Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, v.v... trong pháp hội. Nhưng quí vị A-la-hán này vẫn không lĩnh hội được giáo nghĩa Hoa Nghiêm.
Thời nhà Hán chưa có người bản xứ xuất gia. Sự việc “có cả ngàn người Hán đã xuất gia trong thời Hán Minh đế” mà một số học giả Trung-quốc thường nói tới, có lẽ không đúng; vì trong thời nhà Hán, người Trung-quốc chưa được phép xuất gia, như giáo sư Nguyễn Lang nói: “Như thế rõ ràng là trung tâm Bành-thành được thành lập sớm hơn trung tâm Lạc-dương: Chính ở đây vào năm 65 đã có một đoàn thể Phật giáo vừa tăng già vừa cư sĩ. Tăng già đây chắc chắn là những vị tăng già ngoại quốc, bởi lẽ người Trung-hoa trong đời Hán chưa được phép xuất gia. Cao Tăng Truyện trích lời sớ của Vương Độ đời Tấn: ‘Từ khi Phật giáo được du nhập chỉ nghe nói đến các sư Tây-vực được phép làm chùa thờ Phật, người Hán không được phép xuất gia.’ ...” (Nguyễn Lang, Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, q. 1, Lá Bối in lần thứ hai tại Paris, năm 1977, trang 23)
Lại nữa, gần đây, trong cuốn Lịch Sử Chùa Tháp Trung Quốc (tức PHÁP TẠNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM tập 79, do cư sĩ Tuệ Khai trích dịch từ bộ Hiện Đại Phật Giáo Học Thuật Tòng San), bài “Khái Thuật về Chùa Tháp Thời Bắc Triều”, cũng nói: “Bởi nhân Chu Sĩ Hành, người Hán đầu tiên đi xuất gia vào đầu nhà Ngụy. Từ đó về sau người tin Phật càng nhiều, đồng thời họ y chiếu theo pháp đức Phật chế mà cạo đầu làm tăng...” (trang 73, ấn bản năm 2546 Phật lịch). Và trong bộ Phật Quang Đại Từ Điển, mục “Chu Sĩ Hành” cũng có nói, Chu Sĩ Hành, đời Tào-Ngụy (220-265 – sau nhà Hán) là người Trung-quốc đi xuất gia làm tăng sớm nhất.
Thời Pháp Hoa Niết Bàn (Pháp Hoa Niết Bàn thời). Đây là thời cuối cùng trong năm thời thuyết giáo của đức Thích Tôn (theo sự nhận định của tông Thiên Thai), gồm khoảng 8 năm và một ngày đêm trước giờ phút nhập niết bàn. Trong thời kì này, đức Phật giảng nói hai bộ kinh Pháp Hoa và Niết Bàn, cho nên gọi là thời Pháp Hoa Niết Bàn. Giáo nghĩa của thời kì này là hiển dương tính rốt ráo của Phật thừa, khiến chúng sinh đều chứng nhập tri kiến Phật; cùng khẳng định tất cả chúng sinh vốn đều có tính giác, cho nên đều sẽ thành Phật – dù có phải đọa địa ngục Vô-gián hàng vô số kiếp, nhưng cuối cùng, chúng sinh ấy vẫn được thành Phật.
Kinh Đại Bát Niết Bàn (bản Bắc) đã đem tiến trình giáo hóa của đức Phật ví dụ như diễn tiến của sự tinh chế sữa tươi thành thực phẩm hay dược phẩm, theo đó:
1) Toàn thể lời Phật dạy được bao gồm trong Mười Hai Bộ Kinh – được ví dụ như thứ sữa nguyên chất mới vắt ra từ thân thể con bò (nhũ vị);
2) Từ Mười Hai Bộ Kinh rút ra phần cốt yếu là Khế Kinh (Tu-đa-la) – ví như từ sữa nguyên chất tinh chế ra chất “lạc” (lạc vị);
3) Từ Khế Kinh rút ra phần cốt yếu là các kinh Phương Đẳng – ví như từ chất lạc tinh chế ra chất “sinh tô” (sinh tô vị);
4) Từ kinh Phương Đẳng rút ra phần cốt yếu là các kinh Bát Nhã Ba La Mật – ví như từ chất sinh tô tinh chế ra chất “thục tô” (thục tô vị);
5) Từ hệ Bát Nhã rút ra cốt yếu là kinh Niết Bàn – ví như từ chất thục tô tinh chế ra chất “đề hồ” (đề hồ vị).
Tất cả được gọi chung là “Niết Bàn ngũ vị” (năm mùi vị theo kinh Niết Bàn).
Tông Thiên Thai lại đem thuyết “Niết Bàn ngũ vị” này để phối hợp với trình tự năm thời thuyết giáo của Phật; theo đó: thời Hoa Nghiêm là nhũ vị; thời A Hàm là lạc vị; thời Phương Đẳng là sinh tô vị; thời Bát Nhã là thục tô vị; và thời Pháp Hoa Niết Bàn là đề hồ vị. Lại nữa, trong kinh Hoa Nghiêm cựu dịch (do pháp sư Phật Đà Bạt Đà La dịch vào thời Đông-Tấn), có đưa ra thuyết “Hoa Nghiêm tam chiếu”, đem thứ lớp chiếu sáng của mặt trời ví dụ cho quá trình giáo hóa của đức Phật, theo đó, có ba giai đoạn:
1) Giai đoạn đầu, Phật giáo hóa cho hàng Bồ-tát, như mặt trời mới mọc, chiếu lên các đỉnh núi cao, gọi là “tiên chiếu cao sơn”;
2) Giai đoạn giữa, Phật giáo hóa cho hàng Duyên-giác, như mặt trời đã lên cao, chiếu sáng vào các hang hốc, gọi là “thứ chiếu u cốc”;
3) Giai đoạn sau, Phật giáo hóa cho hàng Thanh-văn và hạng người căn trí thấp kém, như mặt trời chiếu sáng khắp mặt đất bằng, gọi là “hậu chiếu bình địa”.
Tông Thiên Thai lại dẫn thuyết “Hoa Nghiêm tam chiếu” này để đem phối hợp với năm thời thuyết giáo của đức Phật; theo đó:
1) Thời Hoa Nghiêm được ví với lúc mặt trời mới mọc, gọi là thời “nhật xuất tiên chiếu”, hay “nhật chiếu cao sơn”;
2) Thời A Hàm ví như mặt trời lên cao hơn, gọi là thời “nhật chiếu u cốc”;
3) Thời Phương Đẳng ví như mặt trời đã lên thật cao trên bầu trời, gọi là thời “nhật chiếu bình địa”;
4) Thời Bát Nhã ví như mặt trời vào khoảng trước giờ ăn trưa, tức từ 9 tới 11 giờ (giờ Tị), gọi là thời “nhật chiếu ngung trung”, hay nói tắt là “ngung trung” (còn hơi xéo, tức trước giờ ăn trưa);
5) Thời Pháp Hoa Niết Bàn ví như mặt trời đứng bóng, tức giờ đúng Ngọ, gọi là thời “nhật luân đương ngọ”, hay nói tắt là “chánh trung” (ngay chính giữa, tức đúng giờ ăn trưa).
Thời Phương Đẳng (Phương Đẳng thời). Đây là thời thuyết giáo thứ ba (theo tông Thiên Thai), tiếp theo thời A Hàm. “Phương đẳng” là chỉ cho loại giáo pháp có nghĩa lí sâu xa, rộng lớn, bình đẳng, nên cũng gọi là “phương quảng, đại phương quảng, hay đại phương đẳng”. Nói một cách chính xác, “phương đẳng” là giáo pháp đại thừa, là loại giáo pháp “nhật chiếu bình địa” (mặt trời lên đã cao, chiếu xuống mặt đất bằng). Nếu nói chính xác hơn nữa, thì “phương đẳng” là buổi đầu của thời kì nói pháp đại thừa. Thời này kéo dài trong 8 năm, đức Phật đề cao giáo pháp đại thừa; khuyến khích mọi người từ bỏ thiên kiến cùng những tri kiến thấp cạn của tiểu thừa, dũng mãnh phát tâm tu học giáo pháp đại thừa.
Thủ 1: là chi thứ chín trong “mười hai nhân duyên”, là bám giữ các đối tượng luyến ái.
Thủ 2: nghĩa là bám chắc, giữ thật, là tính chất của loại phiền não tham dục. Tham cầu năm thứ dục lạc (tài, sắc, danh, thực, thụy, hoặc sắc, thanh, hương, vị, xúc), gọi là “dục thủ”. Cố chấp cho là đúng các quan điểm sai lầm của thế tục, của tà sư ngoại đạo, gọi là “kiến thủ”. Cố chấp cho là đúng các loại luật lệ vô lí, mê tín dị đoan, gọi là “giới cấm thủ”. Bám giữ những lời nói sai quấy, không phù hợp chánh lí, không đúng sự thật v.v... của mình, cố chấp cho là đúng, bắt người khác phải nghe theo, gọi là “ngã ngữ thủ”. Lại nữa, con người (chúng sinh) là chủ thể, có ý thức bám giữ, gọi là “năng thủ”; tất cả các đối tượng ngoài con người là khách thể bị bám giữ bởi con người, gọi là “sở thủ”.
Thủ-hộ-tướng. Luôn luôn giữ chánh định, không để tán thất, gọi là “Thủ-hộ-tướng”. Theo tông Thành Thật, đây là địa vị thứ 20 (trong 27 địa vị) trên tiến trình tu tập của hành giả Thanh-văn-thừa.
Thuận nhẫn. Chữ “nhẫn” nghĩa là an trú ở địa vị đã đạt được; chữ “thuận” nghĩa là tùy thuận chân lí, không trái ngược chân lí. “Thuận nhẫn” nghĩa là tùy thuận chân lí, nhờ vào chính sự tư duy của mình mà tỏ ngộ. “Thuận nhẫn tâm thức vô sở thủ” nghĩa là an trú nơi tâm vắng lặng.
Thúc Ngao đập rắn (truyền thuyết Trung-quốc). Thúc Ngao tên là Vỉ Ngao, tự Tôn Thúc, nên người ta vẫn gọi là Tôn-thúc Ngao. Vỉ Ngao là con Vỉ Giả, làm quan tư mã dưới triều vua Trang vương, nước Sở, thời Xuân Thu (770-476 tr. TL). Khi Sở Trang vương đem quân đi đánh đất Lục-hồn, ở trong triều, quan lịnh doãn (như chức tể tướng, đứng đầu các quan trong triều đình) là Đấu Việt Tiêu làm phản, muốn cướp ngôi; bèn nổi loạn, giết quan tư mã là Vỉ Giả, rồi đem quân ra ngoài đánh nhau với Sở Trang vương. Vỉ Giả bị giết, con là Tôn-thúc Ngao (tức Vỉ Ngao) lập tức đem mẹ chạy lánh nạn, sang đất Mộng-trạch làm ruộng sống qua ngày. Một hôm, Tôn-thúc Ngao vác cày ra ruộng, thấy ở dưới ruộng có một con rắn hai đầu, giật mình kinh sợ, than rằng: “Ta nghe nói, rắn hai đầu rất độc hại, ai trông thấy tất phải chết. Vậy ta khó mà sống được!” Ông lại nghĩ thầm: Nếu để con rắn này sống, sau này lỡ có ai trông thấy, chắc chắn sẽ nguy hiểm cho người ta. Chi bằng ta hãy gánh chịu một mình mà thôi. Nghĩ vậy, ông bèn đập chết con rắn, đem chôn ở bờ ruộng. Ông về nhà khóc với mẹ, lo rằng, mình không còn sống để nuôi mẹ được. Bà mẹ nghe câu chuyện ông thuật lại thì mừng lắm, bảo rằng: “Người ta làm được điều thiện, trời đất tất phù hộ cho. Nay con sợ con rắn hai đầu di hại cho người sau mà giết chôn đi, thì đó là điều thiện rất lớn. Con sẽ không chết mà còn được phước nữa!” Bấy giờ Sở Trang vương đã giết được Đấu Việt Tiêu và bè đảng phản loạn, đang tìm người tài đức để thay vào chức lịnh doãn. Có người nhớ tới Tôn-thúc Ngao, bèn tiến cử với vua Trang vương. Nhà vua suy nghĩ, Vỉ Giả đã là bậc tài trí, thì người con chắc chắn cũng không kém gì; bèn cho sứ giả đến Mộng-trạch triệu Tôn-thúc Ngao vào triều. Bà mẹ cười bảo: “Đó là vì con giết rắn mà được phước!”. Tôn-thúc Ngao lại đem theo mẹ cùng trở về kinh thành nước Sở. Vua Trang vương nói chuyện với Tôn-thúc Ngao suốt một ngày, rất lấy làm hài lòng, liền cho làm chức lịnh doãn.
Thùy tích. Chữ “thùy” là rủ xuống. Trong thiền môn thường dùng chữ này để tỏ ý tôn kính đối với bậc tôn trưởng, như từ “thùy niệm” nghĩa là bậc tôn trưởng rủ lòng tưởng nghĩ đến kẻ hậu học. Chữ “tích” là dấu vết. “Thùy tích” là một thuật ngữ Phật học, dùng để chỉ cho cái thân mà chư Phật và Bồ-tát thị hiện ra trong thế gian để hóa độ chúng sinh.
Thủy Sám. Quốc sư Ngộ Đạt (811-883) đời Đường, Trung-quốc, 11 tuổi xuất gia, 13 tuổi đã đăng đàn thuyết pháp. Lớn lên trở thành một vị pháp sư uyên thâm, biện tài đầy đủ, được vua Đường Ý-tông (860-874) phong làm quốc sư; lại ban cho một pháp tòa quí giá, làm toàn bằng gỗ trầm hương; do đó mà sinh niềm đắc ý, tức thì, trên đầu gối mọc một mụt ghẻ mặt người, đau đớn không kể xiết. Theo sự tích, vào thời Tây-Hán (206 tr. TL - 7 s. TL), có quan ngự sử Triều Thố, bị một viên quan đồng triều là Viên Áng giết oan. Sau đó mười đời liên tiếp, các hậu thân của Viên Áng đều làm vị cao tăng tu hành tinh tấn, giới luật tinh nghiêm, Triều Thố nhiều đời vẫn theo báo thù mà chưa có cơ hội. Đời này, ngài Ngộ Đạt cũng chính là hậu thân của Viên Áng, nhân được các vua Đường kính trọng và biệt đãi mà sinh tâm tự mãn, khởi niệm danh lợi, làm cho tổn hại phước đức, khiến cho oan nghiệp có cơ hội xâm nhập báo thù, sinh làm mụt ghẻ mặt người nơi đầu gối; có đầy đủ mắt, miệng, biết ăn uống như người, đau đớn vô cùng, bao nhiêu danh y đều không chữa trị được. Về sau, nhờ gặp được tôn giả Ca Nặc Ca giúp đỡ, dùng nước pháp tam muội rửa đi, mụt ghẻ mới lành. Nhân cảm khái về nghiệp chướng lâu đời và nặng nề của chúng sinh, ngài đã biên soạn sách Từ Bi Thủy Sám Pháp (gọi tắt là Thủy Sám) để cho hậu thế theo đó mà thành tâm sám hối tội lỗi nhiều đời, tiêu trừ nghiệp chướng oan khiên. – Xin lưu ý: Từ trước đến nay, người Việt thường đọc nhầm tên của hai viên quan đời Tây-Hán là Viên Án và Triệu Thố, đúng ra phải đọc là Viên Áng (袁盎) và Triều Thố (晁錯).
Thuyết “Ba đời chứng đạo” (tam sinh chứng đạo). Thuyết “ba đời chứng đạo” cũng tức là thuyết “ba đời thành Phật” (tam sinh thành Phật) do ngài Trí Nghiễm (602-668), tổ thứ hai của tông Hoa Nghiêm, đề xướng đầu tiên, và sau đó được ngài Pháp Tạng (613-712), tổ thứ ba của tông Hoa Nghiêm, tập đại thành (nhưng tác giả trình bày có khác chút ít). Thuyết này chủ trương hành giả tu tập trải qua ba đời có thể thành Phật. Ba đời gồm có:
1) Đời kiến văn (kiến văn sinh), cũng gọi là “kiến văn vị”: Hành giả quán chiếu thấy được ba ngôi báu Phật Pháp Tăng, các bậc thiện hữu tri thức, cùng kinh điển trong cảnh giới Hoa-nghiêm biệt giáo Nhất-thừa, được nghe giáo pháp do đức Như Lai nói và những lời dạy dỗ của Tăng bảo cùng thiện hữu tri thức, huân tập thành chủng tử vô tận, thành tựu được một phần thiện căn giải thoát.
2) Đời giải hành (giải hành sinh), cũng gọi là “giải hành vị”: Đã thấy nghe cảnh giới Nhất-thừa, do pháp lực đã được huân tập đó mà xả bỏ được mọi phiền não hệ lụy, có được kiến giải và tu hành các pháp môn, đạt được sức hiểu biết thù thắng về pháp giới Nhất-thừa, thành tựu viên mãn các công hạnh tự mình đã tu hành.
3) Đời chứng nhập (chứng nhập sinh), cũng gọi là “chứng nhập vị”: Giải và hành đã viên mãn, hành giả chứng được quả Phật, tức thành tựu quả vị nhiệm mầu, viên mãn cùng cực.
Mặt khác, trong bộ Hoa Nghiêm Kinh Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao, ngài Trừng Quán (738-839), tổ thứ tư của tông Hoa Nghiêm, có nêu một cách giải thích khác về thuyết “ba đời chứng đạo”:
1) Đời kiến văn (kiến văn sinh): Chúng sinh trong đời trước từng được thấy nghe giáo pháp Kinh Hoa Nghiêm, nhưng đã không tin nhận, lại còn sinh tâm hủy báng, cho nên đời này phải chiêu cảm quả báo “tám nạn”, đọa vào địa ngục đau khổ cùng cực; sau nhờ được đức Như Lai dùng ánh sáng thanh tịnh chiếu soi, do đã có hạt giống lành thấy nghe Kinh Hoa Nghiêm ở đời trước, liền được thoát khỏi cảnh khổ địa ngục, sinh lên cõi trời Đâu-suất tu hành thành đạo, và ngay trong đời đó vượt lên bậc Thập-địa.
2) Đời giải hành (giải hành sinh): Thiện Tài đồng tử ban đầu gặp đức Bồ Tát Văn Thù ở phía Đông Phúc-thành, mong nhờ khai mở tâm trí mà tin hiểu Phật pháp. Rồi vâng theo lời dạy của đức Bồ Tát, Thiện Tài đã đi khắp nơi để xin học hỏi Phật pháp với chư vị thiện tri thức, ở đâu cũng được khai thị pháp môn tu hành. Cuối cùng, Thiện Tài được tham kiến đức Bồ Tát Phổ Hiền, được hội nhập hạnh nguyện rộng lớn để tu hành hạnh Bồ-tát, viên mãn đạo quả Giác ngộ cao tột của chư Phật. Như thế là chỉ trong một đời mà cả trí tuệ (giải) và công phu tu hành (hành) đều đạt đến chỗ viên mãn.
3) Đời chứng nhập (chứng nhập sinh): Tôn giả Xá Lợi Phất ở nơi rừng Thệ-đa (tu viện Kì-viên, thành Xá-vệ), đã khiến cho sáu ngàn vị tì kheo quán sát công đức vô lượng, đầy đủ trang nghiêm của Bồ Tát Văn Thù. Nhờ đó mà sáu ngàn vị tì kheo kia có được tâm ý thanh tịnh, lòng tin hiểu kiên cố, liền đảnh lễ đức Văn Thù, nguyện có được thân tướng tốt đẹp như đức Văn Thù. Lúc đó Bồ Tát Văn Thù liền diễn nói pháp đại thừa để khai thị cho họ, khiến cho họ thành tựu lòng tin sâu sắc, tuệ giác bừng sáng, chỉ ngay trong một đời đó mà chứng nhập thể tánh pháp giới.
Thuyết Giả Bộ (Prajnapti-vadin). Sau khi Đa Văn Bộ được thành lập không lâu, từ Đại Chúng Bộ lại tách ra một bộ phái nữa, gọi là Thuyết Giả Bộ. Chủ trương của bộ phái này không giống với chủ trương của Thuyết Xuất Thế Bộ (tất cả pháp xuất thế gian đều chân thật), lại cũng không giống với chủ trương của Nhất Thuyết Bộ (tất cả pháp thế và xuất thế gian đều không chân thật, chỉ có giả danh); mà chủ trương rằng, các pháp thế hay xuất thế gian đều có một ít phần là giả. Tương truyền, khi đức Phật còn tại thế, tôn giả Đại Ca Chiên Diên (Kaccayana) đã từng tạo luận để phân tích, giải thích giáo pháp của Phật dạy. Đến khoảng 250 năm sau ngày Phật nhập diệt, tôn giả Đại Ca Chiên Diên đã từ hồ A-nậu-đạt (Anavatapta, trong vùng núi Tuyết) đến nước Ma-kiệt-đà, xuất hiện trong Đại Chúng Bộ, xướng xuất chủ trương rằng, mười hai xứ và mười tám khu vực đều là giả danh, còn năm uẩn là chân thật; cứ theo đó mà phân biệt Ba Tạng thánh giáo. Những người tin theo chủ trương này, đã tự thành lập Thuyết Giả Bộ (cũng gọi là Phân Biệt Thuyết Bộ - Vibhajya-vandi), tách khỏi Đại Chúng Bộ. Cứ theo thuyết này thì Thuyết Giả Bộ là do đệ tử của tôn giả Đại Ca Chiên Diên hoằng dương. Do chủ trương “thế giới hiện thật một mặt là chân, một mặt là giả” của bộ phái này, đã diễn thành giáo nghĩa “hai mặt chân vọng” của thế giới quan đại thừa trong Luận Đại Thừa Khởi Tín.
Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvasti-vadin): cũng gọi là Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, gọi tắt là Hữu Bộ; lại có tên là Thuyết Nhân Bộ; và nói theo âm tiếng Phạn là Tát Bà Đa Bộ. Vì bộ phái này chủ trương tất cả các pháp trong ba đời đều thật có, cho nên có tên là Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Sáng tổ của bộ phái này là trưởng lão Ca Đa Diễn Ni Tử, sống vào khoảng đầu thế kỉ thứ 3 PL (xem mục “Ca Đa Diễn Ni Tử”). Thượng Tọa Bộ từ trước vẫn thiên trọng Kinh tạng và Luật tạng, nhưng đến đây, Ca Đa Diễn Ni Tử chống lại truyền thống ấy, chuyển sang chú trọng hoằng dương Luận tạng, tự thành lập một bộ phái riêng, đối lập với Thượng Tọa Bộ. Sau khi xảy ra sự phân rẽ này, Thượng Tọa Bộ đã dời vào Tuyết-sơn lập cứ địa, còn Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ thì vẫn đặt căn cứ tại Ca-thấp-di-la, gây thanh thế vững mạnh, lan dần sang nước Kiền-đà-la, rồi bao trùm cả Bắc, Tây-Bắc và Trung Ấn-độ, luôn cả các nước Tây-vực, tỏa rộng ra đến các nước phương Nam và phương Đông như Nam-dương, Đông-dương và Trung-quốc, cực thịnh một thời, địa bàn rộng lớn không bộ phái nào sánh bằng. Bộ phái này cường thịnh đến nỗi nó đã được coi là đại diện cho toàn thể Thượng Tọa Bộ.
Tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử đã soạn bộ A Tì Đạt Ma Phát Trí Luận để làm giáo lí nền tảng cho Hữu Bộ. Ngoài Phát Trí Luận ra, giáo nghĩa của Hữu Bộ còn được y cứ vào sáu bộ luận khác nữa, đó là: A Tì Đạt Ma Tập Dị Môn Túc Luận (tôn giả Xá Lợi Phất soạn hồi thời Phật còn tại thế), A Tì Đạt Ma Pháp Uẩn Túc Luận (tôn giả Đại Mục Kiền Liên soạn hồi thời Phật còn tại thế), A Tì Đạt Ma Thi Thiết Túc Luận (tôn giả Đại Ca Chiên Diên soạn hồi thời Phật còn tại thế), A Tì Đạt Ma Thức Thân Túc Luận (tôn giả Đề Ba Thiết Ma soạn, khoảng hơn 100 năm sau ngày Phật nhập diệt), A Tì Đạt Ma Phẩm Loại Túc Luận và A Tì Đạt Ma Giới Thân Túc Luận (tôn giả Thế Hữu soạn – Thế Hữu ở đây khác với Thế Hữu là tác giả của Dị Bộ Tông Luân Luận). Cả sáu bộ luận này đều được soạn trước khi bộ Phát Trí Luận ra đời. Các vị luận sư đời sau cho rằng, sáu bộ luận trên đã giúp tư tưởng để hình thành bộ Phát Trí Luận, cho nên chúng được gọi là “túc luận” (tức là “lục túc luận” – chữ “túc” ở đây nghĩa là nâng đỡ, phần phụ); còn bộ Phát Trí Luận thì được gọi là “thân luận” (chữ “thân” ở đây nghĩa là chính yếu). Đó là bảy bộ luận căn bản làm nền tảng cho giáo lí Hữu Bộ.
Vì có liên quan đến bộ Phát Trí Luận, những bộ luận sau đây cũng được xếp vào kho luận thư của Hữu Bộ: A Tì Đạt Ma Đại Tì Bà Sa Luận (500 vị A-la-hán soạn), A Tì Đàm Tâm Luận (tôn giả Pháp Thắng soạn), A Tì Đàm Tâm Luận Kinh (tôn giả Ưu Ba Phiến Đa soạn), Tạp A Tì Đàm Tâm Luận (tôn giả Pháp Cứu soạn), A Tì Đàm Câu Xá Luận (tôn giả Thế Thân soạn), A Tì Đạt Ma Thuận Chánh Lí Luận và A Tì Đạt Ma Hiển Tông Luận (tôn giả Chúng Hiền soạn). Giáo nghĩa căn bản của Hữu Bộ là: Ba đời thật có, thể của pháp hằng hữu. Ba đời thật có tức là quá khứ, vị lai và hiện tại đều giống nhau, đều có thật thể, thuật ngữ Phật học gọi là “thời nhất thiết hữu”. Thể của pháp hằng hữu tức là tất cả các pháp hữu vi và vô vi đều có thật thể, thuật ngữ Phật học gọi là “pháp nhất thiết hữu”.
Tuy thiên trọng Luận tạng, Hữu Bộ cũng chú trọng đến giới luật. Các bộ luật mà bộ này truyền trì gồm có: Thập Tụng Luật, Tát Bà Đa Tì Ni Tì Bà Sa, Tát Bà Đa Tì Ni Ma Đắc Cần Già, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Tì Nại Da, Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ Bật Sô Ni Tì Nại Da.
Thuyết Xuất Thế Bộ (Lokottara-vada). Cùng trong khoảng thời gian Nhất Thuyết Bộ được thành lập và tách khỏi Đại Chúng Bộ, Thuyết Xuất Thế Bộ cũng được thành lập và cũng tách khỏi Đại Chúng Bộ. Bộ phái này chủ trương tất cả các pháp thế gian đều không có thật thể, chỉ có giả danh. Pháp thế gian do sự điên đảo khởi ra; từ điên đảo mà sinh ra phiền não, do phiền não mà gây nghiệp, do nghiệp mà kết thành quả báo, tất cả đều hư vọng, không chân thật. Vì vậy, tất cả pháp thế gian đều chỉ là giả danh; trong khi đó, tịch diệt (diệt) và các pháp môn tu tập (đạo) thuộc pháp xuất thế gian, cho nên đều là chân thật. Pháp sư Khuy Cơ gọi bộ phái này là “Tục Vọng Chân Thật tông” (tục đế là vọng, chân đế là thật). Có thuyết nói rằng, nguyên thỉ, Thuyết Xuất Thế Bộ và Kê Dận Bộ (xem mục “Kê Dận Bộ”) chỉ là một bộ phái; vì Kê Dận Bộ chủ trương tất cả các pháp hữu lậu của thế gian đều là giả, và chỉ trú trọng đến các pháp vô lậu xuất thế gian của Phật mà thôi, cho nên nó cũng được gọi là “Xuất Thế Bộ”. Về sau, nhân vì chủ thuyết này dần dần có chỗ biến hóa, Xuất Thế Bộ (tức Thuyết Xuất Thế Bộ) bèn tách riêng ra thành một phái độc lập.
Thứ đệ tam quán. Ba phép quán (tam quán) là một trong những pháp môn tu tập nền tảng của tông Thiên Thai, và cũng rất được phổ biến trong chốn thiền môn. Đó là ba phương pháp mà các hành giả tu Bồ-tát đạo dùng để thực tâp quán chiếu vạn hữu, nhằm phát triển trí tuệ đến chỗ toàn bích. Ba phép quán đó là: quán không, quán giả và quán trung.
1) Quán không (không quán): Quán chiếu để thấy rõ tất cả mọi hiện tượng đều nương nhau mà có, cho nên chúng không có bản chất chân thật; tất cả đều là không.
2) Quán giả (giả quán): Quán chiếu để thấy rõ tất cả mọi sự vật đều biến đổi luôn luôn (vô thường), không có tính đồng nhất bất biến; tuy chúng có hiện hữu, nhưng sự hiện hữu của chúng chỉ là giả tạm, không có gì tồn tại vĩnh viễn.
3) Quán trung (trung quán): Quán chiếu để thấy rõ vạn pháp vừa là không mà cũng vừa là giả, đồng thời, không phải là không mà cũng không phải là giả.
Các hành giả cơ trí còn kém, thường thực tập ba phép quán này một cách tuần tự, trước tiên là quán không để dứt bỏ kiến tư hoặc, tiếp đến là quán giả để đoạn trừ trần sa hoặc, và sau cùng là quán trung đạo để diệt trừ vô minh hoặc. Ba phép quán được tu tập theo thứ tự như thế gọi là “thứ đệ tam quán”.
Cũng ba phép quán đó, nhưng các hành giả có cơ trí cao siêu thì không theo cách quán chiếu thứ tự như trên, mà phối hợp cả ba phép quán lại trong một cách quán chiếu duy nhất – trong một phép quán gồm đủ cả ba phép quán:
1) Khi quán niệm về tính không, một pháp đã là không thì tất cả các pháp cũng đều là không; cả tính giả và tính trung cũng đều là không (nhất không nhất thiết không, vô giả trung nhi bất không).
2) Khi quán niệm về tính giả, một pháp đã là giả thì tất cả các pháp cũng đều là giả; cả tính không và tính trung cũng đều là giả (nhất giả nhất thiết giả, vô không trung nhi bất giả).
3) Khi quán niệm về tính trung, một pháp đã là trung thì tất cả các pháp cũng đều là trung, cả tính không và tính giả cũng đều là trung (nhất trung nhất thiết trung, vô không giả nhi bất trung).
Sở dĩ quán chiếu được như vậy là vì ba chân lí không, giả, trung vốn là một toàn bộ chân lí về thật tướng của vạn hữu. Ba chân lí ấy dung nhiếp nhau, một có trong cả ba, cả ba có trong một, mỗi một trong ba đều có giá trị toàn diện. – Cũng vì vậy, chữ “trung” (hay “trung đạo”) ở đây không nên hiểu là đứng ở giữa, mà phải được hiểu một cách đúng đắn là bao trùm lên trên, là cả hai và vượt cả hai. Phương pháp quán chiếu như trên được gọi là “nhất tâm tam quán”, hay “viên dung tam quán”, “bất thứ đệ tam quán”, “bất khả tư nghị tam quán”.
Thứ tự các vị Tổ của tông Tịnh Độ Trung-quốc.
1) Theo Phật Quang Đại Từ Điển, mục “Tịnh Độ Tông”, đại sư Đàm Loan (476-?), đời Bắc-Ngụy (386-534), là người đầu tiên đặt cơ sở và xiển dương giáo nghĩa Tịnh Độ, rồi được bốn vị đại sư Đạo Xước (562-645), Thiện Đạo (613-681), Hoài Cảm (?-?) và Thiếu Khang (?- 805) ở đời Đường kế thừa truyền bá; đó là “năm vị tổ buổi đầu” (chấn đán ngũ tổ) của tông Tịnh Độ.
2) Cũng trong bộ đại từ điển này, ở hai mục “Liên Tông” và “Liên Tông Cửu Tổ” lại nói: Liên tông tức Tịnh Độ tông. Đại sư Tuệ Viễn đời Đông-Tấn (317-420) sáng lập Bạch Liên Xã ở chùa Đông-lâm (núi Lô-sơn, tỉnh Giang-tây), phát nguyện niệm Phật cầu vãng sinh Cực-lạc, khởi xướng phong trào tu Tịnh Độ. Danh xưng Liên tông bắt đầu có từ đó; và ngài Tuệ Viễn được tôn xưng là Sơ-tổ của Liên tông. Từ đó cho đến nhà Thanh, Liên tông có cả thảy 9 vị tổ, gọi là “Liên tông cửu tổ”, kế tiếp nhau hoằng dương giáo nghĩa Tịnh Độ; đó là:
- Sơ tổ: Tuệ Viễn (đời Đông-Tấn)
- Nhị tổ: Thiện Đạo (đời Đường)
- Tam tổ: Thừa Viễn (đời Đường)
- Tứ tổ: Pháp Chiếu (đời Đường)
- Ngũ tổ: Thiếu Khang (đời Đường)
- Lục tổ: Diên Thọ (đời Tống)
- Thất tổ: Tỉnh Thường (đời Tống)
- Bát tổ: Châu Hoằng (đời Minh)
- Cửu tổ: Tỉnh Am (đời Thanh)
3) Theo sách Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Liên tông trước sau có 13 vị tổ:
- Sơ tổ: Tuệ Viễn (đời Đông-Tấn)
- Nhị tổ: Thiện Đạo (đời Đường)
- Tam tổ: Thừa Viễn (đời Đường)
- Tứ tổ: Pháp Chiếu (đời Đường)
- Ngũ tổ: Thiếu Khang (đời Đường)
- Lục tổ: Diên Thọ (đời Tống)
- Thất tổ: Tỉnh Thường (đời Tống)
- Bát tổ: Châu Hoằng (đời Minh)
- Cửu tổ: Trí Húc (đời Thanh)
- Thập tổ: Hành Sách (đời Thanh)
- Thập nhất tổ: Tỉnh Am (đời Thanh)
- Thập nhị tổ: Tế Tỉnh (đời Thanh)
- Thập tam tổ: Ấn Quang (đời Dân-quốc)
Thừa: là cỗ xe, cũng có ý nghĩa là chuyên chở. Đặc biệt trong Phật giáo, chữ “thừa” được dùng để chỉ cho giáo pháp của Phật. Giáo pháp này có công năng chuyên chở chúng sinh vượt qua biển sinh tử để đến bến bờ giải thoát giác ngộ, cho nên được gọi là “thừa”. Giáo pháp dành cho hàng Thanh-văn gọi là Thanh-văn thừa; giáo pháp dành cho hàng Duyên-giác gọi là Duyên-giác thừa; gộp chung hai loại giáo pháp này gọi là Tiểu thừa. Giáo pháp dành cho hàng Bồ-tát gọi là Bồ-tát thừa, cũng gọi là Đại thừa.
Thừa Hoa-nghiêm (Hoa-nghiêm thừa). Giáo nghĩa kinh Hoa Nghiêm là giáo nghĩa nhất thừa, khác biệt với giáo nghĩa của kinh điển ba thừa (Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát); vì vậy mà gọi là thừa Hoa-nghiêm, hay còn gọi bằng nhiều tên khác, như Thượng thừa, Vô-thượng thừa, Tối-thắng thừa, Bất-tư-nghị thừa v.v...
Thừa Viễn (712-802). Ngài họ Tạ, quê huyện Quảng-hán, tỉnh Tứ-xuyên. Lúc đầu ngài cư trú trong một túp lều tranh ở Hành-sơn, gọi là đài Di-Đà, chuyên tu Niệm Phật, khi có đồ ăn thừa của người thì ngài ăn, không có thì ăn bùn, hình vóc khô gầy, lưng còng tiều tụy. Lâu dần đức độ vang xa, người ta qui tụ về theo tu học với ngài, đông đến hàng vạn. Quốc sư Pháp Chiếu (?-?) dưới triều vua Đường Đại-tông (762-779) chính là môn nhân của ngài. Vua Đại-tông cũng thường đến kính lễ ngài, từng ban danh hiệu cho đạo tràng của ngài là “Bát-chu đạo tràng”, và một tấm biển tên chùa là “Di Đà Tự”. Năm 802 ngài thị tịch, thế thọ 91 tuổi.
Thức 1: là chi thứ ba trong “mười hai nhân duyên”, chỉ cho nghiệp thức, hay a-lại-da thức.
Thức 2. “Thức” là biết, là một hiện tượng tinh thần, là tác dụng của tâm, có công năng phân tích, chia loại đối tượng một cách rõ ràng để nhận biết đó là sự gì, vật gì.
Theo Phật giáo tiểu thừa, tâm có sáu tác dụng nhận thức, được gọi là “sáu thức”: nhãn thức (mắt thấy biết), nhĩ thức (tai nghe biết), tị thức (mũi ngửi biết), thiệt thức (lưỡi nếm biết), thân thức (thân chạm xúc biết), và ý thức (ý biết rõ ràng mọi đối tượng).
Phật giáo đại thừa cũng thành lập sáu thức như trên, nhưng còn thêm hai thức nữa, là mạt-na thức (suy lường, so đo, chấp ngã) và a-lại-da thức (chứa giữ chủng tử và làm phát sinh vạn pháp); tất cả là “tám thức”. Đó là chủ trương của tông Duy Thức. Theo chủ trương của các tông Nhiếp Luận, Địa Luận, Thiên Thai, ngoài tám thức trên còn có am-ma-la thức (dịch là vô-cấu thức, tức là chân-như); thành ra cả thảy là “chín thức”.
Thức và Trí: đều là cái BIẾT, nhưng có sự khác nhau rất xa giữa hai cái biết ấy. THỨC là cái biết phân biệt, do duyên sinh, có phát sinh và có chấm dứt, có đúng (một cách tương đối) và có sai; cái biết ấy có chừng mực, có phạm vi, nếu vượt quá phạm vi, chừng mực thì không thể biết được. Đó là cái biết của phàm phu. Cái biết ấy không thể thấy rõ được chân tướng như thật của thực tại vạn hữu. TRÍ thì hoàn toàn trái ngược. Đó là cái biết của bậc thánh giác ngộ, vượt khỏi các ý niệm phân biệt, không nằm trong các phạm trù của ý thức, không do duyên sinh nên không có khởi đầu cũng không có chấm dứt; đó là trí tuệ thấy rõ chân tướng như thật của thực tại vạn hữu. Những điều vừa diễn tả về TRÍ chỉ là ngôn từ tạm dùng, thực ra thì không có thứ ngôn thuyết nào của con người có thể diễn đạt về TRÍ, cũng không thể dùng ý thức để suy nghĩ về TRÍ. Kẻ phàm phu, nếu phát tâm tu tập đạo giác ngộ, thì dần dà, với sự cần mẫn tinh tấn, sẽ chuyển được THỨC trở thành TRÍ; tức là chuyển từ thân phận phàm phu sang thân phận thánh nhân.
Thường - Lạc - Ngã - Tịnh. Hành giả khi đã thành công trong bốn pháp quán niệm này thì sẽ đạt được bốn đức của niết bàn (cũng tức là bốn đức của pháp thân Phật):
1) Quán niệm về tính chất dơ bẩn (bất tịnh) để thể nhâp được đức trong sạch (TỊNH);
2) Quán niệm về tính chất khổ đau (khổ) để thể nhập được đức an vui (LẠC);
3) Quán niệm tính chất biến đổi sinh diệt (vô thường) để thể nhập được đức thường hằng (THƯỜNG);
4) Quán niêm tính chất duyên sinh, không có tự ngã (vô ngã) để thể nhập được đức tự tại giải thoát (NGÃ).
Thể tính của cảnh giới niết bàn hay pháp thân Phật là thường trụ, không sinh không diệt, cho nên gọi là “thường”. Cảnh giới niết bàn hay pháp thân Phật đã xa lìa vĩnh viễn mọi khổ đau, luôn luôn an trụ trong niềm vui tịch diệt giải thoát, cho nên gọi là “lạc”. Cảnh giới niết bàn hay pháp thân Phật vượt khỏi cả hai loại vọng chấp hữu ngã và vô ngã, hoàn toàn tự tại vô ngại, không bị ràng buộc bởi bất cứ pháp hữu vi nào, cho nên gọi là “ngã”. Cảnh giới niết bàn hay pháp thân Phật đã xa lìa mọi vô minh phiền não, rốt ráo trong sạch, không bao giờ còn một chút cấu nhiễm nào, dù vi tế đến đâu, cho nên gọi là “tịnh”. Thật ra, nếu quán chiếu đến chỗ rốt ráo, thì bất cứ một đức nào cũng đã bao hàm cả ba đức kia: nói đến đức “thường” thì tức nhiên đã bao gồm có lạc, ngã và tịnh; nói đến đức “lạc” thì tức nhiên đã bao gồm có thường, ngã và tịnh; v.v...
Thường hành tam muội: là pháp tam muội được y cứ vào Kinh Bát Chu Tam Muội mà tu tập, cho nên cũng gọi là Bát chu tam muội, là một trong 4 loại tam muội do tông Thiên Thai chế lập (Thường tọa tam muội, Thường hành tam muội, Bán hành bán tọa tam muội, và Phi hành phi tọa tam muội). Hành trì pháp tam muội này, hành giả lấy 90 ngày làm một hạn kì, ở trong đạo tràng, chuyên đi nhiễu Phật liên tục, không gián đoạn. Trong khi thân đi nhiễu thì miệng xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà, tâm cũng nghĩ nhớ tới Phật A Di Đà; từng bước, từng tiếng, chỉ có đức Phật A Di Đà mà thôi. Cứ tinh cần hành trì như thế, không giải đãi, thì có thể nương vào uy lực của Phật, vào sức tam muội, và sức công đức của chính hành giả, mà ở trong định được thấy chư Phật mười phương hiển hiện trước mặt.
Thường-tịch-quang độ: tức là thế giới chân như, nơi an trú của chư Phật. Thế giới này không sinh diệt biến đổi (thường), không có phiền não quấy nhiễu (tịch), chỉ thuần là ánh sáng trí tuệ (quang).
Thường tọa tam muội: là một trong 4 loại tam muội do tông Thiên Thai chế lập (Thường tọa tam muội, Thường hành tam muội, Bán hành bán tọa tam muội, và Phi hành phi tọa tam muội). Pháp tam muội này được y cứ vào Kinh Văn Thù Thuyết Bát Nhã và Kinh Văn Thù Vấn Bát Nhã mà tu tập. Hành giả lấy 90 ngày làm một hạn kì, ngồi một mình trong tịnh thất, thân hình ngay thẳng, bỏ hết tạp niệm, tâm duyên vào pháp giới, quán chiếu tất cả các pháp đều là Phật pháp, cũng chuyên tâm xưng niệm danh hiệu của một đức Phật nào đó do mình tự chọn. Trong suốt hạn kì, tinh tấn chuyên cần hành trì như thế, không giải đãi, không gián đoạn, thì có thể phá trừ nghiệp chướng, thật tướng của vạn pháp phát hiện. Vì chuyên tu chỉ một hạnh NGỒI, cho nên pháp tam muội này cũng được gọi là Nhất hạnh tam muội.
Thượng thủ: là người ở địa vị tối cao trong đại chúng. Từ này đã được dùng phổ biến từ thời đức Phật còn tại thế, để chỉ cho các vị đệ tử xuất sắc nhất (về trí tuệ, khả năng, cũng như đức hạnh) của đức Phật, được cả tăng đoàn cùng Phật tử đồng kính ngưỡng, tôn xưng, như các tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, A Na Luật, v.v... Ngày nay, từ “thượng thủ” thường được dùng chỉ để xưng cho vị cao tăng đứng đầu một giáo hội, tương đương với các từ “tăng thống”, “pháp chủ”.
Thượng Tọa Bộ (S.: Arya-thavira-nikaya - P.: Theravada). Giáo hội Phật giáo, sau khi đã thật sự phân rẽ thành hai bộ phái căn bản là Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ (xem mục “Đại Chúng Bộ” và mục “Tình Hình Phân Phái Ở Buổi Sơ Kì”), Thượng Tọa Bộ đã rời nước Ma-kiệt-đà và dời sang nước Ca-thấp-di-la lập căn cứ hành đạo, rồi phát triển rộng ra khắp vùng Tây-Bắc Ấn-độ. Họ vẫn giữ đường lối bảo thủ, nhưng lâu ngày rồi cũng chịu ảnh hưởng của Đại Chúng Bộ, nên đường lối bảo thủ cũng bị thay đổi ít nhiều, và cũng đưa đến tình trạng phân hóa như Đại Chúng Bộ. Về giáo nghĩa, trước hết, Thượng Tọa Bộ cho rằng A-la-hán tức là Phật; bởi vậy, A-la-hán là mục tiêu cuối cùng, còn Bồ-tát thừa thì bị họ khinh thị. Thứ đến, bộ phái này nói rằng, không phải tất cả các lời Phật dạy đều là chuyển pháp luân và đều có lợi ích, mà chỉ có Tám Thánh Đạo mới là chánh pháp luân; bởi vậy, họ chỉ thừa nhận Ba Tạng đã được kết tập lần đầu tiên, mà không thừa nhận bất cứ kinh điển nào khác. Thứ nữa, họ chủ trương các pháp quá khứ và vị lai đều không có thật thể, chỉ có pháp hiện tại là thật có. Trong Ba Tạng thì họ coi Kinh là chủ yếu, nhưng lại lấy Giới Luật làm nơi y chỉ, và bảo thủ những kinh luật đã có sẵn, không thay đổi chút nào. Đến đầu thế kỉ thứ 3 Phật lịch, trong tăng đoàn Thượng Tọa Bộ, có tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử (Katyayaniputra) là người đầu tiên xiển dương Luận Tạng, chủ trương tất cả các pháp (hữu vi và vô vi) đều có thật thể, đã lập ra một bộ phái riêng có tên là Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Rất đông tăng chúng đã theo bộ phái mới, những vị còn lại của Thượng Tọa Bộ bèn dời vào Tuyết-sơn lập cơ sở mới, đổi tên bộ phái thành Tuyết Sơn Bộ. Đó là lần phân phái thứ nhất của Thượng Tọa Bộ. Từ đó đến đầu thế kỉ thứ tư, trải qua sáu lần phân phái nữa, có đến 9 bộ phái nhỏ nữa được thành lập (lần lượt gồm có: Độc Tử, Pháp Thượng, Hiền Trụ, Chánh Lượng, Mật Lâm Sơn, Hóa Địa, Pháp Tạng, Ẩm Quang, và Kinh Lượng Bộ). Như vậy, Từ đầu thế kỉ thứ 3 PL đến đầu thế kỉ thứ 4 PL, Thượng Tọa Bộ đã trải qua 7 lần phân rẽ, thành 10 bộ phái nhỏ, kể luôn bộ phái gốc đã đổi tên thành Tuyết Sơn Bộ, tổng cộng tất cả là 11 bộ phái. Đặc biệt, vào giữa thế kỉ thứ 3 PL, dưới triều đại vua A Dục, tôn giả Ma Thẩn Đà đã đem giáo lí Thượng Tọa Bộ truyền sang nước Tích-lan (xem mục “Núi Chế Đa”), làm cho xứ này trở thành trung tâm của Phật giáo Nam-truyền Thượng Tọa Bộ mãi đến ngày nay.
Tì-da-li (Vaisali): cũng gọi là Tì-xá-li, hay Phệ-xá-li, người Trung-quốc dịch là Quảng-nghiêm, là nơi cư trú của bộ tộc Lê-xa (Licchavi), và là thủ đô của vương quốc Bạt-kì (Vrji), miền Trung Ấn-độ thời Phật tại thế. Bạt-kì là một chủng tộc lớn, do tám bộ tộc nhỏ hợp lại làm thành, lấy bộ tộc Lê-xa làm chủ. Có lẽ đó là một quốc gia đã áp dụng chế độ cộng hòa sớm nhất trên thế giới. Vào thời Phật tại thế, Bạt-kì là một trong mười sáu nước lớn ở Ấn-độ. Kinh đô Tì-xá-li là một thành phố thương mại phồn thịnh. Tơ lụa và trầm hương ở đây rất nổi tiếng, được tất cả các vương quốc đương thời ưa chuộng. Tì-xá-li cũng là địa điểm hành đạo quan trọng của Phật và giáo đoàn, ngang với các thành Vương-xá (kinh đô nước Ma-kiệt-đà) và Xá-vệ (kinh đô nước Kiều-tát-la). Đó cũng là nơi kết tập kinh điển lần thứ hai của bảy trăm vị thánh tăng sau khi Phật diệt độ một trăm năm. Trong sách Đại Đường Tây Vực Kí có chép: “Phía Đông thành phố có tháp thờ di tích của các vị đã chứng quả như Xá Lợi Phất v.v...; cách thành phố ba dặm về phía Đông Bắc có tháp ghi dấu tích căn nhà xưa của Bồ-tát Duy Ma Cật, gần đó là nơi mà Bồ-tát Duy Ma Cật đã từng thị hiện bệnh tật để thuyết pháp.”
Tì-đàm: là tiếng gọi tắt của “A-tì-đàm”, cũng gọi là “A-tì-đạt-ma”, nghĩa là “Vô tỉ pháp”, tân dịch là “Đối pháp”, là tên gọi chung của Luận Tạng. (Xem mục “A Tì Đạt Ma”.)
Tì-kheo. Đây là tiếng phiên âm từ chữ “bhiksu” (Phạn), hoặc “bhikkhu” (Pali); những tiếng phiên âm khác là bí-sô, bật-sô, phức-sô, tì-hô, v.v...; dịch nghĩa là khất sĩ (người ăn xin), trừ sĩ (người diệt nghiệp ác), huân sĩ (người huân tập nghiệp lành), phá phiền não, bố ma, v.v... Danh từ “tì-kheo”, trong truyền thống văn hóa Ấn-độ thời cổ, có nghĩa là người không có vật sở hữu, chỉ sống bằng khất thực; được dùng để chỉ cho những tu sĩ từ bỏ gia đình, họ hàng thân thuộc, ở ẩn trong chốn núi rừng, lang thang không nhà cửa, không tài sản, sống bằng các vật thực xin được của người đời. Vào thời Phật tại thế, Ấn-độ có rất nhiều đoàn tu khất sĩ của rất nhiều giáo phái, thuộc Bà-la-môn truyền thống hay các trào lưu tư tưởng cấp tiến. Họ quan niệm: Những người biết đến và sùng kính Phạm Thiên, từ bỏ sự ham muốn về con cái, nhà cửa, của cải, sống lang thang, khổ hạnh, thì được coi là “tì-kheo”. Mỗi lần triều đình hay các nhà vọng tộc mở hội cúng dường cơm trưa, rất nhiều các đoàn tì-kheo của đủ mọi giáo phái tới thọ dụng. Sau khi đức Thích Ca Mâu Ni thành Phật và thành lập giáo đoàn Phật giáo, Ngài đã gọi các vị đệ tử xuất gia của Ngài là “tì-kheo”; đoàn tì-kheo này được chính thức gọi là “Tăng già Tì kheo”, hay “Giáo đoàn Tì kheo”. Do sự hành hóa thật tích cực của Phật và các vị đệ tử, chỉ trong một thời gian ngắn, giáo đoàn của Phật đã trở thành một giáo đoàn lớn nhất, nổi tiếng nhất, bề thế nhất về phẩm cũng như về lượng, lấn át hẳn các giáo phái khác đương thời; vì vậy mà từ đó, hầu như nói đến “tì-kheo” là người ta nghĩ ngay đến các vị đệ tử của Phật; trải qua đã hơn 2.500 năm, danh xưng ấy vẫn còn dùng cho tới hôm nay. Trong thực chất, từ khi có “Giáo đoàn Tì kheo” thì danh từ “tì-kheo” trong đạo Phật mang ý nghĩa cao thượng hơn ý nghĩa thông thường rất nhiều. Trong đạo Phật, danh từ này, ngoài ý nghĩa là “khất sĩ”, còn có hai ý nghĩa đặc biệt khác là “phá ác” (hay “phá phiền não”: dứt sạch vô minh phiền não để đạt quả giác ngộ), và “bố ma” (xiển dương chân lí, phá đổ tà thuyết, khai mở trí tuệ cho mọi người, làm cho các thế lực vô minh phải run sợ). Ngay như từ “khất sĩ”, ngoài cái ý nghĩa là người đi xin ăn thông thường, cũng còn hàm ý nghĩa đặc biệt: cầu xin giáo pháp nơi đức Phật để tu tập, phát triển trí tuệ, dứt hết khổ đau, đạt quả giải thoát giác ngộ, và cứu độ chúng sinh. Như thế có nghĩa, trong đạo Phật, tì kheo là nhân, và giác ngộ giải thoát là quả.
Tì Lưu Li (Virudhaka): là vua nước Kiều-tát-la (Kausala) vào thời đức Phật còn tại thế. Ông là con của vua Ba Tư Nặc (Prasenajit), em khác mẹ của thái tử Kì Đà (Jeta). Năm 79 tuổi, sau mùa an cư, đức Thế Tôn du hành về đến vương quốc Sakya, tạm trú nơi một quận lị nhỏ để hành đạo. Lúc bấy giờ, vua Ba Tư Nặc (vua cùng tuổi với đức Thế Tôn) cũng đang du ngoạn ở một thị trấn gần đó, biết tin, liền đến hầu Phật. Trong đoàn tùy tùng của nhà vua có cả hoàng tử Tì Lưu Li và viên tướng tổng tư lệnh quân đội hoàng gia. Trước khi tiến vào căn nhà nhỏ, trong đó Phật đang ngự, nhà vua cởi thanh bảo kiếm cùng vương miện trao cho vị tướng lãnh, để tất cả đoàn tùy tùng ở ngoài, một mình nhà vua vào hầu Phật. Lợi dụng lúc nhà vua và đức Phật đàm đạo trong căn nhà, hoàng tử Tì Lưu Li đã cùng vị tướng lãnh dẫn cả đoàn tùy tùng trở về kinh đô Xá-vệ (Sravasti), giết thái tử Kì Đà và tự lên ngôi vua, trở thành quốc vương của nước Kiều-tát-la. Lúc vua Ba Tư Nặc bái biệt đức Phật để trở lại chỗ cũ thì chỉ thấy còn có một người cung nữ già. Nhà vua biết việc chẳng lành, bèn đi thẳng về thành Vương-xá (Rajagrha), và đã chết tại đây (xem mục “Ba Tư Nặc”).
Sau khi lên ngôi vua, Tì Lưu Li nhớ lại mối hận cũ với dòng họ Thích-ca, bèn cất quân sang đánh thành Ca-tì-la-vệ, muốn tiêu diệt cho hết những người thuộc dòng họ Thích-ca. Mối hận cũ đó là gì? Hai bộ luật Ngũ Phần và Tứ Phần đều thuật như sau: Trước kia vua Ba Tư Nặc có xin cưới một người con gái dòng họ Thích-ca làm phu nhân. Nhưng luật lệ của dòng họ này không cho trai gái lập hôn nhân với người khác họ. Vua Ma Ha Nam (Mahamana) bèn đem con gái của một tì nữ trong cung, giả xưng là con gái dòng họ Thích-ca, gả cho vua Ba Tư Nặc, về sau đã sinh ra hoàng tử Tì Lưu Li. Tì Lưu Li vừa lớn lên (Kinh Tăng Nhất A Hàm nói là 8 tuổi), nhà vua cho sang thành Ca-tì-la-vệ để theo học nghề bắn cung. Lúc bấy giờ, những người dòng họ Thích-ca vừa xây một tòa nhà lớn, nguyện rằng, trước hết phải cúng dường Phật và chúng tăng, sau đó họ mới sử dụng. Tì Lưu Li không biết điều đó, ngang nhiên dẫn đoàn tùy tùng vào tòa nhà ấy vui chơi. Những người dòng họ Thích bèn mắng: “Đứa con của tiện tì sao dám vô lễ! Đức Thế Tôn và chúng tăng chưa vào ngồi mà sao ngươi dám vào trước vui chơi!” Họ đuổi Tì Lưu Li đi, rồi phá bỏ tòa nhà đó để xây tòa nhà khác, sau đó mới thỉnh Phật và chúng tăng vào ngự. Tì Lưu Li giận lắm, bảo người tùy tùng: “Ngươi nhớ kĩ việc này. Sau khi ta làm vua, hãy nhắc lại cho ta!”. Rồi bỏ về nước. Bây giờ ông đã làm vua, liền cử binh sang tiêu diệt dòng họ Thích-ca để rửa hận. Tôn giả Mục Kiền Liên xin phép Phật hóa làm một cái lồng bằng sắt, trùm lên cả hoàng thành để bảo vệ họ Thích, nhưng đức Phật ngăn lại bảo: “Dù thầy có thần lực lớn, nhưng đâu có thể cải được định nghiệp này!”
Theo Kinh Tăng Nhất A Hàm, trong trận này, quân của vua Tì Lưu Li đã tàn sát đến chín ngàn chín trăm chín mươi vạn (tức 99.900.000) người dòng họ Thích, máu chảy thành sông. Sau trận tàn sát này, đức Phật đã báo cho chư vị tì kheo biết trước, sau 7 ngày, vua Tì Lưu Li và tất cả đoàn quân đều sẽ bị tận diệt. Quả nhiên, 7 ngày sau đó, vua Tì Lưu Li đã dẫn cả binh lính cùng các thể nữ đến sông A-chỉ-la để vui chơi, tới nửa đêm, thình lình nổi cơn gió dữ, nước sông dâng cao, cuốn trôi vua Tì Lưu Li cùng tất cả binh lính, thể nữ, không một ai sống sót!
Tì-nại-da: là dịch âm từ tiếng Phạn “vinaya”, tiếng Trung-quốc dịch là LUẬT (tức tạng Luật, một trong Ba Tạng), có ý nghĩa là điều phục, chế ngự, diệt trừ mọi lầm lỗi. “Luật” là những giới cấm do Phật chế định để chư vị tăng, ni và Phât tử tuân thủ mà giữ gìn thân khẩu ý, đạt được một đời sống thanh tịnh và an lạc. Luật đã không do Phật đặt để trước, mà đã chế định theo cách thức “phạm lỗi gì thì chế ngay điều luật ấy” (tùy phạm tùy chế), cho nên không có tính cách áp đặt, lại rất thực tế, cụ thể, vì chúng xuất phát từ trong nếp sinh hoạt hằng ngày của giáo đoàn. Một tháng sau ngày Phật nhập diệt, trong đại hội kết tập kinh điển lần đầu tiên tại núi Kì-xà-quật gần thành Vương-xá, nước Ma-kiệt-đà (Ấn-độ), do trưởng lão Đại Ca Diếp chủ tọa, tôn giả Ưu Ba Li đã tụng lại toàn bộ giới luật Phật đã chế định, làm thành tạng Luật để lưu truyền.
Tịch chiếu. “Tịch” nghĩa là vắng lặng, không có tiếng động, ở đây là chỉ cho bản thể tĩnh lặng của Phật tánh; “chiếu” nghĩa là soi sáng. Phật tánh vốn thường vắng lặng nhưng cũng thường có tác dụng soi sáng.
Tịch diệt nhẫn. Các bậc thánh đã thực chứng trọn vẹn cảnh giới niết bàn tịch tịnh, cả hai tướng động và tịnh hòa hợp nhất như, gọi là “tịch diệt nhẫn”.
Tiền-Hán (cũng gọi là Tây-Hán). Lưu Bang (259-195 tr. TL) diệt nhà Tần năm 206 tr. TL, nhưng còn phải tranh chiến với Sở Bá vương (Hạng Võ); đến năm 202 tr. TL, đánh bại Sở Bá vương, mới thực sự lên ngôi hoàng đế, tức Hán Cao-tổ, sáng lập vương triều Hán, kéo dài hơn 400 năm. Triều đại nhà Hán gồm hai thời đại: Tiền-Hán và Hậu-Hán. Nhà Tiền-Hán đóng đô tại Trường-an (nay là phố Tây-an, tỉnh Thiểm-tây), truyền nối được 14 đời vua: Cao-tổ (Lưu Bang, 206-195), Huệ đế (Lưu Doanh, (194-188), Lữ hậu (vợ của Cao tổ, chuyên quyền, 187-180), Văn đế (Lưu Hằng, 179-158), Cảnh đế (Lưu Khải, 157-141), Vũ đế (Lưu Triệt, 140-87), Chiêu đế (Lưu Phất Lăng, 86-74), Tuyên đế (Lưu Tuân, 73-49), Nguyên đế (Lưu Thích, 48-33), Thành đế (Lưu Ngạo, 32-7), Ai đế (Lưu Hân, 6-1 tr. TL), Bình đế (Lưu Diễn, 1-5 s. TL), Nhụ Tử (Lưu Anh, 6-8). Tới đây thì nhà Tiền-Hán bị Vương Mãng cướp ngôi, lập ra triều đại Tân, làm vua được 14 năm (9-23). Năm 23 s. TL, dân quân khởi nghĩa kéo vào Trường-an giết Vương Mãng, rồi tôn người con của vua Cảnh đế là Lưu Huyền lên ngôi, nối tiếp nhà Tiền-Hán. Nhưng chỉ được hơn 2 năm (23-25) thì Lưu Huyền lại bị loạn quân giết. Lúc đó, Lưu Tú, cháu chín đời của vua Cao-tổ, dẹp tan loạn quân, lên ngôi hoàng đế, tức Quang Vũ đế, dời kinh đô về Lạc-dương, bắt đầu thời đại Hậu-Hán (tức Đông-Hán, 25-200 s. TL – xem mục “Hậu-Hán”).
Vậy, thời đại Tiền-Hán kéo dài được 232 năm (206 tr. TL - 25 s. TL), nhưng nếu trừ đi thời gian 14 năm bị đứt đoạn bởi Vương Mãng chiếm ngôi lập triều đại Tân, thì còn lại 218 năm.
Theo sách sử Trung-quốc, tượng Phật đã từng xuất hiện tại Trung-quốc trong thời đại Tiền-Hán này. Thiên “Thích Lão Chí” trong sách Ngụy Thư ghi rằng: “Trong niên hiệu Thú đời vua Vũ đế nhà Tiền-Hán, tướng quân Hoắc Khử Bệnh được tù trưởng bộ lạc Hồn-da dâng hiến một tượng người bằng vàng cao hơn trượng. Nhà vua cho đó là một vị thần, đem đặt trong cung Cam-tuyền, thắp hương lễ bái.”. – Niên hiệu Thú tức là Nguyên-thú (122-117 tr. TL), là niên hiệu thứ tư của vua Hán Vũ đế (140-87 tr. TL).
Tiến trình nhân quả. Đã có gây nhân thì phải có kết quả. Nhưng, trong tiến trình từ nhân đến quả, không phải là cứng ngắc, giản dị, mà vô cùng phức tạp; nếu không có trí tuệ thì không thấu suốt được. Một nguyên nhân muốn biến thành kết quả, phải hội đủ cả ba yếu tố: trải qua thời gian, có thể thật ngắn, cũng có thể rất dài (Duy Thức Học gọi là “dị thời”); trải qua sự biến thể (tức là “biến dị”); và khác hình loại (tức là “dị loại”). Cái vỗ tay chẳng hạn. Khi hai bàn tay vỗ vào nhau, tức thì phát ra tiếng, gọi là tiếng vỗ tay (đồng thời có thể kèm theo cảm giác đau đớn, nếu vỗ quá mạnh). Sự việc xảy ra rất nhanh, nhưng vẫn có yếu tố thời gian. Yếu tố thời gian ở đây thật là ngắn ngủi, đến nỗi có thể nói là “nhân quả đồng thời”. Từ cái nguyên nhân là hai bàn tay, đã đem đến cái kết quả là tiếng vỗ tay (hoặc cảm giác đau đớn); vậy là đã có sự biến thể: bàn tay thành ra tiếng vỗ (hoặc cảm giác đau đớn), và sự biến loại: tiếng vỗ (hoặc cảm giác đau đớn) khác với bàn tay. Chúng ta thấy rõ: Tuy nói là “nhân nào quả nấy”, nhưng tiếng vỗ tay (quả) khác với bàn tay (nhân), trong khi đó, nếu không có bàn tay (nhân) thì chắc chắn sẽ không có tiếng vỗ tay (quả). Mối liên quan giữa NHÂN và QUẢ là như vậy. Một ví dụ khác: Ông A giết ông B. Giết người (nhân) thì sẽ bị pháp luật xử trị (quả). Sau khi giết ông B, ông A có thể bị bắt giam ngay, cũng có thể sau một thời gian dài mới bị bắt (thời gian). Chiếu theo luật pháp, tùy quốc gia, tùy trường hợp nặng nhẹ, ông A có thể bị xử tử hình, ở tù trọn đời, hoặc ở tù một số năm nhất định. Xét trường hợp ông A bị xử tử chẳng hạn, chúng ta thấy: Dù ông A đã giết ông B, nhưng hình phạt xử tử ông A lại được thi hành do tòa án (tức là người nào khác), chứ không phải do ông B (nạn nhân đã chết). Như vậy là đã có sự biến chất (biến dị) và biến loại (dị loại) từ nhân ra quả. Dù sao, hai ví dụ trên vẫn chỉ là những trường hợp giản dị của tiến trình nhân quả, dễ nhận thấy. Còn có những trường hợp vô cùng phức tạp, thật mầu nhiệm, rất khó nhận rõ bằng ý thức con người; nhất là những liên hệ nhân quả trải qua nhiều đời.
Tiếng gầm sư tử (sư tử hống). Sư tử là vua của các loài thú, tiếng gầm của nó làm cho các loài thú đều khiếp sợ, khép nép. Phật là bậc chí tôn trong ba cõi. Pháp âm của Ngài làm tiêu tan mọi hí luận, tà kiến; chinh phục các tà ma ngoại đạo. Những ai có căn trí, dù cao hay thấp, khi nghe pháp âm của Ngài đều hưởng được lợi lạc, khởi tâm dũng mãnh, tinh tấn tu tập cho đến khi chứng đạt đạo quả giác ngộ. Bởi vậy, trong Phật pháp, “tiếng gầm sư tử” đã được dùng để ví dụ cho pháp âm của đức Phật.
Tiết Giản: là tên vị quan nội thị trong cung nữ hoàng Võ Tắc Thiên (684-705), được vua sai đi thỉnh Lục Tổ Tuệ Năng vào cung. Kinh Pháp Bảo Đàn chép: “Ngày Thượng-nguyên năm đầu niên hiệu Thần-long, nữ hoàng Võ Tắc Thiên và vua sắp kế vị là Đường Trung-tông hạ chiếu rằng: Trẫm đã thỉnh hai ngài An đại sư và Tú đại sư vào ở trong cung để cúng dường. Mỗi khi mọi việc rảnh rang, trẫm học giáo lí nhất thừa với hai ngài. Hai ngài kính nhường nói rằng, Nam phương có thiền sư Tuệ Năng, là người đã được Tổ Hoằng Nhẫn mật trao y pháp, truyền cho tâm ấn của Phật. Hoàng thượng nên thỉnh ngài vào cung mà hỏi pháp. Nay trẫm sai nội thị Tiết Giản đem chiếu này đến cung thỉnh đại sư, xin đại sư từ bi, nhanh chóng đến kinh đô…”
Tiêu-Lương (502-557): là vương triều thứ ba của thời đại Nam-triều, tiếp theo sau nhà Tề (tức Nam-Tề, 479-502). Cuối vương triều Nam-Tề, năm 501, vua Tề là Tiêu Bảo Quyển (499-501) giết thứ sử Dự-châu là Tiêu Ý. Em của Tiêu Ý là Tiêu Diễn (đồng thời cũng là em họ của Tiêu Đạo Thành, vua Thái-tổ [479-482] nhà Nam-Tề), lúc đó đang làm thứ sử Ung-châu, bèn kéo quân về kinh đô Kiến-khang, phế bỏ Tiêu Bảo Quyển, rồi tôn Nam-khang vương là Tiêu Bảo Dung lên ngôi đế, tự phong cho mình chức đại tư mã, chuyên giữ việc triều chính. Qua năm sau (502), Tiêu Diễn lại giết Tiêu Bảo Dung, tự lên ngôi đế (tức vua Lương Vũ đế), đổi quốc hiệu là Lương, sử gọi là nhà Tiêu-Lương.
Tiểu kiếp - Trung kiếp - Đại kiếp. Tuổi thọ của con người ban đầu từ tám vạn bốn ngàn, mỗi một trăm năm giảm đi một tuổi, giảm cho đến chỉ còn mười tuổi thì ngưng. Sau đó, mỗi một trăm năm lại tăng lên một tuổi, tăng cho đến tám vạn bốn ngàn tuổi như thuở ban đầu thì ngưng. Cứ một lần giảm và một lần tăng như thế là một tiểu kiếp. Nếu tính theo cách thức của số học thì một tiểu kiếp bằng:
(84000 - 10) x 100 x 2 = 16.798.000 năm.
Cứ hai mươi tiểu kiếp là một trung kiếp. Trải qua bốn trung kiếp (tức bốn thời kì: thành, trụ, hoại, không) là một đại kiếp; đó là số năm từ lúc sinh thành đến lúc hoại diệt của một thế giới.
Tiểu phiền não địa pháp: là thuật ngữ Luận Câu Xá dùng chỉ cho 10 loại phiền não tính chất giống như đại phiền não, đến địa vị Tu-đạo mới đoạn trừ được. Những tâm sở này chỉ tương ưng với ý thức vô minh, và mỗi tâm sở chỉ hiện hành riêng biệt, chứ tất cả không sinh khởi cùng lần, nên gọi là “tiểu phiền não”. 10 tâm sở đó là: 1) phẫn: tính hay nổi giận trước những sự việc không hài lòng, hoặc tổn hại, mất mát, do người khác, hoàn cảnh, và ngay cả loài vật gây ra; 2) phú: tính hay che dấu những tội lỗi mình gây ra, vì tự ái, vì sợ mất danh dự, vì lợi lộc, hay vì dối gạt người khác; 3) xan: tính keo kiệt, tham tiếc tiền của, không muốn san sẻ cho kẻ khác, ngay cả những kiến thức của mình cũng không muốn truyền đạt cho ai biết; 4) tật: ganh ghét khi thấy người khác có tiền của, có tài năng, có đức hạnh, danh tiếng, v.v... hơn mình; 5) não: tính nóng nảy, buồn bực khi nghe người khác khuyên răn về những hành động xấu xa của mình; 6) hại: tính độc hại, lúc nào cũng muốn bức hại người khác; 7) hận: ngậm hờn kết oán trong lòng đối với những người gây bất lợi cho mình; 8) siểm: dua nịnh bợ đỡ, làm bộ cúi lòn để mong hưởng lợi, mà không kể gì phẩm giá của mình, không giữ gìn danh dự của gia tộc hay tông môn mình; 9) cuống: dối trá mê hoặc người, mưu mô lừa gạt người; 10) kiêu: tự đắc về những gì mình có được, cho đó là cao tột, rồi khinh chê người.
Tiểu thừa - Đại thừa. Chữ “thừa” nghĩa là cỗ xe, là một thứ phương tiện chuyên chở; ở đây chỉ cho giáo pháp của Phật có thể đưa chúng sinh từ bờ si mê bên này đến bến giác ngộ bên kia. Theo truyền thống lâu đời, từ “tiểu thừa” được dùng để chỉ cho Thanh-văn thừa và Duyên-giác thừa, là hai cỗ xe nhỏ hẹp, sức chuyên chở yếu kém, có ý chỉ cho loại giáo pháp nông cạn, dễ nghe, dễ hiểu, dễ tu chứng, dành cho hạng chúng sinh có căn cơ thấp kém, chỉ có thể làm lợi cho chính mình, mục tiêu là tự dứt trừ phiền não và đạt được các quả vị giải thoát giác ngộ không trọn vẹn như A-la-hán và Bích-chi Phật. Từ “đại thừa” dùng để chỉ cho Bồ-tát thừa, là cỗ xe rộng lớn, chỉ cho giáo pháp cao sâu mầu nhiệm, khó nghe, khó hiểu, dành cho hạng chúng sinh có căn cơ cao trội, có ý chí cùng khả năng làm lợi mình và lợi người, thực hiện hạnh Bồ-tát, mục tiêu là độ cho mình lẫn cho chúng sinh cùng đạt được quả vị giác ngộ trọn vẹn là Phật.
Từ thời Phật tại thế cho đến đầu kỉ nguyên Tây lịch, hai danh từ “tiểu thừa” và “đại thừa” chưa thấy xuất hiện. Phật giáo trong thời kì Phật tại thế cho đến 100 năm sau ngày Phật nhập diệt, được gọi là “Phật giáo Nguyên-thỉ”; từ sau đó cho đến đầu kỉ nguyên được gọi là “Phật giáo Bộ-phái” (là thời kì mà Phật giáo bị phân chia thành nhiều bộ phái). Trong khoảng vài thế kỉ cuối cùng trước kỉ nguyên Tây lịch, ngoài giáo đoàn Tì-kheo ra, tại các địa phương ở Ấn-độ còn có các đoàn thể Phật tử tại gia được thành lập. Họ có lòng tin sâu sắc đối với Tam Bảo, và tin tưởng chắc chắn rằng tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật; nhân đó, họ tự gọi các đoàn thể của họ là “Bồ-tát-đoàn”. Các Bồ-tát-đoàn này về sau đã lôi cuốn được quí vị trong giáo đoàn tì kheo tham gia. Dần dần họ biên tập và truyền tụng các kinh điển riêng (khác với tạng kinh A Hàm đương thời) như Bát Nhã, Pháp Hoa, Duy Ma Cật, Hoa Nghiêm, v.v..., hình thành nền “Phật giáo Đại-thừa”, xưng tán sự sống vĩnh cửu của chư Phật, nhấn mạnh tư tưởng “Trên cầu đạo giác ngộ, dưới cứu độ tất cả chúng sinh”, chủ trương tu tập một cách thực tiễn “Sáu pháp qua bờ” (lục độ ba la mật), chê trách Thanh-văn thừa chỉ cầu tự độ và chỉ tu tập theo các giáo pháp “bất liễu nghĩa” (không rốt ráo). Đó là giai đoạn Phật giáo trong mấy thế kỉ đầu Tây lịch. Sau khi nền Phật giáo Đại-thừa hưng khởi, giáo đoàn Đại-thừa bèn gọi nền Phật giáo Bộ-phái là “Tiểu-thừa”, hàm ý chê trách, và khuyên các hành giả Tiểu-thừa nên theo về Đại-thừa. Đối lại, Phật giáo Bộ-phái thì chê rằng, kinh điển Đại-thừa không phải do Phật nói, và giáo đoàn Đại-thừa không phải là Phật giáo. Từ đó, Tiểu thừa và Đại thừa trở thành hai thực thể đối nghịch trong lịch sử truyền bá và phát triển Phật giáo. – Phật giáo Tiểu-thừa truyền bá ra khỏi Ấn-độ còn được gọi là Phật giáo Nam-tông, hay Nam-truyền; và Đại-thừa thì gọi là Bắc-tông, hay Bắc-truyền.
Đáng lí, sự đối nghịch này đã không xảy ra thì tốt hơn. Vì thực ra, Tiểu thừa hay Đại thừa, chỉ là nói lên cái tình hình chuyển biến của tư tưởng Phật giáo theo nhu cầu phát triển của trí tuệ qua các giai đoạn lịch sử mà thôi. Ngày nay, Phật giáo không phải chỉ đóng khung trong các nước Tích-lan, Miến-điện, Thái-lan, hay Tây-tạng, Trung-hoa, Việt-nam, Nhật-bản, v.v... nữa, mà nó đang có mặt như ánh sáng mặt trời ở khắp năm châu bốn biển. Tinh thần tu học Phật pháp của con người hiện đại cũng không còn câu nệ vào Tiểu thừa hay Đại thừa nữa. Ngay như ở Việt-nam chẳng hạn, từ hơn một thế kỉ nay, Phật giáo Nam-tông đã song hành phát triển với Phật giáo Bắc-tông một cách chính thức và nhịp nhàng. Các quốc gia Tây phương gần đây đã và đang tiếp nhận nhiều dòng thác Phật học khác nhau đến từ Tây-tạng, Tích-lan, Trung-hoa, Đại-hàn, Việt-nam, Nhật-bản, Thái-lan, v.v... Cho nên, ý thức phân biệt cực đoan giữa Tiểu thừa và Đại thừa đã đến lúc phải được tẩy xóa khỏi tâm thức của người đệ tử Phật trong thời đại ngày nay. Trong cái nhìn mới, Phật giáo không có sự mâu thuẫn quyết liệt giữa Tiểu thừa và Đại thừa, mà chỉ có những pháp môn hành trì khác nhau dẫn đến những trình độ tu chứng khác nhau; chỉ có những sự phát tâm mạnh yếu khác nhau đưa đến những thành quả phụng sự lớn nhỏ khác nhau. Có chăng, là chỉ có một nền Phật giáo Nguyên-thỉ và một nền Phật giáo Phát-triển; mà nền Phật giáo Nguyên-thỉ luôn luôn là nền tảng căn bản cho nền Phật giáo Phát-triển.
Tiểu thừa ngu pháp. Thông thường, tiểu thừa là chỉ cho Thanh-văn thừa; trung thừa là chỉ cho Duyên-giác thừa; và đại thừa là chỉ cho Bồ-tát thừa. Nhưng ở đây, từ “tiểu thừa” được dùng để chỉ cho cả hai thừa Thanh-văn và Duyên-giác; đối lại là “đại thừa”, tức Bồ-tát thừa. Các kinh luận đều nói rằng, hai hàng Thanh-văn và Duyên-giác, vì không tin nhận, không kham nổi giáo pháp đại thừa, cho nên bị gọi là “tiểu thừa ngu pháp”, hay “nhị thừa ngu pháp”. Cả hai thừa này chỉ liễu ngộ lí “ngã không” (cũng gọi là “sinh không”, tức là NGÃ không thật có), mà vẫn cố chấp tà kiến “pháp hữu” (cho PHÁP là thật có). Họ thấy rằng, con người (ngã, hay sinh) do tứ đại giả hợp, cho nên không thật có, nhưng tứ đại (pháp) là thật có. Vì họ không chứng ngộ được lí “nhị không” (cả ngã và pháp đều không) của đại thừa, nên gọi là “ngu pháp”. Vậy, “ngu pháp” nghĩa là không hiểu được lí lẽ “pháp không thật có”.
Tín: là lòng tin. Trong Phật pháp, khi nói đến TÍN thì luôn luôn có nghĩa là chánh tín; vì trong đạo Phật không hề có mê tín. Tin Phật mà tin một cách mê muội, mù quáng, sai lạc, là không phải lòng tin trong đạo Phật. Vì vậy, các kinh luận đều giải thích chữ “tín” rằng: TÍN là một trong 11 tâm sở THIỆN (trong 51 tâm sở – theo tông Duy Thức). Tín là lòng tin tưởng sâu sắc vào thật thể của vạn pháp, tịnh đức của Tam Bảo và căn lành của tất cả các pháp thế và xuất thế gian, làm cho tâm được lắng đọng và trong sạch. Phật pháp sâu rộng như biển cả, muốn vào được, phải có đức tin làm bước khởi đầu. Đức tin có khả năng tiêu trừ mọi mối nghi hoặc, làm phát triển các pháp lành, là mẹ của mọi thứ công đức. Xem thế thì đức tin thật là vô cùng quan trọng đối với người tu học Phật. Bởi vậy, trong 52 nấc thang tu tập hạnh Bồ-tát, TÍN được liệt vào 10 nấc thang đầu tiên; trong “năm khả năng” (ngũ căn) và “năm sức mạnh” (ngũ lực), TÍN cũng được sắp hàng đầu; ngoài ra, trong kinh luận, những lời dạy nhằm khuyến khích phát khởi, gìn giữ và tăng trưởng lòng tin, cũng có rất nhiều. Có ba đối tượng quan trọng để tin tưởng: 1. Tin tưởng ở sự thật và lí thật của vạn pháp (như các pháp tứ đế, duyên sinh, nhân quả, nghiệp báo v.v...); 2. Tin tưởng ở đức tính chân thường và thanh tịnh của Tam Bảo; 3. Tin tưởng vào năng lực thành tựu các pháp lành thuộc thế và xuất thế gian (tức tin tưởng vào Phật tánh và khả năng thành Phật) nơi chính mình.
Tín-giải. Vì tin tưởng và hiểu rõ chân lí, và y theo đó mà tu hành cho đến khi chứng nhập được niết bàn, gọi là “Tín-giải”. Theo tông Thành Thật, đây là địa vị thứ 16 (trong 27 địa vị) trên tiến trình tu tập của hành giả Thanh-văn-thừa.
Tinh-tú kiếp: gọi đầy đủ là Vị-lai Tinh-tú kiếp, là tên của đại kiếp Vị-lai (xem mục “Hiền kiếp”). Trong thời gian 20 tiểu kiếp của trung kiếp Trụ thuộc Tinh-tú kiếp này, sẽ có một ngàn đức Phật lần lượt ra đời, khởi đầu là đức Phật Nhật Quang, và cuối cùng là đức Phật Tu Di Tướng. Đó là “một ngàn đức Phật của Tinh-tú kiếp”.
Tình hình phân phái ở buổi sơ kì. Cuộc kết tập thánh điển kì thứ hai đã diễn ra tại thành Tì-xá-li với sự tham dự của 700 vị tì kheo A-la-hán. Mục đích của kì kết tập này nhằm xác quyết “mười việc” liên quan đến giới luật mà nhóm tì kheo tộc Bạt-kì (ở thành Tì-xá-li) đang hành trì, là không đúng với giáo pháp (thập sự phi pháp). Liền sau đó, đại hội đã đọc tụng lại toàn bộ pháp tạng, trong 8 tháng mới hoàn tất. Đó là tình hình lần kết tập kinh điển kì hai. Theo sách sử của Phật giáo Nam-truyền, như Đảo Sử (Dipavansa) chẳng hạn, có ghi rằng: Trong khi 700 vị tì kheo đang kết tập kinh điển như đã nói trên, thì một vạn vị tì kheo khác, vì bất mãn với quyết nghị “mười việc phi pháp” của đại hội trưởng lão, đã nhóm họp ở một nơi khác, cũng để kết tập kinh điển; gọi là “Đại Chúng kết tập”. Do nguyên nhân này, Giáo Hội đã phân rẽ thành hai bộ phái lớn là Thượng Tọa Bộ (bảo thủ) và Đại Chúng Bộ (cấp tiến). Các sách sử thường gọi đó là cuộc “phân liệt căn bản” của Giáo Hội. Như vậy, theo sách sử Nam-truyền, cuộc “phân liệt căn bản” của Giáo Hội đã xảy ra tại thành Tì-xá-li, do sự bất đồng ý kiến về giới luật giữa phái bảo thủ và phái cấp tiến. Nhưng theo tác phẩm Dị Bộ Tông Luân Luận và các sách sử của Phật giáo Bắc-truyền, thì cuộc “phân liệt căn bản” của Giáo Hội đã không xảy ra ở thành Tì-xá-li của nước Bạt-kì, mà ở thành Ba-liên-phất của nước Ma-kiệt-đà; và nguyên nhân của sự phân liệt ấy cũng không phải do bất đồng ý kiến về giới luật, mà về giáo nghĩa – mà vấn đề trung tâm là bản chất của A-la-hán, được tóm gọn trong năm thuyết mới, gọi là “Năm Việc của Đại Thiên” (Đại Thiên ngũ sự).
Về niên đại, cả Nam-truyền và Bắc-truyền đều đồng ý là cuộc phân liệt căn bản do nguyên nhân bất đồng ý kiến về giới luật đã xảy ra 100 năm sau ngày Phật nhập diệt; nhưng thời điểm xảy ra cuộc phân liệt do bất đồng ý kiến về giáo nghĩa thì bất nhất, không rõ ràng. Đại Tì Bà Sa Luận (là bộ luận được coi là có thẩm quyền nhất nói về niên đại phân phái do bất đồng ý kiến về giáo nghĩa) nói về sự kiện “Đại Thiên” rất kĩ, nhưng đã không cho biết gì về thời điểm đã xảy ra sự kiện đó. Dị Bộ Tông Luân Luận (sử liệu quan trọng nhất về niên đại phân phái) thì nói rằng, sự kiện phân phái do giáo nghĩa đã xảy ra hơn 100 năm sau ngày Phật nhập diệt. Bộ Chấp Dị Luận và Thập Bát Bộ Luận thì nói sự việc trên đã xảy ra vào năm 116 sau ngày Phật nhập diệt. Trong Phật Giáo Sử (Buddhasasanapavatti - Giác Nguyên dịch), thượng tọa Thitananathera đã y cứ vào các sách sử Phật giáo Nam-truyền, ghi rằng, tình hình phân phái trên đã xảy ra dưới thời vua Ca La A Dục (Kalasoka), 100 năm sau ngày Phật nhập diệt.
Hầu hết các tài liệu có liên quan đến vấn đề “phân phái” đều nói rằng, việc tì kheo Đại Thiên đã đề xướng ra “năm việc” (ngũ sự), đã là nguyên nhân đưa đến cuộc “phân liệt căn bản” về giáo nghĩa. Sự kiện này, cùng với cá nhân Đại Thiên, luận Đại Tì Bà Sa đã nói đến rất kĩ. Nhưng bộ luận trên, kể luôn cả bộ Dị Bộ Tông Luân Luận, vừa nhầm lẫn về niên đại, vừa gán ghép cho Đại Thiên những hành động mà ông ta không làm. Như đã biết, vua A Dục lên ngôi vào năm 218 sau ngày Phật nhập diệt (xem mục “Năm Lên Ngôi Của Vua A Dục”), và Đại Thiên đã sống cùng thời đại với vua A Dục, cho nên không phải là người đã đề xướng thuyết mới “năm việc”. Điều đó chứng tỏ, 100 năm sau ngày Phật nhập diệt, đã không có Đại Thiên; do vậy, sự phân rẽ giáo đoàn thành hai bộ phái vì lí do “giáo nghĩa”, cũng không phải đã do Đại Thiên gây ra.
Một cách hợp lí, chúng ta có thể nói về diễn tiến của quá trình phân rẽ ấy như sau: sự phân rẽ của hai phái bảo thủ và cấp tiến trong giáo đoàn đã manh nha từ kì kết tập kinh điển đầu tiên, 3 tháng sau khi Phật nhập diệt; nhưng cả hai bên đều chưa có chủ trương riêng, cũng như chưa có tranh luận về giới luật hay về giáo lí. Khoảng hơn 100 năm sau ngày Phật nhập diệt, do nhóm tì kheo tộc Bạt-kì đề xướng “mười việc” liên quan tới sự hành trì giới luật, đã gây ra sự phân rẽ chính thức thành hai bộ phái trong giáo đoàn: phái có tinh thần cấp tiến là Đại Chúng Bộ; phái bảo thủ là Thượng Tọa Bộ. Hai bên đã tranh luận về “mười việc” kia, và đã phân rẽ vì có chủ trương riêng về vấn đề “trì luật”; nhưng vẫn thống nhất tin tưởng vào giáo pháp. Đó là cuộc “phân liệt căn bản” trong Giáo Hội Phật Giáo. Rồi dần dần, từ sự bất đồng về giới luật, lại nẩy nở thêm những xung đột kiến giải về giáo nghĩa, mà vấn đề trung tâm là bản chất của quả vị A-la-hán, được tóm gọn trong năm thuyết mới, gọi là “năm việc” (ngũ sự). Những người theo Thượng Tọa Bộ thì tin tưởng tuyệt đối rằng, A-la-hán là quả vị lí tưởng, hoàn toàn, siêu việt; nhưng phe Đại Chúng Bộ thì cho rằng A-la-hán vốn bất toàn, vẫn còn nhân gian tính, chỉ đoạn trừ kiến tư hoặc mà vẫn còn trần sa hoặc và vô minh hoặc, không phải là quả vị lí tưởng. Tình trạng xung đột ý kiến cả về giới luật lẫn giáo nghĩa này giữa hai bộ phái Thượng Tọa và Đại Chúng, đã kéo dài hàng thế kỉ, ngày càng trở nên gay gắt, không ai giải quyết ổn thỏa được. Cho đến thế kỉ thứ 3 Phật lịch (thời đại vua A Dục) thì hai bộ phái hoàn toàn tách biệt, li khai nhau, lập căn cứ hành đạo riêng, không có cách gì hàn gắn được nữa.
Tỉnh Am (1686-1734): tức đại sư Thật Hiền, vị tổ thứ 11 của tông Tịnh Độ, Trung-hoa. Ngài họ Thì, tự Tư Tề, hiệu Tỉnh Am, quê huyện Thường-thục, tỉnh Giang-tô. Gia tộc ngài đời đời theo đạo Nho, nhưng ngài từ tấm bé đã không ăn cá thịt. Cha mất sớm, 7 tuổi, mẫu thân đưa ngài lên am Thanh-lương, xin lạy hòa thượng Dung Tuyển làm thầy. Đến 15 tuổi ngài được chính thức xuất gia làm sa di. Năm 24 tuổi, ngài thọ đại giới tại chùa Chiêu-khánh ở Hàng-châu. Ngài bản tính thông tuệ, kinh điển chỉ xem qua là nhớ hết, kiêm thông cả ngoại điển, làm thơ hay, viết chữ đẹp. Ngài rất có hiếu, khi mẹ mất, ngài tụng Kinh Báo Ân suốt 49 ngày, hàng năm đều cúng giỗ. Ngài nghiêm trì giới luật, y bát luôn luôn bên mình, ngày chỉ ăn một bữa trưa, ban đêm chỉ ngồi, không bao giờ nằm. Một ngày nọ, ngài lên chùa Phổ-nhân ở núi Ngu (huyện Thường-thục), thấy một vị sư bỗng dưng ngã ra đất mà chết, liền tỉnh ngộ thế gian vô thường, cho nên càng thêm dốc lòng tinh tấn. Sau đó ngài theo tu học với pháp sư Thiệu Đàm, chưa đầy ba năm, ngài quán thông giáo nghĩa của cả hai tông Thiên Thai và Pháp Tướng, được pháp sư ấn chứng làm đệ tử truyền pháp đời thứ tư của phái Linh Phong, tông Thiên Thai. Kế đó, ngài đến tham yết hòa thượng Linh Thứu ở chùa Sùng-phước, trải bốn tháng, một hôm bỗng nhiên đại ngộ, liền thốt: “Ta đã tỉnh mộng rồi!” Rồi ngài đến chùa Chân-tịch cấm túc 3 năm, ngày thì duyệt đọc Tam Tạng, đêm trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà. Sau đó ngài đến trú trì chùa Long-hưng ở Hàng-châu, thường thay pháp sư Thiệu Đàm giảng dạy kinh luật, tăng tục ở vùng Giang, Triết theo qui y tu học rất đông, được pháp sư Thiệu Đàm hết lòng tán thán. Sau ngài đến chùa A-dục-vương ở núi Mậu (huyện Ngân, tỉnh Triết-giang), chiêm lễ xá lợi Phật, trước sau đốt cả năm ngón tay để cúng dường Phật; rồi về ẩn cư ở chùa Tiên-lâm (Hàng-châu), chân không bước ra khỏi cửa, chuyên tu Tịnh Độ. Năm 1730, ngài trú ở chùa Phạm-thiên (núi Phụng, Hàng-châu), dứt tuyệt ngoại duyên, lập hội niệm Phật, thuần tu Tịnh Độ, ngày đêm hướng dẫn đại chúng hành trì, mọi người đều xưng ngài là “Vĩnh Minh tái thế”. Năm 1734 ngài viên tịch, thế thọ 48 tuổi. Trước tác của ngài có: Tịnh Độ Thi (108 bài thơ), Tục Vãng Sinh Truyện, Khuyến Phát Bồ Đề Tâm Văn, v.v...
Tỉnh Thường (959-1020). Ngài họ Nhan, tự là Tạo Vi, quê ở huyện Tiền-đường, tỉnh Triết-giang, 7 tuổi xuất gia, 17 tuổi thọ đại giới, giới hạnh nghiêm cẩn. Về sau ngài đến trú tại chùa Chiêu-khánh ở Tây-hồ, Hàng-châu. Vì ngưỡng mộ đạo phong của Bạch Liên Xã ở Lô-sơn ngày xưa, ngài đã lập Bạch Liên Xã ngay bên bờ Tây-hồ, chuyên tu tịnh nghiệp. Sau đó, ngài lại theo ý chỉ của phẩm “Tịnh Hạnh” trong Kinh Hoa Nghiêm mà đổi tên Bạch Liên Xã thành Tịnh Hạnh Xã, số xã viên tăng tục hơn ngàn người, làm sống lại cái không khí tu niệm hưng thịnh của Bạch Liên Xã Lô-sơn ngày xưa. Năm 1020 ngài thị tịch, thế thọ 62 tuổi.
Tĩnh Yết (534-578). Ngài họ Trịnh, quê ở Vinh-dương (tỉnh Giang-tô), năm 17 tuổi cùng bạn đi chùa, xem tranh vẽ cảnh địa ngục, liền quyết chí xuất gia, được thiền sư Hòa ở chùa Ngõa-quan (tỉnh Giang-tô) xuống tóc. Sau khi thọ giới cụ túc, ngài theo pháp sư Cảnh học Đại Trí Độ Luận, rồi theo học với quí vị Phạn tăng trong 10 năm, tinh tường cả Trung Luận, Bách Luận và Thập Nhị Môn Luận. Ngài ẩn cư ở núi Chung-nam, đồ chúng theo học rất đông. Bấy giờ vua Chu Vũ đế nghe lời đạo sĩ Trương Tân, muốn hủy diệt Phật giáo, ngài liền đến cửa cung dâng biểu can gián, nói rõ lẽ nghiệp báo, nhưng vua không nghe, đuổi ngài ra khỏi cung. Ngài dẫn môn nhân trở về núi Chung-nam, vào tận nơi sâu hiểm, kiến tạo 27 ngôi chùa cho tăng chúng cư trú. Công việc xong, năm 578, ngài ngồi trên tảng đá, dùng dao tự cắt thịt, mổ bụng, đem gan ruột treo lên cành cây, rồi hai tay bưng quả tim mà viên tịch; bấy giờ ngài mới 45 tuổi đời. Vua Chu Vũ đế cũng chết trong năm đó.
Tịnh độ. “Tịnh độ” là cõi nước trong sạch, là từ dùng để chỉ chung cho tất cả các Phật độ, hoặc các xứ sở không có khổ đau, không có phiền não, hoàn toàn an vui thanh tịnh. Thế giới Cực-lạc của đức Phật A Di Đà là một trong các cõi tịnh độ ấy, nhưng từ khi pháp môn Niệm Phật cầu vãng sinh Cực-lạc được thịnh hành ở Trung-quốc, trở thành một trong các tông phái lớn của Phật giáo Trung-quốc, thì từ này được quen dùng như một tên riêng, cõi Cực-lạc được gọi là cõi Tịnh-độ; pháp môn Niệm Phật cầu vãng sinh về Cực-lạc được gọi là pháp môn Tịnh Độ; và tông phái của giới chuyên tu pháp môn Niệm Phật ấy cũng được gọi là tông Tịnh Độ.
Tịnh-độ Di Lặc. Về pháp môn Tịnh Độ ở Trung-quốc, chủ yếu có hai loại: Tịnh Độ Di Lặc và Tịnh Độ A Di Đà. Tín ngưỡng về Tịnh Độ Di Lặc bắt nguồn từ ngài Đạo An (312?-385?) đời Tấn (265-420), với tác phẩm Tịnh Độ Luận, mong cầu vãng sinh về cõi trời Đâu-suất, tức cảnh giới tịnh độ của đức Bồ Tát Di Lặc. Sau đó, vào đời Đường (618-907), hai ngài Huyền Trang (602?-664) và Khuy Cơ (632-682) cũng hành trì pháp môn Tịnh Độ Di Lặc; nhưng từ đó về sau, số người tu theo pháp môn này ngày càng giảm thiểu, rồi mất dần. Thay vào đó, pháp môn Tịnh Độ A Di Đà ngày càng hưng thịnh.
Tịnh Phạn Cồ Đàm (Suddhodana Gotama) và Ma Ha Ma Da (Maha Maya): tên của quốc vương và hoàng hậu trị vì vương quốc Thích-ca vào giữa thế kỉ thứ 7 trước Tây lịch. Các ngài là song thân của thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm (Siddhattha Gotama) mà về sau trở thành Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni). Vua Tịnh Phạn thuộc bộ tộc Thích-ca, là con trưởng của tiên vương Sư Tử Giáp (Simhahanu). Ngài có ba người em trai là các hoàng đệ Bạch Phạn (Sukkodana), Cam Lộ Phạn (Amitodana), Hộc Phạn (Dotodana), và một người em gái là quận chúa Cam Lộ (Pamita). Hoàng hậu Ma Ha Ma Da là em gái của vua Thiện Giác (Suppabuddha), trị vì vương quốc Câu-lị, nước láng giềng phía Đông của vương quốc Thích-ca. Bà còn có một người em gái là Ma Ha Ba Xà Ba Đề (Maha Pajapati). Hai vương quốc Thích-ca và Câu-lị đã giao hảo với nhau, và cũng từng là thông gia của nhau từ lâu đời, cho nên họ vừa là láng giềng mà cũng vừa là họ hàng của nhau. Như vào thời đại đó chẳng hạn, mẹ của vua Tịnh Phạn là cô ruột của vua Thiện Giác, trong khi đó, mẹ của vua Thiện Giác cũng lại là cô ruột của vua Tịnh Phạn; cả hai bà vợ của vua Tịnh Phạn (Ma Da và Ba Xà Ba Đề) đều là em ruột của vua Thiện Giác, và vợ của vua Thiện Giác cũng lại là em ruột của vua Tịnh Phạn.
Tịnh sắc căn: cũng gọi là “thắng nghĩa căn”, là phần chính yếu của căn, lấy phù trần căn làm chỗ y cứ để duyên cảnh và phát sinh tác dụng nhận thức. “Tịnh sắc” là loại sắc pháp cũng do bốn đại hợp thành, nhưng vô cùng vi tế, ẩn nhiệm ở bên trong (được hiểu như hệ thần kinh cảm giác), mắt thường không thể thấy được. (Xem mục “Phù Trần Căn”.)
Tòa sư tử (sư tử tòa). “Sư tử” tức là con sư tử. Đức Phật là sư tử trong loài người, cho nên chỗ ngồi của Phật gọi là “tòa sư tử”. Luận Trí Độ nói: “Hiệu là sư tử nhưng không phải thật là sư tử. Đức Phật là sư tử trong loài người. Chỗ ngồi của Phật, hoặc giường hoặc đất, đều gọi là tòa sư tử.”
Tối chánh giác. Cùng tột gọi là “tối"; xa lìa mọi điên đảo gọi là “chánh”; tâm ý sáng tỏ gọi là “giác”; gồm các ý nghĩa đó lại, gọi là “tối chánh giác”. Đó là trí tuệ đã phát triển đến chỗ hợp nhất với chân lí; vì vậy, “tối chánh giác” cũng tức là “vô thượng chánh đẳng chánh giác”, tức là Phật.
Tội ngũ nghịch (ngũ nghịch tội). Hoàn toàn trái với đạo lí, gọi là “nghịch”. Năm loại tội ác cực kì trái đạo lí, gọi là “năm tội nghịch”, hay “tội ngũ nghịch”, đều chiêu cảm quả báo ác ở địa ngục Vô-gián, cho nên cũng được gọi là “năm tội Vô-gián” (ngũ Vô-gián tội); gồm có: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật chảy máu, và phá sự hòa hợp của tăng đoàn. Chỉ cần phạm một trong năm tội ác đó, sau khi chết liền đọa vào địa ngục Vô-gián.
Tôn giả: nghĩa là người mà cả phước đức và trí tuệ đều đầy đủ, xứng đáng được mọi người tôn kính. Trên thực tế, danh hiệu này ngày xưa vốn được dùng để tôn xưng các vị đã chứng thánh quả A-la-hán.
Tôn giả Hiếp (Hiếp tôn giả – Parsva): là vị luận sư thuộc Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ, từng khuyên vua Ca Nị Sắc Ca tổ chức đại hội kết tập kinh điển kì thứ tư. Tôn giả cũng là vị tổ thứ 10 trong 28 vị tổ Thiền tông Ấn-độ. Theo Phú Pháp Tạng Truyện, do nghiệp đời trước mà tôn giả phải ở trong thai mẹ 60 năm, khi sinh ra thì râu tóc đã bạc hết. Tôn giả chán ghét ngũ dục, không thích ở nhà, bèn đến đảnh lễ ngài Phật Đà Mật Đa (Buddhamitra – vị tổ thứ 9 Thiền tông Ấn-độ) để cầu xin học đạo, chuyên tu khổ hạnh, tinh tấn dũng mãnh, chưa từng đặt hông nằm xuống giường. Người đương thời xưng hiệu tôn giả là Hiếp tì kheo. Theo Đại Đường Tây Vực Kí, ban đầu tôn giả là thầy của chúng phạm chí ngoại đạo, đến 80 tuổi thì bỏ nhà xuất gia theo Phật giáo. Đám trai trẻ trong thành chê cười rằng: “Ông già hủ lậu này kém trí làm sao! Người xuất gia thì phải tu định và tụng kinh. Nay đã suy nhược, hết đường tiến thủ, mà nhập vào tăng đoàn thì chắc là vì để được ăn no mà thôi!” Tôn giả nghe lời ấy bèn tự thề nguyền, nếu không học thông Ba Tạng, không đoạn trừ tham dục ba cõi để chứng được sáu thần thông, đạt đủ tám bước giải thoát, thì trọn đời hông không dính chiếu. Trải qua 3 năm, tôn giả quả nhiên học thông Ba Tạng, đoạn trừ tham dục ba cõi, chứng ba minh. Bấy giờ mọi người hết sức kính ngưỡng, xưng hiệu là Hiếp tôn giả. Sau đó tôn giả lại theo học với tôn giả Phật Đà Mật Đa, được truyền cho yếu chỉ thâm diệu của Phật pháp, và chứng quả A-la-hán.
Ngài Mã Minh buổi đầu theo học Bà-la-môn giáo, tài trí tung hoành, biện tài vô ngại, công kích tăng chúng, gây hại cho nền Phật giáo Trung Thiên-trúc không ít. Để cứu vãn cho tình hình Phật giáo ấy, tôn giả Hiếp đã đến thẳng thành Hoa-thị, mời Mã Minh cùng đối luận. Trong cuộc đối luận này Mã Minh bị chiết phục, bèn xin nhập làm môn hạ của tôn giả Hiếp, thọ giới cụ túc, trở thành tì kheo. Sau đó tôn giả trở về Bắc Thiên-trúc, lưu ngài Mã Minh ở lại Trung Thiên-trúc để hoằng dương chánh pháp. Về sau, khi vua Ca Nị Sắc Ca đánh chiếm thành Hoa-thị, lại đem ngài Mã Minh về Bắc Thiên-trúc. Dưới triều vua Ca Nị Sắc Ca, Hiếp tôn giả đã vâng mệnh vua, triệu tập 500 vị thánh tăng nhóm họp tại nước Ca-thấp-di-la để kết tập kinh điển cùng biên tập bộ luận Đại Tì Bà Sa, rất được nhà vua sùng kính. Tôn giả đã viên tịch tại Bắc Thiên-trúc, cả quần thần của vương triều đều cùng nhau xây tháp để thờ xá lợi của ngài.
Tôn Tư Mạc (581-682): là một vị ẩn sĩ đời nhà Đường (618-907). Ông giỏi cả “bách gia chư tử”, thông cả Phật điển, tinh chuyên y dược. Các vua nhà Tùy (581-618) và nhà Đường đều triệu ông ra làm quan, nhưng ông đều khước từ, chỉ để hết tâm lực và thì giờ cho việc nghiên cứu y dược. Ông quan niệm, mạng sống con người quí đáng ngàn vàng; cứu trị cho một người bằng bố thí ngàn vàng; cho nên các sách của ông viết về y dược đều có tên là “Thiên Kim”, như các bộ Thiên Kim Phương (30 quyển), Thiên Kim Dực Phương (30 quyển), Thiên Kim Tủy Phương (20 quyển – thất truyền).
Tông - Giáo. Các nhà Phật học Trung-quốc cho rằng, tất cả giáo pháp do Phật thuyết nhằm thích ứng cho từng đối tượng giáo hóa, gọi là “giáo”; ý chỉ đặc thù, cốt lõi ở trong giáo pháp gọi là “tông”. Giáo thì có ý khách quan; tông là niềm tin chủ quan, có tính cách cá nhân. Có người lại cho rằng, tông tức là giáo không nói năng; còn giáo là tông có nói năng. Có thuyết lại còn cụ thể hơn, phân định rằng, tông tức là “tông môn”, cũng tức là “thiền môn” (hay “thiền gia”), là môn phái “giáo ngoại biệt truyền”, không dùng ngôn giáo, chỉ dùng phương thức “tâm truyền tâm”; còn giáo tức là “giáo môn” (hay “giáo gia”), chỉ cho các môn phái được thành lập dựa trên kinh điển đại thừa hay tiểu thừa, như các tông Thiên Thai, Tịnh Độ, Luật, Pháp Tướng, v.v...
Tông Câu Xá (Câu Xá tông): là một trong 13 tông phái ở Trung-quốc (xem mục “Tông Thiên Thai”), lấy bộ Luận Câu Xá làm giáo nghĩa chủ yếu để lập tông. Luận Câu Xá là một trong 500 bộ luận tiểu thừa do ngài Thế Thân (thế kỉ thứ 5 TL) trước tác trước khi ngài chuyển tư tưởng sang đại thừa. Mục đích ngài tạo bộ luận này là nhằm dứt bỏ những điều sai lầm trong giáo thuyết truyền thống của Hữu bộ, cũng như đả phá thái độ cố chấp hẹp hòi của các vị luận sư thuộc bộ phái này. Bộ luận này, về sau đã được các ngài luận sư Tuệ Đức, Thế Hữu, An Tuệ, Trần Na, Xứng Hữu, Tăng Mãn, v.v... kế tục nhau chú sớ xiển dương, tạo thành kỉ nguyên mới cho giáo nghĩa của Hữu bộ. Vào năm 561 (dưới triều đại nhà Trần, Trung-quốc), ngài Chân Đế đã phiên dịch bộ luận này ra Hán văn với tên A Tì Đạt Ma Câu Xá Thích Luận, và soạn sớ để giải thích; rồi lại được các ngài Tuệ Khải, Tuệ Tịnh, Đạo Nhạc kế tiếp nhau chú sớ để truyền bá. Năm 654 (dưới triều đại nhà Đường), bộ luận này lại được ngài Huyền Trang dịch một lần nữa với tên A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận (đương thời gọi đó là Tân Câu Xá, và gọi bản dịch của ngài Chân Đế lúc trước là Cựu Câu Xá), và được 3 vị đệ tử là Phổ Quang, Pháp Bảo và Thần Thái (đương thời gọi là Câu Xá tam gia) soạn sớ giải và truyền bá mạnh mẽ; làm cho bộ luận này trở thành bộ luận căn bản để xây dựng giáo nghĩa cơ sở mà thành lập tông Câu Xá tại Trung-quốc. Tông Câu Xá rất được thịnh hành trong thời đại nhà Đường, nhưng sau đó thì bị thất truyền. Ngoài bộ Luận Câu Xá là bộ luận chủ yếu ra, tông Câu Xá còn tham bác giáo nghĩa bốn bộ kinh A Hàm và các bộ luận Đại Tì Bà Sa, A Tì Đàm Tâm, Tạp A Tì Đàm Tâm v.v...
Tông Chân Ngôn (Chân Ngôn tông): tức là Mật tông ở Trung-quốc [xem mục “Tông Mật (Mật Tông)”]. Tông này, chủ yếu lấy Kinh Kim Cương Đảnh làm Kinh tạng; lấy Kinh Tô Bà Hô làm Luật tạng; và lấy Luận Thích Ma Ha Diễn làm Luận tạng. Tông phái này nói rằng, giáo pháp do Hóa thân Phật Thích Ca Mâu Ni giảng dạy chỉ là những phương tiện cứu khổ, rất giản dị, dễ hiểu, dễ nhận, gọi là “hiển giáo”; còn giáo pháp do Pháp thân Phật Thích Ca Mâu Ni (tức Đại Nhật Như Lai) giảng nói mới là giáo pháp chân thật, đó chính là kinh nghiệm nội chứng của Phật, cực kì bí áo thâm diệu, khó ai có thể hiểu thấu được; bởi vậy, giáo pháp ấy được gọi là “chân ngôn”, hay “mật giáo”. Trong khoảng niên hiệu Khai-nguyên (713-741) đời vua Đường Huyền-tông, hai vị cao tăng đại học giả của Mật giáo Ấn-độ là Thiện Vô Úy và Kim Cương Trí trước sau đến kinh đô Trường-an, phiên dịch các kinh điển căn bản của Mật giáo, kiến lập đạo tràng quán đảnh, và Mật tông (tức Chân Ngôn tông) Trung-quốc được chính thức thành lập từ đó. Vì nguyên do này, Chân Ngôn tông Trung-quốc cũng được gọi là Khai Nguyên tông.
Chân Ngôn tông cũng là tên một tông phái của Phật giáo Nhật-bản, do đại sư Không Hải (tức Hoằng Pháp đại sư [774-835], năm 804 sang Trung-quốc tham học, năm 806 trở về nước) sáng lập vào năm 808.
Tông Duy Thức (Duy Thức tông): là một trong 13 tông phái của Phật giáo Trung-quốc (xem mục “Tông Thiên Thai”). Tông này chủ trương tất cả vạn pháp đều hiện hữu nơi THỨC, nói cách khác, chỉ có THỨC là hiện hữu, cho nên gọi là tông Duy Thức. Tông này phán quyết về tánh và tướng của vạn pháp, nên cũng gọi là tông Pháp Tướng. Tông này y cứ vào nhiều kinh luận để thành lập giáo nghĩa, trong đó, Kinh Giải Thâm Mật, Luận Du Già Sư Địa và Luận Thành Duy Thức là căn bản nhất. Tông này, ở Ấn-độ (thế kỉ thứ 5) có tên là Du Già, và đã tôn Bồ Tát Di Lặc làm thỉ tổ, kế tiếp là các ngài Vô Trước, Thế Thân, Hộ Pháp, Giới Hiền. Rồi toàn bộ kinh luận thuộc tông này đã được pháp sư Huyền Trang (môn nhân xuất sắc nhất của ngài Giới Hiền) mang về Trung-hoa sau 17 năm du học ở Ấn-độ. Tại kinh đô Trường-an (thời đại nhà Đường), ngoài việc phiên dịch kinh điển, ngài Huyền Trang đã đặc biệt hoằng dương giáo nghĩa Duy Thức, và được coi là vị thỉ tổ của tông Pháp Tướng tại Trung-quốc. Vị đệ tử thượng thủ của pháp sư Huyền Trang là Khuy Cơ, đã tập đại thành huyền chỉ của tông Pháp Tướng, và được coi là vị tổ chính thức đã thành lập tông Pháp Tướng tại Trung-quốc. Tông này rất thịnh hành vào thời Thịnh-Đường, nhưng từ cuối đời Đường thì thanh thế yếu dần.
Ở Trung-quốc, trước khi Duy Thức tông được thành lập, Nhiếp Luận tông đã xuất hiện vào triều đại nhà Trần (557-589), mà các học giả đều coi đó là tiền thân của Duy Thức tông. Hai tác phẩm Nhiếp Đại Thừa Luận của ngài Vô Trước và Nhiếp Đại Thừa Luận Thích của ngài Thế Thân, đã được ngài Chân Đế (499-569) dịch vào năm 563, đã trở thành giáo nghĩa căn bản để thành lập Nhiếp Luận tông; và ngài Chân Đế được tôn là vị sáng tổ của tông này. Về sau, khi Duy Thức tông được thành lập thì Nhiếp Luận tông được sát nhập vào đó.
Tông Hoa Nghiêm (Hoa Nghiêm tông): cũng gọi là tông Hiền Thủ, là một trong 13 tông phái của Phật giáo Trung-quốc (xem mục “Tông Thiên Thai”). Tông này y cứ vào bộ Kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm mà lập nên các yếu chỉ “pháp giới duyên khởi” và “sự sự vô ngại”; lại lấy tên kinh mà đặt tên cho tông phái, cho nên gọi là tông Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm được truyền dịch tại Trung-quốc từ những thập niên đầu thế kỉ thứ 5, nhưng mãi đến thế kỉ thứ 7 (thời đại nhà Đường) mới được học giới triệt để quan tâm và hoằng dương rộng rãi; mà ngài Hiền Thủ (tức Pháp Tạng, 643-712) được coi là người đã tập đại thành giáo nghĩa chủ yếu của Kinh Hoa Nghiêm để xác lập tông chỉ và chính thức thành lập tông Hoa Nghiêm. Tông Hoa Nghiêm tuy do ngài Hiền Thủ khai sáng, nhưng cơ sở của nó đã được thiết lập từ ngài Pháp Thuận (tức Đỗ Thuận, 557-640). Ngài đã trước tác các bộ Ngũ Giáo Chỉ Quán, Hoa Nghiêm Pháp Giới Quán Môn, Thập Môn Thực Tướng Quán v.v... để xiển dương giáo nghĩa Kinh Hoa Nghiêm, và chuyên tu hạnh Phổ Hiền, rất được vua Đường Thái-tông (627-649) kính trọng. Ngài đã truyền pháp môn tu quán cho người đệ tử ưu tú là Trí Nghiễm (602-668). Ngài Trí Nghiễm đã nối gót thầy chuyên giảng Kinh Hoa Nghiêm, và viết nhiều tác phẩm để thâu tóm các giáo thuyết căn bản của thầy mình.
Ngài Pháp Tạng (người Trường-an), nghe tiếng ngài Trí Nghiễm thì rất lấy làm ngưỡng mộ, bèn đến xin nhập môn học đạo, và trở thành vị đệ tử xuất sắc, được truyền thừa tổ nghiệp. Ngài đã thấu triệt nghĩa lí huyền diệu của Kinh Hoa Nghiêm, và đã hệ thống hóa toàn vẹn nền triết lí này; từ đó ngài tập đại thành giáo nghĩa Hoa Nghiêm và chính thức thành lập tông Hoa Nghiêm. Tuy là vị sáng tổ, nhưng ngài đã truy từ nguồn gốc, tôn ngài Đỗ Thuận là tổ thứ nhất của tông Hoa Nghiêm; ngài Trí Nghiễm là tổ thứ nhì, và ngài là vị tổ đời thứ ba. Đệ tử thượng thủ của ngài là Trừng Quán (737-838), là tổ thứ tư; ngài Tông Mật (780-841) là tổ thứ năm. Từ cuối đời Đường trở đi, tông này tuy có suy vi hơn trước, nhưng qua các thế hệ vẫn có người nối tiếp, kéo dài mãi đến ngày nay.
Về các vị tổ truyền thừa của tông Hoa Nghiêm, ngoài thuyết chính thức gồm năm vị (Hoa Nghiêm ngũ tổ) như trên, còn có thuyết kể tới mười vị (Hoa Nghiêm thập tổ), là: Phổ Hiền, Văn Thù, Mã Minh, Long Thọ, Thế Thân, Đỗ Thuận, Trí Nghiễm, Hiền Thủ, Trừng Quán, và Tông Mật; cũng có thuyết liệt kê bảy vị (Hoa Nghiêm thất tổ), là: Mã Minh, Long Thọ, Đỗ Thuận, Trí Nghiễm, Hiền Thủ, Trừng Quán, và Tông Mật.
Trước khi tông Hoa Nghiêm được thành lập, một tông phái có tên là Địa Luận đã được thành lập từ thời Bắc-Ngụy (386-534); và được coi là có liên hệ mật thiết với tông Hoa Nghiêm. Giáo nghĩa của tông Địa Luận là y cứ vào bộ Thập Địa Kinh Luận (luận giải về phẩm “Thập Địa” trong Kinh Hoa Nghiêm) của Bồ-tát Thế Thân (do các ngài Bồ Đề Lưu Chi, Lặc Na Ma Đề và Phật Đà Phiến Đa dịch ra Hán văn trong khoảng từ năm 508 đến năm 512). Sau khi thành lập được một thời gian thì Địa Luận tông bị phân rẽ thành hai phái: Ngài Đạo Sủng (đệ tử của ngài Bồ Đề Lưu Chi) cư trú ở phía Bắc thành Lạc-dương (kinh đô nhà Bắc-Ngụy), lãnh đạo phái Bắc Địa; và ngài Tuệ Quang (đệ tử của ngài Lặc Na Ma Đề) cư trú ở phía Nam kinh thành, lãnh đạo phái Nam Địa. Dần dần thì phái Bắc Địa bị mai một sớm, vì không có người truyền nối; trong khi đó thì phái Nam Địa lại càng phát triển mạnh, vì có nhiều nhân tài kế thế. Tuy nhiên, đến khi ngài Đỗ Thuận (người đã đặt nền móng cho tông Hoa Nghiêm) xuất hiện, thì những nhân vật xuất sắc của tông Địa Luận đều bị ngài thu hút hết; và cuối cùng, Địa Luận tông đã được sát nhập một cách êm thắm vào Hoa Nghiêm tông.
Tông Lâm Tế (Lâm Tế tông): là một trong “năm nhà bảy tông” của Thiền tông Trung-quốc, do thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền (?-867) làm tổ khai sáng, thuộc pháp hệ của ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng. Ngài Nghĩa Huyền trước tham học với ngài Hoàng Bá Hi Vận (?-850), nhưng không ngộ được gì; sau xin tham yết hai ngài Cao An Đại Ngu (?-?) và Qui Sơn Linh Hựu mới được đại ngộ; rồi trở về lại với ngài Hoàng Bá để được ấn chứng. Năm 854, ngài đến trú tích tại Lâm-tế viện ở Trấn-châu (tỉnh Hà-bắc), mở đạo tràng xiển dương thiền pháp, tiếp hóa đồ chúng, lập nên tông Lâm Tế, rất được thịnh hành, trở thành một tông phái lớn, danh tiếng lừng lẫy, thu hút cả các giới võ sĩ, tướng sĩ, chính khách. Đến thời đại nhà Thanh, tông này đã nghiễm nhiên trở thành dòng thiền chủ lực của Thiền tông Trung-quốc. Cuối thế kỉ 12, hai vị tăng Nhật-bản là Vinh Tây (Yosai, 1141-1215) và Tuấn Tú (Shunjo, 1166-1227), trước sau đã sang Trung-quốc học thiền pháp của tông Lâm Tế; sau khi về nước, họ đã mở đạo tràng xiển dương thiền pháp, lập nên tông Lâm Tế tại Nhật-bản, trở thành một trong 13 tông phái của Nhật-bản, có tầm ảnh hưởng lớn lao trong nền Phật giáo nước Nhật. Vào giữa thế kỉ 17, phái thiền Lâm Tế cũng đã được các vị thiền sư Trung-quốc đem truyền sang Việt-nam, và vẫn được thịnh hành cho đến ngày nay.
Tông Luật (Luật tông): là một trong 13 tông phái của Phật giáo Trung-quốc (xem mục “Tông Thiên Thai”), là một tông phái đại thừa, y theo các tịnh giới trong bộ Tứ Phần Luật làm căn bản hành trì, lấy diệu lí nhất thừa viên đốn làm chỉ qui tu tập.
Giới luật đã được đức Phật chế định hoàn chỉnh ngay từ thời Ngài còn tại thế; sau khi Phật nhập diệt, tôn giả luật sư Ưu Ba Li đã kết tập và hình thành Luật tạng. Lúc đó tôn giả đã chia làm 80 lần để tụng lại trọn vẹn mọi giới điều Phật đã chế định, làm thành bộ Bát Thập Tụng Luật, là bộ luật nguyên thỉ và căn bản của Giáo đoàn Phật giáo. Bộ luật này được nối tiếp truyền thừa cho đến tôn giả Ưu Ba Cúc Đa (Upagupta) dưới triều đại vua A Dục (thế kỉ thứ 3 tr. TL), thì có sự biến chuyển. Nguyên vì, tôn giả Ưu Ba Cúc Đa (Phật giáo Nam-truyền nói đó là tôn giả Mục Kiền Liên Tử Đế Tu – Moggaliputta-tissa) có năm vị đệ tử thuộc hàng cao túc (được gọi là “đồng thế ngũ sư”), đối với Luật học đều có kiến giải bất đồng, bèn đem bộ Bát Thập Tụng Luật, chọn lấy những phần phù hợp với kiến giải riêng, mỗi vị làm thành một bộ luật riêng của mình. Do đó, từ bộ Bát Thập Tụng Luật nguyên thỉ, đến đây đã bị chia thành năm bộ, gọi là “Năm Bộ Luật”: Đàm Vô Đức Bộ, Tát Bà Đa Bộ, Di Sa Tắc Bộ, Ca Diếp Di Bộ, và Ma Ha Tăng Kì Bộ. Cả năm bộ luật ấy (mỗi bộ đều gồm có phần giới bản và phần quảng luật) đều lần lượt được truyền vào Trung-quốc – ngoại trừ phần quảng luật của Ca Diếp Di Bộ là chưa được truyền.
Vào năm 222 (dưới triều vua Văn đế nhà Tào-Ngụy), ngài Đàm Ma Ca La (Dharmakala) đến Lạc-dương, thấy tăng chúng chỉ biết cạo đầu, đắp y mạn (một tấm vải trơn, không có điều), không có giới luật để hành trì, bèn phát nguyện hoằng truyền giới luật. Nhưng cũng phải tới năm 250 (đời vua Thiếu đế nhà Tào-Ngụy), ngài mới dịch được bộ Tăng Kì Giới Bản, và đó là tác phẩm Luật được dịch đầu tiên ở Trung-quốc. Rồi sau đó, hai ngài Khương Tăng Khải (Sanghavar-man) và Đàm Đế (Dharmatrata) cùng phiên dịch bộ Đàm Vô Đức Tạp Yết Ma. Bấy giờ quí ngài mới thỉnh 10 vị Phạn tăng, lập đàn giới để tác pháp truyền giới cho chúng tăng; đó là đàn truyền giới đầu tiên ở Trung-quốc. Năm 404 (dưới triều đại nhà Diêu-Tần), ngài Phất Nhã Đa La (Punyatara) đã tụng bộ Thập Tụng Luật của Tát Bà Đa Bộ cho ngài Cưu Ma La Thập dịch; nhưng khi dịch được hơn một nửa thì ngài Phất Nhã Đa La viên tịch, ngài Đàm Ma Lưu Chi (Dharma-ruci) được mời tụng tiếp phần còn lại để ngài La Thập dịch, trọn bộ gồm 61 quyển. Đó là bộ quảng luật xuất hiện đầu tiên ở Trung-quốc. Năm 410 (nhà Diêu-Tần), hai ngài Phật Đà Da Xá (Buddhayasas) và Trúc Phật Niệm cùng dịch bộ Tứ Phần Luật (60 quyển) của Đàm Vô Đức Bộ; năm 418 (triều vua An đế nhà Đông-Tấn), hai ngài Phật Đà Bạt Đà La (Buddhabhadra) và Pháp Hiển cùng dịch bộ Ma Ha Tăng Kì Luật (40 quyển) của Ma Ha Tăng Kì Bộ; năm 423 (triều vua Thiếu đế nhà Lưu-Tống), hai ngài Phật Đà Thập (Buddhajiva, tới Trung-quốc năm 423) và Trí Thắng cùng dịch bộ Ngũ Phần Luật (30 quyển) của Di Sa Tắc Bộ. Tới đây, Luật tạng coi như đã được dịch gần như hoàn toàn ở Trung-quốc – chỉ có bộ quảng luật của Ca Diếp Di Bộ là chưa được truyền tới, nên không có ở Trung-quốc.
Các bộ luật kể trên, sau khi được dịch, đã được chư tăng Trung-quốc y cứ vào đó mà tổ chức tăng đoàn. Trong các đời Ngụy, Tấn, Luật Tăng Kì được thịnh hành ở vùng Giang-bắc, còn Luật Thập Tụng thì thịnh hành ở vùng Giang-nam; sự thọ giới thì nương theo Luật Tứ Phần, nhưng sinh hoạt của tăng chúng thì nương theo Luật Tăng Kì và Thập Tụng. Tuy nhiên, càng về sau thì bộ Luật Tứ Phần càng được thịnh hành hơn cả. Dưới triều vua Hiếu-văn đế (471-499) thời Bắc-Ngụy, bộ Luật Tứ Phần đã được luật sư Pháp Thông (468-559) nhiệt tâm nghiên cứu và giảng giải. Đệ tử của ngài là Đạo Phú, đã theo lời giảng của thầy mà soạn thành tác phẩm Tứ Phần Luật Sớ. Đệ tử của ngài Đạo Phú là Tuệ Quang (468-537) lại tận lực hoằng truyền, khiến bột hưng phong trào học Luật Tứ Phần. Đệ tử của ngài Tuệ Quang là Đạo Vân; đệ tử của ngài Đạo Vân là Đạo Chiếu; đệ tử của ngài Đạo Chiếu là Trí Thủ, đều nối tiếp nhau hoằng dương Tứ Phần Luật ở đời Tùy. Đến đời Đường thì toàn bộ giáo nghĩa Luật học được tập đại thành, và tông Luật được chính thức thành lập do đệ tử của ngài Trí Thủ là luật sư Đạo Tuyên (596-667).
Sau khi được thành lập, tông Luật tôn xưng ngài Đàm Vô Đức (tức Pháp Chánh tôn giả) là Tứ Phần Luật Chủ (tức thỉ tổ); tôn ngài Đàm Ma Ca La (tức Pháp Thời tôn giả) là sơ tổ của Luật tông Trung-quốc; ngài Pháp Thông là nhị tổ; kế tiếp là các ngài Đạo Phú, Tuệ Quang, Đạo Vân, Đạo Chiếu, Trí Thủ, Đạo Tuyên, cả thảy là 9 vị tổ.
Từ sau tổ thứ sáu là Đạo Vân thì tông Luật bắt đầu phân phái. Trong số môn hạ của ngài Đạo Vân có Hồng Tuân; ngài Hồng Tuân truyền cho Hồng Uyên; ngài Hồng Uyên truyền cho Pháp Lệ. Ngài Pháp Lệ (569-635) trụ trì chùa Nhật-quang ở Tướng-châu (tỉnh Hà-nam), lập riêng một phái Luật học, gọi là Tướng Bộ tông. Ngài Pháp Lệ truyền cho Đạo Thành; ngài Đạo Thành truyền cho Mãn Ý và Hoài Tố. Ngài Mãn Ý trú tại Tây-tháp, tiếp tục hoằng truyền Tướng Bộ tông của ngài Pháp Lệ; ngài Hoài Tố (624-697) trú tại Đông-tháp, lập thành một phái Luật học riêng, gọi là Đông Tháp tông. Trong khi đó, ngài Đạo Tuyên (596-667) trụ trì chùa Phong-đức ở núi Chung-nam, thành lập Luật tông, và được gọi là Nam Sơn tông (cũng gọi là Nam Sơn Luật tông). Cả ba tông này được gọi chung là “Ba tông Tứ Phần Luật” ở thời đại nhà Đường.
Ba tông phái Luật này từng tranh cãi nhau kịch liệt, do vì bất đồng ý kiến về vấn đề “giới thể”. Tướng Bộ tông của ngài Pháp Lệ thì y cứ vào bộ Luận Thành Thật, chủ trương giới thể là pháp phi sắc phi tâm, thuộc bất tương ưng hành pháp. Đông Tháp tông của ngài Hoài Tố thì y cứ vào hai bộ Luận Đại Tì Bà Sa và Câu Xá, chủ trương giới thể thuộc về sắc pháp. Chủ trương của hai tông ấy đều thuộc về “tiểu thừa luật”. Riêng Nam Sơn tông, vì ngài Đạo Tuyên chịu ảnh hưởng sâu đậm của Pháp Tướng Duy Thức Học, nên ngài đã phán định rằng, Tứ Phần Luật, về hình thức thì mang sắc thái tiểu thừa giáo, nhưng về tinh thần thì thuộc về đại thừa, khi thọ giới phải nương vào ngôn ngữ, cho nên giới thể trở thành chủng tử của a-lại-da thức. Như vậy, hệ thống Nam Sơn Luật tông của ngài Đạo Tuyên thuộc về đại thừa giáo. Sau đó, hai tông Tướng Bộ và Đông Tháp lưu truyền không được bao lâu thì bị suy tàn; chỉ có tông Nam Sơn là hưng thịnh và lưu truyền sâu rộng và lâu dài; và ở Trung-quốc, khi nói tới Luật tông tức chỉ cho Nam Sơn Luật tông, cũng tức là Tứ Phần Luật tông.
Ngài Đạo Tuyên, trong bảng liệt kê chư vị tổ sư truyền thừa tông Luật, ngài là vị tổ thứ 9; nhưng đối với Nam Sơn Luật tông, thì ngài được tôn xưng là vị sơ tổ. Đệ tử của ngài đông đến vài trăm người, trong đó, luật sư Tú (có chỗ nói luật sư Châu) được thừa kế làm tổ thứ nhì; và các vị tổ truyền thừa nối tiếp nhau gồm có: Đạo Hằng, Tỉnh Cung, Huệ Chánh, Pháp Bảo, Nguyên Biểu, Thủ Ngôn, Nguyên Giải, Pháp Vinh, Xứ Hằng, Trạch Ngộ, Doãn Kham, Trạch Kì, Nguyên Chiếu, Trí Văn, Hoài Nhất, Pháp Chính, Pháp Cửu, Như Liên, Hành Cư, Chân Chiếu, v.v...
Từ cuối đời Đường sang đời Ngũ-đại, phần vì pháp nạn, phần vì binh hỏa liên miên, khiến cho tông Luật cũng như các tông phái khác, đều bị suy yếu. Đến đời Tống, tông Luật được phục hưng, nhưng lại bị phân rẽ thành hai phái Hội Chánh và Tư Trì. Trong hai triều đại Nguyên và Minh, tông Luật vẫn được truyền thừa không gián đoạn, nhưng điển tịch mất mát nhiều, nên Luật học suy yếu. Cuối đời Minh có ngài luật sư Cổ Tâm (1541-1615), lên núi Ngũ-đài, cảm nhận được đức Bồ Tát Văn Thù truyền giới cho, tâm trí bỗng bừng sáng, bèn trở về chùa Linh-cốc ở Kim-lăng (Nam-kinh), khai đàn thuyết giảng giới luật, trùng hưng tông Luật. Pháp từ của ngài là luật sư Tịch Quang (1580-1640) thì mở đạo tràng ở núi Bảo-hoa (phía Đông Nam thành phố Kim-lăng), thuyết giới đến hơn trăm lần. Các vị đệ tử truyền thừa như Độc Thể (1580-1645) v.v... đều kế tiếp nhau xiển dương Luật học, làm cho thanh thế của đạo tràng núi Bảo-hoa, ở triều đại nhà Thanh, vang dội bốn phương. Vào cuối đời Thanh, trong cuộc loạn Thái-bình-thiên-quốc, đạo tràng núi Bảo-hoa bị phá hoại nặng nề; sau khi giặc loạn chấm dứt, đạo tràng được trùng hưng, mỗi năm đều có mở giới đàn, nhưng vì bao nhiêu sách vở do Nam Sơn Luật tông truyền lại đều mất mát hết, nên Luật học thiếu chỗ nương dựa. Phải đợi đến lúc có người sang Nhật-bản thỉnh được điển tịch về, khắc in để quảng bá rộng rãi, bấy giờ Luật học lại được mọi người nghiên cứu, học tập, hành trì, và Luật tông mới trở lại cái phong thái sáng sủa như trước.
Tông Mật (780-841): là vị cao tăng đời Đường, tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm Trung-quốc. Ngài họ Hà, quê ở Tứ-xuyên. Năm 28 tuổi ngài lên kinh đô ứng thí, khi đến Toại-châu, ghé lại đạo tràng của hòa thượng Đạo Viên nghe thuyết pháp, bèn xin xuất gia, được hòa thượng cho thọ giới cụ túc. Sau khi thọ giới, ngài được hòa thượng cho sang chùa Tịnh-chúng ở Ích-châu để học Thiền với thiền sư Nam Ấn (đệ tử của thiền sư Thần Hội); rồi lại đến chùa Báo-quốc (Lạc-dương) tham học với thiền sư Thần Chiếu. Năm 31 tuổi ngài xin nhập làm môn hạ của đại sư Trừng Quán, chuyên hành trì giáo học Hoa Nghiêm. Từ năm 37 tuổi ngài ở luôn tại chùa Trí-cự trên núi Chung-nam, quyết không xuống núi. Tại đây, trong 3 năm ròng rã ngài chuyên đọc Tạng Kinh, có soạn bộ Viên Giác Kinh Khoa. Sau ngài chuyển sang ở chùa Thảo-đường, cũng trên núi ấy, có soạn bộ Viên Giác Kinh Đại Sớ; rồi lại chuyển sang Khuê-phong lan-nhã ở đầu Nam của núi, chuyên tụng kinh, tu thiền. Năm 49 tuổi ngài vâng chiếu vào cung giảng kinh, được vua Đường Văn-tông (827-840) dùng hậu lễ trọng đãi, các quan từ tướng quốc trở xuống, cho đến các thân hào nhân sĩ đều kính trọng; nhưng chẳng bao lâu thì ngài xin trở về núi. Năm 62 tuổi ngài thị tịch, pháp lạp 34 năm. Lúc tại thế, vì thấy đồ chúng trong thiền môn hay kích bác nhau, nên ngài đã soạn bộ Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập (100 quyển), sưu tập thiền ngữ, đề xướng chủ trương “Giáo Thiền nhất trí”, đặt định cơ sở cho Phật giáo Trung-quốc trong khoảng từ cuối nhà Đường cho tới nhà Tống. Những trước tác khác của ngài gồm có: Nguyên Nhân Luận, Vu Lan Bồn Kinh Sớ, Hoa Nghiêm Kinh Luận Quán, Viên Giác Kinh Đại Sớ Thích Nghĩa Sao, Kim Cang Bát Nhã Kinh Sớ Luận Toản Yếu, Khởi Tín Luận Sớ Chú, Chú Hoa Nghiêm Pháp Giới Quán Môn, Trung Hoa Truyền Tâm Địa Thiền Môn Sư Tư Tập Đồ, v.v… cả thảy hơn 30 bộ.
Tông Mật (Mật tông): cũng gọi là tông Chân Ngôn (xem mục “Tông Chân Ngôn”), hay tông Du Già, là một trong 13 tông phái của Phật giáo Trung-quốc (xem mục “Tông Thiên Thai”). Đây là một tông phái đại thừa, chủ trương “tức thân thành Phật” (thành Phật ngay trong đời này bằng chính xác thân phàm phu này), nương vào pháp môn chân ngôn đà-la-ni, tu tập các diệu hạnh như 5 tướng (thông đạt bồ đề tâm, tu bồ đề tâm, thành kim cang tâm, chứng kim cang thân, và Phật thân viên mãn), 3 mật (thân mật, khẩu mật, ý mật) v.v... Tông này lấy hai bộ kinh Đại Nhật và Kim Cang Đảnh làm tạng Kinh; lấy bộ kinh Tô Bà Hô làm tạng Luật; và lấy bộ luận Thích Ma Ha Diễn làm tạng Luận.
Mật tông thường xưng mình là Mật giáo (để đối lại với Hiển giáo), và gọi tất cả kinh điển thuộc Mật giáo là Mật kinh. Gọi là “Mật giáo” vì tông này cho rằng giáo điển của họ là tối tôn, tối mật; các giáo pháp thuộc hai bộ Kim-cang giới và Thai-tạng giới chính là cảnh giới nội chứng của Phật, vô cùng thâm diệu, bí áo, do chính Pháp thân Phật là đức Đại Nhật Như Lai tuyên thuyết.
Mật giáo khởi nguồn từ kinh điển Vệ Đà ở thời cổ Ấn-độ, sau đó được lưu hành trong mọi giới xã hội. Trong quá trình phát triển, Phật giáo dần dần hòa nhập với tín ngưỡng dân gian, cũng chịu ảnh hưởng của chú thuật, và đã dùng chú thuật để bảo hộ và tiêu trừ tai chướng cho tín đồ; Mật giáo của Phật giáo trong thời kì này được gọi là “Tạp Mật”. Mật giáo cũng lấy các vị thần trong kinh điển Vệ Đà, đem các cách thức của Thần giáo thay đổi cho mới lại để phù hợp với tổ chức Phật giáo; từ đó mà xuất hiện nhiều minh-vương, Bồ-tát, chư thiên, chân ngôn chú ngữ. Vì vậy mà trong kinh điển đại thừa hậu kì đã xuất hiện nhiều đà-la-ni, và nhiều kinh còn lấy đó làm phần chủ yếu. Trong tạng Kinh và tạng Luật Ba-li có nhiều kinh điển gồm những bài kệ “hộ thân”. Phật giáo đồ ở các xứ Tích-lan, v.v... đã biên tập các bài kệ này, làm thành Kinh Minh Hộ (Paritta), tới nay vẫn còn truyền tụng. Lại như Kinh Đại Hội trong bộ Kinh Trường A Hàm, liệt kê toàn tên của hội chúng đang nghe pháp. Những loại kinh điển này đều được coi là khởi nguồn của đà-la-ni và mạn-đà-la trong Mật giáo.
Vào khoảng trước sau thế kỉ thứ 4 TL, Kinh Khổng Tước Minh Vương xuất hiện, chuyên nói về chú thuật, đề xướng pháp môn “miệng tụng chân ngôn, nội tâm chuyên nhất”, cùng cách thức kiến lập đàn đất vuông tròn, cúng dường Chư Tôn (Phật, Bồ-tát, chư Thiên), nghiêm chỉnh tu trì nghi lễ, sẽ phát sinh công đức không thể nghĩ bàn. Vào nửa sau thế kỉ thứ 7, Phật giáo Ấn-độ bước vào thời kì toàn thịnh, có kinh có giáo, có quĩ có nghi; lúc đó Mật giáo mới chính thức bắt đầu khai triển, lấy chân ngôn, đà-la-ni làm trung tâm, phối hợp với triết học Phật giáo đại thừa, đặt định cơ sở cho Mật giáo. Đó là Mật tông thuần chánh, được gọi là “Thuần Mật”, lấy hai bộ Kinh Đại Nhật và Kim Cang Đảnh làm chủ yếu. Thế kỉ thứ 8, Mật giáo truyền sang Tây-tạng, trở thành Lạt-ma giáo, được công nhận là quốc giáo của nước Tây-tạng.
Riêng tại Trung-quốc, các kinh điển liên quan đến Mật giáo (Tạp Mật) đã được truyền dịch từ thời đại Tam-quốc (220-280), như cư sĩ Chi Khiêm ở nước Ngô đã dịch các Kinh Bát Cát Tường Thần Chú, Vô Lượng Môn Vi Mật Trì, Hoa Tích Đà la ni Thần Chú, v.v... Tiếp đó, vào thời đại Đông-Tấn (317-420), ngài Bạch Thi Lê Mật Đa La (Srimitra) đã dịch Kinh Đại Quán Đảnh và Kinh Khổng Tước Vương, được coi là hai bộ kinh chính thức khởi nguồn cho tiến trình hình thành tông Mật tại Trung-quốc. Sau đó, ngài Trúc Đàm Vô Lan (Dharmaraksa?) đã dịch các Kinh Đà Lân Bát Chú, Ma Ni La Đản Thần Chú v.v..., làm cho kho điển tịch của tông Mật được thêm phong phú. Đời nhà Đường, người dịch kinh điển thuộc Mật giáo nhiều nhất là ngài Nghĩa Tịnh (635-713), với các kinh như Quán Tự Tại Bồ Tát Như Ý Tâm Đà La Ni, Mạn Thù Thất Lị Bồ Tát Chú Tạng Trung Nhất Tự Chú Vương, Xưng Tán Như Lai Công Đức Thần Chú, v.v... Như vậy, trước khi ba đại sư Thiện Vô Úy, Kim Cang Trí và Bất Không tới Trung-quốc, các kinh điển thuộc tông Mật (Tạp Mật) tại đây đã được truyền dịch rất nhiều; đó là chưa kể các chân ngôn, thần chú xuất hiện rải rác trong các bộ kinh Hiển giáo.
Trong khoảng nửa đầu thế kỉ thứ 8, hai ngài Thiện Vô Úy (Subhakara-simha, 637-735) và Kim Cang Trí (Vajrabodhi, 671?-741), thuộc phái Thuần Mật, trước sau đã đến Trường-an, dịch các bộ kinh căn bản của Thuần Mật, kiến lập đàn tràng quán đảnh, và tông Mật ở Trung-quốc đã được chính thức thành lập từ lúc đó. Sau đó lại có các vị cao tăng như Bất Không (Amoghavajra, 705-774), Nhất Hành, Huệ Quả, Biện Hoằng, v.v... nối tiếp nhau truyền trì Thuần Mật. Trải qua mấy năm pháp nạn Hội-xương (841-846), rồi thời gian binh hỏa triền miên ở cuối đời Đường, các kinh điển của tông Mật đã bị hủy hoại gần hết, cho nên trong thời kì này, tông Mật hầu như chỉ còn là các sinh hoạt “pháp sự” (nghi lễ, cúng bái) mà thôi. Sang đời Tống (960-1279), tuy có các ngài Pháp Hiền, Thi Hộ, Pháp Thiên, v.v... phiên dịch kinh điển Mật giáo, nhưng tình trạng của tông Mật cũng không sáng sủa bao nhiêu. Vả lại, trạng thái của tông này ở đời Tống cũng khác với đời Đường. Trong khi tông Mật ở đời Đường có một hệ thống giáo học rõ rệt, thì ở đời Tống nó đã bị phân hóa, trở thành thông tục, lấy việc sùng bái Bổn Tôn và trì tụng chân ngôn đà-la-ni làm chủ yếu. Các chân ngôn như “Quán Âm Lục Tự Chú, Chuẩn Đề Thần Chú” v.v... rất được ưa chuộng thời bấy giờ.
Đời Nguyên (1260-1368), đế quốc Mông-cổ thống trị Trung-quốc. Người Mông-cổ rất sùng tín Lạt-ma giáo, cho nên đã nâng Lạt-ma giáo lên địa vị quốc giáo của Trung-quốc. Lúc đó nước Tây-tạng cũng đang là một bộ phận của đế quốc Mông-cổ, cho nên Mật tông của Trung-quốc cũng hòa nhập và trở thành Lạt-ma giáo. Vì được cả hoàng thất nhà Nguyên trọng thị và ưu đãi, cho nên Lạt-ma giáo dần dần bị hủ hóa. (Xem thêm các mục “Tông Chân Ngôn”, “Lạt Ma Giáo”.)
Tông Môn Tạp Lục: là một thiên trong bộ sách Nhân Thiên Nhãn Mục, gồm 6 quyển, do ngài Trí Chiêu soạn vào đời Tống, trong đó ghi lại tất cả những sự kiện quan trọng, những kệ văn khai thị, cương yếu của 5 tông phái thuộc Thiền tông Trung-quốc.
Tông Nhiếp Luận (Nhiếp Luận tông): là một trong 13 tông phái của Phật giáo Trung-quốc (xem mục “Tông Thiên Thai”), lấy bộ Luận Nhiếp Đại Thừa của Bồ Tát Vô Trước làm điển tịch căn bản. Bộ Luận Nhiếp Đại Thừa có 3 bản Hán dịch: 1) Bản dịch của ngài Phật Đà Phiến Đa đời Bắc-Ngụy (386-534); 2) Bản dịch của ngài Chân Đế đời Trần (557-589); 3) Bản dịch của ngài Huyền Trang đời Đường (618-907); cả 3 bản dịch đều được thu vào quyển 31 của Tạng Đại Chánh. Trong 3 bản dịch này thì bản dịch của ngài Chân Đế (499-569) được tông Nhiếp Luận chọn làm điển tịch căn bản để hoằng dương; và do đó, tông này đã tôn ngài Chân Đế là vị thỉ tổ của tông phái mình. Tông này thịnh hành trong khoảng Trần - Tùy (560-619); sang đời Đường, khi tông Pháp Tướng thịnh hành thì tông này nhập vào tông Pháp Tướng, không còn ai truyền thừa nữa.
Tông Niết Bàn (Niết Bàn tông): là một trong 13 tông phái của Phật giáo Trung-quốc (xem mục “Tông Thiên Thai”), đã y cứ vào Kinh Niết Bàn (do ngài Đàm Vô Sấm dịch mà hoằng dương giáo nghĩa Phật tính thường trú, thịnh hành trong khoảng từ thời Lục-triều, sang Tùy và Đường; đến khi tông Thiên Thai hưng thịnh, thì tông này đã được sáp nhập vào. Nguyên thỉ, vào thời đại Đông-Tấn (317-420), môn đồ của ngài Cưu Ma La Thập là Trúc Đạo Sinh (355-434), sau khi nghiên cứu bộ Kinh Đại Bát Nê Hoàn do hai ngài Pháp Hiển và Phật Đà Bạt Đà La cùng dịch (gồm 6 quyển), đã đề xướng thuyết “Xiển-đề thành Phật” (người nhất-xiển-đề vẫn thành Phật), bị giới học giả phản đối. Ngài bèn đi về phương Nam, tới thành Kiến-khang xây dựng chùa Long-quang, rồi lại vào núi Lô-sơn cư trú. Khoảng năm 415, ngài Đàm Vô Sấm ở Lương-châu (nước Bắc-Lương, nay là tỉnh Cam-túc) dịch bộ Kinh Đại Bát Niết Bàn (gồm 40 quyển), trong đó có đề cao giáo nghĩa “Xiển-đề thành Phật”; từ bấy giờ, giới học giả mới tán thán và tin nhận thuyết của ngài Trúc Đạo Sinh đã đề xướng lúc trước. Ngài Đạo Sinh lại xiển dương diệu lí thường trú trong Kinh Niết Bàn; rồi ngài Đàm Vô Sấm (385-433) còn cực lực hoằng truyền Kinh Niết Bàn, khiến gây nên một phong trào sôi nổi nghiên cứu giáo nghĩa Niết Bàn ở vùng Hoa-bắc. Trong khi đó, các ngài Tuệ Quán, Tuệ Nghiêm và cư sĩ Tạ Linh Vận ở miền Nam, được lệnh vua Văn đế của vương triều Lưu-Tống (420-479), đã đem hai bản dịch Kinh Niết Bàn của ngài Pháp Hiển và Đàm Vô Sấm, để đối chiếu, châm chước, chỉnh đốn phẩm loại, làm thành bản Nam Bản Niết Bàn Kinh (gồm 36 quyển); – còn bản dịch của ngài Đàm Vô Sấm thì gọi là Bắc Bản Niết Bàn Kinh. Trải qua các vương triều Lưu-Tống, Nam-Tề, Tiêu-Lương, Trần (tức thời đại Nam-triều, 420-589), phong trào nghiên cứu kinh Niết Bàn trở nên cực thịnh, các học giả tham gia phong trào (từ chư tăng đến vua quan và cư sĩ) rất đông đảo, các công trình chú sớ, giảng giải vô cùng phong phú. Tông Niết Bàn đã được chính thức thành lập trong thời kì này, và ngài Đàm Vô Sấm được tôn làm thỉ tổ. Cho đến khi tông Thiên Thai hưng khởi (cuối thế kỉ thứ 6) thì tông Niết Bàn lu mờ dần, rồi hòa nhập vào tông Thiên Thai; tông Niết Bàn không còn ai nhắc đến nữa.
Tông Pháp Nhãn (Pháp Nhãn tông): là một trong “năm nhà bảy tông” của Thiền tông Trung-quốc, do thiền sư Văn Ích (885-958) làm tổ khai sáng, thuộc pháp hệ của ngài Thanh Nguyên Hành Tư. Ngài Văn Ích, sau khi đắc pháp với ngài Quế Trác (867-928) ở Chương-châu (tỉnh Phúc-kiến), đã cực lực xiển dương thiền học, trú tích tại đạo tràng Thanh-lương (núi Thạch-đầu, gần Nam-kinh), khai sáng thiền phái, thiền phong chấn thạnh, ảnh hưởng lớn khắp các vùng từ Triết-giang đến Phúc-kiến. Tông này cực thịnh vào đầu đời Tống, sau đó thì suy vi dần, rồi tuyệt tích tại Trung-quốc; trước sau hành hoạt trong khoảng trăm năm. Trong khi đó, thiền phong tông Pháp Nhãn lại được quảng bá ở Triều-tiên, đến nay vẫn còn.
Tông Qui Ngưỡng (Qui Ngưỡng tông): là một trong “năm nhà bảy tông” của Thiền tông Trung-quốc, thuộc pháp hệ của ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng. Tông này do hai ngài Qui Sơn Linh Hựu (771-853) và Ngưỡng Sơn Tuệ Tịch (807-883) làm tổ khai sáng, và lấy hai chữ “Qui” và “Ngưỡng” ghép lại làm tên. Ngài Linh Hựu (đệ tử đắc pháp của thiền sư Bách Trượng Hoài Hải) hoằng dương thiền pháp ở núi Qui-sơn (huyện Trường-sa, tỉnh Hồ-nam); đệ tử của ngài là Tuệ Tịch kế thừa tông phong, hoằng dương thiền pháp tại núi Ngưỡng-sơn (huyện Nghi-xuân, tỉnh Giang-tây). Tông này rất hưng thịnh trong khoảng cuối thời Đường sang thời Ngũ-đại, tính ra chừng 150 năm, đến đời Tống thì dần dần mai một; cuối cùng thì nhập vào tông Lâm Tế.
Tông Tam Luận (Tam Luận tông): còn được gọi bằng nhiều tên khác như tông Vô Tướng, Không, Bát Nhã, Trung Quán, Gia Tường, v.v..., là một trong 13 tông phái của Phật giáo Trung-quốc (xem mục “Tông Thiên Thai”). Tông này y cứ vào giáo nghĩa của ba bộ luận là Trung Luận, Bách Luận và Thập Nhị Môn Luận để làm cơ sở lập tông, xiển dương nghĩa lí không, vô tướng và bát bất trung đạo. Tông Tam Luận vốn có nguồn gốc từ Ấn-độ, bởi vậy, trong bộ Tam Luận Tổ Sư Truyện Tập đã liệt kê 6 vị tổ ban đầu của tông này ở Ấn-độ là: Đức Thế Tôn, Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Mã Minh, Bồ Tát Long Thọ, Bồ Tát Ca Na Đề Bà, và Bồ Tát La Hầu La Bạt Đà La. Vào cuối thế kỉ thứ 2 và đầu thế kỉ thứ 3 TL, ngài Long Thọ ở Nam Ấn-độ đã trước tác hai bộ luận quan trọng là Trung Luận và Thập Nhị Môn Luận, khai mở nền móng cho tông này. Môn hạ của ngài Long Thọ là ngài Ca Na Đề Bà đã tạo bộ Bách Luận, hợp với hai bộ Trung Luận và Thập Nhị Môn Luận ở trên, làm thành ba bộ luận căn bản của tông Tam Luận. Rồi các ngài La Hầu La Bạt Đà La, Thanh Mục, Bà Tẩu, Phật Hộ, Vô Trước, An Tuệ, Thanh Biện, Hộ Pháp, Nguyệt Xứng, v.v... có đến hơn 70 vị luận sư trước sau viết các tác phẩm liên quan đến ba bộ luận trên, làm cho tông Tam Luận rất thịnh hành ở Ấn-độ trong khoảng thời gian mấy thế kỉ đó.
Đầu thế kỉ thứ 5, ngài Cưu Ma La Thập đến Trường-an (kinh đô của nhà Diêu-Tần), đã dịch nhiều tác phẩm của hai ngài Long Thọ và Đề Bà (như Đại Phẩm Bát Nhã, Đại Trí Độ Luận, Trung Luận, Thập Nhị Môn Luận, v.v...), đặt định cơ sở cho sự hình thành tông Tam Luận ở Trung-quốc. Môn hạ của ngài Cưu Ma La Thập có đến 3.000 người, nhưng được kể vào hàng cao túc thì có 10 vị, đó là các ngài Tăng Triệu, Đạo Sinh, Tăng Duệ, Đàm Ảnh, Tuệ Nghiêm, Tuệ Quán, Tăng Lược, Đạo Hằng, Đạo Tiêu, và Đạo Dung. Trong số này, các ngài Tuệ Quán, Đạo Sinh và Tăng Duệ hoằng pháp ở vùng Giang-nam; các ngài Tăng Triệu, Đàm Ảnh và Đạo Dung hoằng pháp tại vùng Quan-trung; đã tạo thành hai học phái Nam và Bắc của tông Tam Luận. Trải qua 80 năm (kể từ năm 401, ngài La Thập đến Trường-an), vì thiếu nhân tài thừa kế, nên phái Bắc bị thất truyền; còn phái Nam thì bị phong trào học Thành Thật Luận áp đảo, cũng không phát triển được.
Trong 10 vị cao đồ của ngài Cưu Ma La Thập, có 4 vị xuất sắc hơn cả, được người đời xưng là “tứ thánh”, hay “tứ kiệt”, đó là các ngài Tăng Triệu, Đạo Sinh, Tăng Duệ, và Đạo Dung. Lại trong bốn vị này, ngài Đạo Sinh (355-434) đã được chọn để kế thừa tổ nghiệp của ngài Cưu Ma La Thập (viên tịch vào năm 413). Sau đó, ngài Đạo Sinh truyền cho Đàm Tế (411-475); ngài Đàm Tế truyền cho Đạo Lãng (Tăng Lãng, ?-?); ngài Đạo Lãng truyền cho Tăng Thuyên (?-?); ngài Tăng Thuyên truyền cho Pháp Lãng (507-581); ngài Pháp Lãng truyền cho Cát Tạng (549-623); cổ lai thường gọi 7 vị cao tăng trên (La Thập, Đạo Sinh, Đàm Tế, Đạo Lãng, Tăng Thuyên, Pháp Lãng, và Cát Tạng) là “thất đại tương thừa” của tông Tam Luận.
Ngài Cát Tạng quê ở Kim-lăng, theo học với ngài Pháp Lãng từ lúc mới lên 7 tuổi. Trong tuổi niên thiếu, ngài đã thấu suốt huyền nghĩa kinh điển của cả tiểu lẫn đại thừa. Năm 33 tuổi (năm 581) ngài trú trì chùa Gia-tường (huyện Cối-kê, tỉnh Triết-giang). Tại đây ngài vừa trước tác, vừa giảng thuyết, cực lực xiển dương tông Tam Luận. Tác phẩm của ngài có hơn mười bộ, đã tập đại thành giáo nghĩa của tông Tam Luận, khiến cho trong khoảng thời gian 43 năm này (581-623, tức từ khi ngài kế thế tổ Pháp Lãng cho đến khi ngài viên tịch) đã trở thành là thời kì hoàng kim của tông Tam Luận. Thời đại ngài Cát Tạng cũng đồng thời là một cái mốc phân chia tông Tam Luận thành hai giai đoạn: Từ ngài Cưu Ma La Thập cho đến ngài Cát Tạng, gọi là Cựu Tam Luận tông; từ ngài Cát Tạng về sau gọi là Tân Tam Luận tông. Nhưng từ sau ngài Cát Tạng, những vị thừa kế không có ai là người xuất sắc, đã không chịu nổi với sức bành trướng của các tông phái khác (như Thiền, Duy Thức v.v...), cho nên từ trung diệp nhà Đường trở đi, tông Tam Luận đã dần dần mai một.
Tông Tào Động (Tào Động tông): là một trong “năm nhà bảy tông” của Thiền tông Trung-quốc, do ngài Động Sơn Lương Giới (807-869) làm tổ khai sáng, thuộc pháp hệ của ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng. Có hai thuyết khác nhau nói về nguyên do đặt tên cho tông này. Một thuyết nói rằng, ngài Lương Giới ở Động-sơn, đệ tử của ngài là Bản Tịch (840-901) ở Tào-sơn (cả hai núi đều thuộc địa phận tỉnh Giang-tây), nhân đó đã ghép chỗ ở của hai thầy trò là “Động” và “Tào” mà làm thành tên tông; lẽ ra thì phải gọi là “Động Tào tông” mới đúng, nhưng gọi “Tào Động tông” là vì do thói quen. Một thuyết khác nói, chữ “Tào” là biểu thị cho trú xứ Tào-khê của Lục-tổ Tuệ Năng; chữ “Động” chính là Động-sơn của ngài Lương Giới. Ghép hai chữ “Tào” và “Động” để đặt tên tông là biểu thị rằng, tông này vốn thuộc dòng truyền thừa chính thức từ Tổ Tuệ Năng. Môn hạ của ngài Lương Giới có hai người xuất sắc, lập thành hai đạo tràng lớn, đó là thiền sư Bản Tịch ở Tào-sơn và thiền sư Đạo Ưng (?-902) ở núi Vân-cư (tỉnh Giang-tây). Pháp hệ Tào Sơn sau đó chẳng bao lâu thì bị thất truyền; chỉ còn pháp hệ Vân Cư đại biểu cho tông Tào Động còn truyền thừa cho tới ngày nay. Năm 1223, một thiền sư Nhật-bản là Đạo Nguyên (Dogen, 1200-1253) sang Trung-quốc học thiền pháp với ngài Như Tịnh (1163-1228) ở núi Thiên-đồng (một đạo tràng lớn của tông Tào Động thuở đó), sau đó trở về khai sáng tông Tào Động ở Nhật. Vào giữa thế kỉ 17, một vị tăng Việt-nam là ngài Thủy Nguyệt (1636-1704) sang Trung-quốc theo học phái thiền Tào Động, rồi đem về nước truyền bá. Sau đó, các thiền sư thuộc thiền phái Tào Động Trung-quốc cũng sang Việt-nam truyền pháp. Tuy vậy, so ra, ảnh hưởng của thiền phái này ở Việt-nam không lớn lao bằng thiền phái Lâm Tế.
Tông Thành Thật (Thành Thật tông): là một trong 13 tông phái Phật giáo ở Trung-quốc (xem mục “Tông Thiên Thai”), lấy bộ Luận Thành Thật làm chỗ y cứ căn bản. Bộ Luận Thành Thật do ngài Ha Lê Bạt Ma trước tác, cho nên ngài đã được tôn làm vị sáng tổ của tông này. Danh xưng “Thành Thật” có nghĩa là xác lập tính chân thật của giáo lí Tứ Đế. Bộ luận này thuyết minh rằng, tất cả vũ trụ vạn hữu đều là những hiện tượng giả hợp, không có thật thể, cuối cùng đều trở về không; phải quán chiếu như thế thì mới thể hội được chân lí Bốn Sự Thật (Tứ Đế), rồi dùng tám nguyên tắc hành động chân chính (bát chánh đạo) để tận diệt phiền não, chứng nhập cảnh giới niết bàn.
Ở Ấn-độ, vào thời đại của Ha Lê Bạt Ma, rất nhiều giáo thuyết về Tứ Đế nẩy sinh, cực kì lộn xộn, rất nhiều nhầm lẫn; bởi vậy, ngài đã soạn bộ Luận Thành Thật để đả phá các dị luận, xác lập lại ý nghĩa chân thật của thánh đế. Bộ luận này, sau đó được truyền sang Trung-quốc, và đã được pháp sư Cưu Ma La Thập dịch ra Hán văn tại thành Trường-an vào năm 412. Sau khi dịch xong, các môn nhân của pháp sư cùng nhau góp sức xiển dương truyền bá: ngài Tăng Duệ thì giảng diễn; ngài Đàm Ảnh thì chỉnh lí các phẩm; các ngài Tăng Đạo, Đạo Lượng thì chú sớ; v.v... lập thành một tông phái riêng biệt.
Ngài Tăng Đạo (362-457) lúc ấy hoằng pháp ở phương Nam. Ngài trú tại chùa Đạo-công ở Sa-tích, rồi đến Kiến-khang, đều chuyên giảng thuyết Luận Thành Thật, mở đầu cho phong trào nghiên cứu, học tập Luận Thành Thật, lập thành hệ thống Nam-phương (khu vực Nam-triều) của tông Thành Thật. Trong khi đó, ở chùa Bạch-tháp tại Bành-thành, ngài Tăng Tung (?-?), cũng là môn nhân của pháp sư La Thập, cũng chuyên giảng thuyết Luận Thành Thật, lập thành hệ thống Bắc-phương (khu vực Bắc-triều) của tông Thành Thật.
Tông này rất thịnh hành trong thời đại Nam-Bắc-triều (cũng tức là Lục-triều), và đã trở nên cực thịnh là vào thời đại nhà Tiêu-Lương (502-557) của Nam-triều. Sang thời đại nhà Tùy (581-618) vẫn có nhiều vị danh tăng tiếp nối hoằng dương. Đến nhà Đường (618-907), từ khi có các vị sư phê phán rằng, Luận Thành Thật là một bộ luận tiểu thừa, thì số người nghiên cứu, học tập ngày càng giảm thiểu; cho đến khi các bộ luận đại thừa như Thập Địa Kinh Luận, Nhiếp Đại Thừa Luận, v.v... được lưu bố rộng rãi, thì tông Thành Thật thực sự bị suy tàn.
Tông Thiên Thai (Thiên Thai tông): là một trong 13 tông phái của Phật giáo Trung-quốc (Câu Xá tông, Thành Thật tông, Tam Luận tông, Niết Bàn tông, Luật tông, Địa Luận tông, Tịnh Độ tông, Thiền tông, Nhiếp Luận tông, Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Pháp Tướng tông, và Mật tông). Vì tông phái này được thành lập và đặt đạo tràng trung ương tại núi Thiên-thai, nên có tên là Thiên Thai tông, hay gọi tắt là Thai tông. Vả lại, tông này lấy Kinh Pháp Hoa làm thánh điển chủ yếu để lập tông, nên cũng được gọi là tông Pháp Hoa.
Núi Thiên-thai, cũng có tên là Thiên-thê, hay Thai-nhạc, nằm ở huyện Thiên-thai, tỉnh Triết-giang, cao 1.136 mét, gồm 8 ngọn lớn và nhiều ngọn nhỏ, với nhiều hang động, khe, suối, đầm, hồ, ao, từng nổi danh từ thời cổ, được rất nhiều đạo sĩ, ẩn sĩ chọn làm nơi ẩn cư. Tương truyền, Phật giáo đã bắt đầu khai thác núi này vào khoảng niên hiệu Xích-ô (238-251) thời Đông-Ngô, mà chùa Thanh-hóa là ngôi pháp vũ đầu tiên được xây cất trên núi này. Rồi những ngôi chùa khác trên núi cũng dần dần được kiến tạo vào những thế kỉ kế tiếp. Đến năm 575 (đời Trần, thời Nam-triều), đại sư Trí Khải (538-597) đã lên núi này, kiến lập chùa Tu-thiền (sau đổi tên là chùa Thiền-lâm) ở ngọn Phật-lũng để làm nơi tu thiền. Và chính tại nơi đây, ngài đã sáng lập tông Thiên Thai. Vào lúc cuối đời, ngài Trí Khải muốn dựng một ngôi chùa ở triền Nam của ngọn Phật-lũng, nhưng việc chưa thành thì ngài đã viên tịch (năm 597, đời vua Tùy Văn đế).
Vì đại sư Trí Khải chính là vị thầy truyền giới Bồ-tát cho thái tử Dương Quảng, cho nên, để cảm niệm ân đức của ngài, thái tử (lúc đó được phong là Tấn vương, nên sử gọi là Tấn vương Quảng) đã vì ngài mà thiết trai cúng dường 1.000 vị tăng, rồi hưng công xây cất ngôi chùa theo ước nguyện của ngài, đặt tên là Thiên-thai-sơn tự. Đó là một ngôi chùa thật hùng vĩ, xây xong thì vị cao đồ của đại sư Trí Khải là ngài Quán Đảnh (561-632) được mời làm trú trì. Từ đó, chùa Thiên-thai-sơn đã trở thành đạo tràng căn bản của tông Thiên Thai; các vị tổ sư của tông này cũng kế tiếp nhau trú trì tại chùa này. Năm 605, sau khi lên ngôi, vua Tùy Dạng đế (tức trước đó là thái tử Lí Quảng, hay Tấn vương Quảng) đã đổi tên chùa Thiên-thai-sơn thành chùa Quốc-thanh. Trong kì pháp nạn Hội-xương (Đường Vũ-tông, 841-846) chùa bị lửa đốt phá hủy, đến năm 851 (đời vua Đường Tuyên-tông) được xây dựng lại. Năm 1005 (đời vua Tống Chân-tông) chùa được đổi tên thành Cảnh-đức-quốc-thanh; sau đó lại bị lửa cháy. Năm 1128, vua Tống Cao-tông (1127-1162) ban sắc lệnh trùng tu, khang trang, đồ sộ hơn trước rất nhiều. Đến năm 1130 thì vua hạ chỉ đổi chùa này trở thành đạo tràng của Thiền tông.
Về lịch sử khai sáng và truyền thừa của tông Thiên Thai, theo các sách Thiên Thai Cửu Tổ Truyện và Phật Tổ Thống Kỉ, tông Thiên Thai đã tôn Bồ Tát Long Thọ (thế kỉ thứ 2 TL) là cao tổ, thiền sư Tuệ Văn (505?-557?) là tổ thứ hai, thiền sư Tuệ Tư (515-577) là tổ thứ ba, thiền sư Trí Khải (538-597) là tổ thứ tư, thiền sư Quán Đảnh (561-632) là tổ thứ năm, thiền sư Trí Oai (?-680) là tổ thứ sáu, thiền sư Tuệ Oai (634-713) là tổ thứ bảy, thiền sư Huyền Lãng (673-754) là tổ thứ tám, và thiền sư Trạm Nhiên (711-782) là tổ thứ chín.
Sự thực, các học giả về sau đều công nhận rằng, đại sư Trí Khải, với các trước tác như Pháp Hoa Huyền Nghĩa, Ma Ha Chỉ Quán, Pháp Hoa Văn Cú (từng được gọi là Thiên Thai Tam Đại Bộ), đã tập đại thành, kiện toàn giáo nghĩa, và chính thức thành lập tông Thiên Thai, cho nên ngài mới chính là vị khai tổ của tông Thiên Thai. Sở dĩ ngài Long Thọ (người Nam Ấn-độ, sống vào khoảng từ thế kỉ thứ 2 sang thế thế kỉ thứ 3 TL) được tôn là vị sơ tổ của tông Thiên Thai, tại vì truy về nguồn cội thì đại sư Trí Khải vốn là đệ tử đắc pháp “Pháp Hoa Tam Muội” từ đại sư Tuệ Tư; đại sư Tuệ Tư lại là đệ tử đắc pháp của đại sư Tuệ Văn; và đại sư Tuệ Văn đã được đại ngộ nhờ đọc tụng hai tác phẩm Trung Luận và Đại Trí Độ Luận của ngài Long Thọ. Ngài Tuệ Văn sống vào thời đại Đông-Ngụy - Bắc-Tề (534-577), nhập đạo từ thuở nhỏ, thông minh xuất chúng. Một hôm, nhân đọc Đại Trí Độ Luận mà ngài ngộ được diệu nghĩa “nhất tâm tam trí”; rồi lại nhân đọc Trung Luận mà ngộ được diệu lí “nhất tâm tam quán”. Sau ngài đem các diệu lí này truyền lại cho ngài Tuệ Tư; ngài Tuệ Tư lại truyền cho ngài Trí Khải, làm thành tư tưởng then chốt mà thành lập tông Thiên Thai. Do đó mà môn đồ tông Thiên Thai cho rằng, nguồn gốc của tông này khởi nguyên từ ngài Long Thọ, cho nên ngài đã được tôn là vị thỉ tổ của họ. Lại cũng có thuyết cho rằng, dù tư tưởng của tông Thiên Thai bắt nguồn từ ngài Long Thọ, nhưng vì ngài là người Ấn-độ nên không được kể vào lịch sử truyền thừa. Vì vậy, ngài Tuệ Văn đã được tôn là vị sơ tổ.
Môn hạ của ngài Trí Khải rất đông, trong đó có 32 vị là nổi bật; và trong số 32 vị cao đồ đó, thì sư Quán Đảnh là xuất sắc hơn cả và hầu cận ngài lâu năm nhất, cho nên đã được ngài chọn làm người thừa kế. Nếu chính thức xưng ngài Trí Khải là sơ tổ của tông Thiên Thai, thì ngài Quán Đảnh là tổ thứ nhì của tông này. Quán Đảnh truyền cho Trí Oai là tổ thứ ba; Trí Oai truyền cho Tuệ Oai là tổ thứ tư; Tuệ Oai truyền cho Huyền Lãng là tổ thứ năm; Huyền Lãng truyền cho Trạm Nhiên là tổ thứ sáu. Vào lúc này, ảnh hưởng của Thiên Thai tông đã suy yếu, nhưng nhờ tổ Trạm Nhiên mà được phục hưng trở lại; bởi vậy, ngài đã được đồ chúng xưng hiệu là “Bản tông trung hưng chi tổ”. Sau ngài viên tịch hơn 60 năm thì Phật giáo lâm vào thời kì pháp nạn Hội-xương (841-846); rồi lại trải qua bao cuộc chiến loạn từ cuối thời Đường sang thời Ngũ-đại, tông Thiên Thai suy vi rất nhiều, điển tịch hầu như tuyệt diệt. Đến đời tổ thứ 12 là Nghĩa Tịch (919-987), do lời mời của vua Tiền Thúc nước Ngô-việt (908-978, một trong 10 nước của thời đại mà sử gọi là “Thập-quốc”, 908-979), vị cao tăng nước Cao-li là Đế Quán đã mang nhiều sách vở thuộc tông Thiên Thai từ Cao-li sang Trung-quốc, nhờ đó mà sức sống của tông này được phục hoạt.
Sau đời tổ thứ 13 là Nghĩa Thông (927-988), tông Thiên Thai đã chia làm hai phái là Sơn Gia và Sơn Ngoại, cùng nhau tranh luận hơn 40 năm. Sau đó thì phái Sơn Ngoại suy yếu dần; còn phái Sơn Gia thì đến sau đời ngài Trí Húc (1599-1655) cũng suy vi. Vào thời Dân quốc, đại sư Đế Nhàn (1858-1932) lại phục hưng giáo học Thiên Thai. Với sự thành lập Quán-tông Nghiên-cứu xã, ngài đã đào tạo được nhiều vị tôn túc để tiếp tục hoằng dương giáo nghĩa tông Thiên Thai.
Tông Thiền (Thiền tông): cũng gọi là tông Phật Tâm, hay tông Đạt Ma, là một trong 13 tông phái của Phật giáo Trung-quốc (xem mục “Tông Thiên Thai”). Thiền, nói đủ là “thiền na” (dhyana), người Hán dịch nghĩa là “tĩnh lự”. “Tĩnh” là tâm ý đạt được trạng thái tĩnh lặng; và “lự” là vận dụng trí tuệ để tư duy quán chiếu về một đối tượng. Tu thiền cũng đồng thời là tu định, cho nên trong Phật giáo đã có thuật ngữ “thiền định”. Thiền định là một trong ba pháp học trọng yếu và căn bản của Phật giáo (tức giới học, định học và tuệ học), nhưng nguyên thỉ, đó là truyền thống tư duy từng được thực hành trong các hệ phái triết học và tôn giáo từ thời cổ Ấn-độ. Tư tưởng về “mục đích tọa thiền để sinh lên các cõi trời” đã từng thịnh hành từ lâu trước khi đức Phật Thích Ca giáng thế. Khi đức Phật ra đời, Ngài đã chủ trương mục đích của thiền là xa lìa cả hai cực đoan khổ và vui, để đạt được trung đạo, tức cảnh giới niết bàn. Và chính Ngài đã triệt để tu tập thiền định mà đạt được đạo quả bồ đề vô thượng; rồi hàng vạn thánh chúng đệ tử của Ngài, cũng vì triệt để tu tập thiền định mà được giải thoát khỏi ba cõi, chứng nhập niết bàn. Ý nghĩa “hành thiền” nguyên thỉ là như vậy, nhưng trên tiến trình phát triển, dần dần kinh điển về thiền càng xuất hiện nhiều, và tùy theo mục đích tu tập của hành giả mà nhiều chi tiết về đối tượng của thiền định đã được thêm vào, từ đó mà phân chia có loại thiền tiểu thừa, có loại thiền đại thừa; có loại thiền hữu lậu, có loại thiền vô lậu; có loại thiền gọi là “Như Lai thiền”, có loại thiền gọi là “Tổ Sư thiền”; v.v...
Như các sử liệu của Phật giáo Trung-quốc đều công nhận, người đầu tiên đã truyền bá tư tưởng thiền ở Trung-quốc là ngài An Thế Cao (người nước An-tức, đến Lạc-dương năm 147 TL, thời Hậu-Hán), với các dịch phẩm đầu tiên của ngài có liên quan tới pháp môn tu thiền, như: Đại An Ban Thủ Ý Kinh, Thiền Hạnh Pháp Tưởng, Thiền Hạnh Tam Thập Thất Phẩm Kinh. Từ đó cho đến cuối thời đại Đông-Tấn, các kinh điển có nội dung thiền tập vẫn tiếp tục được dịch, như: Thiền Yếu Ha Dục Kinh (thời Hậu-Hán, không rõ tên dịch giả), Pháp Quán Kinh và Tu Hành Đạo Địa Kinh (thời Tây-Tấn, Trúc Pháp Hộ dịch), Đạt Ma Đa La Thiền Kinh (thời Đông-Tấn, Bạt Đà Bạt Đà La dịch), Nội Thân Quán Chương Cú Kinh (thời Đông-Tấn, không rõ tên dịch giả), Thiền Bí Yếu Pháp Kinh, Tọa Thiền Kinh Tam Muội, Thiền Pháp Yếu Giải, và Tư Duy Lược Yếu Pháp (đời Diêu-Tần, Cưu Ma La Thập dịch), Trị Thiền Bệnh Bí Yếu Pháp (đời Hậu-Lương, Thư-cừ Kinh Thanh dịch). Các kinh điển trên, theo nội dung thì các Kinh Đại An Ban Thủ Ý, Thiền Hạnh Pháp Tưởng, Thiền Hạnh Tam Thập Thất Phẩm, Nội Thân Quán Chương Cú, Trị Thiền Bệnh Bí Yếu Pháp, là thuộc về thiền tiểu thừa; các kinh còn lại là thuộc về thiền đại thừa. Nhưng tiểu hay đại thừa là do người sau phân biệt, chứ vào thời đại đó, hễ ai chuyên ý tọa thiền thì gọi là tu thiền quán, hay thiền tập. Và “thiền tập” lúc đó cũng được áp dụng trong cả các tông phái như Thiên Thai, Tam Luận v.v...; các tông phái này đều lấy pháp môn thiền tập để tư duy quán chiếu, nhờ đó mà thông đạt các giáo nghĩa của tông phái mình. Điều đó chứng tỏ, từ đầu thế kỉ thứ 6 trở về trước (tức trước triều đại vua Lương Vũ đế), pháp môn tu thiền chưa được chính thức lập thành một tông phái riêng biệt ở Trung-quốc.
Năm 520, ngài Bồ Đề Đạt Ma đến Trung-quốc, truyền bá một pháp thiền đặc biệt, y cứ vào tư tưởng Kinh Lăng Già mà chủ trương “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền” (không dựa vào văn tự, trao truyền ở ngoài giáo thuyết); ý nói, tông chỉ của pháp môn này là không y cứ vào văn tự, kinh điển, mà chỉ chuyên tọa thiền và dùng tiếng hét hay gậy đánh, làm cho tâm hành giả bừng sáng, chứng ngộ bản lai diện mục của mình (tức “kiến tánh thành Phật”). Thuật ngữ “dĩ tâm truyền tâm” được đặc biệt dùng để chỉ cho phương pháp này. Từ đây mà tông Thiền được chính thức thành lập ở Trung-quốc như một tông phái độc lập; hễ nói đến “thiền”, hay “tu thiền”, là ai cũng nghĩ ngay đến tông Thiền này.
Tông Thiền Trung-quốc được thành lập, và ngài Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma, ?-535) được tôn xưng là vị sơ tổ. Nhưng tông này không phải bắt đầu từ ngài Bồ Đề Đạt Ma, mà theo các vị tổ của tông Thiền, thì tông này đã có một hệ thống truyền thừa khởi đầu từ đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Theo truyền thuyết, một ngày nọ ở tại núi Linh-thứu, trước khi bắt đầu buổi thuyết pháp, đức Thế Tôn đã cầm một cành hoa đưa lên trước đại chúng, không nói lời nào. Cả pháp hội không ai hiểu gì cả, chỉ có tôn giả Đại Ca Diếp nhìn đức Thế Tôn mỉm cười. Đức Thế Tôn liền dạy: “Này Đại Ca Diếp! Như Lai có chánh pháp nhãn tạng, nay đem giao phó cho ông.” Tôn giả Đại Ca Diếp hoan hỉ nhận lãnh, nhưng cả hội chúng cũng không ai biết đức Thế Tôn và tôn giả Đại Ca Diếp đã trao truyền và thọ nhận cái gì, như thế nào. Về sau, một hôm tôn giả A Nan hỏi tôn giả Đại Ca Diếp là hôm đó đức Thế Tôn đã truyền dạy điều gì, thì tôn giả Đại Ca Diếp bảo: “Hãy đi hạ cột cờ xuống!” Ngài A Nan liền ngộ ngay. Cứ thế mà tâm ấn được truyền thừa: Ngài Đại Ca Diếp là vị tổ thứ nhất của Thiền tông, truyền cho ngài A Nan là tổ thứ nhì, ngài A Nan truyền cho ngài Thương Na Hòa Tu, rồi đến Ưu Ba Cúc Đa, Đề Đa Ca, Di Già Ca, Bà Tu Mật, Phật Đà Nan Đề, Phục Đà Mật Đa, Hiếp tôn giả, Phú Na Dạ Xa, Mã Minh đại sĩ, Ca Tì Ma La, Long Thọ đại sĩ, Ca Na Đề Bà, La Hầu La Đa, Tăng Già Nan Đề, Già Da Xá Đa, Cưu Ma La Đa, Xà Dạ Đa, Bà Tu Bàn Đầu, Ma Nã La, Hạc Lặc Na, Sư Tử Bồ Đề, Bà Xá Tư Đa, Bất Như Mật Đa, Bát Nhã Đa La, và Bồ Đề Đạt Ma, cả thảy là 28 vị tổ đều là người Ấn-độ, mà tông Thiền Trung-quốc gọi là “Tây Thiên nhị thập bát tổ”, hoặc “Tây Thiên tứ thất”.
Ngài Bồ Đề Đạt Ma là vị tổ thứ 28 của hệ thống truyền thừa thiền pháp ở Ấn-độ, và khi ngài sang Trung-quốc truyền thiền pháp thì trở thành sơ tổ của tông Thiền Trung-quốc. Ngài nguyên là vị hoàng tử thứ ba của vua nước Hương-chí ở miền Nam Ấn-độ, nhưng đã từ bỏ đời sống vương giả, theo ngài Bát Nhã Đa La (Prajnatara, ?-457) xuất gia học đạo; sau 40 năm mới được truyền y bát. Vâng lời thầy, năm 520 (có thuyết nói là năm 479) ngài theo đường hàng hải đến Quảng-châu (Trung-quốc). Vua Lương Vũ đế (502-549) mời ngài đến Kiến-nghiệp (Nam-kinh) để triều kiến. Vua hỏi: “Từ khi tức vị đến nay, trẫm tạo chùa, chép kinh và độ tăng rất nhiều, công đức ấy lớn như thế nào?” Ngài đáp: “Không có công đức gì cả!” Vua hỏi tiếp: “Thế nào là thánh đế đệ nhất nghĩa?” Ngài đáp: “Rỗng tuếch, không có thánh gì cả!” Vua lại hỏi: “Vậy ai đang diện kiến trẫm đây?” Ngài đáp: “Không biết!” Cả ba câu trả lời của ngài, nhà vua đều không liễu ngộ, bèn cho rằng mình đã không gặp đúng người mong đợi, liền không tiếp ngài nữa. Biết là duyên hóa độ chưa tới, ngài liền bỏ đi, qua sông Dương-tử sang nước Bắc-Ngụy, lên núi Tung, vào một hang đá ở sau chùa Thiếu-lâm, xoay mặt vào vách tọa thiền, ròng rã đến 9 năm trời. Người đương thời không hiểu ý, bèn gọi ngài là “Bích Quán Bà la môn”.
Bấy giờ có ngài Thần Quang (487-593), người Lạc-dương, nghe tiếng đồn cho nên ngưỡng mộ đạo phong của ngài, bèn tìm lên núi Tung xin cầu học. Tuệ Khả quì suốt đêm ở trước cửa hang đá, đến sáng mà vẫn không được phép vào, cũng không được ngài trả lời. Thần Quang bèn dùng dao tự chặt đứt cánh tay trái của mình để tỏ lòng chí thành cầu pháp. Ngài bèn thâu nhận Thần Quang làm đệ tử, truyền cho pháp an tâm, đặt cho tên mới là Tuệ Khả. Từ đó, ngoài Tuệ Khả, ngài còn thâu nhận một số đệ tử khác như Đạo Dục, Tăng Phó, Đàm Lâm v.v... Gần 10 năm sau, ngài muốn về lại Thiên-trúc, bèn truyền y bát và phó chúc tổ nghiệp cho ngài Tuệ Khả; nhưng chưa đi thì ngài thị tịch, được an táng ở chùa Thượng-lâm trên núi Hùng-nhĩ (tỉnh Hà-nam). Nhưng theo truyền thuyết, 3 năm sau, vị sứ thần của Bắc-Ngụy là Tống Vân, khi đi qua núi Thông-lãnh, lại trông thấy ngài quảy một chiếc hài đi về phương Tây.
Ngài Tuệ Khả được ngài Bồ Đề Đạt Ma truyền tâm ấn, trở thành vị tổ thứ hai của tông Thiền Trung-quốc. Vào năm 552 (triều đại Bắc-Tề), ngài lại truyền pháp cho đệ tử là Tăng Xán (?-606), là tổ thứ ba; ngài Tăng Xán truyền cho Đạo Tín (580-651) là tổ thứ tư; ngài Đạo Tín truyền cho Hoằng Nhẫn (602-675) là tổ thứ năm; ngài Hoằng Nhẫn truyền cho Tuệ Năng (638-713) là tổ thứ sáu.
Thiền tông Trung-quốc, đến ngài Đạo Tín thì bắt đầu hưng thịnh. Ngài Đạo Tín có hai vị đệ tử kiệt xuất là Hoằng Nhẫn và Pháp Dung (594-657). Ngài Pháp Dung ban đầu học tông Tam Luận, lại thông Nho học. Năm 644 (đời Đường) ngài lên núi Ngưu-đầu (tỉnh Giang-tô), dựng một thiền thất ở cạnh chùa U-thê, chuyên tu thiền định, đồ chúng theo học hơn trăm người. Sau gặp tổ Đạo Tín, được truyền tâm ấn, tự lập riêng một phái thiền, gọi là Ngưu Đầu tông (đối lại với “Đông Sơn tông” của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn); đó là lần phân phái đầu tiên của tông Thiền Trung-quốc. Kế thừa Ngưu Đầu thiền của ngài Pháp Dung có các ngài Trí Nghiêm, Tuệ Phương, Pháp Trì, Trí Uy, Tuệ Trung; gọi là “Ngưu Đầu lục tổ”. Thiền phái này cực thịnh ở đời Đường, nhưng sang đến đời Tống thì suy dần, rồi mai một.
Ngài Hoằng Nhẫn, sau khi được tổ Đạo Tín (lúc đó đang trú tại chùa Chánh-giác ở núi Tây-sơn, phía Tây huyện Hoàng-mai, tỉnh Hồ-bắc) trao truyền y bát và phó chúc tổ nghiệp, trở thành tổ thứ năm của tông Thiền Trung-quốc, đã sang trú chùa Chân-huệ ở núi Ngũ-tổ (tức núi Đông-sơn, cũng gọi núi Hoàng-mai, ở phía Đông huyện Hoàng-mai, tỉnh Hồ-bắc, cách núi Tây-sơn 17 cây-số), chuyên tu tập thiền định, phát dương thiền phong, hình thành “Đông Sơn pháp môn” (cũng gọi là Đông Sơn tông), lấy giáo nghĩa Kinh Kim Cang Bát Nhã làm yếu chỉ – khác với các đời trước, từ tổ Bồ Đề Đạt Ma đến tổ Đạo Tín thì lấy Kinh Lăng Già làm chủ yếu. Môn hạ của tổ Hoằng Nhẫn rất đông, nhưng có hai vị được liệt vào hàng kiệt xuất là Thần Tú và Tuệ Năng. Ngài Thần Tú (605-706) là đệ nhất thượng thủ trong số đệ tử của tổ Hoằng Nhẫn, nhưng ngài Tuệ Năng lại được tổ trao truyền y bát và phó chúc tổ nghiệp. Sau khi được truyền y bát, ngài Tuệ Năng liền đi về phương Nam hành đạo; còn ngài Thần Tú vẫn ở với tổ Hoằng Nhẫn. Sau khi tổ viên tịch (năm 675, đời vua Đường Cao-tông), ngài Thần Tú đã dời về núi Ngọc-tuyền (huyện Đương-dương, tỉnh Hồ-bắc) để truyền pháp. Đạo phong của ngài cao vợi, đồ chúng theo học có đến 3.000 người, nổi tiếng nhất là các ngài Phổ Tịch, Nghĩa Phúc, Tuệ Phúc v.v... Pháp hệ của ngài thịnh hành ở phương Bắc, lấy hai kinh thành Lạc-dương và Trường-an làm trung tâm, chủ trương pháp tu “tiệm tu tiệm ngộ”, người đời gọi đó là phái “Bắc thiền”, “Bắc tông”, hay “Bắc Tú”.
Trong khi đó, ngài Tuệ Năng, sau khi được Ngũ tổ Hoằng Nhẫn phú pháp, trở thành tổ thứ sáu, bèn trở về quê ở miền Lĩnh-nam, trú tại chùa Bảo-lâm tại Tào-khê (tỉnh Quảng-đông), chủ trương pháp tu “đốn ngộ”, cực lực hoằng dương pháp môn “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”, người đời gọi đó là phái “Nam thiền”, “Nam tông”, hay “Nam Năng”. Hai ngài Thần Tú và Tuệ Năng được coi là đại diện cho Thiền tông Trung-quốc vào thời đại nhà Đường; nhưng vì chủ trương và đường hướng tu tập, cũng như địa bàn hành hóa đối nghịch nhau, chia thành hai phái Bắc và Nam rõ rệt, nên người đương thời đã gọi hiện trạng đó là “Nam tông Bắc tông”, “Nam Năng Bắc Tú”, hoặc “Nam đốn Bắc tiệm”. Nhưng hệ phái của ngài Thần Tú ở phương Bắc chỉ truyền thừa được khoảng bốn, năm đời thì bị dứt tuyệt; trong khi đó, pháp hệ của ngài Tuệ Năng ở phương Nam, lúc đầu hưng thịnh ở cứ địa trung tâm là các tỉnh Hồ-nam, Giang-tây và Quảng-đông, dần dần phát triển lên phương Bắc, thay thế cho pháp hệ của ngài Thần Tú đã mai một.
Ngài Tuệ Năng là vị tổ thứ sáu, và cũng là vị tổ cuối cùng ở giai đoạn đầu của tông Thiền Trung-quốc; sau ngài không có tổ thứ bảy, và lệ “truyền y bát để thừa kế tổ nghiệp” cũng được ngài hủy bỏ. Khi sáng lập phái thiền Nam tông, ngài Tuệ Năng được tôn xưng là sơ tổ của tông này. Môn đệ tuấn tú của ngài rất nhiều, mà các ngài Hành Tư, Hoài Nhượng, Thần Hội, Huyền Giác, Tuệ Trung, và Pháp Hải, là những nhân vật trọng yếu. Ngài Pháp Hải (?-?) thường theo thầy để ghi chép các lời giảng của thầy, rồi viết lại thành sách để lưu truyền (như Kinh Pháp Bảo Đàn chẳng hạn); ngài Huyền Giác có soạn bộ Vĩnh Gia Tập và bài “Chứng Đạo Ca”; ngài Hành Tư (?-740), sau khi đắc pháp, đã lui về tĩnh tu ở núi Thanh-nguyên (tỉnh Giang-tây); ngài Hoài Nhượng (677-744) thì về ở chùa Bát-nhã trên núi Nam-nhạc (tỉnh Hồ-bắc); ngài Thần Hội (?-760) thì lên phương Bắc, trụ trì chùa Hà-trạch ở thành Lạc-dương; ngài Tuệ Trung (?-775) thì về tu ở núi Bạch-nhai (huyện Nam-dương, tỉnh Hà-nam). Trong các ngài trên thì hai ngài Hoài Nhượng và Hành Tư có thanh thế lớn lao và hệ thống truyền thừa lâu dài, rộng rãi hơn cả, đã trở thành hai chi phái lớn của Nam tông.
Ngài Hoài Nhượng, sau khi đắc pháp với tổ Tuệ Năng, đã về núi Nam-nhạc (huyện Hành-sơn, tỉnh Hồ-nam), trụ trì chùa Bát-nhã, tiếp hóa đồ chúng đến 30 năm, người đời thường gọi ngài là Nam Nhạc Hoài Nhượng; và gọi hệ thống truyền thừa của ngài là chi phái Nam Nhạc. Đệ tử đắc pháp của ngài có 9 vị, trong đó, Mã Tổ Đạo Nhất là thượng thủ. Ngài Mã Tổ (709-788) truyền bá thiền pháp ở núi Cung-sơn, tỉnh Giang-tây, môn hạ hơn trăm người, mà kiệt tuấn hơn cả là ngài Hoài Hải (720-814). Ngài Hoài Hải sau khi đắc pháp, năm 784 (đời vua Đường Đức-tông) đã vào núi Bách-trượng (ở huyện Phụng-tân, tỉnh Giang-tây), lập thiền viện, chế định “thanh qui” để thiết lập pháp chế riêng cho thiền viện, làm mẫu mực cho tăng chúng tu trì. Đó là lần đầu tiên Thiền tông có tự viện độc lập (từ trước vẫn sinh hoạt chung trong các luật viện). Đệ tử của ngài Bách Trượng Hoài Hải có hai vị xuất sắc nhất, đó là hai ngài Hi Vận (?-850) ở núi Hoàng-bá (tỉnh Giang-tây) và ngài Linh Hựu (771-853) ở núi Qui-sơn (tỉnh Hồ-nam). Môn hạ của ngài Hoàng Bá Hi Vận có ngài Nghĩa Huyền là nổi tiếng nhất. Ngài Nghĩa Huyền (?-867), sau khi đắc pháp với ngài Hi Vận, năm 857 đã về Trấn-châu (tỉnh Hà-bắc), trụ trì viện Lâm-tế, tiếp hóa đồ chúng, lập thành một thiền phái riêng, gọi là tông Lâm Tế. Cũng trong thời gian đó, đệ tử đắc pháp của ngài Qui Sơn Linh Hựu là ngài Tuệ Tịch (840-916) ở núi Ngưỡng-sơn (tỉnh Giang-tây), cũng lập riêng một thiền phái, gọi là tông Qui Ngưỡng. Hai tông này đều truyền bá thiền pháp ở phương Bắc.
Như vậy, trong hệ thống truyền thừa của ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng, từ sau ngài Bách Trượng Hoài Hải thì phân làm hai phái là Lâm Tế và Qui Ngưỡng. Song song với chi phái Nam Nhạc là chi phái “Thanh Nguyên”. Núi Thanh-nguyên ở tỉnh Giang-tây là căn cứ địa hoằng hóa của ngài Hành Tư. Môn hạ của ngài Hành Tư rất đông, trong đó, ngài Thạch Đầu Hi Thiên (700-790) là xuất sắc nhất. Thạch Đầu Hi Thiên truyền cho Dược Sơn Duy Nghiễm (745-828); ngài Duy Nghiễm truyền cho Vân Nham Đàm Thành (783-814); ngài Đàm Thành truyền cho Động Sơn Lương Giới (807-869); ngài Lương Giới truyền cho Tào Sơn Bản Tịch (840-901); ngài Bản Tịch bèn lập một phái thiền mới, gọi là tông Tào Động, truyền bá thiền pháp ở vùng Giang-tây. Ngài Thạch Đầu Hi Thiên còn có một vị đệ tử xuất sắc nữa, là Thiên Hoàng Đạo Ngộ (748-807). Ngài Đạo Ngộ truyền cho Long Đàm Sùng Tín (?-?); ngài Sùng Tín truyền cho Đức Sơn Tuyên Giám (782-865); ngài Tuyên Giám truyền cho Tuyết Phong Nghĩa Tồn (822- 908); ngài Nghĩa Tồn truyền cho Văn Yển (864-949); ngài Văn Yển ở núi Vân-môn (tỉnh Quảng-đông), sáng lập một phái thiền mới, gọi là tông Vân Môn. Ngài Tuyết Phong Nghĩa Tồn lại có một vị đệ tử xuất sắc khác là Huyền Sa Sư Bị (835-908); ngài Sư Bị truyền cho La Hán Quế Sâm (867-928); ngài Quế Sâm truyền cho Pháp Nhãn Văn Ích (885-958). Ngài Văn Ích trụ trì chùa Thanh-lương ở Kim-lăng (Nam-kinh), thành lập một phái thiền mới, gọi là tông Pháp Nhãn.
Vậy là tông Thiền Trung-quốc, từ sau ngài Lục tổ Tuệ Năng thì phân làm hai chi Nam Nhạc và Thanh Nguyên. Chi Nam Nhạc lại phân thành hai phái là Lâm Tế và Qui Ngưỡng; và chi Thanh Nguyên thì phân làm ba phái là Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Thiền tông Trung-quốc gọi năm thiền phái đó (Lâm Tế, Qui Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn) là ngũ gia. Lại nữa, phái Lâm Tế, từ ngài Nghĩa Huyền truyền đến đời thứ bảy là Thạch Sương Sở Viên (986-1039); ngài Sở Viên có hai vị đệ tử xuất sắc nhất là Hoàng Long Tuệ Nam (1002-1069) và Dương Kì Phương Hội (992-1049). Ngài Tuệ Nam lại lập ra phái Hoàng Long; và ngài Phương Hội thì lập ra phái Dương Kì; gộp cả năm phái ở trên và hai phái mới này, Phật giáo Trung-quốc gọi chung lịch sử truyền thừa từ sau tổ Tuệ Năng là “ngũ gia thất tông”.
Nhìn xuyên suốt lại, ở Trung-quốc, từ tổ Đạt Ma đến tổ Tuệ Năng, thời gian trải 250 năm (từ thời đại Nam Bắc-triều đến đầu thời đại nhà Đường), tuy nói là “bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền”, nhưng ngôn thuyết của các thiền sư vẫn y cứ vào kinh điển, thiền phong thuần nhất, không có tông phái đối lập (dù sau ngài Đạo Tín có phân làm hai phái Ngưu Đầu tông và Đông Sơn tông, nhưng chỉ khác nhau về địa bàn hoằng hóa, còn thiền phong thì vẫn thuần nhất, không đối lập); có thể xem đó là thời kì thành lập của tông Thiền. Từ ngài Tuệ Năng, tình trạng phân phái đã bắt đầu xảy ra với hai tông phong đối lập, gọi là “Nam Năng, Bắc Tú”, tức là thiền Nam tông và thiền Bắc tông; tuy vậy, hệ thống truyền thừa của phái Bắc tông không kéo dài được bao lâu thì bị đứt đoạn, và phái Nam tông được chính thức coi là tông Thiền Trung-quốc, kế thừa truyền thống từ Sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma. Từ đó (tức từ giữa thời đại nhà Đường) cho đến thời Ngũ-đại, thời gian cũng khoảng 250 năm, với hai hệ thống Nam Nhạc và Thanh Nguyên, tông Thiền Trung-quốc đã phát triển vô cùng rực rỡ. Rất nhiều thiền sư liễu ngộ, đạo phong cao vợi, danh tiếng lừng lẫy, tiếp nối nhau xuất hiện để tiếp hóa đồ chúng. Các thiền viện mọc lên khắp nước, số người qui tụ về các thiền viện để tập thiền lúc nào cũng đông đảo. Sinh hoạt trong các thiền viện đều lấy Thanh Qui làm mẫu mực, nền nếp rõ ràng, làm cho uy danh của tông Thiền ngày càng tỏ rạng. Rồi như “trăm hoa đua nở”, từ hai hệ thống Nam Nhạc và Thanh Nguyên ấy, dần dần phát triển thành năm tông phái: Lâm Tế, Qui Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn và Pháp Nhãn. Tông nào thanh thế cũng lớn lao. Đó là thời kì toàn thịnh của tông Thiền Trung-quốc.
Dưới triều đại nhà Tống, trong khoảng hơn 300 năm, trước hết, từ tông Lâm Tế phát xuất ra hai phái Hoàng Long và Dương Kì, đưa tông Thiền Trung-quốc tiến đến thời kì được gọi là “ngũ gia thất tông”. Tuy vậy đến cuối thời Bắc-Tống, trong bảy thiền phái trên, chỉ có hai phái Lâm Tế và Tào Động là còn tiếp tục tông phong, còn các phái khác thì đã suy yếu. Trong thời kì này, các chủ trương dung hợp “tam giáo nhất trí” dần dần thịnh hành, các khuynh hướng “Giáo Thiền điều hợp” và “Thiền Tịnh song tu” cũng ngày càng được nhiều giới hưởng ứng, làm cho tông Thiền dần dần mất đi cái tính cách độc lập, chỉ còn đứng ở vị thế “thủ thành” mà thôi. Trải qua các đời Minh, Nguyên đến giữa nhà Thanh (cuối thế kỉ 18), tuy cũng có các vị thiền sư đạo cao đức trọng xuất hiện để tiếp tục dương cao thiền phong, nhưng nói chung, tông Thiền Trung-quốc vẫn không thể lấy lại được cái vị thế độc lập của mình, mà vẫn bị ràng buộc trong cái thế cục chung, là “Nho Thích điều hợp, Giáo Thiền nhất trí, Thiền Tịnh song tu”. Trong thời cận đại, một ngôi sao sáng trong tông Thiền Trung-quốc bỗng xuất hiện, đó là thiền sư Hư Vân (1839-1958), một đời hoằng pháp không biết mệt mỏi, xây dựng tòng lâm, cực lực chấn hưng tông Thiền, nối lại được pháp mạch của đức Lục Tổ.
Tông Tịnh Độ (Tịnh Độ tông): là một tông phái lớn của Phật giáo Trung-quốc, lấy sự vãng sinh về cõi Cực-lạc của đức Phật A Di Đà làm mục đích. Nguyên thỉ, từ “tịnh độ” chỉ có nghĩa là Phật độ, là các cõi nước thanh tịnh của chư Phật, do thành tựu đạo quả giác ngộ mà có; trái lại với “uế độ” là các cõi nước dơ bẩn, xấu ác, nơi cư trú của các loài chúng sinh đầy phiền não, nghiệp chướng nặng nề. Từ “tịnh độ” được nói tới nhiều trong kinh điển đại thừa, vì nó mang một ý nghĩa tích cực, là tuy an trụ trong cảnh giới niết bàn mà chư Phật ở đó đều không ngừng hóa độ chúng sinh. Tịnh độ cũng là nơi hàng Bồ-tát tu tập để thành tựu quả vị Bồ đề Vô thượng; hay nói cách khác, đó là nơi chư Phật ở thời kì nhân địa tu Bồ-tát đạo, thệ nguyện thành Phật, trang nghiêm Phật độ và hóa độ chúng sinh thành tựu Phật đạo. Bởi vậy, bất cứ nơi nào có chư Phật và Bồ-tát cư trú, thì nơi ấy tức là tịnh độ; chúng sinh ở nơi nào mà diệt trừ hết phiền não, không còn khởi tội ác, thân tâm thanh tịnh, không còn cấu nhiễm, trí tuệ sáng tỏ, thì nơi đó là tịnh độ. Cho nên trong khắp mười phương đều có tịnh độ.
Riêng tông Tịnh Độ thì gọi thế giới Cực-lạc của đức Phật A Di Đà là cõi Tịnh-độ, vì mục đích tu trì của tông phái này là vãng sinh về thế giới Cực-lạc. Tín đồ của tông Tịnh Độ đều chuyên trì niệm danh hiệu A Di Đà Phật và cầu nguyện sẽ được vãng sinh về thế giới ấy. Lối gọi này đã quá phổ thông trải qua bao thế kỉ, cho nên, từ trước đến nay, hễ nói tới “Tịnh-độ” là người ta nghĩ ngay đó là thế giới Cực-lạc. Tông Tịnh Độ cho rằng, cõi Tịnh-độ là một quốc độ có thật ở phương Tây, hoàn toàn thanh tịnh, chúng sinh được vãng sinh về đó thì chỉ hưởng toàn sự an vui, không hề có sự đau khổ, âu lo, phiền muộn nào như ở thế giới Ta-bà uế trược này. Giáo chủ của cõi ấy, sự trang nghiêm của cõi ấy, chúng sinh và đời sống ở cõi ấy, sự tồn tại vĩnh cửu của cõi ấy v.v..., đều được thuật rõ trong Kinh A Di Đà.
Tư tưởng về cõi Tịnh-độ ở phương Tây là y cứ vào các kinh Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ (đều do Phật nói tại núi Kì-xà-quật, gần thành Vương-xá, nước Ma-kiệt-đà), và A Di Đà (Phật nói tại tu viện Kì-viên, thành Xá-vệ, nước Kiều-tát-la). Sau khi Phật diệt độ khoảng 900 năm, ở Ấn-độ, Bồ Tát Thế Thân đã biên soạn tác phẩm Vãng Sinh Tịnh Độ Luận, để nối tiếp hai vị Bồ Tát Mã Minh và Long Thọ ở các thế kỉ trước đó, cùng xưng tán cảnh giới trang nghiêm thanh tịnh của cõi Tịnh-độ, và khuyến khích mọi người nên cầu nguyện vãng sinh về thế giới ấy.
Ở Trung-quốc, từ những thế kỉ đầu Tây lịch, các kinh căn bản của tông Tịnh Độ đã được truyền vào. Năm 179 (đời Hậu-Hán), tại kinh đô Lạc-dương, hai ngài Chi Lâu Ca Sấm và Trúc Phật Sóc đã dịch Kinh Bát Chu Tam Muội ra Hán văn; và tư tưởng “cầu vãng sinh Tịnh-độ” ở Trung-quốc được coi là bắt nguồn từ đó. Tuy nhiên, Kinh Bát Chu Tam Muội mới chỉ nói tới pháp môn tinh chuyên niệm Phật để được thấy Phật A Di Đà ở cõi Tây-phương, chứ chưa trình bày về cảnh trang nghiêm của cõi Tịnh-độ. Vào khoảng giữa thế kỉ thứ 3 (thời đại Tam-quốc), cư sĩ Chi Khiêm (ở kinh đô Kiến-nghiệp của nước Ngô) đã dịch bộ Đại A Di Đà Kinh (2 quyển), đồng thời, ngài Khương Tăng Khải (ở kinh đô Lạc-dương của nước Tào-Ngụy) cũng dịch Kinh Vô Lượng Thọ (2 quyển), trình bày các lời thệ nguyện của Phật A Di Đà trong thời kì nhân địa. Đó là kinh điển trọng yếu của tông Tịnh-độ. Trong khoảng nửa sau thế kỉ thứ 3 (thời Tây-Tấn), ngài Trúc Pháp Hộ dịch Kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác (2 quyển), nội dung tương tợ như Kinh Đại A Di Đà ở trên. Ngoài ra, các kinh Tuệ Ấn Tam Muội và Vô Lượng Môn Vi Mật Trì (do Chi Khiêm dịch), Đức Quang Thái Tử, Quyết Định Tổng Trì, A Di Đà Phật Kệ (do Trúc Pháp Hộ dịch), cũng có nội dung liên quan đến đức Phật A Di Đà và thế giới Cực-lạc.
Vào nửa đầu thế kỉ thứ 5, ngài Cưu Ma La Thập (ở kinh đô Trường-an, nước Diêu-Tần) đã dịch Kinh A Di Đà và Luận Thập Trụ Tì Bà Sa, ngài Đàm Vô Sấm (ở nước Bắc-Lương) dịch Kinh Bi Hoa, ngài Bảo Vân (nước Lưu-Tống) dịch Kinh Tân Vô Lượng Thọ, ngài Cương Lương Da Xá (nước Lưu-Tống) dịch Kinh Quán Vô Lượng Thọ, đều có nội dung liên quan đến đức Phật A Di Đà và cảnh giới Cực-lạc, cùng cách thức tu tập để được vãng sinh về cõi ấy. Đến đó thì các kinh điển liên quan đến tông Tịnh Độ được coi là đã được phiên dịch đầy đủ, và ba bộ kinh Quán Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Thọ, A Di Đà, được coi là ba kinh căn bản của tông Tịnh Độ (Tịnh Độ tam bộ kinh).
Nguyên thỉ, tín ngưỡng về Tịnh-độ ở Trung-quốc gồm hai loại: Di Lặc Tịnh-độ và Di Đà Tịnh-độ. Tín ngưỡng về Di Lặc Tịnh-độ khởi nguồn từ ngài Đạo An (314-385) ở thời đại Đông-Tấn. Ngài đã viết bộ Tịnh Độ Luận (6 quyển) để xiển dương pháp môn cầu vãng sinh về cõi Tịnh-độ của đức Di Lặc ở cõi trời Đâu-suất. Hai ngài Huyền Trang và Khuy Cơ ở thời đại nhà Đường cũng chuyên hành trì pháp môn này; nhưng từ sau đó thì số người tu tập theo ngày càng ít dần, mà người hoằng hóa cũng không có, nên tín ngưỡng về Di Lặc Tịnh-độ trở nên suy tàn; trong khi đó thì tín ngưỡng về Di Đà Tịnh-độ ngày càng hưng thịnh, trở thành đại biểu cho tất cả cõi Tịnh-độ của chư Phật.
Tuy kinh điển liên quan đến tín ngưỡng Di Đà Tịnh-độ đã xuất hiện ở Trung-quốc từ những thế kỉ đầu Tây lịch, nhưng phải đến khoảng cuối thế kỉ thứ 4 đầu thế kỉ thứ 5 (thời đại Đông-Tấn), tín ngưỡng này mới thực sự được hoằng dương mạnh mẽ. Vào thời đó, đại sư Tuệ Viễn (334-416) ở chùa Đông-lâm, núi Lô-sơn (tỉnh Giang-tây) đã thành lập hội Niệm Phật, gọi là Bạch Liên Xã, qui tụ 123 hội viên đầu tiên, gồm cả tăng sĩ lẫn cư sĩ có cùng một chí nguyện, tinh chuyên lễ bái và niệm hồng danh đức Phật A Di Đà, cầu vãng sinh về cõi Cực-lạc. Đó là hội Niệm Phật đầu tiên, cũng là bước đầu trong tiến trình hình thành tông Tịnh Độ ở Trung-quốc; và ngài Tuệ Viễn đã được coi là thỉ tổ của tông này. Đầu thế kỉ thứ 6 (đời Bắc Ngụy, thời đại Nam-bắc-triều) ngài Bồ Đề Lưu Chi đến Trung-quốc, dịch tác phẩm Vô Lượng Thọ Kinh Ưu Bà Đề Xá Nguyện Sinh Kệ (tức Vãng Sinh Tịnh Độ Luận) của Bồ Tát Thế Thân, rồi trao bộ Kinh Quán Vô Lượng Thọ và bộ luận này cho đại sư Đàm Loan (476-542?). Đại sư Đàm Loan đã soạn quyển Vãng Sinh Luận Chú để chú giải bộ luận trên, rồi y cứ vào bộ Thập Trụ Tì Bà Sa Luận của Bồ Tát Long Thọ mà nêu rõ hai con đường khó đi (tức tự lực) và dễ đi (tức tha lực) khác nhau, chủ trương nương tựa vào bản nguyện của đức Phật A Di Đà, chuyên tinh trì danh niệm Phật để cầu nguyện vãng sinh về Tịnh-độ; chính đó là con đường phương tiện, dễ đi trong đời năm trược xấu ác này. Do đó, ngài Đàm Loan đã được coi là người xác lập giáo nghĩa căn bản cho tông Tịnh Độ.
Đến thế kỉ thứ 7 (triều đại nhà Đường), ngài Đạo Xước (562-645) kế thừa giáo chỉ của ngài Đàm Loan, cực lực đề cao nguyện lực của Phật, chủ xướng tư tưởng mạt pháp để nhấn mạnh thuyết “thời giáo tương ưng” (giáo học phải phù hợp với thời đại), tu tập pháp môn Tịnh Độ chính là “yếu lộ” của thời đại. Ngài đã viết tác phẩm An Lạc Tập để giải tỏa những ý nghĩ sai lầm của nhiều người, và khai thị cái “yếu lộ” ấy cho chúng sinh trong thời mạt pháp. Ngài cũng đã y cứ vào thuyết “hai đường khó và dễ” (nan, dị nhị đạo) của ngài Đàm Loan mà đề xướng cách phán giáo “hai cửa Thánh-đạo và Tịnh-độ” (Thánh-đạo, Tịnh-độ nhị môn). Kế tiếp, ngài Thiện Đạo (613-681) kế thừa tư tưởng của hai ngài Đàm Loan và Đạo Xước, chú sớ Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, giải trừ những ngộ nhận xưa nay, xác lập hai hạnh tu tập là chánh hạnh (Phật A Di Đà là đối tượng chuyên nhất) và tạp hạnh (ngoài Phật A Di Đà còn có chư Phật và Bồ-tát khác), kiện toàn giáo nghĩa cũng như giáo tướng, đặt định cơ sở và hệ thống giáo lí độc lập cho tông Tịnh Độ. Tiếp đó, ngài Hoài Cảm (?-?) soạn tập Tịnh Độ Quần Nghi Luận; sau nữa lại có ngài Thiếu Khang (?-805), cũng tận lực hoằng dương pháp môn Tịnh Độ. Trước sau 5 vị đại sư Đàm Loan, Đạo Xước, Thiện Đạo, Hoài Cảm, và Thiếu Khang, được tôn xưng là “Năm vị tổ đầu tiên” (chấn đán ngũ tổ) của tông Tịnh-độ.
Năm 719, ngài Tuệ Nhật (680-748) từ Ấn-độ trở về Trường-an, thấy các vị bên tông Thiền coi nhẹ pháp môn Tịnh Độ, cho đó chỉ là pháp phương tiện để dẫn dắt hạng ngu si, bèn cực lực phản đối. Ngài đề xướng con đường tất yếu phải là niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh-độ, chủ trương “Giới Tịnh tịnh hành, Thiền Tịnh song tu, Giáo Thiền nhất trí”, đem tất cả công đức tu hành đều hồi hướng về mục đích vãng sinh Tịnh-độ. Tư tưởng này sau đó đã được các ngài Thừa Viễn (712-802), Pháp Chiếu (?-?, đệ tử ngài Thừa Viễn), Phi Tích (?-?), v.v... kế thừa, lấy pháp môn Niệm Phật Tam Muội làm thiền môn thâm diệu, bài xích các đệ tử tông Thiền “bụng trống rỗng mà tâm cao ngạo” (không phúc cao tâm).
Như vậy, cho đến thời đại nhà Đường, tông Tịnh Độ ở Trung-quốc được phân thành ba hệ thống giáo học: 1) Hệ thống Tuệ Viễn (gọi là Tuệ Viễn lưu), chú trọng pháp môn “quán tưởng niệm Phật”; 2) Hệ thống Thiện Đạo (gọi là Thiện Đạo lưu), chú trọng pháp môn “khẩu xưng niệm Phật”; 3) Hệ thống Tuệ Nhật (gọi là Từ Mẫn lưu), chú trọng pháp môn “thiện căn niệm Phật”, muôn hạnh đều tu tập. Chủ trương “Thiền Tịnh song tu” của ngài Tuệ Nhật, về sau cũng được đông đảo đệ tử Thiền môn hưởng ứng hành trì; vào thời Ngũ-đại (907-960) và Tống (960-1279), lại càng hưng thịnh, mà nổi tiếng hơn cả là ngài Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975). Trong thời kì này, pháp môn Tịnh Độ cũng được hành trì cả ở tông Thiên Thai.
Ở các triều đại Nguyên (1260-1368) và Minh (1368-1644), tư tưởng “Thiền Tịnh song tu” lại càng được lưu hành rộng rãi, do công đức hoằng dương của các vị danh tăng như Trung Phong Minh Bản (1263-1323), Thiên Như Duy Tắc (1286-1354), Sở Sơn Thiệu Kì, Không Cốc Cảnh Long (?-?), Nhất Nguyên Tông Bản (?-?), Vân Thê Châu Hoằng (1535-1615), Ham Sơn Đức Thanh (1546-1623), Cổ Sơn Nguyên Hiền (1578-1657), v.v... Tông Thiên Thai, các ngài Liên Am Đại Hựu (1334-1407), U Khê Truyền Đăng (?-?), Linh Phong Trí Húc (1599-1655), v.v... cũng đều soạn sách để hiển dương giáo nghĩa Tịnh Độ; trong đó, nổi tiếng hơn cả là ngài Trí Húc (tức Ngẫu Ích), đã đem ba pháp học Thiền, Giáo và Luật qui về một pháp môn Tịnh Độ, đề xướng tư tưởng “Tam học nhất nguyên”.
Vào triều đại nhà Thanh (1644-1911), tín ngưỡng Tịnh Độ phần nhiều do giới cư sĩ đề xướng. Trong khoảng các vua Khang Hi và Càn Long, có ngài Tư Tề Thật Hiền (tức Tỉnh Am, 1686-1734), thừa kế đạo phong của ngài Châu Hoằng, lập Liên Xã ở Hàng-châu, giáo hóa quần chúng xa gần, rất được mọi người khâm ngưỡng. Vào buổi đầu thời Dân-quốc, đại sư Ấn Quang (1860-1940) chủ trương rằng, pháp môn Tịnh Độ chính là bản hoài của đức Phật ra đời. Ngài tận lực đối với sự nghiệp cứu tế xã hội, khiến cho hưng khởi phong trào lập hội Niệm Phật trong các giới tăng tục ở các địa phương. Sau khi chính phủ Dân-quốc dời ra đảo Đài-loan, tín ngưỡng về Tịnh Độ vẫn tiếp tục phát triển.
Tông Vân Môn (Vân Môn tông): là một trong “năm nhà bảy tông” của Thiền tông Trung-quốc, do thiền sư Vân Môn Văn Yển (864-949) làm khai tổ, thuộc pháp hệ của ngài Thanh Nguyên Hành Tư. Ngài Văn Yển trú tại thiền viện Quang-thái ở núi Vân-môn (tỉnh Quảng-đông), mở đạo tràng độ chúng, nên lấy tên núi đặt tên cho tông phái. Tông Vân Môn hưng khởi vào thời Ngũ-đại-thập quốc (907-979), cực thịnh vào thời Bắc-Tống (960-1127), sang thời Nam-Tống (1127-1279) thì suy yếu dần, rồi trầm một luôn; trước sau truyền thừa được khoảng hơn 200 năm.
Tống Cao-tông (1127-1162): là vị vua đã kiến lập nên vương triều Nam-Tống (1127-1279). Năm 1127, sau khi cả hai vua Huy-tông và Khâm-tông đều bị quân Kim bắt đem về nước Kim ở phương Bắc, thân vương Triệu Cấu, con thứ 9 của vua Huy-tông, bèn bỏ Biện-kinh và dời xuống Nam-kinh (nay là huyện Thương-khâu, tỉnh Hà-nam), được triều thần phò lên ngôi hoàng đế, tức là Tống Cao-tông; sử gọi đó là nhà Nam-Tống. Chẳng bao lâu, vì sợ quân Kim đánh bắt, vua Cao-tông lại chạy trốn xuống Dương-châu (tỉnh Giang-tô). Năm 1129 quân Kim tiến đánh xuống Nam, vua Cao-tông lại trốn chạy, lưu lạc mấy nơi, rồi xuống tới Ôn-châu (Triết-giang). Tại đây, vì được các hiền thần, tướng giỏi như Hàn Thế Trung, Nhạc Phi, v.v... cương quyết phản công quân Kim, cộng với sự hưởng ứng của nhiều nghĩa quân ở cả hai miền Giang-bắc và Giang-nam, quân Kim phải rút lui về Bắc; do đó vua Cao-tông lại trở lên phương Bắc, đến năm 1132 thì tạm dừng chân ở Lâm-an (Hàng-châu, Triết-giang). Năm 1138, khi đã chủ quyết nghị hòa với quân Kim, Cao-tông bèn chính thức chọn Lâm-an để đặt kinh đô nhà Nam-Tống.
Từ đó ông tin dùng bọn gian thần Tần Cối (làm nội gián cho quân Kim), cho làm đến chức tể tướng, và sát hại các anh hùng quyết tâm cứu nước như Nhạc Phi, Hàn Thế Trung, Hồ Thuyên v.v..., khiến cho thế nước ngày càng suy yếu, đến nỗi, vào năm 1141, triều đình nhà Tống phải kí hòa ước chịu xưng thần và triều cống nhà Kim; vua Cao-tông phải cắt đất dâng cho vua Kim để được phong chức là Khang vương! Để có đủ vàng bạc tiến cống cho vua Kim, ông đã bóc lột nhân dân vô cùng thảm khốc. Năm 1162 ông truyền ngôi cho người cháu bảy đời của vua Thái-tổ là Triệu Thận (tức Tống Hiếu-tông) để làm thái thượng hoàng, đến năm 1187 thì mất.
Tống Chân-tông (998-1022): là đời vua thứ ba của vương triều Triệu-Tống (Bắc-Tống), thâm tín và ủng hộ Phật giáo nhiệt thành. Tổng số tăng ni dưới thời ông có đến gần nửa triệu người.
Tống Huy-tông (1101-1125): là đời vua thứ 8 của vương triều Bắc-Tống. Ông nối ngôi của vua anh là Triết-tông (1086-1100), và cả hai đều là con của vua Thần-tông (1068-1085). Huy-tông là người có óc nghệ thuật, viết chữ rất đẹp; nhưng lại ưa thích kẻ gian nịnh mà đố kị người trung lương. Nhà vua đã dùng nịnh thần Sái Kinh làm tể tướng, cho nên chính sự đại loạn. Sái Kinh lại tiến cử đạo sĩ Lâm Linh Tố, cùng nhau bày mưu kết đảng, đã đưa đến cuộc bài trừ Phật giáo vào niên hiệu Tuyên-hòa (1119-1125). Trước tiên, nhà vua đã đổi danh hiệu Phật bằng “Đại giác kim tiên”, đổi danh hiệu Bồ-tát bằng “Tiên nhân đại sĩ”, gọi tăng là “đức sĩ” và phải đổi y phục giống như các đạo sĩ; sau đó, các chùa lớn, các danh lam, tranh tượng, pháp khí, v.v... bị phá hủy gần như tận tuyệt. Theo sự nhận xét của các sử gia, tai họa của kì pháp nạn này còn trầm trọng hơn cả bốn kì pháp nạn “tam Võ nhất Tông” trước kia. Năm 1227 (lúc đó đã truyền ngôi cho Khâm-tông để làm thái thượng hoàng), ông đã bị quân Kim bắt (cùng với vua Khâm-tông) đem về đất Bắc; sau 9 năm làm tù binh, năm 1135 ông đã chết ở nước Kim.
Tống Thái-tổ (960-976) và Tống Thái-tông (976-997): là hai ông vua đầu của vương triều Triệu-Tống. Vua Thái-tổ là người khai sáng ra nhà Tống (xem mục “Nhà Tống”), có công thống nhất Trung-quốc, nhưng chưa trọn vẹn. Vua Thái-tông là em của Thái-tổ, sau khi lên ngôi kế vị, liền tiếp tục công nghiệp của vua anh, đem quân bình định các nước còn sót lại của thời “Thập-quốc” như Ngô-Việt (908-978) và Bắc-Hán (951-979); bấy giờ nước Trung-quốc mới được thống nhất, tuy vậy, miền Hà-bắc vẫn còn mất trong tay nước Kim. Cả hai ông vua này đều rất nhiệt tâm ủng hộ Phật giáo.
Trang-nghiêm kiếp: gọi đầy đủ là Quá-khứ Trang-nghiêm kiếp, là tên của đại kiếp Quá-khứ (xem mục “Hiền kiếp”). Trong thời gian 20 tiểu kiếp của trung kiếp Trụ thuộc Trang-nghiêm kiếp này, đã có một ngàn đức Phật lần lượt ra đời, khởi đầu là đức Phật Hoa Quang, và cuối cùng là đức Phật Tì Xá Phù. Đó là “một ngàn đức Phật của Trang-nghiêm kiếp”.
Trăm kiếp (bách kiếp): tức 100 đại kiếp, chỉ cho thời gian tu hành của một hành giả Bồ-tát thừa. Theo Luận Đại Trí Độ, các vị Bồ-tát, trong suốt 3 a-tăng-kì chuyên tu lục độ vạn hạnh, cuối cùng đạt được địa vị Thập-địa; tiếp theo đó 100 đại kiếp ở địa vị Đẳng-giác, Bồ-tát chuyên tu nhân cho 32 tướng tốt để cuối cùng chứng quả Diệu-giác, tức thành Phật.
Trần - Cảnh. Chữ Phạn “visaya” (hay “artha”), các nhà cựu dịch dịch là “trần”, các nhà tân dịch dịch là “cảnh”, là đối tượng của “căn” (giác quan). Sáu căn có sáu đối tượng riêng biệt: hình sắc (sắc trần – sắc cảnh) là đối tượng của mắt (nhãn căn); âm thanh (thanh trần – thanh cảnh) là đối tượng của tai (nhĩ căn); mùi hương (hương trần – hương cảnh) là đối tượng của mũi (tị căn); vị (vị trần – vị cảnh) là đối tượng của lưỡi (thiệt căn); xúc (xúc trần – xúc cảnh) là đối tượng của thân (thân căn); và ý tượng (pháp trần – pháp cảnh) là đối tượng của ý (ý căn). Nên để ý đến ý nghĩa của hai từ “xúc” và “pháp” ở đây: “Xúc” là các tính chất mát, lạnh, nóng, cứng, mềm, trơn, nhám, v.v... của vật chất. Các tính chất này do sự xúc chạm của thân căn mà cảm giác được, cho nên chúng được gọi là “xúc trần”, hay “xúc cảnh”. “Pháp” không phải là những hiện tượng vật chất cụ thể và giản dị ở bên ngoài như các “cảnh” khác, mà rất trừu tượng và phức tạp nằm trong tâm thức, gồm có các ảnh tượng (tức các đối tượng cảm giác còn lưu lại trong ý thức), các ý tượng (các ảnh tượng do ý thức tưởng tượng ra), và cả các tư tưởng không ảnh tượng. Nguyên nghĩa chữ “trần” là bụi bặm. Bụi là những vật thể cực nhỏ bay đầy trong không khí, thường bám vào các vật khác làm cho dơ dáy; bởi vậy, kinh luận thường dùng nó (như các từ trần cấu, trần lao, trần tục, v.v...) để ví dụ cho phiền não. Các nhà cựu dịch cho rằng, sáu cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp có tính chất làm ô nhiễm chúng sinh, cho nên đã gọi chúng là “trần” – sáu trần. Thực ra, ô nhiễm là do chính tâm thức của chúng sinh, chứ bản chất của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp đâu có gì là ô nhiễm. Người tu học chân chính, chuyên cần, suốt ngày cũng đối diện, tiếp xúc với sáu thứ ấy, nhưng không hề bị ô nhiễm vì chúng. Có lẽ vì vậy mà các nhà tân dịch đã gọi chúng là “cảnh” – sáu cảnh. Trong khi đó, có người còn hòa hợp cả cựu lẫn tân mà gọi là “trần cảnh” – sáu trần cảnh.
Trần Na (Dinnaga). Ngài người nước Án-đạt-la ở Nam Ấn-độ, sống vào khoảng giữa thế kỉ thứ 5 và 6, là người đã tập đại thành môn Nhân Minh Luận của Phật giáo Ấn-độ. Ngài thuộc chủng tánh Bà-la-môn, thuở nhỏ theo học ngoại đạo, rồi lại theo học Độc Tử Bộ của Phật giáo tiểu thừa; về sau theo học với Bồ Tát Thế Thân, nghiên cứu cả Phật giáo đại, tiểu thừa. Ngài cũng từng thọ minh chú với một vị a xà lê Mật giáo, thâm nhập được pháp bí mật; rồi lại đến nước Ô-trà tu tập thiền định. Ngài nói năng khéo léo, hàng phục rất nhiều ngoại đạo; nhân biện luận với học phái Ni Dạ Da mà nổi tiếng. Ngài về trú tại học viện Na-lan-đà để giảng dạy Câu Xá, Du Già Sư Địa, Duy Thức và Nhân Minh Luận. Về sau, ngài nhận được lời khuyến giới của Bồ Tát Văn Thù mà soạn thành tác phẩm Tập Lượng Luận. Sau đó ngài chu du khắp xứ Nam-Ấn, hàng phục rất nhiều luận sư ngoại đạo, khôi phục các đạo tràng hoang phế, thường tu 12 hạnh đầu đà. Ngài viên tịch tại nước Ô-trà. Về phương diện tác dụng của tâm thức, khác với hai ngài Hộ Pháp và An Tuệ, ngài công nhận có ba phần: kiến phần, tướng phần và tự chứng phần (gọi là “nhà ba phần”); trong khi đó, ngài Nan Đà (một trong 10 vị đại luận sư Duy Thức) thì thừa nhận có hai phần: kiến phần và tướng phần (gọi là “nhà hai phần”). Đặc biệt, ngài có công rất lớn đối với môn Nhân Minh Học của Phật giáo Ấn-độ. Không những đã tập đại thành học thuyết Nhân Minh, ngài còn sáng lập môn “Tân Nhân Minh”, tạo thành Thời Đại Nhân Minh Học trong nền luận lí học Ấn-độ, được người đời xưng là sáng tổ Tân Nhân Minh, hay hơn thế nữa, là vị cha đẻ của nền Chánh Lí Học của trung thế kỉ. Trước tác của ngài liên quan đến Câu Xá, Duy Thức và Nhân Minh có rất nhiều, như Quán Chưởng Trung Luận, Quán Sở Duyên Duyên Luận, Thủ Nhân Giả Thiết Luận, Quán Tổng Tướng Luận Tụng, Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật Đa Viên Tập Yếu Nghĩa Luận, Nhân Minh Chánh Lí Môn Luận, v.v...
Trần sa hoặc. Tâm tính chúng sinh ngu muội vô bờ bến, nên các pháp môn dùng để giáo hóa rộng nhiều như cát bụi, đến nỗi trí tuệ của hàng Bồ-tát cũng không thông đạt hết được, khiến cho việc hành đạo bị trở ngại, đó gọi là “trần sa hoặc”. Vượt được chướng ngại này thì Bồ-tát thành Phật.
Trâu trắng. Thiền tông dùng hình ảnh con “trâu trắng” để tượng trưng cho tâm giác ngộ. Trong Kinh Pháp Hoa, đức Phật dùng “xe trâu trắng” để dụ cho Nhất-Phật thừa.
Tri Huyền (?-?). Theo Tục Cao Tăng Truyện (sa môn Đạo Tuyên, đời Đường, soạn) thì tên vị cao tăng này là Trí Huyễn, nhưng theo Phật Tổ Thống Kỉ (sa môn Chí Bàn soạn vào đời Tống) thì tên ngài lại là Tri Huyền; lại có chỗ khác ghi là Tri Huyễn. Ngài người Ích-châu (Tứ-xuyên), sống vào thời đại Nam-Bắc-triều sang đến đời Tùy. Ngài xuất gia từ thuở nhỏ, đến kinh đô Trường-an tham học, chỉ vài năm thì nổi tiếng khắp kinh thành cho đến Lạc-dương. Khi vua Vũ đế nhà Bắc-Chu (557-581) muốn hủy diệt Phật giáo để ủng hộ Đạo giáo, ngài đã mạnh dạn đứng lên biện bác, chống đối, cả nhà vua và đạo sĩ Trương Tân đều bị ngài khuất phục. Tuy rất ghét ngài, nhưng nhà vua cũng phải nể phục, không dám có ý hại ngài. Khi chính sách tiêu diệt Phật giáo được chính thức thi hành, ngài bèn lánh nạn sang nước Bắc-Tề. Năm 576, Chu Vũ đế tiêu diệt nhà Bắc-Tề, lại ban lệnh triệt hạ Phật giáo tại đất này, ngài phải tạm thời cải dạng sống đời thường dân. Đến khi nhà Tùy khởi nghiệp (năm 581), ngài lại xuất hiện, trú tại chùa Hiếu-ái. Ngài viên tịch năm 102 tuổi.
Tri kiến: là sự thấy biết, sự hiểu biết, tương đương với một thuật ngữ Phật học khác là “kiến giải”. Tri kiến là những kiến giải có được do năm thức mắt, tai, mũi, lưỡi và thân, thu thập kinh nghiệm từ cuộc sống, từ mọi hiện tượng trong vũ trụ, cộng với sự suy nghĩ, phân biệt, phán đoán v.v... của ý thức. Tùy theo phàm phu hay thánh nhân mà tri kiến có trình độ thấp cao khác nhau: tri kiến của người thường không giống với tri kiến của bậc Thanh-văn; tri kiến của Thanh-văn không giống như tri kiến của chư vị Bồ-tát v.v...; và ngay cả tri kiến giữa những kẻ phàm phu cũng khác nhau nhiều. Vì vậy, tri kiến không giống với “trí tuệ” (tức trí bát nhã) – là trí không phân biệt, xa lìa sự suy nghĩ, phán đoán của tâm thức. Và chỉ có tri kiến của Phật (cũng gọi là “tri kiến ba la mật”) mới gọi được là trí tuệ, hay nói cách khác, chỉ có ở địa vị Phật thì tri kiến với trí tuệ mới là một. Kinh Pháp Hoa nói, đức Phật ra đời là vì một nguyên nhân vô cùng quan trọng, đó là dẫn dắt chúng sinh nhập vào tri kiến Phật. Câu nói đó có nghĩa là, đức Phật hóa độ cho chúng sinh chứng đắc các quả vị Thanh-văn, Duyên-giác, thậm chí là Bồ-tát, đều chỉ là phương tiện mà thôi, chứ cái quả vị cứu cánh phải là Phật quả, tức là quả vị giác ngộ trọn vẹn, cao tột, duy nhất; đó là tri kiến của Như Lai, thứ trí tuệ siêu việt, vượt khỏi mọi khái niệm, mọi suy tư, phân biệt của tâm thức.
Trì danh: cũng nói là “chấp trì danh hiệu”, tức là xưng niệm danh hiệu chư Phật và Bồ-tát. Theo kinh A Di Đà, chấp trì danh hiệu tức là chuyên niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà để tạo cái nhân vãng sinh về thế giới Cực-lạc. Ở đây, trì danh là một trong bốn cách niệm Phật, gọi là “trì danh niệm Phật”; tức là chuyên tâm xưng niệm danh hiệu Phật, ngày đêm nhất tâm chuyên chú, niệm niệm không gián đoạn, tâm ý thuần nhất, không còn tạp loạn.
Trí căn bản (căn bản trí): cũng gọi là như lí trí, vô phân biệt trí, chánh trí, chân trí. Vì để phân biệt với “hậu đắc trí”, cho nên nói là “căn bản trí”. Trí này có công năng phát sinh tất cả pháp lạc, là căn bản xuất sinh lòng đại bi và tất cả công đức, cho nên có tên là căn bản trí. Trí này không nương tựa nơi tâm, không duyên ngoại cảnh, thấy rõ tất cả pháp đều tức là chân như, cho nên phù hợp với chân lí, không có sai khác giữa năng duyên và sở duyên.
Trí Giả: tức đại sư Trí Khải. (Xem mục “Trí Khải”.)
Trí hậu đắc (hậu đắc trí). Do tu tập, dùng trí tuệ quán chiếu thấy rõ tánh y tha khởi của vạn pháp, biết rõ vạn pháp là giả tạm, như huyễn, không còn khởi niệm mê hoặc chấp trước đối với ngã và pháp.
Trí Húc: tức đại sư Ngẫu Ích (xem mục “Ngẫu Ích”).
Trí Khải (538-597): là vị tổ sáng lập tông Thiên Thai Trung-quốc. (Có thuyết nói Tuệ Văn là Sơ-tổ của tông Thiên Thai, Tuệ Tư là Nhị-tổ, và Trí Khải là Tam-tổ). Ngài sống vào đời Tùy (581-618), họ Trần, tự Đức An, người huyện Hoa-dung, phủ Kinh-châu (nay là vùng đất phía Tây Nam của huyện Tiềm-giang, tỉnh Hồ-nam). Từ 7 tuổi đã ham thích chốn già lam, chư tăng truyền miệng cho phẩm “Phổ Môn”, chỉ nghe một lần là thuộc lòng, và cứ thế trì tụng. Năm 18 tuổi, ngài xuất gia tại chùa Quả-nguyện. Không bao lâu, ngài theo ngài Tuệ Khoáng học Luật tạng, lại thông hiểu các kinh phương đẳng. Sau ngài vào núi Thái-hiền, chuyên trì tụng các kinh Pháp Hoa, Vô Lượng Nghĩa và Phổ Hiền Quán; chỉ trong vòng 20 ngày thì thông suốt nghĩa lí các kinh. Năm 560, ngài đến núi Đại-tô ở Quảng-châu, tham yết ngài Tuệ Tư. Tuệ Tư vì ngài mà mở đạo tràng Phổ Hiền, thuyết giảng “bốn hạnh an lạc” (xem kinh Pháp Hoa, phẩm “An Lạc Hạnh”). Ngài bèn trụ luôn tại đó tu học. Một hôm, trong thời kinh Pháp Hoa, lúc tụng đến phẩm “Dược Vương” thì ngài hoát nhiên đại ngộ. Từ đó ngài được thay ngài Tuệ Tư đăng tòa giảng thuyết; rồi lại được phái đi Kim-lăng để hoằng truyền thiền pháp. Tại chùa Ngõa-quang, ngài bắt đầu nghiên cứu chuyên đề về kinh Pháp Hoa, vạch rõ yếu nghĩa, tông chỉ của kinh một cách mới mẻ, cùng xét đoán, giải thích, phân loại kinh giáo nói chung, dựng lập cơ sở giáo quán cho tông Thiên Thai. Năm 575, ngài vào núi Thiên-thai (tỉnh Triết-giang) lập chùa Tu-thiền; năm 591 lại dựng chùa Ngọc-tuyền ở Đương-dương (tỉnh Hồ-bắc). Ngài viên tịch năm 597, thọ 60 tuổi. Sinh thời, ngài đã tạo dựng 36 ngôi chùa, độ tăng nhiều vô kể, trong đó có 32 vị đệ tử ưu tú, mà nổi bật nhất là các sư Quán Đảnh, Trí Việt, Trí Tảo, v.v... Tư tưởng của ngài được hình thành từ tinh thần kinh Pháp Hoa, cùng với giáo nghĩa của Bồ-tát Long Thọ. Ngài đã đem toàn bộ kinh điển Phật giáo phân làm năm loại; đem phương pháp giáo hóa cùng nội dung tư tưởng của Phật chia làm bốn loại. Cách “phán giáo” đó đã được mọi người coi là mẫu mực. Y cứ vào thiền quán để lập ra pháp môn tu “chỉ quán”, là một sáng tạo độc đáo của ngài. Trước thuật của ngài thật là phong phú, nhưng đa phần là do vị đệ tử hàng đầu của ngài là Quán Đảnh ghi chép lời giảng của ngài, rồi nhuận sắc, viết lại thành sách, có đến vài mươi bộ, như: Pháp Hoa Sớ, Tịnh Danh Sớ, Ma Ha Chỉ Quán, Duy Ma Kinh Sớ, Tứ Giáo Nghĩa, Kim Cang Bát Nhã Kinh Sớ, Thiền Môn Yếu Lộ, Quán Tâm Luận, v.v... Trong các trước thuật của ngài nhằm xây dựng nền móng cho tông Thiên Thai, thì Pháp Hoa Kinh Huyền Nghĩa, Pháp Hoa Kinh Văn Cú và Ma Ha Chỉ Quán, được người đời xưng là “Thiên Thai tam đại bộ”; và Quán Âm Huyền Nghĩa, Quán Âm Nghĩa Sớ, Kim Quang Minh Kinh Huyền Nghĩa, Kim Quang Minh Kinh Văn Cú, Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh Sớ, được xưng là “Thiên Thai ngũ tiểu bộ”. Đặc điểm của tư tưởng ngài là vận dụng cùng lúc cả hai phương tiện GIÁO (kinh sách chữ nghĩa) và QUÁN (tư duy quán chiếu); chú trọng cả hai mặt GIẢI (am tường kinh luận) và HÀNH (áp dụng trong đời sống hằng ngày) trong việc tu học. Học thuyết của ngài đã có ảnh hưởng rất lớn trong nền Phật giáo Trung-quốc.
Trí Nghiễm (602-668). Ngài họ Triệu, người tỉnh Cam-túc, hiệu là Chí Tướng đại sư, là vị cao tăng ở đời Đường, tổ thứ nhì của tông Hoa Nghiêm. Ngài từ tuổi ấu thơ đã có duyên với đạo Phật, trong các trò chơi thường chất đá thành tháp, hoặc tự mình làm như pháp sư giảng kinh, bảo các đứa bé khác ngồi quanh làm thính chúng. Năm 12 tuổi ngài được theo đại sư Đỗ Thuận vào núi Chung-nam, ở tại chùa Chí-tướng, theo học với sư huynh (đệ tử của ngài Đỗ Thuận) là pháp sư Đạt (?-?), ngày đêm chuyên cần. Năm 14 tuổi ngài được thế phát, sau đó được cho theo học Nhiếp Đại Thừa Luận với pháp sư Pháp Thường (567-645). Năm 20 tuổi ngài thọ giới cụ túc, học Luật Tứ Phần và các kinh luận như Tì Đàm, Thành Thật, Thập Địa, Địa Trì, Niết Bàn, v.v… Sau đó lại theo học Hoa Nghiêm với pháp sư Trí Chánh (559-639). Ngài cũng đọc khắp Kinh Tạng, và nghiên cứu rất kĩ Thập Địa Luận. Năm 27 tuổi ngài bắt đầu trước tác, soạn Hoa Nghiêm Kinh Sưu Huyền Kí, trở thành giáo nghĩa nền tảng cho tông Hoa Nghiêm. Từ đó ngài chuyên giảng Kinh Hoa Nghiêm, giáo hóa không biết mệt mỏi. Ngài thường ở chùa Chí-tướng, cho nên từng được người đời xưng là Chí Tướngg đại sư; về cuối đời ngài lại cư trú chùa Vân-hoa, cho nên lại được xưng là Vân Hoa tôn giả. Năm 67 tuổi ngài thị tịch. Trước tác của ngài có Hoa Nghiêm Kinh Sưu Huyền Phân Tề Thông Trí Phương Quĩ, Hoa Nghiêm Kinh Nội Chương Môn Đẳng Tạp Khổng Mục, Hoa Nghiêm Ngũ Thập Yếu Vấn Đáp, Hoa Nghiêm Nhất Thừa Thập Huyền Môn, Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa Lược Sớ, Vô Tánh Nhiếp Luận Sớ. Đệ tử của ngài có Hoài Tề, Pháp Tạng, Nguyên Hiểu, Nghĩa Tương, Bạc Trần, Tuệ Hiểu, Đạo Thành v.v…, trong đó, ngài Pháp Tạng (tức Hiền Thủ) được chính thức truyền nối tông chỉ Hoa Nghiêm, để rồi phát dương rực rỡ, làm cho tông Hoa Nghiêm trở thành một tông phái hoàn bị, đặc biệt của Phật giáo Trung-hoa. Ngài Pháp Tạng, về phương diện truyền thừa thì là vị tổ thứ ba, nhưng trên thực tế, giới Phật học ai cũng coi ngài là vị tổ khai sáng chính thức của tông Hoa Nghiêm. Về tiểu sử ngài Pháp Tạng, xin xem mục “Hiền Thủ” ở trước.
Trí Nhàn (?-898): tức thiền sư Hương Nghiêm, đời Đường. Ngài người huyện Ích-đô, tỉnh Sơn-đông, ban đầu xuất gia với thiền sư Bách Trượng, sau theo tham học với thiền sư Qui Sơn, không khai ngộ, bèn khóc lạy mà từ biệt. Một hôm đang dẫy cỏ ở trong núi, bỗng một miếng gạch vỡ văng vào bụi trúc, phát ra tiếng động, ngài nghe mà chợt tỉnh, liền tỏ ngộ ý chỉ áo bí của thiền sư Qui Sơn, bèn kế thừa pháp hệ của ngài Qui Sơn, hoằng hóa ở núi Hương-nghiêm, đồ chúng theo học có hơn ngàn người, được người đời xưng hiệu là Hương Nghiêm thiền sư; sau khi viên tịch, được ban thụy hiệu là Tập Đăng đại sư.
Trí nhãn. Khác với con mắt thịt của phàm phu, con mắt trí tuệ thấy rõ được chân lí, cho nên gọi là “trí nhãn” (tức tuệ nhãn).
Trí pháp thân. Tất cả các pháp biến khắp trong nhau, lí sâu xa đồng thể, gọi là “trí pháp thân”.
Trí viên cảnh: tức trí đại viên cảnh (đại viên cảnh trí), là một trong “bốn trí tuệ” (tứ trí) của bậc giác ngộ. Kẻ phàm phu nhận biết vạn hữu bằng tám thức (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý, mạt na, và a lại da); mà tính chất của THỨC là phân biệt, chấp trước, tà kiến, đầy ô nhiễm, sai lầm, tạo nghiệp sinh tử luân hồi. Người tu học Phật phải chuyên cần, tinh tấn, để đạt đến chỗ phá trừ mọi tà kiến, diệt sạch mọi chấp trước, dập tắt mọi phiền não, không còn tạo một nghiệp xấu mảy may nào nữa. Hành giả khi đạt đến trình độ ấy thì cả tám thức liền chuyển đổi thành bốn trí tuệ thanh tịnh, giác ngộ:
1. Trí Đại viên cảnh (Đại viên cảnh trí), là tuệ giác hoàn toàn thanh tịnh, sáng suốt, không bị bất cứ một bợn nhơ nào che lấp, được hình dung như một tấm gương to lớn, tròn đầy, trong sáng, không chỗ nào bị sứt mẻ, không tì vết, vẩn đục, hay dính bụi; rọi chiếu rõ ràng chân tướng vạn hữu. Tuệ giác này chính là trạng thái thanh tịnh, giác ngộ của thức a lại da, sau khi các chủng tử ô nhiễm tiềm tàng trong thức này đã được chuyển hóa tận gốc rễ. Hay nói cách khác, đây là một thực thể mà khi còn ở trạng thái ô nhiễm thì tức là a lại da thức; và khi đã được chuyển hóa thành hoàn toàn thanh tịnh thì tức là đại viên cảnh trí – và đó cũng tức là chân như, là bản thể, là pháp thân.
2. Trí Bình đẳng tánh (Bình đẳng tánh trí), là tuệ giác có khả năng thấy được tính cách bình đẳng của vạn pháp, hoàn toàn thoát khỏi sự ràng buộc của tà kiến, chấp trước, phân biệt nhân và ngã, chủ thể và đối tượng. Vì không còn bị tà kiến chi phối, nên hành giả có thể hóa hiện tự do, tùy cơ ứng dụng trong mọi công tác độ sinh. Bình đẳng tánh trí chính là trạng thái thanh tịnh, giác ngộ của mạt na thức, sau khi các kiến chấp mê muội của thức này đã bị phá vỡ và được chuyển hóa trọn vẹn.
3. Trí Diệu quán sát (Diệu quán sát trí), là tuệ giác được chuyển hóa từ ý thức, có khả năng nhìn thấu được tâm lí của mọi loài chúng sinh, thấy rõ được mọi nhu yếu và mọi vấn đề khó khăn của họ, cũng như biết được một cách sáng tỏ các giáo lí và phương tiện thích hợp dùng để cứu giúp, khiến cho chúng sinh tỉnh thức và mở mang giác tính. Nó cũng còn có thể thực hiện được các khả năng mầu nhiệm (thần thông) trong công việc độ sinh.
4. Trí Thành sở tác (Thành sở tác trí), là tuệ giác được chuyển hóa từ năm thức cảm giác (nhãn, nhĩ, tị, thiệt, và thân), có khả năng thực hiện thành tựu mọi công tác độ sinh.
Trí vô lậu (vô lậu trí): là trí tuệ thanh tịnh của các bậc A-la-hán trở lên, đã thể nhập chân lí tứ đế, đoạn trừ tất cả phiền não trong ba cõi, không còn lỗi lầm, ô nhiễm, gọi là “trí vô lậu”. Trái lại là trí hữu lậu (hữu lậu trí), tức là trí của phàm phu, dẫy đầy phiền não vô minh che lấp, không thấy được chân lí.
Trí vô phân biệt (vô phân biệt trí): là trí tuệ vô lậu, chân thật, bình đẳng, xa lìa mọi tướng chủ quan và khách quan, dứt tuyệt mọi khái niệm, mọi vọng tưởng phân biệt của nhận thức thế tục.
Trí vô sinh (vô sinh trí): là trí tuệ của các bậc thánh ở hàng “vô học”, thấy rõ tất cả các pháp là không sinh diệt. Đó là trí tuệ rốt ráo đã hoàn toàn đoạn diệt tất cả phiền não, xa lìa mọi hình thái biến đổi, sinh diệt. Đó cũng là trí tuệ vô lậu, đối với bốn sự thật thì tự mình đã biết khổ, đoạn nguyên nhân của khổ, tu tám chánh đạo, và chứng quả tịch diệt; đồng thời cũng biết rõ là mình KHÔNG biết, đoạn, tu, chứng.
Triền cái. “Triền” nghĩa là trói buộc, là một tên khác của phiền não, vì phiền não hay trói buộc người, khiến cho con người thân tâm không được tự tại. “Cái” nghĩa là che lấp, cũng là một tên gọi khác của phiền não, vì phiền não hay che lấp lòng tin thanh tịnh của hành giả, khiến cho nó không thể khai phát được. “Thập triền” (mười thứ trói buộc) và “ngũ cái” (năm thứ che lấp) đều là những số lượng của phiền não, cho nên gọi là “triền cái”.
Triệt Lưu (1626-1682): tức đại sư Hành Sách, vị tổ thứ 10 của tông Tịnh Độ, Trung-quốc. Ngài họ Tưởng, tự Triệt Lưu, quê ở huyện Nghi-hưng, tỉnh Giang-tô. Phụ thân ngài là Tưởng Toàn Xương, tinh thông cả Nho lẫn Phật, vốn là bạn thân của đại sư Ham Sơn. Sau khi Ham Sơn viên tịch được ba năm (1626), một đêm kia Toàn Xương nằm mộng thấy Ham Sơn chống gậy vào nhà, ngay lúc đó Hành Sách được sinh ra; do đó, Hành Sách còn được đặt cho ngoại hiệu là Mộng Ham. Đến tuổi trưởng thành thì cha mẹ đều lần lượt qua đời, ngài bèn lập chí xuất gia. Năm 23 tuổi, ngài xin xuất gia với hòa thượng Nhược Am Thông Vấn (1604-1655) ở chùa Lí-an (huyện Hàng, tỉnh Triết-giang). Suốt 5 năm tu hành tinh tấn, lưng không hề đặt xuống giường, rốt cuộc, ngài tỏ ngộ thật tướng của vạn pháp. Sau khi hòa thượng Nhược Am viên tịch, ngài đến trú chùa Báo-ân. Tại đây, ngài được bạn đồng tu là Tức Am khuyên tu Tịnh Độ. Sau đó ngài lại đến Tiền-đường, gặp pháp sư Tiều Thạch, học tập giáo nghĩa tông Thiên Thai, lại cùng nhau nhập thất để tu tập Pháp Hoa tam muội. Nhân đó mà túc huệ sáng tỏ, ngài thấu triệt giáo nghĩa cốt tủy của tông Thiên Thai. Năm thứ hai đời vua Khang Hi (1663) nhà Thanh, ngài cất am Liên-phu bên bờ sông Tây-khê ở núi Pháp-hoa (Hàng-châu), chuyên tu Tịnh Độ. Năm 1672, ngài đến huyện Thường-thục, tỉnh Giang-tô, trú trì viện Phổ-nhân ở núi Ngu. Tại đây ngài thành lập hội tu Tịnh Độ, bốn chúng từ bốn phương tụ tập về tu học rất đông. Đến năm 1682, ngài viên tịch, thọ thế 56 tuổi. Trước tác của ngài có: Kim Cang Kinh Kí Sớ Hội Biên, Khuyến Phát Chân Tín Văn, Khởi Nhất Tâm Tinh Tấn Niệm Phật Thất Kì Qui Thức, Bảo Cảnh Tam Muội Bản Nghĩa, v.v...
Triệt Ngộ: tức đại sư Mộng Đông (xem mục “Mộng Đông”).
Triều Thố (200-154 tr. TL): người thời Tây-Hán (206 tr. TL - 7 s. TL), từng làm quan gia lịnh cho thái tử dưới triều vua Văn đế (202-157 tr. TL), rồi ngự sử đại phu dưới triều vua Cảnh đế (188-141 tr. TL). Ông dâng sớ xin vua tước bỏ đất phong của bảy nước chư hầu (Ngô, Sở, Giao-tây, Giao-đông, Tri-xuyên, Tế-nam, Triệu), dùng chế độ “trung ương tập quyền” để củng cố quyền lực chính quyền trung ương. Bảy nước chư hầu nhân đó, lấy danh nghĩa trừ Triều Thố, khởi binh làm phản. Triều Thố vốn có thù oán sâu nặng với một viên quan đồng triều là Viên Áng; thừa dịp này, Viên Áng liền tâu vua giết Triều Thố để trấn an chư hầu. Vua nghe lời, cho lệnh chém Triều Thố ở chợ Đông. [Xin lưu ý: Từ trước đến nay, người Việt thường đọc nhầm tên của hai viên quan đời Tây-Hán là Viên Án và Triệu Thố, đúng ra phải đọc là Viên Áng (袁盎) và Triều Thố (晁錯).]
Trình độ giác ngộ. Người căn cơ thấp kém, phải tu tập dần dà từ bước thấp đến bước cao, trải bao công phu chuyên cần, từ kiếp này sang kiếp khác, mới mong đạt đến chỗ giác ngộ hoàn toàn. Trong khi đó, người có căn cơ cao, có trí sáng lớn, tâm ý đã thuần thục, chỉ chờ một điểm khai thị đúng mức nào đó là “khuếch nhiên đại ngộ”. Như thế là có hai trình độ khác nhau trên con đường giác ngộ, mà thuật ngữ Phật học gọi là “tiệm ngộ” và “đốn ngộ”. Ngay như ba ý nghĩa của chữ “giác” là “tự giác”, “giác tha” và “giác mãn”, cũng cho chúng ta thấy rõ ba trình độ của giác ngộ; theo đó, “tự giác” mới chỉ là bước đầu, nếu bằng lòng và dừng lại ở đó thì sự giác ngộ chưa hoàn toàn. Trong tinh thần đạo Phật, việc độ sinh là quan trọng; muốn vậy, người tu học Phật phải tích cực tiến lên bước thứ hai là “giác tha”. Muốn “giác tha” thì trước phải có đầy đủ bản lãnh “tự giác”; cho nên, giữa “tự giác” và “giác tha” rõ ràng có một nấc thang đi lên, đó là thứ bậc, là trình độ. Và khi nào đã hoàn thành cả hai bước “tự giác” và “giác tha”, hành giả mới tiến được tới nấc cuối cùng, gọi là “giác mãn”, là thành quả giác ngộ trọn vẹn, cao tột, là địa vị Phật-đà. Tóm lại, khi tiến tới mức cuối cùng là quả vị “giác ngộ cao tột” thì tất cả đều không phân biệt, nhưng trước khi đến được mức độ đó, các hành giả đã phải trải qua nhiều trình độ tu chứng tùy theo căn cơ của từng vị. Bởi vậy, thành quả giác ngộ của Phật, của chư vị Bồ-tát, của các bậc Thanh-văn, Duyên-giác đều không giống nhau.
Trợ đạo phẩm. “Đạo” là con đường dẫn đến thành quả giác ngộ, giải thoát, niết bàn. “Phẩm” là các phẩm loại, phương pháp, hay pháp môn sai khác nhau. “Trợ” là giúp đỡ. Có 37 pháp môn tu tập giúp cho hành giả tiến đến đạo quả giác ngộ, giải thoát, niết bàn; gọi là “37 phẩm trợ đạo”, hoặc “37 đạo phẩm”.
Trời (Thiên): là tiếng dịch nghĩa từ Phạn ngữ “deva-loka”. Những từ Hán-Việt đồng nghĩa của nó là thiên thượng, thiên đạo, thiên thú, hay thiên giới; dùng chỉ cho cảnh giới của các vị trời cư trú. “Trời” là loài hữu tình cao cấp nhất trong sáu đường (hay ba cõi), mà thông tục thường gọi là “thần” hay “tiên”. Nếu chỉ cho tự thể của loại hữu tình này thì gọi là “thiên nhân” (số ít), hay thiên chúng, thiên bộ, chư thiên (số nhiều). “Trời” vốn là một thứ tín ngưỡng dân gian rất xưa ở Ấn-độ, nhưng đã không có quan niệm rõ ràng nào về sự khác biệt hay tầng bậc cao thấp của các trời. Khi đạo Phật xuất hiện, nó được dùng trong hệ thống vũ trụ quan của Phật giáo.
Theo kinh luận ghi chép, thế giới của trời ở thật xa đối với cõi người. Từ dưới lên trên, theo thứ tự, có các cõi: trời Tứ-vương, trời Đao-lợi, trời Dạ-ma, trời Đâu-suất, trời Hóa-lạc, trời Tha-hóa-tự-tại. Sáu cõi trời này thuộc về cõi Dục, nên gọi là “Lục Dục thiên” (xem mục “Trời Cõi Dục”). Trên nữa là bốn cõi trời Thiền của cõi Sắc – gọi là “Tứ Thiền thiên”. Thấp nhất là tầng Sơ-thiền, có ba cõi: trời Phạm-chúng, trời Phạm-phụ, trời Đại-phạm; tiếp đến là tầng Nhị-thiền, có ba cõi: trời Thiểu-quang, trời Vô-lượng-quang, trời Cực-quang; cao hơn là tầng Tam-thiền, có ba cõi: trời Thiếu-tịnh, trời Vô-lượng-tịnh, trời Biến-tịnh; cao nhất là tầng Tứ-thiền, có chín cõi: trời Vô-vân, trời Phúc-sinh, trời Quảng-quả, trời Vô-tưởng, trời Vô-phiền, trời Vô-nhiệt, trời Thiện-hiện, trời Thiện-kiến, trời Sắc-cứu-cánh; cộng chung tất cả là mười tám cõi trời Sắc giới. – Về danh số các cõi trời Sắc giới, nhiều kinh luận liệt kê khác nhau: có chỗ nói tổng cộng là 22 cõi trời, có chỗ nói 21, hoăc 17, hay 16 (xem mục “Trời Cõi Sắc”). Tột đỉnh của ba cõi là bốn cõi trời thuộc cõi Vô-sắc: trời Không-vô-biên-xứ, trời Thức-vô-biên-xứ, trời Vô-sở-hữu-xứ và trời Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ (xem mục “Trời Cõi Vô Sắc”).
Các cõi trời Dục giới, vì còn có dâm dục, nên có tướng nam và tướng nữ (thiên nữ); các cõi trời Sắc giới không còn dâm dục, cho nên không có hai tướng nam và nữ. Các cõi trời Tứ-vương và Đao-lợi ở ngay trên núi Tu-di, cho nên gọi là “địa cư thiên”; các cõi trời từ Dạ-ma trở lên đều ở trên không trung, cho nên gọi là “không cư thiên”. Riêng bốn cõi trời Không, vì siêu việt vật chất, nên không bám víu vào đâu, không có trụ xứ nhất định.
Kinh Niết Bàn lại nêu ra bốn loại trời:
1. Thế thiên: Tất cả các vị quốc vương của các quốc độ trong khắp mười phương, tuy làm người ở thế gian, nhưng hưởng được các phước báo giống như chư thiên, nên được gọi là trời ở thế gian.
2. Sinh thiên: Tất cả chúng sinh biết hành trì năm giới và mười điều lành làm nghiệp nhân, để rồi sẽ được sinh lên các cõi trời Dục giới, Sắc giới hay Vô-sắc giới.
3. Tịnh thiên: Các hành giả Thanh-văn và Duyên-giác đoạn trừ sạch hết phiền não, đạt được thần thông, biến hóa tự tại, thanh tịnh, không còn ô nhiễm.
4. Nghĩa thiên: Các hành giả Bồ-tát thừa ở cấp Mười-trụ đã hiểu rõ yếu nghĩa của vạn pháp, gọi là Nghĩa thiên.
Chư thiên, khi thọ mạng sắp hết, thân thể sẽ hiện ra năm tướng suy hoại (ngũ suy tướng): y phục tự nhiên trở nên dơ bẩn; mũ hoa trên đầu khô héo; thân thể phát ra mùi hôi; thường ra mồ hôi nách; thường thấy không an vui trong địa vị của mình.
Nói chung, theo tinh thần kinh điển, TRỜI là loài hữu tình có phước báo cao nhất, có đời sống sung sướng và lâu dài nhất, ít đau khổ nhất trong các loài hữu tình đang luân chuyển trong sáu đường. Những chúng sinh đó, tùy theo phước báo nhiều ít, họ có thể sống ở những thế giới riêng phù hợp với chánh báo của họ; hoặc sống chung trong thế giới loài người nhưng không phải chịu đựng những nỗi đau khổ to lớn như loài người phải chịu đựng. Loài hữu tình này, trong khi hưởng phước báo, nếu biết tu tập, có thể đạt đến đạo quả giải thoát, chấm dứt sinh tử luân hồi; hay ít ra thì cũng được tiếp tục hưởng phước báo ấy. Nếu không tu tập, lại tạo nghiệp ác, tất sẽ bị đọa lạc sau khi phước báo đã hết.
Giáo pháp dạy cách tu nhân để được sinh về các cảnh giới của trời thì gọi là “thiên thừa”. Phật pháp ở buổi đầu, đối với tín đồ tại gia, lấy cái đích “sinh thiên” làm chủ yếu; tức là, con người biết sống theo đạo đức, bỏ hết mọi điều ác, chuyên làm các việc lành (nói chung là mười điều lành), thì sẽ được sinh lên các cõi trời. Thí Luận, Giới Luận và Sinh Thiên Luận, được coi là ba bộ luận đặc biệt dành cho giới cư sĩ tại gia.
Trời Biến-tịnh (Biến-tịnh thiên - Subhakrtsna): là tầng trời cao nhất của cõi Tam-thiền, thuộc cõi Sắc. Cõi trời này, ánh sáng trong sạch trải khắp mọi chỗ, cho nên có tên như vậy.
Trời cõi Dục (Dục giới thiên). Tất cả các loài chúng sinh còn có tâm ham muốn các đối tượng như hình tướng, âm thanh, chạm xúc, ăn uống, tiền của, danh lợi, sắc dục, v.v... đều sống trong phạm vi cõi Dục. Trong cõi này, từ thấp lên cao, gồm có sáu loài như sau: Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Bàng-sinh, A-tu-la, Người và Trời. Loài Trời ở đây cũng là loài người, nhưng do có tu mười nghiệp lành ở các kiếp trước nên được hưởng phước báo cao hơn loài người ở cõi Người. Trú xứ của họ là các cõi Trời – được gọi là “Trời cõi Dục”; gồm có sáu cõi, từ thấp lên cao như sau:
1) Tứ-vương thiên (Caturmaharajika-deva): Theo thế giới quan của Phật giáo, ở lưng chừng núi Tu-di lại có một ngọn núi chia làm bốn đầu, xoay ra bốn hướng Đông, Nam, Tây, Bắc. Mỗi đầu do một vị thiên vương cùng toàn bộ thiên chúng thuộc quyền cư trú. Vị thiên vương trấn ở đầu núi phía Đông tên là Trì Quốc (Dhrtarastra); phía Nam tên là Tăng Trưởng (Virudhaka); phía Tây tên là Quảng Mục (Virupaksa); và phía Bắc tên là Đa Văn (Dhanada). Bốn vị thiên vương này có nhiệm vụ bảo hộ bốn châu thiên hạ, nên được gọi là Hộ Thế tứ thiên vương, và ngọn núi bốn đầu ấy được gọi là Tứ-vương thiên, là tầng trời đầu tiên của sáu tầng trời cõi Dục. Các vị thiên vương cũng như thiên chúng ở cõi trời này sống lâu 500 tuổi; mà một ngày đêm ở đây tương đương với 50 năm ở cõi Người. Sự dâm dục ở đây cũng giống như ở nhân gian. Em bé mới sinh ra đã lớn bằng em bé năm tuổi ở nhân gian, y phục tự có đầy đủ.
2) Tam-thập-tam thiên (Trayastrimsa-deva): cũng có tên là Đao-lợi thiên. Cõi trời này tọa lạc ngay trên đỉnh núi Tu-di, chia làm 33 cung, là tầng trời thứ nhì của sáu tầng trời cõi Dục. Chúa của cõi trời này là trời Đế Thích (hoặc: Thiên Đế Thích, Thích Đề Hoàn Nhân, Nhân Đà La, Kiều Thi Ca, v.v... – Sakra Devanam-indra), ngự tại cung trung ương. Ở bốn phương chung quanh, mỗi phương có tám cung (cộng cả thảy là 33 cung). Thiên chúng ở cõi trời này sống lâu một ngàn tuổi (một ngày đêm ở đây dài bằng một trăm năm ở nhân gian). Họ cũng dựng vợ gả chồng, sự dâm dục giống như ở cõi nhân gian. Em bé mới sinh ra đã lớn bằng em bé sáu tuổi ở nhân gian, y phục tự có đầy đủ.
3) Dạ-ma thiên (Yama-deva): Đây là tầng trời thứ ba trong sáu tầng trời cõi Dục; và cũng là cõi trời đầu tiên tọa lạc ở trong hư không, phía trên trời Đao-lợi. Cõi trời này lúc nào cũng sáng rỡ, không có ngày và đêm. Chúa của cõi này là trời Tu Dạ Ma (Suyama-devaraja). Thiên chúng ở đây sống lâu hai ngàn tuổi (một ngày dài bằng hai trăm năm ở nhân gian), mỗi giây mỗi phút đều thọ hưởng sự hoan lạc ngoài sức tưởng tượng của loài người. Ý niệm dâm dục chỉ khởi lên khi biết đúng lúc, và vợ chồng chỉ ôm nhau là âm dương thành tựu. Đến lúc sinh, người thiên nữ khởi niệm, liền có em bé hóa sinh nơi đầu gối, lớn bằng em bé ba, bốn tuổi ở nhân gian.
4) Đâu-suất thiên (Tusita-deva): cũng gọi là Đâu-suất-đà thiên. Đây là tầng trời thứ tư trong sáu tầng trời cõi Dục, nằm phía trên trời Dạ-ma. Chúa của cõi trời này là thiên vương San Đâu Suất Đà (Samtusita-devaraja). Cõi trời này chia thành hai viện: nội viện và ngoại viện. Nội viện là nơi cư trú của các vị Bồ-tát một đời thành Phật (bổ xứ) – như trước đây là đức Thích Ca, hiện nay là đức Di Lặc. Thiên chúng ở nội viện thường được đức Di Lặc thuyết pháp hóa độ, thường tu tập tám con đường chân chánh. – Phật giáo Trung-quốc, từ thời Đông-Tấn (317-419) trở đi, tín ngưỡng về cõi tịnh độ Đâu-suất rất thịnh hành. Rất nhiều vị cao tăng các đời từng phát nguyện vãng sinh về Đâu-suất nội viện của đức Di Lặc. – Ngoại viện là nơi thiên chúng cư trú, phần nhiều chỉ hưởng khoái lạc, ít được nghe Phật pháp. Thọ mạng ở đây là bốn ngàn tuổi (một ngày đêm dài bằng bốn trăm năm ở nhân gian). Chúng sinh ở đây, niệm dâm dục nhẹ nhàng, biết đủ, và nam nữ chỉ cầm tay nhau là âm dương thành tựu. Em bé mới sinh đã lớn bằng em bé tám tuổi ở nhân gian.
5) Hóa-lạc thiên (Nirmanarati-deva): cũng gọi là Hóa-tự-tại thiên. Đây là tầng trời thứ năm trong sáu tầng trời cõi Dục. Chúa của cõi này là thiên vương Thiện Hóa (Sunirmita-devaraja). Người ở cõi trời này tự hóa ra các trần cảnh để hưởng thụ, thân tướng thường có ánh sáng; niệm dâm dục càng nhẹ nhàng, và nam nữ chỉ nhìn nhau mỉm cười là âm dương thành tựu; con cái hóa sinh từ đầu gối của cha hoặc mẹ, mới sinh ra đã lớn bằng đứa trẻ mười hai tuổi ở nhân gian. Họ sống lâu tám ngàn tuổi (một ngày đêm dài bằng tám trăm năm ở nhân gian).
6) Tha-hóa-tự-tại thiên (Paranirmita-vasa-vartin): là tầng trời thứ sáu, cao nhất trong 6 tầng trời cõi Dục (lục Dục thiên). Người ở tầng trời thứ năm là Hóa-lạc thiên, kế ngay dưới, tự mình biến hóa ra năm trần cảnh để hưởng thụ; rồi người ở tầng trời thứ sáu này lại lấy năm trần cảnh ở tầng trời Hóa-lạc thiên kia để hưởng thụ một cách tự tại, như Luận Đại Trí Độ nói: Cõi này chiếm lấy sự biến hóa của người khác để làm vui cho mình, cho nên gọi là “Tha-hóa-tự-tại”. Cõi trời này làm chủ của cả 6 cõi trời Dục giới. Đối với 5 cõi ở dưới thì thiên chúng ở cõi trời này sống lâu hơn, đoan chính hơn và sung sướng hơn rất nhiều. Dục niệm ở đây chỉ còn rất ít, thiên nam và thiên nữ chỉ nhìn nhau là âm dương thành tựu. Muốn có con thì khởi niệm, liền có thiên tử hóa sinh nơi đầu gối, lớn bằng đứa trẻ mười tuổi ở nhân gian. Họ sống đến 16.000 tuổi, mà một ngày đêm ở đó dài ước chừng bằng 1.600 năm ở cõi người. Cõi trời này cũng có duyên với Phật pháp, chính đức Thế Tôn đã từng nói một hội Kinh Hoa Nghiêm và một hội Kinh Bát Nhã ở cung trời này. Nhưng ở cõi trời này cũng có một cung điện vô cùng rộng lớn, đẹp đẽ, là chỗ ở của ma vương, chuyên để tâm phá hoại Phật pháp, mà Luận Đại Trí Độ gọi đó là “Tha-hóa-tự-tại thiên tử ma” (là một trong 4 loại ma).
Trong sáu cõi trời Dục giới trên, hai cõi Tứ-vương thiên và Đao-lợi thiên đều tọa lạc trên núi Tu-di, cho nên được gọi là “địa cư thiên”; bốn cõi còn lại đều tọa lạc trên hư không, cho nên được gọi là “không cư thiên”.
Trời cõi Sắc (Sắc giới thiên). Cõi Sắc có bốn tầng trời do phước báo của công phu tu tập bốn thiền định căn bản, đoạn trừ phiền não mà phát sinh các công đức lành; cho nên cũng được gọi là “bốn cõi trời Thiền” (Tứ-Thiền thiên). “Thiền” là tiếng nói tắt của từ “thiền-na”, phiên âm từ Phạn ngữ “dhyana”, Hán ngữ dịch là “tĩnh lự”, nghĩa là: giữ tâm hoàn toàn tĩnh lặng để suy tìm chân lí, nhờ đó mà có được cái thấy như thật. Bốn cõi trời Thiền gồm có: cõi Sơ-thiền, cõi Nhị-thiền, cõi Tam-thiền và cõi Tứ-thiền. Bốn cõi này đã rời xa hẳn các loại cảm thọ của Dục giới, chỉ tương ưng với các loại quán tưởng và cảm thọ của Sắc giới mà thôi. Từ Sơ-thiền cho đến Tứ-thiền, các hoạt động tâm lí tuần tự phát triển, và hình thành cái thế giới tinh thần khác biệt nhau.
1. Trời Sơ-thiền (Sơ-thiền thiên), vì đã lìa bỏ những pháp bất thiện của cõi Dục, nên có được cái cảm thọ hỉ và lạc của người vừa được thoát li khỏi cõi Dục (li sinh hỉ lạc); tuy nhiên, họ vẫn còn có hai tâm sở “tầm” (suy tưởng phân biệt ở mức độ thô thiển) và “từ” (suy tưởng phân biệt ở mức độ vi tế) hoạt động, cho nên còn cần phải đoạn diệt. Chúng sinh ở cõi này, vì không còn ăn uống giống như ở nhân gian, cho nên trong sáu thức, chỉ có bốn thức nhãn, nhĩ, thân và ý hoạt động, không có tị thức và thiệt thức.
2. Trời Nhị-thiền (Nhị-thiền thiên), hai tâm sở “tầm” và “từ” đã đoạn diệt, tâm thanh tịnh, cảm thọ hỉ lạc có được là do từ công phu thiền định của tự thân mà sinh ra (định sinh hỉ lạc). Chúng sinh ở cõi này, năm thức trước đều không hoạt động, chỉ còn có ý thức hiện khởi mà thôi.
3. Trời Tam-thiền (Tam-thiền thiên) xả bỏ hết các cảm thọ hỉ lạc của cõi Nhị-thiền, thường trú trong cảnh giới không khổ không vui (hành xả), dùng chánh niệm và chánh kiến tiếp tục tu tập mà có được niềm vui vi diệu (li hỉ diệu lạc). Chúng sinh ở cõi này cũng chỉ có ý thức hoạt động.
4. Trời Tứ-thiền (Tứ-thiền thiên) xả bỏ niềm vui vi diệu (diệu lạc) của Tam-thiền, gọi là “xả thanh tịnh”; chỉ nghĩ nhớ đến công đức tu dưỡng, gọi là “niệm thanh tịnh” (gồm chung lại gọi là “xả niệm thanh tịnh”). Chúng sinh ở cõi này chỉ có ý thức hoạt động, thường trú trong cảnh giới không khổ không vui (xả thọ).
Bốn loại thiền định trên là chỗ nương tựa của mọi công đức. Trong lịch sử tôn giáo Ấn-độ, thiền định là một pháp môn tu tập trọng yếu trải qua các thời đại. Chính đức Thế Tôn cũng nhờ phát huy pháp môn này đến chỗ tối thượng mà đạt đại giác ngộ; rồi trong suốt thời gian tại thế hoằng dương giáo hóa, không lúc nào Ngài rời khỏi thiền định; cho đến lúc lìa bỏ báo thân, Ngài vẫn vận dụng “tứ thiền định” này để nhập niết bàn. Bởi vậy, bốn loại thiền định này được gọi là “thiền định căn bản” (căn bản định). Các cõi trời Sắc giới là phước báo của những chúng sinh tu tập bốn thứ thiền định căn bản này. Bốn cõi trời Thiền này cũng tức là bốn địa trong chín địa (phân chia ra từ ba cõi), gọi là: Li-sinh-hỉ-lạc địa, Định-sinh-hỉ-lạc địa, Li-hỉ-diệu-lạc địa, và Xả-niệm-thanh-tịnh địa.
Trời cõi Vô-sắc (Vô-sắc giới thiên): gồm có bốn cõi trời. Bốn cõi trời này chỉ có sắc là quả của định, chứ không có sắc là quả của nghiệp, cho nên không có thân bằng hình chất. Chánh báo đã không có uẩn sắc thì y báo cũng không có quốc độ và cung điện, cho nên gọi là cõi “Vô-sắc”. Đây là thế giới không còn bị vật chất ràng buộc, không có sự phân biệt cao thấp trong không gian, là cảnh giới của những người đã tu tập và chứng đắc bốn Vô-sắc định. Chúng sinh ở cảnh giới này, tùy theo phước báo hơn kém mà phân làm bốn bậc: Không-vô-biên-xứ, Thức-vô-biên-xứ, Vô-sở-hữu-xứ, và Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ; gọi chung là Bốn cõi trời Không (tứ Không thiên), hay Bốn cõi trời Vô-sắc (tứ Vô-sắc thiên). Nếu phân ba cõi ra làm chín địa (cửu địa), thì bốn cõi trời này là bốn địa sau cùng, tức là Không-vô-biên-xứ địa, Thức-vô-biên-xứ địa, Vô-sở-hữu-xứ địa, và Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ địa. Để đạt tới bốn cảnh giới Vô-sắc này, phải tu tập bốn loại thiền định Vô-sắc, tức là các thứ thiền định dùng đối trị với sự ràng buộc của vật chất, diệt trừ tất cả mọi tư tưởng và cảm thọ đối với ngoại cảnh, đạt đến cảnh giới tinh thần hoàn toàn tịch tĩnh, thanh tịnh, vô nhiễm.
1) Định Không-vô-biên-xứ: Loại định này vượt khỏi cõi Tứ-thiền của Sắc giới, diệt trừ tất cả mọi tư tưởng làm chướng ngại cho thiền định, và quán chiếu cái tướng không giới hạn của không gian, và đồng nhất mình với không gian vô hạn đó.
2) Định Thức-vô-biên-xứ: Vượt khỏi định Không-vô-biên-xứ, quán chiếu cái tướng không giới hạn của tâm thức, và đồng nhất mình với tâm thức không giới hạn đó.
3) Định Vô-sở-hữu-xứ: Vượt khỏi định Thức-vô-biên-xứ, quán chiếu cái tướng vô-sở-hữu (không còn có bất cứ một hiện tượng gì) của vạn pháp, và an trú trong trạng thái thiền định đó.
4) Định Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ: Vượt khỏi định Vô-sở-hữu-xứ, quán chiếu cái tướng không có tri giác mà cũng không phải không có tri giác, và an trú trong trạng thái thiền định đó.
Bốn thứ định Vô-sắc này, mỗi thứ đều có hai tình trạng: a) Những chúng sinh do tu nhân lành ở đời trước mà được sinh lên các cõi trời Vô-sắc, thì ngay lúc đó định tâm hiện tiền, gọi là “sinh vô sắc”; b) Những chúng sinh tuy thân đang ở cõi Dục, nhưng do tu tập mà chứng được định Vô-sắc, gọi là “định vô sắc”.
Trời Ma-hê-thủ-la (Ma-hê-thủ-la thiên): tức là trời Đại-tự-tại (Đại-tự-tại thiên), nguyên là thần Thấp Bà trong Bà-la-môn giáo. Những người tín phụng vị thần này đã lập một giáo phái gọi là “Đại-tự-tại thiên ngoại đạo”, cho rằng trời Đại Tự Tại là bản thể của thế giới, là chúa tể sinh ra vạn vật trong vũ trụ, tất cả những sự khổ, vui, buồn, mừng v.v… của con người cảm nhận cũng tức là những khổ, vui, buồn, mừng v.v… của trời Đại Tự Tại. Cho nên khi vị trời này vui mừng thì tất cả chúng sinh đều an vui; khi vị trời này giận dữ thì chúng ma xuất hiện, thế giới tao loạn, chúng sinh khổ sở. Khi thế giới bị hủy diệt thì tất cả vạn vật đều trở về cõi trời Đại-tự-tại này. Bên cạnh cái diện mạo độc ác, trời Đại Tự Tại cũng có cái diện mạo cát tường, hay cứu hộ và trị liệu cho chúng sinh. Ban đầu vị trời này được liệt vào bậc dưới đối với trời Phạm Thiên, về sau dần dần được nâng lên trở thành vị thần tối cao, và được Bà-la-môn giáo coi là “bản thể thường trú biến khắp vũ trụ”. Sau khi được dẫn nhập vào Phật giáo, vị thần này đã trở thành một vị thần thủ hộ, cũng tên là Đại Tự Tại Thiên, trú tại cõi trời Tứ-thiền.
Trời ở cõi đất (địa-cư thiên). Trong sáu tầng trời Dục giới thì hai tầng trời Tứ-vương và Đạo-lợi trụ ở núi Tu-di. Núi này ở đại địa, cho nên hai tầng trời trên được gọi là “địa-cư thiên”. Trong khi đó, bốn tầng trời còn lại từ trời Dạ-ma trở lên, vì trụ trên hư không, cho nên được gọi là “không cư thiên”.
Trời Quang-âm (Quang-âm thiên - Abhas-vara): là tầng trời cao nhất của cõi trời Nhị-thiền, thuộc cõi Sắc. Thiên chúng ở cõi trời này không còn dùng âm thanh, khi muốn nói thì từ miệng phát ra ánh sáng trong sạch (tức ánh sáng do tâm định mà có) để truyền ý cho nhau biết. Thân tướng họ cao lớn tốt đẹp, tự nhiên có ánh sáng. Họ lấy niềm vui làm thức ăn, luôn an trú trong an lạc, có thần thông, sống đến tám đại kiếp. Khi tai nạn lửa thiêu hủy đến cõi Sơ-thiền, tất cả chúng sinh ở hạ giới đều tụ tập hết về ở cõi trời này, đợi cho đến sau khi thế giới hình thành trở lại. Đến buổi đầu của kiếp Thành, mây phát khởi từ cõi trời này, đổ mưa lớn xuống để tạo nên thế giới, từ cõi trời Sơ-thiền cho đến Địa-ngục. Khi thế giới đã làm thành, các thiên chúng ở cõi trời này, phước đức đã gần hết, dần dần hạ sinh. Đây chỉ nói về thời kì hỏa tai mà thôi. Nếu ở thời kì thủy tai và phong tai thì cõi trời này cũng bị hủy diệt. Lúc đó thì phải từ cõi trời cao hơn nữa, nổi mây đổ mưa, sáng tạo thế giới. Kinh Tăng Nhất A Hàm và luận Câu Xá đều nói rằng, con người ở thế giới Ta-bà này, buổi ban sơ, chính là thiên chúng từ cõi trời Quang-âm hạ giáng, bị mất thần túc, không trở về được, nên đã ở lại, trở thành lớp người đầu tiên ở thế gian.
Trời Tịnh-cư (Tịnh-cư thiên - Suddhavasa): là cõi trời Tứ-thiền, cao nhất của Sắc giới. Cõi này có năm từng trời, là nơi sinh về của các bậc thánh đã chứng quả Bất-hoàn (không còn sinh trở lại cõi Dục nữa). Vì nơi đó không có các tà thuyết ngoại đạo, nên được gọi là “Tịnh-cư”. Năm từng trời, từ dưới lên trên gồm có: Vô-phiền (không có hỗn tạp phiền phức), Vô-nhiệt (không sôi nổi náo loạn), Thiện-hiện (thường xuất hiện các pháp thù thắng), Thiện-kiến (thường trông thấy các pháp thù thắng), Sắc-cứu-cánh (cõi cao nhất và thù thắng nhất của Sắc giới).
Trụ trì. Nguyên nghĩa của từ “trụ trì” là ở đời gìn giữ cho chánh pháp tồn tại và lưu truyền trong thế gian. Từ khi tổ Bách Trượng Hoài Hải (720-814) ở Trung-quốc soạn bản qui chế “Bách Trượng Thanh Qui” để dùng cho các tự viện thuộc Thiền tông, thì “trụ trì” trở thành chức vụ đứng đầu của một ngôi chùa. Trụ trì là vị tăng làm chủ một ngôi chùa, chưởng quản tất cả mọi công việc đối nội cũng như đối ngoại của ngôi chùa đó. Phật giáo Việt-nam cũng áp dụng qui chế ấy đã từ lâu đời. Vị trụ trì ở Việt-nam có thể chính là người chủ của ngôi chùa (nếu đó là tài sản của vị ấy, hoặc là tài sản kế thừa hợp pháp do sự ủy thác hay di chúc của vị tiền nhiệm), nhưng cũng có thể không phải là chủ ngôi chùa (nếu đó là tài sản của một cá nhân khác, của một đoàn thể, của làng xã, hay của Giáo Hội). Trong trường hợp sau, vị “trụ trì” là người được cá nhân, đoàn thể hay làng xã (chủ chùa) thỉnh về, hay do Giáo hội bổ nhiệm đến để chưởng quản mọi việc trong chùa, có toàn quyền về các việc đối nội, nhưng các việc đối ngoại thì có thể bị hạn chế trong một phạm vi nào đó.
Trụ trì Tam Bảo. Các hình tượng (Phật), ba tạng giáo điển Kinh Luật Luận (Pháp), và tập thể những người tu học và xiển dương Phật pháp (Tăng), là Ba Ngôi Báu ở thế gian trong thời không có Phật tại thế, có năng lực duy trì và lưu truyền Phật pháp từ thế hệ này sang thế hệ khác, gọi là “trụ trì Tam Bảo” hay “thế gian trụ trì Tam Bảo”.
Trụ-tướng. Các vị A-la-hán có căn cơ trung bình, công hạnh không tiến cũng không lùi, gọi là “Trụ-tướng”. Theo tông Thành Thật, đây là địa vị thứ 22 (trong 27 địa vị) trên tiến trình tu tập của hành giả Thanh-văn-thừa.
Trúc Pháp Hộ (Dharmaraksa, ?-?). Tổ tiên của ngài vốn người nước Nhục-chi, đã mấy đời sống ở Đôn-hoàng (vùng cực Tây của tỉnh Cam-túc, Trung-quốc), cho nên ngài được gọi là Chi Pháp Hộ. Ngài 8 tuổi xuất gia, hầu cận một vị sa môn ngoại quốc là Trúc Cao Tòa, nên đổi họ Chi thành họ Trúc; người đời xưng là Trúc Pháp Hộ. Ngài bản tính thuần lương, hiếu học, mỗi ngày tụng kinh đến vài vạn câu; lại xem khắp sáu kinh, thông suốt tư tưởng bách gia. Lúc bấy giờ (thời Tây-Tấn) kinh điển đại thừa truyền nhập Trung-quốc chưa đầy đủ, ngài bèn lập chí Tây du, học thông cả ngôn ngữ của 36 nước trong vùng Tây-vức. Năm 265 (đời vua Tấn Vũ đế, 265-291) ngài mang về Trung-quốc rất nhiều kinh điển Phạn văn, trú tại Trường-an và Lạc-dương, chuyên việc dịch kinh. Ngài viên tịch trong khoảng vua Tấn Mẫn đế trị vì (313-316), thế thọ 78 tuổi (nhưng không biết rõ năm sinh và năm mất). Người đương thời xưng ngài là Nhục Chi Bồ Tát, hay Đôn Hoàng Bồ Tát. Dịch phẩm của ngài gồm nhiều kinh điển đại thừa, như Quang Tán Bát Nhã, Phổ Diệu, Đại Ai, Độ Thế Phẩm, Trì Tâm, Thủ Lăng Nghiêm, Hiền Kiếp, Duy Ma, Vô Lượng Thọ, Chánh Pháp Hoa, v.v... Đặc biệt, sau khi bản dịch kinh Chánh Pháp Hoa của ngài ra đời (năm 286), người Trung-quốc bắt đầu biết đến danh hiệu của đức Bồ Tát Quán Thế Âm; và từ đó, tín ngưỡng về Quán Thế Âm Bồ Tát cũng bắt đầu được phổ biến.
Trúc Pháp Lan (Dharmaraksa): là vị cao tăng người Trung Ấn-độ, từng đọc tụng khắp các kinh luận, là bậc thầy của các học giả Thiên-trúc. Đáp ứng lời cầu thỉnh của vua Minh Đế nhà Đông-Hán (tức Hậu-Hán), năm 67, ngài đã cùng với ngài Ca Diếp Ma Đằng sang Trung-quốc truyền bá Phật pháp (xem thêm mục “Ca Diếp Ma Đằng”). Theo truyền thuyết trong giới Phật học Trung-quốc, ngoài kinh Tứ Thập Nhị Chương cùng dịch chung với ngài Ma Đằng, ngài còn dịch bốn kinh khác: Thập Địa Đoạn Kết, Phật Bản Sinh, Phật Bản Hạnh, và Pháp Hải Tạng; nhưng cả bốn kinh này đều đã thất truyền.
Trúc Phật Niệm (?-?): là vị cao tăng ở thời đại Đông-Tấn. Ngài quê ở Lương-châu (phố Vũ-uy, tỉnh Cam-túc), xuất gia từ lúc còn nhỏ, tinh chuyên tu học, lập chí bền chắc, thông hiểu cả nội điển lẫn ngoại điển. Trong khoảng từ năm 365 đến 384, hai ngài Tăng Già Bạt Trừng và Đàm Ma Nan Đề tới Trường-an (kinh đô nhà Tiền-Tần) dịch kinh, thì ngài đảm nhiệm chức “truyền ngữ”. Sang đời Hậu-Tần, ngài trở thành vị pháp sư dịch kinh chính thức. Những dịch phẩm của ngài có: Bồ Tát Anh Lạc Kinh, Thập Trụ Đoạn Kết Kinh, Xuất Diệu Kinh, Bồ Tát Xử Thai Kinh, Trung Ấm Kinh, v.v... Về sau ngài viên tịch tại Trường-an, nhưng không biết vào năm nào.
Trung-bát. Lúc từ cõi Dục sắp sinh lên cõi Sắc, thân trung ấm trong khoảng thời gian đó đoạn trừ số phiền não còn lại mà nhập niết bàn, gọi là “Trung-bát”. Theo tông Thành Thật, đây là địa vị thứ 8 (trong 27 địa vị) trên tiến trình tu tập của hành giả Thanh-văn-thừa.
Trung đạo: là con đường ở giữa, là phương pháp hay quan điểm không cực đoan, không thiên bên trái hay bên phải, không chấp có, không chấp không, không chấp thường, không chấp đoạn, v.v...
Trung đế. Đây là chỉ cho tự tánh của các pháp mà nói. Chân như và thật tướng là đồng thể mà khác tên. Khi chú trọng về không đế thì gọi là chân như; khi chú trọng về giả đế thì gọi là thật tướng; nếu hòa hợp hai đế đó lại, tức là không và giả dung hợp nhau, đó gọi là trung đế.
Trung Luận: tức Trung Quán Luận, do Bồ Tát Long Thọ soạn, ngài Cưu Ma La Thập dịch ra Hán văn (gồm 4 quyển), được thu vào quyển 30 của Tạng Đại Chánh. Nội dung của nó phá không, phá giả, chủ trương trung đạo; nhưng nếu lại chấp vào trung đạo thì cũng bị phá luôn, đi đến chỗ không có gì để đắc, rất phù hợp với tư tưởng “bát nhã”. Không những học phái Trung Quán ở Ấn-độ lấy tư tưởng của bộ luận này làm lập trường căn bản, mà tông Tam Luận ở Trung-quốc cũng đã căn cứ vào nó làm luận điểm chủ yếu.
Trung Phong (1263-1323): tức Minh Bản, một vị cao tăng thuộc thiền phái Lâm Tế đời Nguyên (1260-1368), Trung-quốc. Ngài họ Tôn, hiệu Trung Phong, quê Tiền-đường, tỉnh Triết-giang. Năm 15 tuổi ngài phát tâm xuất gia, nghiêm trì năm giới, ban ngày thường trì tụng các kinh Pháp Hoa, Viên Giác, Kim Cang, ban đêm thường kinh hành, không chịu nằm nghỉ. Năm 23 tuổi, ngài đến Sư-tử viện ở núi Thiên-mục, tham yết thiền sư Cao Phong Nguyên Diệu (1238-1295). Một hôm, trong lúc đang tụng kinh Kim Cang thì ngài bỗng nhiên khai ngộ. Năm 24 tuổi ngài được thiền sư Cao Phong thế độ; và qua năm sau thì thọ đại giới, trở thành vị thừa kế của thiền sư. Sau khi thiền sư Cao Phong viên tịch (1295), ngài vân du hành hóa bốn phương, không cư trú chỗ nào nhất định, tự hiệu là Huyễn Trú đạo nhân. Chẳng bao lâu, ngài đáp ứng lời thỉnh cầu của đồ chúng, trở về núi Thiên-mục, cất một am tranh dưới ngôi tháp của thiền sư Cao Phong để cư trú, cả tăng tục vua quan đều qui kính, ngưỡng vọng, tôn xưng ngài là vị cổ Phật ở Giang-nam. Năm 1306, ngài đứng ra chủ trì Sư-tử viện, được mọi người xưng là Trung Phong hòa thượng, nhưng chẳng bao lâu, ngài lại từ bỏ mọi việc. Các vị quan lại, hào phú đều muốn thỉnh ngài về trú trì các ngôi chùa cổ ở các danh sơn trong vùng Triết-giang, ngài đều khước từ. Vua Nguyên Nhân-tông (1312-1320) tôn ngài làm thầy, muốn thỉnh ngài về kinh, ngài cũng từ chối. Vua bèn sai sứ giả đến cúng dường pháp y, ban hiệu cho ngài là Phật Từ Viên Chiếu Quảng Tuệ thiền sư, đổi Sư-tử viện thành Sư-tử Chánh-tông thiền tự. Từ đó, mọi người đều gọi ngài là Trung Phong quốc sư. Ngài viên tịch năm Chí-trị thứ 3 (1323) đời vua Nguyên Anh-tông (1321-1323), thọ thế 61 tuổi; năm Thiên-lịch thứ 2 (1329) đời vua Nguyên Văn-tông (1328-1332) lại được thụy hiệu là Trí Giác thiền sư; năm Nguyên-thống thứ 2 (1334) đời vua Nguyên Thuận-đế (1333-1368), lại được truy tặng thụy hiệu là Phổ Ứng thiền sư. Ngài vừa đề cao tông chỉ “trực chỉ nhân tâm” của Thiền tông, lại vừa xiển dương pháp môn Tịnh Độ. Trước tác của ngài có Hoài Tịnh Độ Thi (108 bài thơ), Quảng Lục, Tạp Lục, Tam Thời Hệ Niệm Nghi Phạm.
Truyền riêng ở ngoài ngôn giáo (giáo ngoại biệt truyền). Cách tu tiến trong Thiền tông là không chú trọng ngôn ngữ văn tự, truyền thẳng tâm ấn của Phật và Tổ, gọi là “truyền riêng ở ngoài ngôn giáo”; ý nói là truyền riêng ở ngoài ngôn giáo của đức Như Lai.
Trừng Quán (738-839): tức là ngài Thanh Lương (xem mục “Thanh Lương”).
Trường-an: là một trong những cố đô nổi danh của Trung-quốc, nằm ở lưu vực sông Hoàng-hà thuộc tỉnh Thiểm-tây, tức là thành phố Tây-an ngày nay.
Trong khoảng hơn một ngàn năm từ nhà Hán tới nhà Đường (206 tr. TL - 907 s. TL), Trường-an đã từng là kinh đô của các triều đại Tây-Hán (206 tr. TL - 25 s. TL), Tiền-Triệu (304-329), Tiền-Tần (351-394), Hậu-Tần (384-417), Tây-Ngụy (535-551), Bắc-Chu (559-581), Tùy (581-619) và Đường (618-960); dưới những triều đại khác thì nó cũng là một thành thị trọng yếu. Riêng trong lịch sử phát triển của Phật giáo Trung-quốc, Trường-an cũng từng chiếm một địa vị cực kì quan trọng. Thời cổ đại, Trường-an là một đô thành của Trung-quốc nằm gần vùng Tây-vức nhất, cho nên nó đã nghiễm nhiên trở thành cửa ngõ thông thương giữa Trung-quốc và Tây-vức, đồng thời cũng là địa điểm giao lưu văn hóa giữa hai vùng; theo đó, Phật giáo từ Tây-vức cũng đã được truyền nhập vào Trung-quốc bằng cửa ngõ Trường-an này. Từ buổi đầu, các vị cao tăng ở Tây-vức cùng các nước phía Tây-Bắc, đã mang kinh điển Phật giáo vào Trung-quốc, trước hết là đến địa điểm giao lưu văn hóa Trường-an, từ đây mới lưu bố, hoằng dương. Các cao tăng truyền giáo cũng tới dừng chân ở thành phố này trước nhất.
Trường-an từng là đạo tràng hoằng pháp và dịch kinh nổi tiếng của các bậc đại sư lừng danh như Đạo An, Cưu Ma La Thập, Huyền Trang, Bất Không, v.v... Dưới hai triều đại Tùy và Đường, Trường-an cũng là một trung tâm Phật giáo quan trọng, từ đó mà các tông phái như Tam Luận, Hoa Nghiêm, Pháp Tướng, Câu Xá, Luật, Mật, v.v... được lưu truyền rộng rãi về phương Nam. Ngài Thiện Đạo của tông Tịnh Độ, ngài Thần Tú của Thiền tông cũng lập đạo tràng hoằng pháp tại kinh thành này. Lại nữa, rất nhiều vị sư từ Nhật-bản, Triều-tiên cũng từng đến đây tu học, và sau khi trở về nước đã tích cực truyền bá Phật giáo, trở thành những vị tổ sư của nhiều môn phái nổi tiếng ở địa phương. Trường-an cũng là căn cứ địa của nhiều tự viện nổi tiếng: đạo tràng dịch kinh do triều đình bảo hộ như các chùa Đại Hưng-thiện, Hoằng-phúc, Đại Tiến-phúc; chùa Nhật-nghiêm của ngài Cát Tạng; chùa Tây-minh của hai ngài Đạo Tuyên và Viên Trắc; chùa Đại Từ-ân của hai ngài Huyền Trang và Khuy Cơ; chùa Chí-tướng của ngài Đỗ Thuận; chùa Thái-nguyên của ngài Pháp Tạng; chùa Thanh-long của Mật tông; chùa Hóa-độ của Tam-giai giáo; v.v... Các hệ thống chùa công được kiến tạo ở mỗi châu quận như chùa Đại-vân, chùa Trung-hưng, chùa Khai-nguyên, v.v... cũng lấy Trường-an làm trung tâm.
Từ đời Tống về sau, Trường-an không còn là trung tâm chính trị nữa; Phật giáo cũng đã lưu hành khắp mọi nơi, nhiều trung tâm Phật giáo mới dần dần xuất hiện, và Trường-an cũng dần dần mất đi cái địa vị “trung tâm Phật giáo” của Trung-quốc mà nó đã hãnh diện đảm nhận trải cả ngàn năm trước đó.
Trường Lô (? - ?): tức Tông Trách, vị cao tăng đời Tống, thuộc thiền phái Vân Môn, mà cũng thuộc tông Tịnh Độ. Ngài họ Tôn, người huyện Tương-dương, tỉnh Hồ-bắc, không rõ năm sinh cũng như năm viên tịch. Ngài mồ côi cha từ thuở nhỏ, được mẹ đem về nhà người cậu nương náu, nuôi nấng cho tới ngày lớn khôn. Lúc đầu ngài theo Nho học, mọi kinh sách thế tục đều làu thông. Năm 29 tuổi, ngài xin xuất gia với thiền sư Viên Thông Pháp Tú ở chùa Trường-lô (tỉnh Giang-tô), chẳng bao lâu thì thiền cơ tỏ ngộ, được thầy ấn khả. Khoảng đầu niên hiệu Nguyên-hựu (1086-1094) đời vua Tống Triết-tông (1086-1100), ngài được kế thế trú trì chùa Trường-lô. Nghĩ đến công sinh thành dưỡng dục của mẹ, ngài xây một căn nhà nhỏ ở phía Đông phương trượng, mời bà về ở, rồi vân tập đại chúng đến hộ niệm để làm lễ xuống tóc cho bà. Từ đó ngài khuyên bà chuyên tâm niệm Phật. Sau bảy năm, một hôm, không đau ốm gì, bà an nhiên giã từ cõi thế. Ngài cho rằng mình đã làm tròn đạo hiếu đối với mẹ, bèn soạn bài “Khuyến Hiếu Văn” để khuyên người đời thực hành đạo hiếu. Năm 1089, ngài noi theo qui củ của Bạch Liên Xã ở Lô-sơn, lập ra Liên Hoa Thắng Hội tại Trường-lô, khuyến khích tứ chúng trì danh niệm Phật, cầu vãng sinh Tịnh-độ. Trước tác của ngài có: Thiền Uyển Thanh Qui, Vi Giang Tập, Tọa Thiền Châm, Niệm Phật Tham Thiền Cầu Tông Chỉ Thuyết, v.v...
Trưởng giả. Đây là một thuật ngữ rất thường xuất hiện trong kinh điển Phật giáo, nguyên nó có nghĩa là người chủ nhà hay người cư sĩ; nhưng người Ấn-độ thường dùng nó để chỉ cho những người giàu có, những đại thương gia cự phú. Riêng trong kinh điển Phật giáo, từ “trưởng giả” thường được dùng để chỉ cho hạng người hào phú, lớn tuổi, có trí tuệ, có đạo đức cao trọng trong xã hội. Người Trung-quốc dùng từ “trưởng giả” để gọi những vị cao niên mà có đạo đức. Trong tiếng Việt, từ này cũng có nghĩa giống như trong tiếng Hoa, nhưng thường thì ít ai dùng với ý nghĩa đó, mà với ý nghĩa ngược lại, tức là không cần có đạo đức. Khi nói đến một “nếp sống trưởng giả”, thì có nghĩa, đó là cái nếp sống của một người giàu có nhưng thiếu hiểu biết, thích làm sang, thích làm “kẻ cả”, thích khỏe thân mà không chịu khó.
Trưởng giả Lưu Thủy: là một tiền thân của đức Thích Ca Mâu Ni khi còn tu hạnh Bồ-tát. Kinh Kim Quang Minh chép: Một hôm trưởng giả Lưu Thủy dẫn hai người con là Thủy Không và Thủy Tạng, du hành các nơi thành ấp xóm làng. Đi đến một cái đầm rộng, giữa có một cái ao, nước khô cạn gần hết, những loài cá ở trong đó bị phơi mình dưới nắng gắt, các loài chim thú đang chực bắt ăn. Ông động lòng từ bi, trước hết đi bẻ nhánh lá cây phủ lên bầy cá cho đỡ nắng; sau đó đi mượn hai mươi con voi lớn chở nước sông đem đổ vào ao. Nhờ vậy mà cá trong ao đều được cứu sống. Ông lại bỏ thức ăn xuống cho cá ăn, rồi niệm Phật và nói pháp cho cá nghe. Về sau, một hôm ông thết tiệc tại nhà để đãi bạn bè; bỗng nhiên đại địa rung chuyển, cả một vạn con cá cùng chết trong ngày đó, và cùng chuyển kiếp sinh lên cõi trời Đao-lợi. Bấy giờ trưởng giả đã ngà ngà say, bèn lên lầu nằm nghỉ. Bỗng dưng ông thấy cả vạn vị trời đem vô số châu báu đến tặng ông, đứng chung quanh và rải hoa khắp người ông để đền ơn trước. Trưởng giả Lưu Thủy là tiền thân của Phật Thích Ca; Thủy Không là tiền thân của tôn giả La Hầu La; Thủy Tạng là tiền thân của tôn giả A Nan; một vạn con cá nay đều là thiên tử.
Trưởng lão. Người xuất gia có đạo đức và giới lạp đều cao, thuộc hàng trưởng thượng, thì được tôn xưng là “trưởng lão” – như trưởng lão Xá Lợi Phất chẳng hạn.
Trượng: tức là “tích trượng”, là một trong mười tám vật của hành giả tu hạnh đầu đà. Trên đầu trượng có bốn vòng và mười hai khoen, biểu thị ý nghĩa các giáo pháp bốn sự thật và mười hai nhân duyên. Vị tì kheo đến nhà người khất thực, khi tới trước cửa, nên khua động tích trượng, mười hai cái khoen sẽ kêu lên tiếng, báo cho người trong nhà hay biết.
Trượng phu. Người Trung-quốc dùng tiếng “trượng phu” để chỉ cho người con trai thành niên và các bộ phận của thân thể đều đầy đủ, lành lặn (không bị khuyết tật). Người đàn bà Trung-quốc cũng gọi chồng của họ là “trượng phu”. Trong kinh luận Phật giáo, tiếng “trượng phu” dùng để chỉ cho người có tư cách hoàn hảo nhất trong loài người; đó là hạng người tự làm cho mình chân chính, giáo huấn cho người khác trở nên chân chính, có thể giải đáp thỏa mãn mọi vấn đề, và hiểu rõ lẽ nhân duyên của vạn pháp. Đặc biệt, đức Phật có đầy đủ 32 tướng quí, là một bậc đại hùng lực trong loài người, cho nên Ngài được tôn xưng là bậc “đại trượng phu”.
Tu Bồ Đề: dịch là Thiện Hiện, cũng dịch là Không Sinh, là một trong 10 vị đệ tử lớn của Phật, được xưng tụng là người đứng đầu thánh chúng về thông suốt tính không của thực tại vạn hữu (giải không đệ nhất). Ngài quê ở thành Vương-xá, trong một gia đình giàu có thuộc giai cấp phú thương, nghiệp chủ; vốn là cháu gọi trưởng giả Cấp Cô Độc (cư trú tại kinh thành Xá-vệ của vương quốc Kiều-tát-la, đã từng xây tu viện Kì-viên để cúng dường Phật và giáo đoàn dùng làm cơ sở tu học và hành đạo đầu tiên ở vương quốc này) bằng bác ruột. Trong hàng thánh chúng, chỉ có tôn giả là có nhận thức sâu sắc về tính KHÔNG của vạn pháp, vì ngài đã hoàn toàn thấu triệt về đạo lí Không cũng như đã chứng nghiệm được tuệ giác Không. Để chứng minh cho điều đó, đức Phật đã từng bảo tôn giả thay Ngài giảng thuyết về tính Không để cho đại chúng được bổ túc thêm kiến thức. Không có tài liệu nào ghi nhận về thời khắc viên tịch của tôn giả.
Tu-đa-la: là dịch âm từ tiếng Phạn “sutra”, tiếng Trung-quốc dịch là KINH (tức tạng Kinh, một trong Ba Tạng của Phật giáo). “Kinh” là tiếng chỉ cho tất cả những lời dạy của Phật. Nguyên thỉ, lời dạy của Phật được gọi là “pháp” (tức giáo pháp - dharma); về sau, các lời dạy ấy được kết tập lại thành các sách chứa mọi cương yếu của giáo lí, nên gọi đó là “kinh” (có nghĩa là quán xuyến trước sau, văn nghĩa không bị phân tán, rời rạc). Người Trung-quốc dùng chữ “kinh” để gọi chung cho các sách về tôn giáo, nhưng riêng kinh Phật thì có hai đặc điểm mà ít kinh sách nào có: luôn luôn phù hợp với chân lí (khế lí) dù trải qua thời gian, không gian và hoàn cảnh đổi thay nào; và phù hợp với căn cơ, trình độ (khế cơ) của mọi người ở bất cứ loại người nào và bất cứ tầng lớp xã hội nào. Bởi vậy, kinh Phật được gọi đầy đủ là “khế kinh” (chữ “khế” nghĩa là phù hợp). Ba tháng sau ngày đức Thích Tôn nhập diệt, trong đại hội kết tập lần đầu tiên tại hang Thất-diệp gần thành Vương-xá, nước Ma-kiệt-đà (Ấn-độ), do trưởng lão Đại Ca Diếp chủ tọa, tôn giả A Nan Đà đã trùng tuyên tất cả những bài pháp Phật đã thuyết, với đầy đủ những chi tiết về thời gian, địa điểm, nhân duyên, thính chúng, kết quả, v.v... của mỗi thời pháp, tập hợp lại thành ra tạng Kinh nguyên thỉ của Phật giáo còn truyền đến ngày nay.
Túc mạng - Túc mạng thông - Túc mạng minh. “Túc mạng” nghĩa là đời trước. Chư vị A-la-hán trở lên biết rõ tướng sinh tử bao đời trước của thân mạng mình cùng thân mạng người khác, gọi là “túc mạng thông”; đối với chư Phật thì gọi là “túc mạng minh”.
Tục đế và chân đế: là hai loại sự thật (nhị đế). Chữ “đế” nghĩa là sự thật, lí chân thật, tức chân lí. Nhưng có hai loại sự thật: loại sự thật theo cái thấy thế gian, gọi là “tục đế”, và loại sự thật theo cái thấy xuất thế gian, gọi là “chân đế”.
a) Tục đế. Chữ “tục”, theo nghĩa thông thường là thói quen của mọi người trong xã hội (phong tục), là tầm thường, không trang nhã (thô tục), nông cạn, hời hợt (tục tử), cõi trần (tục lụy). Trong Phật giáo cũng thường dùng chữ “tục” với những ý nghĩa thông thường này, nhưng đặc biệt ở đây, trong thuật ngữ “tục đế”, ý nghĩa của nó sâu xa hơn. Những gì thuộc trong phạm vi thế gian đều phải bị sinh diệt, nên gọi là “tục”; tất cả các pháp do nhân duyên sinh thành, đều là “tục” (tức là giả, không thật có); tất cả những pháp đối đãi nhau (như tốt - xấu, lớn - nhỏ, sinh - diệt, v.v...) đều phát sinh từ ý thức phân biệt, từ khái niệm, cho nên đều là “tục”; do vô minh mà bản tính chân thật của vạn pháp bị che lấp, nên gọi là “tục”; thế gian không biết, không thấy rõ thật tướng của vạn pháp, nên gọi là “tục”. Bởi vậy, “tục đế” có nghĩa là sự thật tương đối, sự thật do phân biệt, khái niệm mà có, sự thật theo sự thấy biết thông thường, nông cạn, hạn hẹp của thế gian. Do ý nghĩa đó, thuật ngữ “tục đế” trong Phật học cũng được gọi là “thế tục đế”, hay “thế đế”.
b) Chân đế. Chữ “chân”, theo nghĩa thông thường của thế gian, là đúng thật (chân ảnh), ngay thẳng (chân chính), mộc mạc thật thà (chân chất), không giả dối (chân thật), không trá ngụy, lừa đảo (chân tình). Trong Phật giáo cũng dùng chữ “chân” với những ý nghĩa thông thường đó, nhưng ở đây, trong thuật ngữ “chân đế”, nó có ý nghĩa sâu xa hơn. “Chân” nghĩa là không thuộc phạm vi của thế gian, là các pháp vô vi không sinh diệt, không bị nhân duyên chi phối, vượt ra ngoài thế giới khái niệm, không thể nghĩ ngợi, không thể nói năng, v.v...; tức là hoàn toàn trái ngược với chữ “tục” ở trên. Bởi vậy, “chân đế” là sự thật tuyệt đối, vượt khỏi khái niệm, phân biệt; là sự thật theo cái thấy bằng tuệ giác siêu việt của bậc xuất thế gian. Do từ ý nghĩa đó, thuật ngữ “chân đế” trong Phật học cũng được gọi là “thắng nghĩa đế”, hay “đệ nhất nghĩa đế”.
Giáo lí về “hai sự thật” tương đối (tục đế) và tuyệt đối (chân đế) này, trong kinh điển nguyên thỉ (A Hàm) ít đề cập đến (chỉ trong kinh Trung A Hàm có một lần nhắc đến từ “chân đế”, nhưng không có từ “tục đế”; và trong kinh Tăng Nhất A Hàm có một lần nhắc tới từ “nhị đế” nhưng nội dung không rõ ràng), mà phần nhiều chỉ nói đến “bốn sự thật” (khổ, tập, diệt, đạo). Trong khi đó, ở các bộ luận tiểu thừa như Câu Xá, Thành Thật, Đại Tì Bà Sa, v.v... không những hai từ “chân đế” và “tục đế” được nêu lên, mà còn nói rõ ý nghĩa, cùng đưa những ví dụ cụ thể. Còn trong các kinh luận đại thừa, kiến giải về “hai sự thật” rất là phong phú và sâu sắc. Đặc biệt, tông Tam Luận đã khai triển giáo lí “hai sự thật” này thành một phương pháp tu tập quán chiếu gồm có bốn lớp, – gọi là “tứ trùng nhị đế” – nhằm đả phá lối nhận thức thực tại bằng khái niệm, bằng ý thức phân biệt, so sánh, đối đãi (tức tục đế); bởi vì, nhận thức theo cách này thì không thể nào thấy rõ được thật tướng của vạn pháp (tức chân đế). Theo phương pháp tu tập này của tông Tam Luận, sự thật tương đối bao giờ cũng phải bị phủ nhận, phá đổ, cho đến khi hành giả đạt được sự thật tuyệt đối, tức là chứng ngộ bản chất chân thật của thực tại vạn hữu, không thể dùng lời nói để diễn đạt, không thể dùng trí năng để suy nghĩ, hoàn toàn siêu việt mọi khái niệm, mọi vọng tưởng phân biệt. Phương pháp quán chiếu này có năng lực phá trừ mọi chấp trước và hiển thị con đường trung đạo, đạt được đạo quả giác ngộ ngay trong đời sống hiện tại.
Tuệ-giải-thoát. Vượt thoát những chướng ngại của trí tuệ mà có được trí tuệ, gọi là “Tuệ-giải-thoát”. Theo tông Thành Thật, đây là địa vị thứ 25 (trong 27 địa vị) trên tiến trình tu tập của hành giả Thanh-văn-thừa.
Tuệ Khả (487-593): Nhị-tổ của Thiền tông Trung-quốc. Ngài họ Cơ, quê huyện Lạc-dương, tỉnh Hà-nam, sống vào thời đại Nam-Bắc-triều (386-589). Lúc đầu ngài có tên là Thần Quang, xuất gia lúc tuổi còn nhỏ. Sau khi thọ giới cụ túc, ngài đi khắp nơi nghe giảng pháp. Năm 520, ngài lên chùa Thiếu-lâm ở núi Tung, tham yết tổ Bồ Đề Đạt Ma. Khi lên đến cửa chùa thì trời đổ tuyết, ngài đã đứng ngoài trời tuyết suốt đêm, đến sáng vẫn không được vào chùa. Ngài bèn cầm dao tự chặt cánh tay trái của mình để tỏ lòng chí thành cầu pháp. Bấy giờ cửa chùa mới mở, ngài bước vào, vừa trông thấy Tổ thì tâm liền đạt ngộ. Tổ bèn truyền tâm ấn cùng y bát. Tổ viên tịch, ngài kế thừa làm Nhị-tổ Thiền tông Trung-quốc. Năm 552, ngài truyền tâm pháp cho đệ tử đắc pháp là Tăng Xán (?-606). Sau đó, ngài đến Nghiệp-đô (Hà-nam) giảng Kinh Lăng Già, mai danh ẩn tích hơn 30 năm, không ai biết đến. Ngài viên tịch năm 593, thọ 107 tuổi.
Tuệ Năng (638-713): là vị tổ thứ 6 của Thiền tông Trung-quốc, sống vào đời Đường (618-907). Ngài họ Lư, quê quán ở Phạm-dương (tỉnh Hà-bắc), nhưng sinh ở Tân-hưng (tỉnh Quảng-đông). Ngài mồ côi cha từ thuở nhỏ, nhà rất nghèo, phải hái củi bán và gánh nước thuê để nuôi mẹ. Một hôm ngài gánh củi vào chợ, tình cờ nghe có người tụng Kinh Kim Cang, tâm bỗng bừng sáng, bèn tìm tới Ngũ-tổ Hoằng Nhẫn (602-675) xin học đạo. Bấy giờ Ngũ-tổ đang hướng dẫn đồ chúng tu học tại thiền viện Hoàng-mai (tỉnh Hồ-bắc). Ngài đến bái yết, Ngũ-tổ hỏi: “Ngươi từ đâu đến? Muốn cầu vật gì?” Ngài đáp: “Đệ tử là bá tánh ở Lĩnh-nam, xa xôi tìm đến đây lạy Thầy, chỉ cầu làm Phật, không xin vật gì khác.” Ngũ-tổ nói: “Ngươi là người Lĩnh-nam, tướng lại xấu xí, làm sao làm Phật được!” Ngài thưa: “Người tuy có Nam Bắc, nhưng Phật tính vốn không Nam Bắc; thân tướng của con tuy xấu xí, không tốt đẹp như Thầy, nhưng Phật tính thì có gì khác nhau?” Thấy bẩm tính ngài thật phi phàm, Ngũ-tổ lấy làm kinh dị, nhưng để tránh sự chú ý của mọi người, bèn cho ngài vào ở trong nhà giã gạo để giã gạo. Trải qua tám tháng, một hôm, Ngũ-tổ bảo đại chúng, mỗi người trình một bài kệ kiến giải để chọn người truyền pháp. Thượng tọa Thần Tú viết lên vách bài kệ rằng: “Thân là cây bồ đề, tâm như đài gương sáng, luôn siêng năng lau chùi, đừng để bị dính bụi.” Ngài nhờ một chú tiểu đọc cho nghe bài kệ ấy, thấy rằng nó chưa làm sáng tỏ bản tính, bèn nhờ người viết giùm bài kệ của mình lên vách, rằng: “Bồ đề vốn không cây, gương sáng cũng không đài, xưa nay không một vật, bụi bám vào đâu đây?” Ngũ-tổ đọc bài kệ đó, biết ngài chính là người có thể được truyền cho pháp lớn. Nửa đêm, Tổ triệu ngài vào phòng riêng, âm thầm truyền y bát, rồi bảo ngài ngay đêm ấy phải đi gấp về Nam. Ngài vâng lời, đi về phương Nam, ẩn cư ở khoảng giữa hai huyện Tứ-hội và Hoài-tập (tỉnh Quảng-đông). Năm 676, ngài đến huyện Nam-hải (Quảng-đông), gặp đại sư Ấn Tông (627-713) ở chùa Pháp-tánh, liền xin xuất gia, thọ cụ túc giới. Năm sau, ngài về trú tại chùa Bảo-lâm ở Tào-khê (huyện Khúc-giang, tỉnh Quảng-đông), mở đạo tràng, hoằng dương pháp môn đốn ngộ “trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”; đối lại với pháp môn tiệm ngộ của ngài Thần Tú ở phương Bắc. Các sử gia gọi hiện tượng này là “Nam đốn Bắc tiệm”, hay “Nam Năng Bắc Tú”. Ngài viên tịch năm 713, thế thọ 76 tuổi, nhục thân không bị hư hoại, đến nay vẫn còn. Ngài là người không biết chữ, nhưng thông tuệ vượt bậc, có tài hùng biện không ai sánh kịp. Các lời dạy của ngài, được các đệ tử ghi chép, làm thành kinh Pháp Bảo Đàn, rất được thịnh hành, và được mọi người coi là pháp bảo của Thiền tông. Lệ truyền y bát trong Thiền tông, đến đời ngài thì hủy bỏ.
Tuệ Sùng (?-444): Trong các sử liệu liên quan đến kì pháp nạn dưới triều Thái-vũ đế của nhà Bắc-Ngụy, đều có nhắc tới tên đại sư Tuệ Sùng, nhưng đã không ghi rõ tiểu sử của ngài; chỉ biết rằng, ngài nguyên là vị sa môn ở nước Bắc-Lương, sống cùng thời và cùng có chức phận trong triều đình Thái-vũ đế (Bắc-Ngụy) với ngài Huyền Cao; trong khi ngài Huyền Cao làm thầy của thái tử Hoảng thì ngài làm thầy của quan thượng thư Hàn Vạn Đức (tức Hàn Phúc). Năm 444, cả hai ngài đều bị Thái-vũ đế giết trong chiến dịch tận diệt Phật giáo do tể tướng Thôi Hạo chủ xướng.
Tuệ Thỉ (?-451): cũng gọi là Huệ Thỉ, hay Đàm Thỉ, là một vị cao tăng Trung-quốc sống vào thời đại Nam-Bắc-triều. Ngài họ Trương, quê ở Quan-trung, đệ tử của ngài Cưu Ma La Thập. Năm 396 ngài mang kinh điển sang nước Cao-li hoằng hóa; người Cao-li biết Phật pháp từ lúc đó. Năm 405 ngài trở về lại Quan-trung lập đạo tràng hành đạo. Từ lúc xuất gia cho tới về sau, ngài từng có nhiều dị tích. Tương truyền, từ lúc bắt đầu tập thiền cho đến lúc viên tịch, hơn 50 năm ngài không hề ngủ. Chân của ngài trắng hơn da mặt, dù lội bùn cũng không dơ, cho nên người đời từng gọi ngài là Bạch Túc thiền sư; và nhân đó, người đời sau cũng gọi các sư là “bạch túc”.
Theo các ghi chép trong Cao Tăng Truyện, Lịch Đại Tam Bảo Kỉ, Phật Tổ Thống Kỉ, Phật Tổ Lịch Đại Thông Tải, và Phật Quang Đại Từ Điển, sau khi Thái-vũ đế hạ lệnh tiêu diệt Phật giáo trong toàn lãnh thổ Bắc-Ngụy vào năm 446 (xem mục “Ngụy Thái Vũ Đế”), thì đến năm 450, ngài Tuệ Thỉ thấy đã đến lúc nhà vua được giáo hóa, bèn chống tích trượng đến cung môn. Quân hầu chạy vào thông báo, Thái-vũ đế cho lệnh y pháp thi hành; nhưng bao nhiêu đao thương đều không làm hại được ngài. Thái-vũ đế càng tức giận, bèn tự mình rút kiếm chém ngài, nhưng cũng không làm gì được. Ông ra lệnh ném ngài vào chuồng cọp thì cọp liền qui phục ngài. Liền theo đó, ông thử cho quân dẫn đạo sĩ Khấu Khiêm Chi tới chuồng cọp thì cọp nhe răng muốn vồ. Ông liền tỉnh ngộ, thấy rõ Phật pháp cao siêu, Đạo giáo không sao sánh kịp. Nhà vua liền thay đổi hẳn thái độ, mời ngài Tuệ Thỉ ngồi lên ghế cao, ông bày tỏ lỗi lầm và thành tâm kính lễ sám hối. Sau phút đó thì ông lâm bệnh. Tiếp theo, Thôi Hạo và Khấu Khiêm Chi cũng bị bệnh nặng. Ông cho các tội lỗi đã gây ra là đều do Thôi Hạo và Khấu Khiêm Chi súc siểm, nên giết cả dòng họ của hai người; rồi lập tức ban chiếu phục hưng Phật giáo.
Giữa năm 451, Thái-vũ đế đã bỏ niên hiệu Thái-bình-chân-quân, đổi niên hiệu mới là Chánh-bình, và càng kính trọng ngài Tuệ Thỉ một cách thâm sâu. Trong năm này (theo sách Phật Tổ Lịch Đại Thông Tải), khi biết giờ viên tịch đã đến, ngài Tuệ Thỉ liền ngồi ngay ngắn, đồ chúng vân tập đầy đủ bên cạnh, ngài an tĩnh lìa đời. Đầu tháng Hai năm sau (452), Thái-vũ đế cũng băng.
Tuệ Tư (515-577): bậc cao tăng sống ở thời đại Nam-Bắc-triều (386-589), Trung-quốc. Ngài họ Lí, người đất Võ-tân (thuộc huyện Thượng-sái, tỉnh Hà-nam), được người đời xưng là Nam Nhạc tôn giả, hoặc Tư đại hòa thượng, hay Tư thiền sư. Ngài được coi là Nhị-tổ (có thuyết nói là Tam-tổ) của tông Thiên Thai, Trung-quốc. Ngài qui y Phật pháp từ thuở nhỏ, lòng rất hâm mộ kinh Pháp Hoa, thường ôm kinh đem vào nhà mồ mà đọc tụng. Đọc hết, xúc động đến rơi nước mắt. Một hôm nằm mộng thấy đức Bồ Tát Phổ Hiền xoa đầu rồi bỏ đi; đo đó, trên đầu nổi lên “nhục kế”. Năm 15 tuổi, ngài xuất gia, sau đó đến tham yết thiền sư Tuệ Văn ở Hà-nam, được trao truyền cho pháp “quán tâm”. Một hôm bỗng thở dài than rằng mình đã uổng thọ pháp tạng, bèn phóng mình vào vách, thì hoát nhiên đại ngộ, chứng được Pháp Hoa tam muội. Ngài là người đầu tiên chủ trương rằng, thời kì suy vi của Phật pháp tức là thời “mạt pháp”; cho nên đã xác lập lòng tin vững chắc vào các đức Phật A Di Đà và Di Lặc; lại vừa chú trọng đến sự thực tiễn của thiền tập, vừa chú trọng đến sự suy cứu nghĩa lí. Năm 554, ngài đến Quang-châu (thuộc huyện Hoàng-xuyên, tỉnh Hà-nam) mở đạo tràng hoằng pháp ở núi Đại-tô, suốt 14 năm, danh tiếng vang xa, đồ chúng theo học ngày càng đông đúc; trong đó, đại sư Trí Khải là môn đệ đắc pháp kiệt xuất nhất của ngài. Năm 568, ngài vào núi Nam-nhạc (tức Hành-sơn), trụ tích 10 năm thì viên tịch, thọ 63 tuổi, được người đời tôn xưng là Nam Nhạc tôn giả. Các trước tác của ngài phần nhiều là do môn đồ ghi chép và nhuận sắc mà thành, như: Pháp Hoa Kinh An Lạc Hạnh Nghĩa, Chư Pháp Vô Tránh Tam Muội Pháp Môn, Đại Thừa Chỉ Quán Pháp Môn, Thọ Bồ Tát Giới Nghi, v.v...
Tuệ Văn (? - ?). Ngài họ Cao, quê ở Bột-hải, thuộc lãnh thổ Bắc-triều (386-581), năm sinh năm mất không rõ, chỉ biết ngài hành đạo trong khoảng thời gian từ năm 535 (đời Đông-Ngụy) cho đến năm 557 (đời Bắc-Tề). Ngài xuất gia học đạo từ tuổi nhỏ, thông minh khác thường, tu học chuyên cần, suy nghĩ sâu xa; bền chí như thế cho đến tuổi trưởng thành. Một hôm ngài đọc Luận Đại Trí Độ, đến quyển 27 thì bỗng nhiên đại ngộ, chứng nhập diệu lí “một tâm ba trí”. Sau đó ngài đọc Luận Trung Quán, đến phẩm “Tứ Đế”, thấy bài kệ “Pháp do nhân duyên sinh, ta nói đó là không, cũng gọi là giả danh, cũng là nghĩa trung đạo.”, ngài liền đốn ngộ diệu nghĩa “không và hữu không phải hai, tức trung đạo”. Ngài liền nương theo ý chỉ của Bồ Tát Long Thọ mà xây dựng tông phong, du hóa khắp vùng Giang-Hoài, hoằng dương đại thừa, qui tụ đồ chúng có đến ngàn người, được người đời xưng là Bắc-Tề tôn giả. Về sau ngài đem phép quán tâm truyền thọ cho đệ tử là thiền sư Nam Nhạc Tuệ Tư (515-577).
Tuệ Viễn (334-416): là bậc cao tăng ở đời Đông-Tấn (317- 420), được coi là vị Sơ-tổ của tông Tịnh Độ Trung-quốc. Ngài họ Giả, người huyện Lâu-phiền, quận Nhạn-môn (nay là huyện Quách, tỉnh Sơn-tây); mới 13 tuổi đã du phương cầu học ở Hứa-xương, rồi Lạc-dương, thông hiểu cả sáu kinh của Nho gia (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu) và Trang Tử. Năm 21 tuổi, ngài cùng với em là Tuệ Trì, đến Hằng-sơn nghe ngài Đạo An (312- 385) giảng Kinh Bát Nhã. Nghe xong, ngài bừng tỉnh ngộ, than rằng: “Tất cả các phái học thuật của Nho gia và Đạo gia đều chỉ là rơm rác.” Rồi cùng với em xin xuất gia làm đệ tử của ngài Đạo An. Ngài tỏ ra sở đắc về tính Không của Bát Nhã, năm 24 tuổi đã có thể đăng tòa giảng thuyết, lại dùng Trang Tử để thuyết minh nghĩa lí chân thật của Phật giáo, làm cho những người từng hiểu lầm về Phật giáo, giờ đây đều được sáng tỏ. Từ đó, ngài Đạo An mới chấp nhận đề nghị của ngài là không chối bỏ sách vở thế tục trong việc diễn giảng. Năm 381, ngài đi về Nam, đến Lô-sơn (tỉnh Giang-tây), trú tại chùa Đông-lâm để hoằng pháp, đồ chúng theo học rất đông. Tại đây, ngài để hết tâm lực vào việc nghiên cứu kinh điển, nhưng kinh sách lúc bấy giờ chưa có nhiều, cho nên ngài đã cho nhiều đệ tử đi các nơi để tìm cầu kinh luật luận (nhất là nơi các vị cao tăng từ Tây-vực sang), đem về dịch thuật và truyền bá. Năm 391 ngài thỉnh được sa môn Tăng Già Đề Bà (Samgha-deva, người nước Kế-tân – tức vùng Cashmir, Bắc Ấn-độ ngày nay) về, dịch được các bộ A Tì Đàm Tâm Luận, Tam Pháp Độ Luận, v.v... Ngài cũng thường giao dịch thư từ với sa môn Cưu Ma La Thập (Kumarajiva) ở Trường-an, đồng thời gửi các đệ tử giỏi tới đó để học về hệ tư tưởng đại thừa của Bồ-tát Long Thọ. Năm 402, ngài với hàng trăm vị đồng đạo khác, cùng sáng lập Bạch-liên xã, chuyên tu pháp môn niệm Phật, hẹn nhau sẽ cùng vãng sinh về Tịnh-độ; ròng rã 30 năm không xuống núi. Ngài là người tinh thông cả nội điển lẫn ngoại điển, người đương thời đều kính ngưỡng. Trong khi ngài Cưu Ma La Thập xây dựng nên một trung tâm Phật giáo ở Trường-an, phương Bắc, thì chùa Đông-lâm ở Lô-sơn của ngài cũng trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng ở phương Nam. Đó là hai trung tâm tiêu biểu nhất của Phật giáo Trung-quốc thời bấy giờ. Ngài viên tịch năm 416, thọ 83 tuổi. Các vua Đường, Tống về sau có ban tặng ngài các thụy hiệu là Biện Giác đại sư, Chánh Giác đại sư, Viên Ngộ đại sư, v.v... Trước tác của ngài có: Lô Sơn Tập (10 quyển), Vấn Đại Thừa Trung Thâm Nghĩa Thập Bát Khoa (3 quyển), Minh Báo Ứng Luận, Thích Tam Báo Luận, Biện Tâm Thức Luận, v.v...
Lại có một vị cao tăng khác cũng có cùng pháp hiệu Tuệ Viễn (523-592), sống vào đời Tùy (581-618), họ Lí, người huyện Đôn-hoàng (tỉnh Cam-túc); cho nên, để phân biệt, người ta thường xưng vị cao tăng trên là “Lô-sơn Tuệ Viễn”, còn vị này là “Đôn-hoàng Tuệ Viễn” hay “Tịnh-cảnh tự Tuệ Viễn” (Tuệ Viễn chùa Tịnh-cảnh – xem mục “Huệ Viễn”).
Tùy Dạng đế (589-617): tên là Dương Quảng, tức vị vào năm 605, là vua đời thứ nhì của nhà Tùy. Ông là con thứ của vua Tùy Văn đế (581-604 – xem mục “Tùy Văn Đế”), nhưng tính tình bạo ngược và xa xỉ vô độ. Sau khi lên ngôi, ông quyết định bỏ kinh đô Trường-an, để dời về Lạc-dương, việc xây cất cung điện mới, vườn thượng uyển, các li cung v.v..., tốn phí quốc khố, lao khổ nhân dân, không bút mực nào tả xiết! Rồi vì mê thích phong cảnh ở Giang-tô, ông lại bỏ kinh đô Lạc-dương để dời xuống Dương-châu, gọi là Giang-đô. Ông cũng ham dùng binh, nào bình Đột-quyết, Thổ-cốc-hồn; nào phạt Chiêm-thành; nào gây chiến tranh với Triều-tiên, nhân dân đã phải vừa cung cấp người cho lính chiến, lại phải cống nạp của cải tiền bạc cho chiến phí, làm cho sức người sức của đều kiệt quệ, trong ngoài ta oán, trộm cướp, giặc loạn nổi lên khắp nơi; những kẻ hào kiệt nhân đó mà khởi dậy, mỗi người chiếm cứ một nơi, chờ cơ hội để lật đổ nhà Tùy mà dựng nghiệp lớn.
Trong những hào kiệt này, thì lưu thú (tức thái thú) Thái-nguyên phủ Đường quốc công Lí Uyên (566-635) là hùng mạnh hơn cả. Năm 617, ông đã cùng với ba người con (Kiến Thành, Thế Dân, Nguyên Cát), khởi binh chiếm thành Trường-an (lúc này vua Tùy Dạng đế đang ngự ở Giang-đô), tôn người cháu nội của Dạng đế là Dương Hựu (mới 12 tuổi) lên ngôi hoàng đế, tức Cung đế (617-618); còn Dạng đế thì phong làm thái thượng hoàng. Năm 618, tại cung điện ở Giang-đô, Dạng đế đã bị một viên thuộc tướng đột nhập vào cung giết chết. Tại Trường-an, khi nghe được tin đó, Đường quốc công Lí Uyên cũng bắt ép Cung đế phải thoái vị, nhường ngôi cho mình. Như thế là nhà Tùy chấm dứt, Lí Uyên lên ngôi hoàng đế, đổi quốc hiệu là Đường, đóng đô ở Trường-an.
Tùy Dạng đế, trong cung cách cai trị thì độc tài, bạo ngược và xa xỉ như vậy, nhưng về phương diện tín ngưỡng thì ông lại là một Phật tử đã góp công đức lớn lao (tuy không sánh bằng phụ hoàng của ông là Tùy Văn đế) trong công cuộc phục hưng Phật giáo. Ông mộ đạo từ khi tuổi còn niên thiếu. Năm 591 (lúc đó đương nhiệm chức tổng quản Dương-châu) ông đã phát tâm thọ giới Bồ-tát với đại sư Trí Khải. Sau đó ông đã cho xây cất tại Dương-châu hai ngôi đạo tràng, thỉnh nhiều vị cao tăng danh đức vãng lai hoằng hóa. Năm 600, sau khi được lập làm thái tử, ông vẫn tiếp tục xây dựng chùa tại kinh đô và chú trọng công việc hoằng pháp của chư tăng. Sau khi lên ngôi vua, ông thiên đô về Lạc-dương, lại tiếp tục kiến tạo chùa tháp; rồi ban lệnh, những ngôi chùa lớn đều đổi danh xưng là “đạo tràng” (ví dụ: trước gọi là chùa Tuệ-nhật, thì nay gọi là đạo tràng Tuệ-nhật). Ông lại còn cho xây ngôi Hồng-lô tự Tứ-phương quán để làm nơi cư trú và học tập cho các du học tăng ngoại quốc. Đó là về mặt xây dựng; mặt khác ông lại nghiêm khắc ban lệnh sa thải tăng ni, và buộc chư tăng phải kính lễ đế vương. Có người cho rằng, vì mục đích canh tân Phật giáo, nên nhà vua đã hạ lệnh sa thải các tăng ni không học thức, không đức hạnh. Còn lệnh bắt chư tăng phải kính lễ đế vương thì đã bị các bậc cao tăng (như đại sư Trí Khải chẳng hạn) thượng biểu phản bác, cuối cùng vua cũng phải nghe theo. Nhưng cũng vì những sắc lệnh có phương hại đến tăng đoàn, mà có người cho rằng, ông cũng là người đã có những hành động đàn áp Phật giáo. Ví dụ: Năm 609, ông đã hạ chiếu nghiêm cấm chư tăng sống đời ẩn dật; bắt buộc các tăng đồ không có đức hạnh phải hoàn tục; các tự viện dư thừa phải phá hủy. Ngài Đại Chí ở Lô-sơn đã dâng sớ xin vua ngưng thi hành chiếu chỉ này, và xin tự thiêu thân để báo đền ơn nước. Nhà vua y chuẩn, ngài bèn dùng vải tẩm sáp quấn quanh mình, rồi tự thiêu.
Tùy hầu cứu rắn được đền ơn trọng hậu (truyền thuyết Trung-quốc). Tùy là tên một tiểu quốc thời Xuân Thu. Vua của nước đó có tước hầu, cho nên gọi là “Tùy hầu”. Tùy hầu đi sang nước Tề, trên đường, thấy một con rắn bị khốn giữa bãi cát nóng, đầu chảy máu, bèn lấy gậy khều lên, bỏ xuống nước, rồi tiếp tục đi. Sau khi về nước, con rắn kia ngậm một hột châu rất lớn, đem đến chỗ ông, tặng để đền ơn.
Tùy-pháp-hành. Nghe theo sự hướng dẫn của chánh pháp mà tu hành, gọi là “Tùy-pháp-hành”. Theo tông Thành Thật, đây là địa vị thứ nhì (trong 27 địa vị) trên tiến trình tu tập của hành giả Thanh-văn thừa.
Tùy-tín-hành. Thuận theo những điều đã nghe, tin tưởng những lời dạy của thánh hiền mà tu hành, gọi là “Tùy-tín-hành”. Theo tông Thành Thật, đây là địa vị đầu tiên (trong 27 địa vị) trên tiến trình tu tập của hành giả Thanh-văn thừa.
Tùy Văn đế (541-604): là vị vua khai sáng vương triều Tùy. Ông họ Dương, tên Kiên, ban đầu làm quan ở triều đình Bắc-Chu, chức đến tướng quốc, tước phong Tùy quốc công. Khi vua Tuyên đế băng, ông phò tá vua Tĩnh đế, và được tiến tước Tùy vương. Năm 581 ông phế vua Tĩnh đế, bỏ nhà Bắc-Chu, tự lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là Tùy; đó là Tùy Văn đế. Ông có lòng tin vững chắc nơi Phật pháp, cho nên, sau khi vừa lên ngôi vua, ông liền hủy bỏ lệnh tiêu diệt Phật giáo của nhà Bắc-Chu, ban lệnh xây dựng lại chùa tháp, thiết lập chế độ tăng quan, mở rộng các đạo tràng dịch kinh. Bản thân ông xin thọ giới Bồ-tát với luật sư Pháp Kinh, mỗi ngày đều tụng kinh bái sám. Năm 582 ông cho xây thành Đại-hưng, đồng thời cũng cho xây chùa Đại-hưng-thiện và quán Huyền-đô để làm hai trung tâm nghiên cứu Phật giáo và Đạo giáo. Năm 583 ông cho trùng tu các tự viện đã từng bị phá hủy dưới thời Bắc-Chu. Năm 584 ông cho xây chùa ở các nơi như Tương-châu, Tùy-châu, Giang-lăng, Tấn-dương v.v..., cùng cổ lệ dân chúng lập chùa, xuất gia. Chùa Đại-hưng-thiện được công nhận là ngôi quốc tự của nhà Tùy, là nơi trụ trì của vị tăng quan thống lãnh giáo đoàn Trung-quốc lúc đó. Phần lớn các Phật sự trọng yếu của giáo đoàn đều do chư tăng ở ngôi quốc tự này đảm nhiệm. Năm 592, nhà vua cho thành lập 25 đoàn giảng sư, mỗi đoàn đề cử một vị cao tăng lãnh đạo. Nhà vua cũng rất chú trọng đến công việc phiên dịch và biên soạn mục lục kinh điển; và công tác này phần lớn đều được thực hiện tại chùa Đại-hưng-thiện, do triều đình bảo trợ. Do lòng nhiệt thành ủng hộ Phật giáo của vua Tùy Văn đế, mà trong 24 năm tại vị của ông, Phật giáo Trung-quốc đã hưng thịnh vô cùng nhanh chóng. Theo sách sử liệt kê, trong khoảng thời gian ấy, trong toàn quốc, người xuất gia (kể cả tăng và ni) đã đạt đến con số 23 vạn; ở các châu trên đã xây được 111 ngôi tháp thờ xá-lợi, 3.792 ngôi tự viện; chép 46 bộ kinh (gồm 132.816 quyển); chỉnh lí kinh điển được 3.853 bộ; biên soạn được 2 bộ mục lục kinh điển; tạo 106.580 pho tượng; tu sửa các tượng hư cũ được 1.508.940 pho.
Tuyết-sơn: tức núi Hi-mã-lạp (Himalaya) ở miền Trung-Á, là dãy núi cao nhất thế giới, quanh năm tuyết phủ, cho nên gọi là Tuyết-sơn (núi Tuyết). Núi này từ Tây sang Đông trải dài hơn 2.400 cây số, bắt đầu từ sông Ấn (Indus) ở phía Bắc Pakistan, qua vùng Kashmir của Bắc Ấn-độ, tiếp đến, một phần nằm vắt sang Tây-tạng, và phần lớn còn lại thì trải dọc theo Nepal, Sikkim, và Bhutan – cũng tức là phủ trọn biên thùy phía Bắc nước Ấn-độ; chiếm một diện tích rộng lớn khoảng 594.400 cây số vuông. Đó là rặng núi đồ sộ, hùng vĩ nhất thế giới, với hơn 30 ngọn cao tối thiểu từ 7.620 thước trở lên, trong đó, ngọn Everest được coi là cao nhất thế giới (8.848 thước).
Từ thời vua A Dục, Phật giáo đã được truyền bá đến các nước ở biên thùy này. Luật Thiện Kiến chép:
Tôn giả Mục Kiền Liên Tử Đế Tu dùng thần lực quán sát, biết rằng Phật pháp về sau sẽ thịnh hành lâu dài ở các nước biên địa, cho nên đã tập hợp tăng chúng, phái đi các nước biên địa để hoằng truyền chánh pháp. [......] Tôn giả Mạt Thị Ma (Majjhima) cùng bốn vị tôn giả khác, đã đến vùng biên địa Tuyết-sơn giảng kinh Sơ Chuyển Pháp Luân, độ cho tám ức người đắc đạo. Cả năm vị ấy, mỗi vị hoằng hóa tại một nước, độ cho cả thảy 5.000 người xuất gia, làm cho Phật pháp lưu truyền khắp vùng biên địa Tuyết-sơn.
Tuyết Sơn Bộ (Haimavata). Theo các sử liệu ghi chép, sau khi giáo đoàn phân rẽ thành hai bộ phái căn bản là Thượng Tọa Bộ và Đại Chúng Bộ, đến đầu thế kỉ thứ 3 PL, ngài Ca Đa Diễn Ni Tử, một vị trưởng lão thạc học của Thượng Tọa Bộ, vừa chống lại NĂM THUYẾT MỚI của Đại Chúng Bộ, vừa không tán thành chủ trương thiên trọng KINH TẠNG của Thượng Tọa Bộ, đã tách ra khỏi Thượng Tọa Bộ và tự thành lập một bộ phái mới lấy tên là Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (gọi tắt là Hữu Bộ). Số đồ chúng còn lại của Thượng Tọa Bộ (tức cũng gọi là Căn Bản Thượng Tọa Bộ) bị thế lực của bộ phái mới này lấn át quá mạnh, phải dời vào Tuyết-sơn để lập cứ địa mới, và đổi tên từ Thượng Tọa Bộ thành Tuyết Sơn Bộ. Căn Bản Thượng Tọa Bộ sở dĩ bị lép vế trước thế lực cường thịnh của Hữu Bộ, một phần là vì, trải qua thời gian, chính nó đã bị ảnh hưởng của Đại Chúng Bộ, tin theo “năm thuyết mới” của Đại Chúng Bộ mà bỏ mất lập trường cố hữu của Thượng Tọa Bộ. Sách Dị Bộ Tông Luân Luận ghi như sau về chủ trương của Tuyết Sơn Bộ (tức hậu thân của Căn Bản Thượng Tọa Bộ): Bồ-tát vẫn là chúng sinh; Bồ-tát nhập thai không khởi tham ái; ngoại đạo không chứng được ngũ thông; A-la-hán vẫn còn bị “dư sở dụ”, vẫn còn “vô tri, do dự”, còn “phải nhờ người khác bảo mới biết mình chứng ngộ”, và vẫn còn phải “nhân âm thanh mới phát khởi thánh đạo”. Thập Bát Bộ Luận và Bộ Chấp Dị Luận cũng nói tương tợ như thế về quan điểm của Tuyết Sơn Bộ. Quả thật, Tuyết Sơn Bộ đã hấp thụ “năm thuyết mới”, vốn là tư tưởng chủ đạo của Đại Chúng Bộ.
Tư hoặc (hay tu hoặc): là những sai lầm bẩm sinh, đã có từ nhiều kiếp, khi con người sinh ra thì nó cùng có mặt theo, cho nên thuật ngữ Phật học còn gọi nó là “câu sinh khởi hoặc”. Vì tâm ý mê muội, nên kẻ phàm phu luôn luôn khởi niệm tham đắm đối với mọi sự mọi vật ở thế gian; cái gì vừa ý thì tham lam muốn có, cái gì không vừa ý thì giận hờn oán trách, khiến nên con người gây ra bao nhiêu tội lỗi, đau khổ trong đời sống, đó gọi là “tư hoặc” (cũng gọi là “tu hoặc”). Một cách tổng quát, loại hoặc này có 5 thứ căn bản, là tham (lòng tham lam đối với mọi thứ mình yêu thích), sân (lòng giận hờn oán trách đối với những gì mình không vừa ý), si (tâm mê mờ không thấy rõ được sự thật), mạn (tâm kiêu mạn, tự cao tự đại, cho mình là hơn hết rồi khinh khi người khác), nghi (nghi ngờ, không tin tưởng điều chân thật, nhất là không tin Tam Bảo). Từ 5 thứ hoặc căn bản này mà sinh ra bao nhiêu tính xấu ác khác, như tham lam, ích kỉ, bỏn sẻn, đua đòi, trộm cắp, tà dâm, giận dữ, hờn trách, mắng chưởi, nói năng thô bạo, phỉ báng người hiền, nói xấu kẻ khác, tự thị khinh người, ngu dốt mà cứ cố chấp v.v... 5 thứ hoặc này phát khởi do vì mê đắm sự vật, thuộc về tình cảm, cho nên cũng gọi là “sự hoặc” (sai lầm về sự). Lại nữa, 5 thứ hoặc ấy là những phiền não gây ra đau khổ triền miên, làm cho chúng sinh không thể tu tập để tiến đến bến bờ giải thoát, cho nên Duy Thức Học cũng gọi chúng là “phiền não chướng”. Tư hoặc có sâu có cạn, có phần thô sơ dễ đoạn trừ, có phần vi tế khó đoạn trừ, được chia làm chín phẩm từ nhẹ nhàng nhất đến nặng nề nhất: thượng thượng, thượng trung, thượng hạ, trung thượng, trung trung, trung hạ, hạ thượng, hạ trung, hạ hạ. Sáu phẩm tư hoặc trước (từ thượng thượng đến trung hạ) là các phần dễ đoạn trừ hơn.
Tư lương. “Tư” là giúp đỡ; “lương” là lương thực. Tu hành cũng giống như đi xa, cần có các thứ như căn lành, phước đức, chánh pháp v.v... làm lương thực để giúp đỡ, mới có thể thành đạt, cho nên gọi là “tư lương”.
Tư tưởng giới Ấn-độ ngay trước khi Phật ra đời. Những thế kỉ trước ngày Phật ra đời, nền văn minh Ấn-độ (được hiểu là nền văn minh Bà-la-môn giáo) đã tập trung tại miền Tây-Bắc Ấn-độ, bao gồm vùng thượng lưu hai con sông Hằng-hà (Ganga) và Ấn-hà (Sindhu). Các bộ tộc hùng mạnh đều lấy vùng này mà lập nên các vương quốc phú cường, như Kamboja (Kiếm-phù-sa), Gandhara (Càn-đà-la), Kuru (Cư-lâu), Matsya (Bà-sa), Pancala (Bàn-xà-la) và Surasena (Tô-la-ta), là 6 nước lớn nhất (mà đặc biệt, Gandhara và Kuru được xem là căn cứ địa của văn minh Bà-la-môn). Các khu vực khác đều còn bị coi là man rợ. Đến thế kỉ thứ 7 tr. TL, các vương quốc ở các vùng phía Tây, Đông, Đông-Bắc và lưu vực sông Hằng bỗng nhiên phát triển mạnh mẽ về mọi lãnh vực, vượt hẳn các vương quốc trên kia, và chiếm địa vị trung tâm. Mười vương quốc mới nổi tiếng được nhắc tới nhiều nhất là Kosala (Kiều-tát-la), Malla (Mạt-la), Licchavi (Lê-xa - cũng gọi Vrji - Bạt-kì), Asvaka (A-thấp-ba), Kasi (Ca-thi), Vatsa (Bạt-sa), Avanti (A-bàn-đề), Cedi (Chi-đề), Anga (Ương-già) và Magadha (Ma-kiệt-đà); cộng chung với sáu vương quốc trên kia, là mười sáu vương quốc lớn nhất (thập lục đại quốc) của Ấn-độ thời Phật tại thế. Tất cả 16 nước lớn này đều nằm trong lãnh thổ nửa phía Bắc Ấn-độ. Dưới thời đại của Phật, nền văn minh vẫn chưa phát triển xuống nửa phía Nam của bán đảo Ấn-độ. Từ khi các vương quốc kém phát triển ở phía Tây, Đông, Đông-Bắc và lưu vực sông Hằng bỗng nhiên vùng dậy mạnh mẽ trở thành các cường quốc, thì uy thế của Bà-la-môn giáo truyền thống lại bắt đầu suy yếu tại các khu vực đó. Các hệ phái triết học khác đua nhau bộc phát, làm cho tư tưởng giới đương thời trở nên rối ren, phức tạp. Một cách tổng quát, tư tưởng giới lúc đó chia làm hai xu hướng: Xu hướng trung thành với truyền thống Phệ Đà và xu hướng phản Phệ Đà. Xu hướng thứ nhất gồm có ba trào lưu: Bà-la-môn chính thống, tín ngưỡng tập tục (sùng bái nhiều vị thần nhân cách hóa), và triết học (lấy Phạm Thư và Áo Nghĩa Thư làm chủ yếu). Xu hướng thứ hai bao gồm các trào lưu chủ trương nghiên cứu các vấn đề triết học một cách tự do, độc lập, phủ nhận hoàn toàn uy thế cũng như đặc quyền của Bà-la-môn truyền thống. Các nhà tư tưởng (hay tôn giáo) này được gọi là “sa-môn” (samana). Họ tổ chức thành từng giáo đoàn, được gọi là “sa môn đoàn”. Các vương quốc mới phát triển như Kiều-tát-la, Lê-xa, Ca-thi, A-bàn-đề, Ma-kiệt-đà v.v... là địa bàn hoạt động rất nhộn nhịp của các đoàn sa môn này. Các đạo sĩ A La Lam (Alara Kalama) và Uất Đầu Lam Phất (Uddaka Ramaputta) chẳng hạn, đều là thủ lãnh lớn của các đoàn sa môn ấy, và đã lấy vùng lưu vực sông Hằng làm căn cứ địa, mở các đạo tràng hướng dẫn đồ chúng.
Từ thị: nghĩa là họ Từ. Chữ “thị” ở đây được dùng để chỉ cho những người được tôn quí trong nhân loại; đó là những vị giáo chủ, những triết gia, như “Thích thị” (đức Thích Ca Mâu Ni), “Lão thị” (đức Lão Tử), “Khổng thị” (đức Khổng Tử), v.v... Theo kinh chép, đức Bồ Tát Di Lặc, vì lòng thương rộng lớn đối với chúng sinh, ngay từ buổi đầu phát tâm tu hành, đã không ăn thịt, do đó mà được gọi là “Từ thị”.
Tử-tướng. Chán bỏ thế gian, nhưng sợ thối thất công quả, thường muốn tự sát để nhập vô dư niết bàn, gọi là “Tử-tướng”. Theo tông Thành Thật, đây là địa vị thứ 21 (trong 27 địa vị) trên tiến trình tu tập của hành giả Thanh-văn-thừa.
Tự lực - Tha lực. “Tự lực” là sức của chính mình; “tha lực” là sức gia hộ của chư Phật và Bồ-tát. Tu tập ba pháp học vô lậu giới định tuệ cho đến niệm Phật, quán tưởng v.v..., thuộc về tự lực. Nguyện lực gia bị của Phật A Di Đà thuộc về tha lực. Pháp môn Tịnh Độ gồm đủ cả tự lực và tha lực, lại là pháp môn dễ thực hành.
Tự môn: là một thuật ngữ Mật giáo. Lấy chữ (tự) làm cửa, do cửa này mà đi vào thì liễu ngộ được lí lẽ của các pháp, cho nên gọi là “tự môn”.
Tự tánh chẳng không (tự tánh bất không). “Tự tánh” tức bản tánh của vạn pháp, cũng tức là chân như, hay như lai tạng. Vạn pháp trong vũ trụ có hai loại tổng quát: hữu tình và vô tình. Tự tánh của hữu tình thì gọi là Phật tánh; tự tánh của vô tình thì gọi là Pháp tánh. Phật tánh, Pháp tánh, Chân như, Như lai tạng, hay Tự tánh, là bản tánh tịch nhiên thường trú, không sinh không diệt – chứ chẳng phải là không có, cho nên nói là “tự tánh chẳng không”.
Tự tứ. Tăng chúng, vào ngày Rằm tháng Bảy, khóa an cư mùa Hạ đã mãn, ở trong đại hội, cứ để cho mọi người nêu lên các tội lỗi mình đã phạm, rồi đối trước các vị tì kheo mà ân cần sám hối, gọi là “tự tứ”; lại cũng nói là “tùy ý”, nghĩa là để cho người khác tùy ý nêu ra các tội lỗi của mình.
Tức (即). Hai vật dung hợp nhau làm thành một thể. Khi đã là một thể thì hai vật ấy không phải là hai và không rời nhau; hai vật ấy chính là hai mặt của một thực tại, không thể tách rời nhau. Đó gọi là “tức”, cũng gọi là “tương tức” (tức là nhau).
Ngài Cát Tạng (549-623) giải thích chữ “tức” có hai nghĩa:
1) biểu thị mối liên hệ “không hai” của hai sự vật đã dung hợp nhau hoàn toàn thành một thể;
2) biểu thị mối liên hệ “không tách rời nhau” của hai sự vật đã dung hợp nhau hoàn toàn thành một thể.
Trong giáo học của tông Thiên Thai, ý nghĩa chữ “tức” được phân làm ba loại:
1) “Tức” của hai sự vật dung hợp nhau: hai sự vật không giống nhau nhưng dung hợp làm một mà không rời nhau; có nghĩa, tính chất bất đồng của mỗi sự vật vẫn tồn tại, nhưng mối quan hệ hỗ tương của chúng thì không thể tách rời.
2) “Tức” của hai mặt xoay lưng nhau: Trên mặt hiện tượng, hình tướng hai mặt của một bàn tay, tuy trong ngoài (hay trên dưới, trái phải) khác nhau, nhưng thực tế đồng là một bàn tay; có nghĩa, trên mặt hiện tượng thì hình tướng của chúng là bất đồng, nhưng trên mặt bản chất thì thể tánh của chúng là một.
3) “Tức” của một toàn thể: như trái hồng chát chuyển biến dần trở thành hồng ngọt, tuy chát và ngọt khác nhau nhưng sự thật là chỉ một trái hồng; có nghĩa, mới nhìn thì thấy như hai vật khác nhau, nhưng sự thực tự thể của chúng chỉ là một – hai mà là một.
Về mối quan hệ giữa Phật và chúng sinh, giáo lí tông Thiên Thai nói rằng, đứng trên bản thể mà nói, thì Phật và chúng sinh bình đẳng, không sai khác; đứng trên giai vị tu hành mà nói, thì Phật và chúng sinh có sai khác. Do nhận định đó, tông này đã lập nên thuyết “lục tức”, cũng gọi là “lục tức Phật”.
Tông Hoa Nghiêm có thuyết “tương tức tương nhập”, nói rõ rằng, sự sự vật vật trong thế giới hiện tượng, về thể thì tất cả cùng dung hợp nhau thành một thể, gọi là “tương tức” (tức là nhau); về dụng thì chúng tác dụng lẫn nhau một cách dung thông vô ngại, gọi là “tương nhập” (nhập vào nhau, ở trong nhau); ngay nơi bản thể tức là sự biểu hiện của thế giới tuyệt đối, gọi là “tương tức tương nhập”. Từ giáo nghĩa đó, tông này còn lập các thuyết tương tự như “một là tất cả, tất cả là một” (nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất), “một là mười, mười là một” (nhất tức thập, thập tức nhất), “một là nhiều, nhiều là một” (nhất tức đa, đa tức nhất).
Mật tông cũng chủ trương thuyết “tức thân thành Phật”.
Tức không, tức giả, tức trung. Vạn pháp nương nhau mà có, tự chúng không có bản chất chân thật, tức là KHÔNG; vì vậy, tuy hiện hữu nhưng chúng biến đổi không thường, sự hiện hữu của chúng chỉ là giả hợp tạm bợ, không trường cửu, tức là GIẢ; cho nên quán chiếu thâm sâu thì vạn pháp vừa là không, vừa là giả, đồng thời không phải không, không phải giả, đó là cái thấy TRUNG ĐẠO. “Cảnh giới tức không tức giả tức trung” là như thế.
Tương ưng. Thông thường chúng ta có từ “tương ứng”, nghĩa là phù hợp nhau, đáp ứng nhau. Trong Phật học, nhất là Duy Thức Học, có từ “tuơng ưng”, ý nghĩa cũng tương tự, nhưng đặc biệt hơn từ “tương ứng”. “TƯƠNG ƯNG” là chỉ cho mối quan hệ hòa hợp không thể tách rời được giữa một pháp này và một pháp nọ, hoặc có thể nói, cái này là thuộc tánh của cái kia. Ví dụ: “Nước đục” tức là thứ nước mà trong đó các phần tử cực nhỏ của đất và nước hòa hợp nhau, đến độ không thể tách rời nhau được; nếu lấy đất ra khỏi nước thì sẽ không còn cái gọi là “nước đục”. Duy Thức Học có nói đến từ “tâm sở”, là chỉ cho những thuộc tính của “tâm vương”. Khi nói ý thức tương ưng với cả 51 tâm sở, có nghĩa rằng, ý thức tâm vương có cả thảy 51 thuộc tính. Khi nói “tâm giận”, có nghĩa rằng, giận là thuộc tánh của tâm; nếu không có tâm, hoặc không có giận, thì cái gọi là “tâm giận” sẽ không có. Khi nói: “Chân lí hai không tương ưng với trí vô lậu.”, có nghĩa rằng, tính chất của trí vô lậu là chứng nhập chân lí nhị không; nếu trí mà không thể nhập chân lí nhị không thì không phải là “trí vô lậu”.
Tướng đoạn diệt (đoạn diệt tướng): tức là sự mất hẳn, là trạng thái trống rỗng.
Tướng tông. Các tông phái đem sự sinh khởi của vạn pháp qui về thức a-lại-da, và đem vạn pháp sinh ra từ thức a-lại-da ấy phân chia thành nhiều tướng khác nhau, gọi là Pháp Tướng tông, nói tắt là Tướng tông. Đại thừa Thỉ giáo trong Năm Giáo của tông Hoa Nghiêm, Thông giáo trong Bốn Giáo của tông Thiên Thai, và tông Duy Thức trong 13 tông phái ở Trung-quốc, đều thuộc về Tướng tông.
Tướng tốt của Chuyển luân thánh vương và tướng tốt của Phật. Chuyển luân thánh vương cũng có 32 tướng tốt như Phật, nhưng theo Luận Đại Trí Độ, một cách tổng quát, tướng Phật là tướng giải thoát, dứt tuyệt sinh tử luân hồi; còn tướng của Luân vương vẫn còn là tướng phàm phu, vẫn còn mắc kẹt trong vòng sinh tử luân hồi. Theo Kinh Vô Lượng Thọ, 32 tướng của Phật rõ ràng, viên mãn; còn 32 tướng của Luân vương thì mờ nhạt, không trọn vẹn.