LỜI VÀNG
ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC
Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm
Phiên dịch & thi kệ toát yếu 2015
Ấn Quang Gia Ngôn Lục - Phần I
Chương I: Tịnh Độ Thù Thắng
[15] (頓漸二教) Đốn giáo và Tiệm giáo. Giáo pháp không theo thứ lớp mà giúp người tu hành đạt đến giác ngộ một cách nhanh chóng, gọi là Đốn giáo; còn giáo pháp phải theo thứ lớp tu hành dần dần trong thời gian dài mới đạt được quả Phật thì gọi là Tiệm giáo. Thiên là giáo pháp không viên mãn, còn gọi là Quyền giáo. Viên là giáo pháp viên mãn, còn gọi là Chánh giáo.
[16] Tiểu thừa, Đại thừa, Quyền giáo, Thực giáo hoặc Chánh giáo.
[17] Xem # 3, ngoại trừ cảnh giới Phật.
[18] (大乘起信論) Có 1 quyển, cũng gọi Khởi Tín Luận, tương truyền do bồ tát Mã minh (Phạm: Azvaghoza) của Ấn độ tạo, ngài Chân đế (499 - 569) dịch vào đời Lương thuộc Nam triều, thu vào Đại chính tạng tập 32. Nội dung sách này thuyết minh về duyên khởi Như lai tạng và tướng phát tâm tu hành của Bồ tát, phàm phu v.v... Tức là từ hai phương diện lí luận và thực tiễn mà qui kết về trung tâm tư tưởng của Phật giáo Đại thừa. (Tự điển Phật Quang)
[19] Vibhasa dịch là Quảng thuyết, Thắng thuyết, Dị thuyết
[20] Nāgārjuna (S), ludrup (T)Long Mãnh, Long Thụ; Na già yên lạt thọ naTổ thứ 14 trong 28 tổ Phật giáo Ấn độ, người Nam Ấn, sanh vào năm 160. Nhờ sự gia hộ của Đức Đại Nhật Như Lai ngài mở được tháp bằng sắt, vào bên trong và đảnh lễ Ngài Kim Cang Tát Đoả rồi được ban lễ quán đảnh và tiếp nhận hai bộ Đại Kinh. Các kinh ngài ghi chép lại có: Na Tiên Tỳ kheo Kinh, Trung Luận, Thập nhị môn luận,... Ngài thọ khoảng 60 tuổi, truyền y bát cho tổ Ca na đề bà (Kanadeva). (Từ điển Phật học Việt Anh - Minh Thông)
[21] Tổ thứ tư Thiên Thai Tông (538-597).
[22]Nguyên văn hai chữ hậu thân hay hóa thân ở đây có nghĩa là người nối pháp, y pháp Phật mà truyền bá chớ không phải là thân ứng hóa (một trong ba thân) của Phật Thích Ca. Vì vậy người Trung Hoa gọi Trí Giả là Tiểu Thích Ca. Chủ Tiểu có nghĩa là môn đồ, đệ tử.
[23] Đức Thích Ca Mâu Ni.
[24] (淨土十疑) Mười điều nghi về Tịnh độ. Ngài Thiênthai Trí khải đời Tùy, y cứ vào giáo nghĩa vãng sinh Tịnh độ, nêu ra 10 điều hoài nghi, đồng thời giải thích rõ 10 điều nghi để khuyên mọi người cầu vãng sinh Tịnh độ. Đó là: 1. Giải thích điều nghi rằng cầu sinh về Tịnh độ là không có tâm từ bi. 2. Giải thích điều nghi rằng cầu sinh về Tịnh độ là trái với lí vô sinh bình đẳng. 3. Giải thích điều nghi rằng thiên cầu vãng sinh Cực lạc là trái với pháp tính bình đẳng. 4. Giải thích điều nghi tại sao chỉ niệm danh hiệu Phật A di đà? 5. Giải thích điều nghi tại sao hàng phàm phu còn bị phiền não trói buộc vẫn được vãng sinh? 6. Giải thích điều nghi rằng tại sao vãng sinh tức là được bất thoái? 7. Giải thích điều nghi rằng tại sao không cầu vãng sinh về cõi trời Đâu suất? 8. Giải thích điều nghi rằng tại sao chỉ niệm 10 niệm được vãng sinh? 9. Giải thích điều nghi tại sao người nữ, người thiếu các căn, hàng Nhị thừa không được vãng sinh. 10. Giải thích điều nghi phải tu hạnh nghiệp gì để được vãng sinh? [X. luận Tịnh độ thập nghi]. (Tự điển Phật Quang)
[25] Vĩnh Minh Diên Thọ (永明延壽, 904-975): vị tăng của Pháp Nhãn Tông Trung Quốc, xuất thân Dư Hàng (餘杭), Phủ Lâm An (臨安府, Tỉnh Triết Giang), họ là Vương (王), tự Xung Huyền (冲玄), Bảo Nhất Tử (抱一子). Ngay từ nhỏ ông đã có chí xuất trần nhưng không được toại nguyện, nên làm quan cho nước Ngô Việt. Đến năm 28 tuổi, ông theo xuất gia với Thúy Nham Linh Tham (翠巖令參, thế kỷ thứ 9-10, pháp từ của Tuyết Phong); sau đó theo hầu hạ Thiên Thai Đức Thiều (天台德韶), kế thừa dòng pháp của vị này và trở thành vị tổ thứ 3 của Pháp Nhãn Tông. (Phật học Tinh tuyển)
[26] Một số tự điển ghi Tứ Liệu Giản là bốn pháp giản biệt do sư lâm Tế Nghĩa Huyền lập ra. Ngày xưa chư Tổ không tranh danh đoạt lợi cho nên không màng đến chủ quyền, vì vậy nay không rõ xuất xứ này từ đâu.
[27] Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát.
[28] Ngũ Tánh Các Biệt (五姓[性]各別, Goshōkakubetsu): chúng sanh có 5 loại tố chất (tánh) của nhân cách mang tính tôn giáo vốn đầy đủ tính tiên thiên và được chia làm 5 loại theo chủ trương của Duy Thức Pháp Tướng Tông. Tánh (姓、性) là từ gọi tắt của chủng tánh (種姓、種性). Năm loại tánh ấy gồm:
(1) Thanh Văn Định Tánh (聲聞定性), (2) Độc Giác Định Tánh (獨覺定性), (3) Bồ Tát Định Tánh (菩薩定性), (4) Bất Định Tánh (不定性) và (5) Vô Chủng Tánh (無種性).
Ba loại đầu, mỗi con đường tu hành và quả chứng ngộ đạt được là quyết định, không có thay đổi, nên được gọi là Quyết Định Tánh (決定性). Loại Bất Định Tánh thứ tư thì không dứt khoát và có thể thay đổi. Loại Vô Chủng Tánh thứ năm thì không thể nào đạt được chứng ngộ. Trong 5 loại kể trên, chỉ có loại thứ 3 và 4 mới mới có thể thành Phật. Đây là giáo nghĩa chủ trương của Duy Thức Pháp Tướng Tông. Chính giáo nghĩa này đã tạo nên điểm tương phản với quan niệm của Phật Giáo Đại Thừa là hết thảy chúng sanh đều thành Phật, từ đó gây nên sự luận tranh giữa các tông phái. Đặc biệt, tại Nhật Bản thì những luận tranh của Tối Trừng (最澄, Saichō), Đức Nhất (德一, Tokuitsu) và Ứng Hòa (應和, Ōwa) dưới thời Bình An (平安, Heian) là nổi tiếng nhất. (Phật học Tinh tuyển)
[29] Giáo, lý, hạnh, quả
[30] Kiến Hoặc: Các loại vọng kiến, phân biệt tà vạy, gây ra những mê hoặc. Tư Hoặc: Lấy tình cảm mê chấp tham, sân, si, mà nghĩ cảm về vạn hữu trên thế gian. (Từ điển Phật học Việt Anh - Thiện Phúc)
[31] (五宗) I. Ngũ Tông. Chỉ cho 5 tông Đại thừa: Thiên thai, Hoa nghiêm, Pháp tướng, Tam luận và Luật. II. Ngũ Tông. Chỉ cho 5 tông phái Thiền: Tông Qui ngưỡng, tông Lâm tế, tông Tào động, tông Vân môn và tông Pháp nhãn. III. Ngũ Tông. Chỉ cho 5 tông do pháp sư Tự quĩ ở chùa Hộ thân đời Tề thành lập: Tông Nhân duyên, tông Giả danh, tông Bất chân, tông Chân thực và tông Pháp giới. (xt. Ngũ Tông Giáo). (Từ điển Phật Quang)
[32] Phẩm Nhập Pháp Giới.
[33] Phổ Hiền đại nguyện
[34] Thiên Thai Trí Giả, Pháp Hoa Huyền Nghĩa.
[35] Pháp hội Đại Tập
[36] (六卽成佛): trong giáo nghĩa của Thiên Thai Tông có luận một cách có hệ thống về các giai vị từ sơ phát tâm cho đến khi đạt quả vị Phật và phân chia ra thành Bốn Giáo là Tạng, Thông, Biệt, Viên. Về bản chất thì chúng sanh tức là Phật, nhưng về mặt tu hành thì lại có Sáu Tức, gồm:
(1) Lý Tức (理卽, về mặt bản lai thì có thật tại thành Phật), (2) Danh Tự Tức (名字卽, lấy đây làm lý niệm mà lý giải), (3) Quán Hành Tức (觀行卽, quán tâm tu hành để thể nghiệm), (4) Tương Tợ Tức (相似卽, sáu căn thanh tịnh tương tợ với chơn giác ngộ), (5) Phần Chứng [Chơn] Tức (分証[眞]卽, thể hiện bộ phận của chơn như) và (6) Cứu Cánh Tức (究竟卽, hoàn toàn giác ngộ).
[37] Gồm 10 quyển, do ngài Tri Húc biên soạn vào đời Minh, được xếp vào Vạn Tục Tạng, tập 108. (Tự điển Huệ Quang)
[38] Lấy căn bản trí, Phật tánh làm nhân tu hành thì gọi là xứng tánh. Khác với lấy ngũ uẩn làm nhân tu hành.
[39]善導 Shandao (613-681). Vị thứ ba trong năm vị tổ Tịnh độ và là vị thứ năm trong bảy vị tổ của Chân ngôn tông. Ngài xuất gia khi còn nhỏ tuổi và tu tập thiền quán tưởng A-di-đà và Tịnh độ. Khi Ngài nghe tiếng Đạo Xước (c: Daochuo 道綽), Thiện Đạo đến gặp và nhận giáo lý Tịnh độ từ Ngài. Suốt đời Thiện Đạo hiền mình tu tập và hoằng truyền giáo lý nầy. Tương truyền ngài đã chép kinh A-di-đà hơn 100.000 lần và vẽ hơn 300 bức tranh về cõi Tịnh độ. Ngoài việc tụng kinh và niệm Phật thường xuyên, ngài còn tu tập các thời khoá thiền quán tưởng đức Phật A-di-đà và cõi nước của Ngài. Thiện Đạo còn trứ tác năm tác phẩm, trong chín cuốn, gồm những luận giải khác nhau về kinh Quán vô lượng thọ. Ngài thường được gọi là Quang Minh tự Hoà thượng光明寺和尚, Chung Nam Đại sư終南大師 (Từ điển Phật học Anh-Hán-Việt )
[40] Kinh Quán Vô Lượng Thọ
[41] (五逆往生) Người phạm 5 tội cực ác, nhưng nhờ sức niệm Phật mà được vãng sinh Tịnh độ Cực Lạc. Đây là chủ trương của kinh Quán Vô Lượng Thọ, cho rằng sự niệm Phật chí thành có một công năng siêu tuyệt. (Tự điển Phật Quang)
[42] (s: daśākuśala-karma-pathāni, 十惡): còn gọi là Thập Ác Nghiệp Đạo (十惡業道), Thập Bất Thiện Nghiệp Đạo (十不善業道), Thập Bất Thiện Căn Bổn Nghiệp Đạo (十不善根本業道), Thập Hắc Nghiệp Đạo (十黑業道); là 10 hành vi ác, không tốt của ba nghiệp thân, miệng và ý; gồm:
(1) Sát sanh; (2) Trộm cắp; (3) Tà dâm; (4) Nói dối; (5) Nói hai lưỡi, tức nói lời ly gián; (6) Nói thô ác, tức mắng nhiếc thậm tệ, nói lời ác độc; (7) Nói lời thêu dệt; (8) Tham dục; (9) Sân si; (10) Tà kiến. (Tự điển Tinh Tuyển)
[43] Còn gọi là đại từ đại bi của chư Phật, tuyệt đối bình đẳng.
[44] Thân, khẩu, ý
[45] Phật thân, Phật ngôn, Phật trí
[46] (不二) Không hai. Cũng gọi Vô nhị, Ly lưỡng biên (lìa hai bên). Đối với hết thảy hiện tượng không phân biệt, hoặc vượt lên các thứ phân biệt. Cứ theo Đại thừa nghĩa chương quyển 1 nói, thì lí Nhất thực màu nhiệm, vắng lặng, lìa các tướng, như bình đẳng, không đây, không kia, cho nên gọi là Bất nhị. Cũng gọi Chân như, pháp tính. Nhưng đặc biệt được xem trọng về phương diện nhận thức luận và phương pháp luận. Như Trung luận v.v... đã tổng kết tư tưởng Bát nhã, dùng Bát bất: bất sinh, bất diệt v.v... để biểu hiện rõ bản chất của pháp tính tạo thành nhận thức Phật giáo không dính mắc thiên kiến, khế hợp pháp tính: gọi là Trung đạo quán. (Từ điển Phật Quang)
[47] Tam đồ. Chỉ cho nhà lửa trong phẩm Thí Dụ, kinh Pháp Hoa.
[48]有身見Kiến chấp về ngã, không thể vượt thoát ra khỏi ý niệm về 'Ngã và Ngã sở'(s: satkāya-dṛḍṭi; p: sakkāya-diṭṭhi). Gọi tắt là Thân kiến 身見. Phiên âm là Tát-ca-da kiến 薩迦耶見. Đây là một trong Tứ kiến liên hệ đến mạt-na thức. (Từ điển Phật học Anh-Hán-Việt)
[49] Chỉ cho Chân Không Diệu Hữu
[50]五眼): chỉ cho 5 loại nhãn lực. (1) Nhục Nhãn (s: māṃsa-cakṣus, 肉眼), là con mắt vốn có đầy đủ nơi nhục nhân này. (2) Thiên Nhãn (s: divya-cakṣus, 天眼), là con mắt của người trên cõi Trời Sắc Giới (s: rūpa-dhātu, 色界), chứng đắc được nhờ có tu Thiền Định. Mắt này xa gần trước sau, trong ngoài, ban ngày hay ban đêm, trên hay dưới đều có thể thấy được. (3) Tuệ Nhãn (s: prajñā-cakṣus, 慧眼), là con mắt của hàng Nhị Thừa, có thể biết rõ chân không vô tướng, cũng có thể quán sát các hiện tượng đều là không tướng, định tướng. (4) Pháp Nhãn (s: dharma-cakṣus, 法眼), là con mắt của chư vị bồ tát có thể quán chiếu thấy tất cả các pháp môn để cứu độ hết thảy chúng sanh. (5) Phật Nhãn (s: buddha-cakṣus, 佛眼), là con mắt của Phật, có đầy đủ tác dụng của 4 loại nhãn lực vừa nêu trên. Mắt này không có gì không thấy biết, cho đến không việc gì không biết, không nghe; cả nghe và thấy đều dùng hỗ tương lẫn nhau, không có tư duy nào mà không thấy được. (Phật học Tinh tuyển )
[51] Thông đạt danh tự của các pháp vô ngại, gọi là Pháp vô ngại trí. 2. Thông đạt tất cả các nghĩa lý vô ngại, gọi là Nghĩa vô ngại trí. 3. Hay dùng đủ thứ từ ngữ phương tiện tùy nghi diễn thuyết, gọi là Từ vô ngại trí. 4. Nơi các pháp nghĩa viên dung vô ngại, khéo thuyết tự tại, khiến chúng sanh dễ được tín giải thọ trì, gọi là Khéo thuyết vô ngại trí. Nói chung gọi là Tứ vô ngại trí. (Ngữ vựng danh từ Thiền học)
[52] Khổ, tập, diệt, đạo tức Tứ Đế.
[53] Bất nhị
[54] (開權顯實) Phá trừ sự chấp trước vào quyền giáo phương tiện của Tam thừa để hiển bày nghĩa chân thực Nhất thừa. Đây là từ ngữ phán thích kinh Pháp hoa do tông Thiên thai lập ra. Khai nghĩa là khai trừ, khai phát, khai thác; khai trừ là trừ bỏ quyền chấp(chấp vào giáo pháp phương tiện tạm thời), Khai phát là do cơ duyên bên trong thuần thục mà lìa quyền chấp, khai thác là quyền tức thực mà mở rộng ý nghĩa về thể của nó. Giáo pháp do đức Phật thuyết giảng trước kinh Pháp hoa là giáo pháp phương tiện, nhằm thích ứng với những căn cơ chưa thuần thục, hầu dắt dẫn chúng sinh vào giáo pháp chân thực. Vì dùng phép phương tiện quyền giả (tạm thời) để hiển bày nghĩa chân thực, nên gọi là Khai quyền hiển thực. Tuy nhiên, quyền thực vốn chẳng khác nhau, nếu trừ bỏ được chấp trước này, thì quyền thực không hai, quay về với chân nghĩa Nhất Phật thừa. Trên đây là nói theo Hóa nghi Tích môn thuộc nửa bộ trước của kinh Pháp hoa. Mà Khai tích hiển bản thuộc Hóa nghi Bản môn của nửa bộ sau cũng gọi là Khai quyền hiển thực tức phá trừ chấp trước vào quyền giáo Tích môn, để hiển bày thực nghĩa Bản môn. Nếu nói theo trọn bộ kinh Pháp hoa, thì 14 phẩm trước là Khai tam hiển nhất, 14 phẩm sau là Khai cận hiển viễn, tức là nửa bộ trước trừ bỏ giáo pháp Tam thừa phương tiện, để hiển bày giáo pháp Nhất thừa chân thực; còn nửa bộ sau là trừ bỏ Cận Phật thùy tích (Phật mới thành), mà hiển bày Chân Phật bản địa (Phật đã thành từ lâu xa). Như vậy, tất cả 28 phẩm kinh Pháp hoa đều qui về Khai quyền hiển thực. Lại nữa, Khai tam hiển nhất là nói theo người, căn cơ, trái lại, Khai quyền hiển thực là nhằm giải thích lí, giáo. [X. Pháp hoa kinh huyền nghĩa Q.5 thượng; Pháp hoa văn cú kí Q.8 phần 3; Thiên thai tứ giáo nghi tập chú Q.thượng; Pháp hoa huyền luận Q.3, Q.5]. (xt. Bản Tích Nhị Môn, Khai Tam Hiển Nhất, Khai Cận Hiển Viễn). (Từ điển Phật Quang )
[55] Xem chú thích # 54
[56] Xem chú thích # 54
[57] Chỉ người trưởng giả, phẩm Tín Giải, kinh Pháp Hoa.
[58] Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát
[59] Đại sự nhân duyên Phật ra đời là để cho chúng sinh khai thị ngộ nhập Phật tri kiến
[60] Bồ tát, Thanh văn, Duyên giác, Trời, Người, A tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh
[61] Bồ tát, Duyên giác, Thanh văn
[62] Trời, người, a tu la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh
[63] Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh
[64] (果地) Cũng gọi Quả vị, Quả cực. Đối lại: Nhân vị, Nhân địa. Do tu hành nhân vị mà chứng được cực vị của quả mãn Diệu giác. Kinh Lăng nghiêm quyển 4 (Đại 19, 122 thượng) nói: Phải nên quán xét cho thấu đáo, nhân địa phát tâm và quả địa giác giống nhau hay khác nhau. (Từ điển Phật Quang )
[65] (因地) Đối lại: Quả địa. Đồng nghĩa: Nhân vị. Chỉ cho các địa vi hoặc giai vị đạt được trong quá trình từ khi tu tập nhân hạnh đến chứng quả vị. Nhân địa có thể chia làm 2 loại: 1. Nói theo quả vị Phật, thì từ Đẳng giác trở xuống đều là Nhân địa, như câu Bồ tát Pháp tạng khi còn ở nhân vị trong Giáo hành tín chứng quyển 2, là nói theo quả địa của đức Phật A di đà. Vì bồ tát Pháp tạng là danh hiệu của đức Phật A di đà khi còn ở địa vị tu nhân (nhân vị) trong quá khứ. 2. Nói theo Bồ tát từ Sơ địa trở lên, thì các giai vị Bồ tát trước Thập địa đều là nhân vị. Tóm lại, giai vị đã chứng gọi giai vị chưa chứng là Nhân địa. Như kinh Lăng nghiêm quyển 5 (Đại 19, 128 trung) nói: Con xưa kia ở nơi nhân địa dùng tâm niệm Phật mà vào Vô sinh nhẫn. (xt. Quả Địa). (Từ điển Phật Quang )
[66] Người đàn bà quê mùa
[67] Trí tuệ của kẻ chưa thấy tánh, hoặc trí thức của thế gian.
[68] Tức Đông độ, Trung Hoa.
[69] (蓮社): tức Bạch Liên Xã (白蓮社), là đoàn thể tu pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ, do Huệ Viễn (慧遠, (334-416) ở Lô Sơn (廬山) đời Đông Tấn sáng lập ra vào năm 402 với một nhóm đồng chí 123 người. Cho nên Liên Xã còn có nghĩa là Tịnh Độ (淨土), thế giới của đức Phật A Di Đà (s: Amitābha, 阿彌陀).
[70] (曇鸞) (476-?) Vị cao tăng của Tịnh độ giáo ở thời Nam Bắc triều, người Nhạn môn (huyện Đại, tỉnh Sơn tây), có thuyết nói sư là người Vấn thủy Tinh châu (Thái nguyên, Sơn tây), không rõ họ gì. Nhật bản tôn sư là Sơ tổ trong 5 vị Tổ của tông Tịnh độ, Tổ thứ 3 trong 7 vị tổ của Chân tông. Nhà sư ở gần núi Ngũ đài, sư thường được nghe những chuyện thần tích kinh dị, nên lúc 10 tuổi sư lên núi xin xuất gia.
[71] Lương Vũ Đế.
[72] (538-597) Tổ thứ tư Thiên Thai Tông.
[73] (道綽) (562 - 645) Vị tăng thuộc tông Tịnh độ đời Đường, người Vấn thủy, Tinh châu (huyện Thái nguyên, tỉnh Sơn tây), có thuyết nói là người Tấn dương, Tinh châu, họ Vệ. Cũng gọi Tây hà thiền sư. Là tổ thứ 2 của tông Tịnh độ, vị thứ 4 trong 7 vị cao tăng của Chân tông Nhật bản. Năm 14 tuổi, sư xuất gia, học khắp các kinh luận, đặc biệt tinh thông kinh Niết bàn và từng giảng dạy kinh này tất cả 24 lần. Sau, sư ở tại chùa Huyền trung do ngài Đàm loan sáng lập, nhân đọc văn bia của ngài Đàm loan mà chuyển sang tín ngưỡng Tịnh độ, lúc ấy sư được 48 tuổi, từ đó mỗi ngày sư đều niệm Phật 7 vạn biến. Suốt một đời, sư giảng kinh Quán vô lượng thọ tới hơn 200 lần chủ trương bất luận là người xuất gia hay tại gia đều nên lấy việc niệm Phật làm cốt yếu.
[74]淨土三部經; Ba bộ kinh căn bản của Tịnh độ tông: Vô lượng thọ kinh (無量壽經), Quán Vô lượng thọ kinh (觀無量壽經) và A-di-đà kinh (阿彌陀經).
[75] (善導, Shàn-dào, Zendō, 613-681): vị tăng sống dưới thời nhà Đường, người hình thành nên Tịnh Độ Giáo Trung Quốc, vị tổ thứ 3 của Tịnh Độ Tông và được liệt vào hàng thứ 5 trong 7 vị cao tăng của Chơn Tông Nhật Bản. Ông xuất thân Lâm Truy (臨淄), Sơn Đông (山東), họ Chu (朱), hiệu Chung Nam Đại Sư (終南大師). Trước khi ông ra đời là thời đại của Văn Đế (文帝), vị vua rất sùng ngưỡng Phật Giáo; vị tổ khai sáng Thiên Thai là Trí Khải Đại Sư (智顗大師) thị tịch trước khi ông ra đời 16 năm; còn Đạo Xước (道綽) thì quy y với Tịnh Độ Giáo trước khi ông sinh ra 4 năm. Nhà dịch kinh nổi tiếng Huyền Trang (玄奘) thì hoạt động cùng thời đại với ông. Lúc nhỏ ông theo xuất gia với Minh Thắng Pháp Sư (明勝法師) ở Mật Châu (密州), tinh thông các kinh Pháp Hoa, Duy Ma, v.v. Vào năm thứ 15 (641) niên hiệu Trinh Quán (貞觀) đời vua Thái Tông nhà Đường, ông đến Huyền Trung Tự (玄中寺) ở Tây Hà (西河), yết kiến Đạo Xước (道綽), tu học sám pháp Phương Đẳng và nghe giảng Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量壽經). Từ đó về sau, ông chuyên tâm niệm Phật, tinh tấn vượt qua mọi khổ nhọc, cuối cùng đạt được Niệm Phật Tam Muội và trong giấc mơ thấy được cảnh giới trang nghiêm của Tịnh Độ. (Phật học Tinh tuyển )
[76] Thuật ngữ Thiền: Thật tế lý địa bất lập nhất pháp (Cảnh giới chân thật không lập một pháp)
[77] Thuật ngữ Thiền: Phật sự môn trung bất xã nhất trần (Có chỗ chép là Vạn sự) Trong Phật sự/ Vạn sự việc nhỏ đến đâu cũng không bỏ qua mà không làm.
[78] (雲棲袾宏, 1535-1615): tự là Phật Tuệ (佛慧), hiệu Liên Trì (蓮池), do vì ông từng sống tại Vân Thê Tự (雲棲寺) thuộc Ngũ Vân Sơn (五雲山), Hàng Châu (杭州), Tỉnh Triết Giang (浙江省), được gọi là Vân Thê (雲棲), xuất thân Phủ Nhân Hòa (仁和府), Hàng Châu, họ Trầm (沉). Năm 31 tuổi, ông theo xuất gia với Tánh Thiên Lý (性天理) ở Tây Sơn (西山), rồi đến tham học với Tùng Nham Đắc Bảo (松嵓得寳). Sau đó, ông rời vị này, đi qua vùng Đông Xương (東昌), chợt nghe tiếng trống trên chòi cao trên thành mà đại ngộ. Đến năm thứ 5 (1571) niên hiệu Long Khánh (隆慶), ở độ tuổi 37 ông bắt đầu đi hành cước, đến Vân Thê Sơn (雲棲山), dọn sạch cỏ ngôi cổ tự và lưu lại nơi đây. Ông đã dồn hết tâm huyết của mình vào việc giáo dưỡng và trước tác tại vùng đất này và để lại cho đời hơn 30 loại tác phẩm với hơn 300 quyển.
[79] Tùng Nham Đắc Bảo (松嵓得寳).
[80] (蕅益智旭) Cao tăng Trung quốc sống vào đời Minh, người Mộc độc, huyện Ngô, tỉnh Giang tô, họ Chung, tự Ngẫu ích, hiệu là Bát bất đạo nhân. Vì sư ở núi Linh phong (huyện Hàng, tỉnh Chiết giang) xây chùa, lập Liên xã, viết sách... nên người đời gọi sư là Linh phong Ngẫu ích Đại sư. Thủa nhỏ, sư theo Nho học, thề sẽ tiêu diệt đạo Phật và đạo Lão, nhưng khi tình cờ được đọc các tác phẩm Tự tri lục và Trúc song tùy bút của ngài Châu hoành, sư liền đốt bỏ cuốn Tịch Phật luận (bàn về việc diệt Phật) do sư biên soạn. (Từ điển Phật Quang)
[81] Huệ Viễn, Tăng sĩ Trung Hoa, (523-592), còn gọi là Tịnh Ảnh Huệ Viễn 浄影慧遠; là học giả nổi tiếng với những luận giải về Như Lai tạng và A-lại-da thức.
[82] Xem # 25
[83] Thích Đề Hoàn Nhân, thiên chủ cõi Đao Lợi
[84] Chỉ cho tam thừa hoặc pháp phương tiện
[85] thấu hiểu chân thật, thông đạt tận nguồn cội.
[86] Ngũ uẩn, căn, trần, thức.
[87] Hệ Châu, kinh Pháp Hoa.
[88] (八苦) I. Bát khổ. Tám khổ. Là tám thứ quả khổ mà chúng sinh vòng quanh trong sáu đường phải lãnh chịu, là nội dung chủ yếu của Khổ đế trong bốn đế. 1. Sinh khổ. Có năm thứ: a. Thụ thai, nghĩa là khi thần thức gá vào thai mẹ, ở trong bụng mẹ chật chội dơ bẩn. b. Chủng tử, nghĩa là khi thần thức được gá vào di thể (tinh trùng và trứng) của cha mẹ, hạt giống thức phải tùy thuộc hơi thở ra vào của người mẹ, không được tự tại. c. Tăng trưởng, nghĩa là ở trong bụng mẹ chín tháng mười ngày, nóng bức nung nấu, thân hình lớn dần, dưới ruột non trên ruột già, khoảng giữa chật hẹp như tù ngục. d. Xuất thai, nghĩa là khi mới sinh, có gió lạnh gió nóng thổi vào thân mình và quần áo cọ xát vào da mỏng mềm nhũn, đau rát như đâm như cắt. e. Chủng loại, nghĩa là về nhân phẩm có giàu sang, nghèo hèn, về tướng mạo thì có đầy đủ, khiếm khuyết, xinh đẹp, xấu xí v.v... 2. Lão khổ. Có hai thứ: a. Tăng trưởng, nghĩa là từ trẻ thơ đến trai tráng đến già cả, khí lực suy yếu, đi đứng không vững. b. Diệt hoại, nghĩa là thịnh đi suy đến, tinh thần hao mòn, mệnh sống qua mau, dần dần hoại diệt. 3. Bệnh khổ. Có hai thứ: a. Thân bệnh, nghĩa là khi bốn đại (bốn nguyên tố đất, nước, lửa, gió) mất thăng bằng thì tật bệnh phát sinh. Như khi đất mất thăng bằng thì thân nặng trĩu, gió không điểu hoà thì toàn thân tê cứng, nước mất thăng bằng thì thân thể phù thũng, lửa không điều hoà thì khắp mình nóng bức. b. Tâm bệnh, nghĩa là trong lòng khổ não, lo buồn thương đau. 4. Tử khổ. Có hai thứ: a. Thân tử, nghĩa là vì hết số nên đau ốm mà chết. b. Ngoại duyên tử, nghĩa là hoặc gặp duyên ác, hoặc gặp các tai nạn nước, lửa mà chết. 5. Ái biệt li khổ, nghĩa là những người thân yêu mà phải chia lìa, không được sống chung 6. Oán tắng hội khổ, nghĩa là những kẻ cừu thù oán ghét, mình muốn xa lánh mà không được, trái lại, cứ phải chung sống bên nhau. 7. Cầu bất đắc khổ, nghĩa là hết thảy sự vật trong thế gian, lòng mình ưa thích, mà cầu mong không được. 8. Ngũ ấm thịnh khổ, nghĩa là sắc, thụ, tưởng, hành, thức gọi là năm ấm. Âm, có nghĩa che lấp; tức năm ấm hay che lấp chân tính, không cho hiển lộ ra. Thịnh, có nghĩa thịnh vượng, dung chứa. Tức là tất cả các nỗi khổ của sinh, lão, bệnh, tử kể ở trên tụ tập lại, cho nên gọi là ngũ ấm thịnh khổ. [X. Trung a hàm Q.7; luận Đại tì bà sa Q.78; luận Đại thừa a tì đạt ma tạp tập Q.6]. II. Bát khổ. Luận Du già sư địa quyển 44 còn nêu ra tám nỗi khổ khác nhau như sau: khổ vì rét, khổ vì nóng, khổ vì đói, khổ vì khát, khổ vì mất tự do, khổ vì tự mình giày vò mình, khổ vì người khác ức hiếp, khổ vì phải sống dưới một loại quyền uy nào đó trong một thời gian dài. (Từ điển Phật Quang )
[89] Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
[90] Bồ tát còn tu ở pháp môn phương tiện, thứ bậc.
[91] Vị Phật trước nhập diệt, vị Phật sau bổ xung vào thì gọi là Bổ Xứ.
[92] Chỉ cho Đẳng giác Bồ tát
[93] Tính là tự thể của các pháp. Tướng là tướng mạo, nghĩa lý của các pháp đó, còn gọi là pháp tướng. Các tông Câu Xá, Thành Thật làm sáng tỏ thuyết Tính Tướng của Tiểu thừa. Các tông Du Già, Duy Thức thuyết minh cho thuyết Tính Tướng của Đại thừa. Vì vậy học tập các luận thuyết về Tính Tướng thì gọi là Tính Tướng Học. (Tự điển Phật học)
[94]八難; C: bānán; S: aṣṭāvakṣanā; tám nạn, tám trường hợp không may có thể xảy ra trên con đường đạt giác ngộ của một tu sĩ. Bát nạn bao gồm:
1. Địa ngục (地獄; s: naraka); 2. Súc sinh (畜生; s: tiryañc); 3. Ngạ quỷ (餓鬼; s: preta); 4. Trường thọ thiên (長壽天; s: dīrghāyur-deva), là cõi trời thuộc sắc giới với thọ mệnh cao. Thọ mệnh cao cũng là một chướng ngại vì nó làm mê hoặc hành giả, làm hành giả dễ quên những nỗi khổ của sinh lão bệnh tử trong Luân hồi; 5. Biên địa (邊地; s: prat-yantajanapāda), là những vùng không nằm nơi trung tâm, không thuận tiện cho việc tu học chính pháp; 6. Căn khuyết (根缺; s: indriyavaikalya), không có đủ giác quan hoặc các giác quan bị tật nguyền như mù, điếc…; 7. Tà kiến (雅見; s: mithyādarśana), những kiến giải sai lệch, bất thiện; 8. Như Lai bất xuất sinh (如來不出生; s: tathāga-tānām anutpāda), nghĩa là sinh sống trong thời gian không có Phật xuất hiện hoặc giáo pháp của Ngài.
[95] Tên hai tập sách nói về các loại thuốc
[96] Thị phi
[97] Can Tương, Mạt Gia là hai thanh kiếm quý đời xưa, có thể chém đá dễ như chém bùn.
[98] Sắc, thọ, tưởng, hành, thức
[99] Chân Không
[100] Diệu Hữu
[101] Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền định, Trí tuệ
[102] (西歸直指) Tác phẩm, 4 quyển, do cư sĩ Chu mộng nhan soạn vào đời Thanh, được thu vào Vạn tục tạng tập 2. Nội dung sách này nói về pháp môn niệm Phật vãng sinh, khuyến hóa người đời đềunên qui về Tịnh độ phương Tây, vì thế nên lấy tên sách là Tây qui trực chỉ (chỉ thẳng về phương Tây). Đầu quyển có lược truyện của tác giả và các biểu đồ về 10 việc thù thắng ở phương Tây, 9 điều thù thắng của pháp môn niệm Phật, 4 loài 6 đường trong 3 cõi, 7 thứ bất tịnh quán, bạch cốt quán... Quyển 1 nói về Tịnh độ cương yếu; quyển 2 nói vềNghi vấn chỉ nam; quyển 3 nói về Khải tín tạp thuyết, gồm các bài văn khuyến hóa tu hành cầu vãng sinh Tịnh độ; quyển 4 là Vãng sinh sự lược, tức nêu sơ lược sự tích vãng sinh của các vị Bồ tát, Cao tăng, Vương thần, cư sĩ, đồng tử, phụ nữ và người cải ác hướng thiện... (Từ điển Phật Quang)
[103] Hiệu là Bắc Thông Châu Vương
[104] Đại sư Ấn Quang giảng “Gia Ngôn Lục” năm 1936.
[105] Trần Tích Chu
[106] Kinh Pháp Hoa. Kẻ soi gương không thấy đầu sinh kinh hoảng.
[107] Hệ châu trong phẩm Tín Giải, kinh Pháp Hoa
[108] Phẩm thứ 39, kinh Hoa Nghiêm
[109] Thánh hiền đời trước.
[110] Kinh Hoa Nghiêm