Abhidhammattha Saṅgaha - A Manual of Abhidhamma
VI DIỆU PHÁP TOÁT YẾU
Nārada Mahā Thera - Phạm Kim Khánh dịch
CHƯƠNG IV
VĪTHI-SAṄGAHA VIBHĀGO
Phân tách Tiến trình tâm
Tiến Trình Tâm Phát Sanh Xuyên Qua Năm Căn Môn
Phần Nhập Đề
1.
Cittuppādānamicc' evaṁ katvā saṅgaham uttaraṁ
Bhūmi-puggalabhedena pubbāparaniyāmitaṁ
Pavattisaṅgahaṁ nāma paṭisandhippavattiyaṁ
Pavakkhāma samāsena yathāsambhavato kathaṁ.
§1
Đã hoàn tất phần khái luận cao siêu về tâm và các tâm sở đồng phát sanh (liên quan đến thọ v.v...) tôi sẽ vắn tắt mô tả theo thứ tự, phần khái luận về tiến trình (tư tưởng) trong cả hai, lúc tái sanh và trong kiếp sống, tùy theo cảnh giới và cá nhân, và tiến trình ấy được xác định bởi loại tâm nào, trôi qua hoặc trước hoặc sau (1).
Chú Giải
1.
Trong chương trước, những loại tâm và các tâm sở đồng phát sanh với các loại tâm ấy được đề cập đến, tùy hợp theo thọ, nhân v.v... Trong chương nầy tác giả đề cập đến những tiến trình tâm phát sanh xuyên qua tâm và năm môn (cửa giác quan) vật chất, tùy theo những loại và những cảnh giới khác nhau.
Câu Pāli "pubbāparaniyāmitaṁ" cần nên được giải thích. Bản chú giải ghi như sau -- tâm nầy phát sanh sau quá nhiều loại tâm, và sau tâm nầy có thật nhiều loại tâm phát sanh tiếp theo. (idaṁ ettakehi paraṁ, imassa anantaraṁ, ettakāni cittāni).
Paṭisandhi ở đây là tiến trình tâm sơ khởi, phát sanh ngay lúc bà mẹ thọ thai em bé trong kiếp sống mới của em. Pavatti là tất cả những tiến trình tâm xảy diễn trong kiếp sống. Hai câu nầy được phiên dịch trong quyển Compendium of Philosophy như sau:
Bản tóm lược về những sự phát sanh tư tưởng giờ đây đã hoàn tất, tôi sẽ tiếp tục đề cập một cách chính xác, tóm tắt lại, những tiến trình tâm lúc sanh và trong kiếp sống, theo thứ tự, 'cái sau', 'cái trước', có sự phân biệt về cả hai, cá nhân và cảnh giới. (trang 124)
-ooOoo-
Những Tiến Trình Tâm
2.
Cha vatthūni, cha dvārāni, cha ālambanāni, cha viññāṇāni, cha vīthiyo, chadhā visayappavatti c'āti vīthisaṅgahe chachakkāni veditabbāni.
Vīthimuttānaṁ pana kamma-kammanimitta- gatinimitta-vasena tividhā hoti visayappavatti.
Tattha vatthudvārālambanāni pubbe vuttanayen' eva.
Cakkhuviññāṇaṁ, sotaviññāṇam, ghāṇaviññāṇaṁ, jivhāviññāṇaṁ, kāyaviññāṇaṁ, manoviññāṇaṁ c'āti cha viññāṇāni.
Vīthiyo pana cakkhudvāravīthi, sotadvāravīthi, ghāṇadvāravīthi, jivhādvāravīthi, kāyadvāravīthi, manodvāravīthi c'āti dvāravasena vā cakkhu- viññāṇavīthi, sotaviññāṇavīthi, ghāṇaviññāṇavīthi, jivhāviññāṇavīthi, kāyaviññāṇavīthi, mano-viññāṇavīthi c'āti viññāṇavasena vā dvārappavattā cittappavattiyo yojetabbā.
3.
Atimahantaṁ, mahantaṁ, parittaṁ atiparittaṁ c'āti pañcadvāre, manodvāre, vibhūtamavibhūtaṁ c'āti chadhā visayappavatti veditabbā
Katham? Uppādaṭṭhitibhavaṅgavasena khaṇatta- yaṁ ekacittakkhaṇaṁ nāma. Tāni pana sattarasa- cittakkhaṇāni rūpadhammānamāyu. Ekacittakkha- ṇātītāni vā, bahucittakkhaṇātītāni vā ṭhitippattān' eva pañcālambanāni pañcadvāre āpātham āgacchanti. Tasmā yadi ekacittakkhaṇātitakaṁ rūpārammaṇaṁ cakkhussa āpātham āgacchati. Tato dvikkhattuṁ bhavaṅge calite bhavaṅgasotaṁ vocchinditvā tam'eva rūpārammaṇaṁ āvajjentaṁ pañcadvārāvajjanacittaṁ uppajjitvā nirujjhati. Tato tass' ānantaraṁ tam'eva rūpaṁ passantaṁ cakkhuviññāṇaṁ, sampaṭicchantaṁ sampaṭicchana cittaṁ, santīrayamānaṁ santīraṇacittaṁ, vavatthapentaṁ votthapanacittaṁ c'āti yathāk- kamaṁ uppajjitvā nirujjhanti. Tato paraṁ ek'ūnatiṁsakāmāvacarajavanesu yaṁ kiñci laddhapaccayaṁ yebhuyyena sattakkhattuṁ javati. Javanānubandhāni ca dve tadārammaṇapākāni yathārahaṁ pavattanti. Tato paraṁ bhavaṅgapāto.
Ettāvatā cuddasacittuppādā dve bhavaṅgacalanāni pubbevātītakamekacittakkhaṇanti katvā sattarasa cittakkhaṇāni paripūrenti. Tato paraṁ nirujjhati. Ālambanam'etaṁ atimahantaṁ nāma gocaraṁ.
Yāva tadālamban' uppādā pana appahontātītakam- āpāthaṁ āgataṁ ālambanaṁ mahantaṁ nāma. Tattha javanāvasāne bhavaṅgapāto' va hoti. Natthi tadālambanuppādo.
Yāva javanuppādā'pi appahontātītakamāpātham āgataṁ ālambanaṁ parittaṁ nāma.
Tattha javanaṁ pi anuppajjitvā dvattikkhattuṁ votthapanam' eva pavattati. Tato paraṁ bhavaṅgapāto'va hoti.
Yāva votthapanuppādā ca pana appahontātītakam āpātham āgataṁ nirodhāsannamālambanaṁ atiparittaṁ nāma. Tattha bhavaṅgacalanam' eva hoti. Natthi vīthicittuppādo.
Icc'evaṁ cakkhudvāre, tathā sotadvārādīsu c'āti sabbathā'pi pañcadvāre tadālambana-javana-votthapanamoghavāra-saṅkhātānaṁ catunnaṁ vārānaṁ yathākkamaṁ ālambaṇabhūtā visayappavatti catudhā veditabbā.
4.
Vīthicittāni satt' eva cittuppādā catuddasa
Catupaññāsa vitthārā pañcadvāre yathārahaṁ.
Ayam' ettha pañcadvāre vītthicittappavattinayo.
§2.
Trong khái luận về những tiến trình tâm, sáu loại phân hạng phải được hiểu biết, đó là:
i. sáu căn,
ii. Sáu môn,
iii. đối tượng [1],
iv. Sáu loại tâm,
v. Sáu tiến trình (2), và
vi. Sáu lối phát hiện của đối tượng (3).
Sự phát hiện của đối tượng đến tâm không tiến trình [2] có ba loại là:
i. Nghiệp,
ii. Biểu tượng của Nghiệp và,
iii. Biểu tượng lâm chung.
Nơi đây, các căn, môn, và đối tượng đã có được mô tả trước.
Sáu loại tâm thức là nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
Tùy theo các môn, những tiến trình tâm là:
1. Tiến trình liên quan đến nhãn môn,
2. Tiến trình liên quan đến nhĩ môn,
3. Tiến trình liên quan đến tỷ môn,
4. Tiến trình liên quan đến thiệt môn,
5. Tiến trình liên quan đến thân môn, và
6. Tiến trình liên quan đến ý môn.
Hoặc, tùy theo loại thức, những tiến trình tâm là:
1. Tiến trình liên quan đến nhãn thức,
2. Tiến trình liên quan đến nhĩ thức,
3. Tiến trình liên quan đến tỷ thức,
4. Tiến trình liên quan đến thiệt thức,
5. Tiến trình liên quan đến thân thức, và
6. Tiến trình liên quan đến ý thức.
Phương thức diễn tiến của tâm liên quan đến các môn phải được phối hợp như thế ấy.
§3
Sáu lối phát hiện của đối tượng (4) phải được hiểu như sau:
a. Ở năm môn:
i. 'rất lớn',
ii. 'lớn',
iii. 'nhỏ',
iv. 'rất nhỏ'.
b. Ở ý môn:
v. 'sáng',
vi. 'tối'.
Mức độ của những đối tượng được xác định như thế nào?
Ba khoảnh khắc sanh, trụ, diệt hợp thành một chặp tư tưởng (sát-na). Thời gian tồn tạicủa vật chất bằng mười bảy chặp tư tưởng như vậy.
Năm đối tượng vật chất nhập vào (tâm) theo con đường của năm môn (cửa giác quan) lúc ở giai đoạn tịnh, khi một hay nhiều chặp tư tưởng vừa trôi qua.
Do đó tiến trình tâm (4) trôi chảy như sau:
Thí dụ như một đối tượng của nhãn quan vừa trôi qua một chặp (i), theo đường của mắt. Kế đó tâm bhavaṅga giao động trong một chặp rồi diệt (ii, iii) chấm dứt dòng bhavaṅga. Liền sau đó ngũ môn hướng tâm (iv) phát sanh và chấm dứt sự hay biết chính đối tượng của mắt đó.
Tiếp theo là những chặp tư tưởng sau đây tuần tự phát sanh và chấm dứt:
(v) nhãn thức, nhìn thấy hình dáng của đối tượng, (vi) (vii) tiếp thọ tâm, thâu nhận hình dáng ấy, (viii) (ix) suy đạc tâm, quan sát hình dáng ấy, (x) (xi) xác định tâm, xác định hình dáng ấy. (xii) Kế đó một trong 29 loại tâm thuộc Dục Giới, được tạo duyên như vậy, thường trôi qua trong bảy chặp (ix-xv).
Sau những chặp javana, hai chặp tâm đăng ký (xvi-xvii) tùy trường hợp phát sanh. Sau cùng đến giai đoạn chìm biến vào bhavaṅga.
Đến đây mười bảy chặp tư tưởng đã hoàn tất là:
* mười bốn sự 'khởi sanh tư tưởng' (cittuppāda)
* hai giao động của bhavaṅga, và
* một chặp tư tưởng trôi vào bước sơ khởi.
Rồi đối tượng chấm dứt.
Một đối tượng như thế được gọi là 'rất lớn' [3].
Một đối tượng nhập vào theo đường lối các giác quan, trôi qua (vài chặp), và không tồn tại được cho đến khi chặp đăng ký phát sanh, được gọi là 'lớn'.
Một đối tượng nhập vào theo đường lối các giác quan, trôi qua (vài chặp), và không diễn tiến được đến những chặp javana, được gọi là 'nhẹ'.
Trong trường hợp nầy, chí đến các chặp javanas cũng không phát sanh, mà chỉ có tâm xác định tồn tại trong hai hoặc ba chặp, và kế đó chìm biến trong bhavaṅga.
Một đối tượng sắp chấm dứt nhập vào dòng tâm theo đường lối các giác quan, trôi quavài chặp, và không tồn tại được đến khi chặp tâm xác định khởi sanh, được xem là 'rất nhẹ'.
Trong trường hợp nầy chỉ có sự giao động của chặp bhavaṅga mà không có tiến trình.
Ở nhãn môn như thế nào, ở các cửa giác quan kia như nhĩ môn v.v... cũng dường thế ấy.
Trong tất cả năm môn, đối tượng phát hiện theo bốn đường lối phải được hiểu biết theo thứ tự như sau:
1. diễn tiến (chấm dứt ở) đăng ký.
2. diễn tiến (chấm dứt ở) javana.
3. diễn tiến (chấm dứt ở) xác định, và
4. diễn tiến không đáng kể.
§4
Có bảy [4] phương cách và mười bốn loại tâm khác nhau trong tiến trình tâm. Tính với đầy đủ chi tiết, có 54 [5] tùy trường hợp, trong năm môn.
Đây là phương thức diễn tiến của tiến trình tâm phát sanh xuyên qua năm môn.
Ghi chú:
[1] Ba loại đầu tiên đã được thảo luận trong một chương trước. Nơi đây chỉ lặp lại để cho đủ sáu căn.
[2] Đó là paṭisandhi, bhavaṅga, và cuti.
[3] Xem các đồ biểu về Tiến trình Tâm ở cuối chương.
[4] Đó là: 1. Āvajjana, 2. Pañcaviññāṇa, 3. Sampaṭicchana, 4. Santīraṇa, 5. Votthapana, 6. Javana (7 chặp) và 7. Tadālambana. Bảy chặp nầy trở thành 14, nếu tính riêng 7 chặp javana, và 2 chặp tadālambana.
[5] 54 bao gồm tất cả những loại tâm thuộc Dục Giới phát sanh xuyên qua năm môn.
Chú Giải
2. Vīthi, Lộ Trình
Xuất nguyên từ "vi" + căn "i", đi. Danh từ nầy có nghĩa là một lối đi, một con đườngnhưng ở đây được dùng theo nghĩa một diễn tiến, một tiến trình (paramparā). Một tiến trình tâm bao gồm nhiều chặp tư tưởng (sát-na tâm), và một chặp tư tưởng không bao giờ được gọi là citta-vīthi.
3. Visayappavatti
Các bản chú giải định nghĩa danh từ nầy là "sự biểu hiện của đối tượng trước các môn", hay là sự "khởi sanh của tâm do lối biểu hiện của một đối tượng như vậy". (visayānaṁ dvāresu, visayesu ca cittānaṁ pavatti).
Hiển nhiên là tác giả chọn lối giải thích trước.
4. Tiến Trình Tâm
Theo Abhidhamma (Vi Diệu Pháp), trong trạng thái bình thường không có khoảnh khắc nào mà chúng ta không có một loại tâm riêng biệt duyên theo một đối tượng -- vật chấthay tinh thần. Thời hạn một tâm như vậy được gọi là chặp tư tưởng, hay sát-na tâm. Khả năng hiểu biết của con người khó mà nhận định được sự nhanh chóng của những chặp tư tưởng liên tục nối tiếp nhau như vậy. Kinh sách ghi nhận rằng trong khoảng thời gianngắn ngủi của một cái nhoáng trên trời hay trong một chớp mắt, hàng tỷ chặp tư tưởngcó thể khởi sanh và hoại diệt.
Mỗi chặp tư tưởng bao gồm ba thì, gọi là tiểu sát-na (khaṇa) [1]. Đó là uppāda (khởi sanh, hay điểm xuất phát), ṭhiti (trụ, tịnh, hay phát triển) và bhaṅga (diệt, chấm dứt, hay tan rã).
Sanh, lão, và tử tương đương với ba thì ấy. Khoảng cách giữa sanh và tử được xem là hoại.
Tức khắc liền sau giai đoạn diệt của chặp tư tưởng, giai đoạn khởi của chặp tư tưởng kế đó được tạo điều kiện để phát sanh nối tiếp theo. Như vậy, mỗi đơn vị tâm hoại diệt tạo điều kiện cho một đơn vị khác khởi phát và cùng lúc, chuyển tất cả năng lực cho đơn vịkế nối ấy. Do đó, có sự trôi chảy liên tục của tâm như một dòng suối mà không có gián đoạn.
Khi một đối tượng vật chất phát hiện đến tâm xuyên qua một trong năm cửa giác quan(môn) là có một tiến trình tâm bao gồm một loạt những chặp tư tưởng riêng biệt, chặp nầy dẫn đến chặp khác, theo một trật tự đều đặn. Trật tự ấy được gọi là citta-niyāma (trật tự tâm linh). Thế thường, để có sự tri giác trọn vẹn về một đối tượng vật chất phát hiện xuyên qua một trong năm môn cần phải có đủ 17 sát-na. Như vậy thời gian tồn tại của vật chất là thời gian của 17 chặp tư tưởng. Qua thời hạn ấy, một đơn vị căn bản của vật chất hoại diệt và tạo điều kiện cho một đơn vị khác khởi sanh. Đối với đơn vị vật chấtmới nầy, sát-na đầu tiên được xem là giai đoạn sanh (uppāda), sát na cuối cùng là diệt (bhaṅga), và khoảng 15 sát-na còn lại là giai đoạn hoại, hay phát triển (ṭhiti hoặc jarā).
Thông thường, khi một đối tượng nhập vào dòng tâm xuyên qua bất luận môn nào, một chặp bhavaṅga trôi qua, được gọi là atīta bhavaṅga, bhavaṅga vừa qua, hay bhavaṅga quá khứ.
Kế đó một tiến trình tâm tương ứng trôi chảy không gián đoạn luôn 16 chặp tư tưởng. Trong trường hợp như vậy, đối tượng phát hiện được gọi là "rất lớn".
Nếu tiến trình chấm dứt sau dòng javana mà không tạo điều kiện cho hai chặp tâm đăngký (tadālambana) phát sanh -- và như vậy chỉ hoàn tất 14 chặp -- đối tượng của tiến trình nầy được gọi là "lớn".
Đôi khi tiến trình chấm dứt sau chặp tâm xác định (votthapana) mà không tạo điều kiệncho luồng javana khởi phát, và như vậy chỉ hoàn tất 7 chặp tư tưởng. Trong trường hợpnầy đối tượng của tiến trình được gọi là "nhẹ", hay "nhỏ".
Cũng có khi đối tượng nhập vào dòng tâm và chỉ làm giao động chặp bhavaṅga mà thôi. Như vậy, đối tượng được gọi là "rất nhẹ", hay "rất nhỏ".
Khi cái gọi là đối tượng "rất lớn" hay "lớn", được tri giác xuyên qua năm môn, và sau đó ý môn cảm nhận, hoặc khi một tiến trình tư tưởng khởi phát xuyên qua ý môn và diễn tiến kéo dài đến tâm đăng ký, một đối tượng như thế được gọi là "sáng".
Khi một tiến trình tâm phát sanh xuyên qua ý môn chấm dứt ở giai đoạn javana, đối tượng được gọi là "tối".
Thí dụ như người kia nhìn lên mặt trăng sáng tỏ trong một đêm quang đãng, trời không mây. Người ấy cũng thoáng thấy những vì sao lóng lánh xung quanh mặt trăng. Tuy chăm chú nhìn mặt trăng, nhưng người ấy không thể tránh được sự việc thấy những ngôi sao xung quanh. Mặt trăng được xem là đối tượng lớn, và những ngôi sao là những đối tượng phụ thuộc, nhỏ. Một cách chính xác không phải người kia tri giác trăng và sao cùng một lúc, vì mỗi chặp tư tưởng chỉ duyên theo một đối tượng mà thôi. Như vậy, mặt trăng và các vì sao được tri giác trong những khoảnh khắc riêng biệt khác nhau. Theo Abhidhamma (Vi Diệu Pháp), nói rằng người kia tri giác mặt trăng bằng tâm, hay thức, và tri giác các ngôi sao bằng tiềm thức là không đúng.
Ghi chú:
[1] Ba giai đoạn nầy tương ứng với quan điểm của Ấn Độ Giáo về Brahma (Tạo Hóa), Vishnu (Người Bảo Tồn) và Siva (Người Tiêu Diệt).
-ooOoo-
Manodvāre Vīthi-Cittappavattinayo
Tiến Trình tâm khởi phát xuyên qua ý môn
5.
Manodvāre pana yadi vibhūtamālambanaṁ āpātham āgacchati, tato paraṁ bhavaṅga-calana-manodvārā- vajjanajavanāvasāne tadārammaṇapākāni pavattanti. Tato paraṁ bhavaṅgapāto.
Avibhūte panālambane javanāvasāne bhavaṅgapāto' va hoti. Natthi tadālambanuppādo'ti.
6.
Vītthicittāni tīn'eva cittuppādā daseritā
Vitthārena pan' etthekacattāḷīsa vibhāvaye.
Ayam' ettha Paritta-javanavāro.
§5
Trong ý môn, khi một đối tượng "sáng" nhập vào bằng đường lối nầy, tâm quả đăng kýkhởi phát khi chặp bhavaṅga giao động, ý môn hướng tâm, và javana chấm dứt. Sau đó chìm biến vào bhavaṅga.
Trong trường hợp một đối tượng "tối", có sự chìm biến vào bhavaṅga sau khi luồng javana chấm dứt mà không tạo điều kiện cho tâm quả đăng ký khởi sanh.
§6
Ba phương cách và mười [1] loại tâm khác nhau trong tiến trình tâm được dạy. Sẽ được giải thích rằng, vào chi tiết, có 41 [2] loại ở đây.
Đây là phương cách diễn tiến của javana phụ.
Ghi chú:
[1] Đó là manodvārāvajjana, javana, và tadālambana. Khi 7 chặp javana và 2 chặp tadālambana được tính riêng biệt thì có tất cả là 10 chặp tư tưởng riêng biệt.
[2] Đã được đề cập đến ở trên: 54 - 13 (dvipañcaviññāṇa 10 + sampaṭicchaṇas 2 và pañcadvārāvajjana 1) = 41.
-ooOoo-
Appanā-vīthicittappavattinayo
Tiến trình tâm APPANĀ
7.
Appanājavanavāre pana vibhūtāvibhūtabhedo natthi. Tathā tadālambanuppādo ca.
Tattha hi ñāṇasampayuttakāmāvacarajavanānaṁ aṭṭhannaṁ aññatarasmiṁ parikammupacārānuloma- gotrabhū nāmena catukkhattum tikkhattum' eva vā yathākkamaṁ uppajjitvā niruddhe tadanantaram' eva yathārahaṁ catutthaṁ pañcamaṁ vā chabbīsati mahaggatalokuttarajavanesu yathābhinīhāravasena yaṁ kiñci javanaṁ appanāvīthimotarati. Tato paraṁ appanāvasāne bhavaṅgapāto'va hoti.
Tattha somanassasahagatajavanān'antaraṁ appanā' pi somanassasahagatā'va pāṭikaṇkhitabbā. Upekkhā- sahagatajavanānantaraṁ upekkhāsahagatā'va. Tatthā' pi kusalajavanānantaraṁ kusalajavanañ c'eva heṭṭhimañcaphalattayamappeti. Kriyājavanā- nantaraṁ kriyā javanaṁ arahattaphalañ ca appeti.
8.
Dvattiṁsa sukhapuññamhā dvādasopekkhakāparaṁ Sukhitakriyato aṭṭha cha sambhonti upekkhakā.
Puthujjanāna sekkhānaṁ kāmapuññā tihe tuto
Tihetukāmakriyato vitarāgānaṁ appanā.
Ayam' ettha manodvāre vīthi-cittappavattinayo.
§7
Trong phương cách diễn tiến của javana Appanā (tuyệt đối an trụ) (5) không có sự phân biệt giữa "sáng" và "tối". Cùng thế ấy không có tâm quả đăng ký.
Trong trường hợp nầy, bất luận tâm nào trong tám javanas thuộc Dục Giới liên hợp với tri kiến, khởi sanh, theo thứ tự, ba hoặc bốn lần, như chặp tâm "chuẩn bị" (parikamma), "cận hành" (upacāra), "thuận thứ" (anuloma), và "chuyển tánh" (gotrabhū). Tức khắc sau khi những chặp tâm nầy chấm dứt, trong chặp thứ tư hay thứ năm, tùy trường hợp, bất luận tâm javana nào trong 26 loại tâm Cao Thượng và Siêu Thế nhập vào tiến trình Thiền, tùy hợp theo sự cố gắng thích ứng.
Ở đây, tức khắc theo sau một javana với thọ hỷ, một javana appanā với thọ hỷ ắt sẽ khởi phát. Sau một javana đồng phát sanh với thọ xả, một javana appanā liên hợp với thọ xả ắt phát sanh.
Ở đây cũng vậy, một javana appanā thiện sẽ nối tiếp theo sau một javana thiện và (trong trường hợp chứng ngộ -- samāpatti), sẽ tạo duyên cho ba Quả thấp hơn khởi phát.
Sau một javana hành, sẽ có một javana hành và Quả A La Hán nối tiếp.
§8
Sau tâm thiện (có ba nhân, tihetuka) (6) liên hợp với thọ hỷ (7), 32 (loại tâm) (8) khởi phát; sau tâm thiện (có ba nhân) liên hợp với thọ xả, 12 loại (9); sau tâm hành (có ba nhân) liên hợp với thọ hỷ, 8 loại (10); và sau tâm hành (có ba nhân) liên hợp với thọ xả, có sáu loại tâm (11).
Đối với hạng phàm nhân [1] và hạng "còn phải tu tập" (sekha) [2] tâm Quả appanā (phát khởi) sau tâm thiện có ba nhân thuộc Dục Giới, nhưng đối với những vị "không còn tham ái" [3] là sau tâm hành thuộc Dục Giới.
Đây là phương cách diễn tiến của tiến trình tâm phát sanh qua ý môn.
Ghi chú:
[1] Phàm nhân, puthujāna, là những chúng sanh còn ở trong vòng luân hồi, tức chúng sanh trong Tam Giới: Dục, Sắc và Vô Sắc Giới.
[2] Sekhas là những vị đã đắc một trong ba tầng Thánh đầu tiên, và "còn phải tu tập" nữa để thành tựu tầng Thánh cuối cùng. Có nơi gọi là bậc "hữu học". Xem chương III.
[3] "Những vị không còn tham ái", tức chư vị A La Hán, cũng được gọi là asekhas, không còn phải tu tập nữa. Có nơi gọi là bậc "vô học".
Chú Giải
5. Appanā, Hoàn Toàn An Trụ.
(Saṁskrit -- arpaṇā, xuất nguyên từ căn "ri" là đi).
Đây là một danh từ ít thấy dùng trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Phạn ngữ nầy xuất nguyên từ căn "i", đi.
Căn "I" + tiếp đầu ngữ có nghĩa là nguyên nhân "āpe" + "ana". "A" thay thế "i" và "p" trở thành "pp"; "A"+ ppe + ana = appanā. Chữ "ā" trong hình thức sơ khởi trở thành "a" trước cặp "pp".
Ngài Buddhaghosa định nghĩa "appanā" là hướng về, hay gắn liền, áp đặt tâm nhất điểm vào đối tượng (ekaggaṁ cittaṁ ārammaṇe appenti).
Appanā là một hình thức của chi Thiền tầm (vitakka), một chi của Sơ Thiền, phát triển đến mức cao độ.
Người hành thiền muốn phát triển Thiền chọn lấy một đề mục thích ứng, tùy hợp theo tâm tánh mình. Trong khi gia công hành thiền, như đã ghi trong chương I, hành giả đạt đến mức độ có thể chứng đắc Sơ Thiền.
Lúc ấy tiến trình tâm trôi chảy như sau:
Manodvārāvajjana |
Parikamma |
Upacāra |
Anuloma |
Gotrabhū |
Appanā |
* * * |
* * * |
* * * |
* * * |
* * * |
* * * |
Chặp tư tưởng đầu tiên là ý môn hướng tâm, khởi phát liền trước giai đoạn javana, do các đối tượng nhập vào dòng tâm xuyên qua ý môn, tạo duyên để khởi phát.
Chặp tư tưởng (sát-na) sơ khởi của tiến trình javana appanā được gọi là parikamma (chuẩn bị), bởi vì nó là sự chuẩn bị để đưa đến tâm cao thượng hơn mà hành giả hằng mong mỏi, hoặc Cao Thượng (Mahaggata, Đại Hành), hoặc Siêu Thế (Lokuttara). Liền tiếp theo sau chặp nầy là một chặp khác được gọi là upacāra (cận hành), bởi vì nó khởi phát kế cận loại tâm cao thượng. Thông thường hai chặp tâm nầy phát sanh đầu tiên trong tiến trình javana-appanā. Nhưng nhiều hành giả là người có một trình độ đạo đứckhá cao thì chỉ có chặp upacāra (cận hành) khởi phát mà không có chặp parikamma (chuẩn bị) sơ khởi.
Chặp tư tưởng thứ ba trong tiến trình nầy được gọi là anuloma (thuận thứ), bởi vì nó khởi phát điều hòa và thuận chiều theo các chặp trước và chặp Gotrabhū (chuyển tánh)theo sau. Gotrabhū, theo nghĩa đen, là cái gì chế ngự dòng dõi Dục Giới [1], hay cái gì phát triển dòng giống cao thượng. Liền sau chặp Gotrabhū nầy, chặp Appanā-jhāna (sát-na tâm tuyệt đối an trụ) phát sanh. Đến mức độ tâm cao thượng nầy, tâm tuyệt đối gom vào một điểm duy nhất.
Tâm Thiền (jhāna) mà không được phát triển trọn vẹn khởi hiện trong những chặp tâm đầu tiên được gọi là upacāra samādhi, cận định.
Đối với hạng phàm nhân (puthujjana, chưa đắc Thánh Quả) và những bậc Thánh "còn phải tu tập nữa" (sekhas), bốn javanas thiện thuộc Dục Giới liên hợp với tri kiến phát sanh như những chặp appanā sơ khởi nầy. Trong trường hợp một vị A La Hán, đó là bốn javanas hành thuộc Dục Giới liên hợp với tri kiến.
Tiến trình appanā-javana Siêu Thế trôi chảy như sau:
1 |
2 |
3 |
4 |
5 |
6 |
7 |
Parikamma |
Upacāra |
Anuloma |
Gotrabhū |
Magga |
Phala |
Phala |
* * * |
* * * |
* * * |
* * * |
* * * |
* * * |
* * * |
Trong tiến trình tâm nầy chặp parikamma (chuẩn bị) có thể phát sanh hay không phát sanh. Như đã ghi nhận ở trên, điều nầy tùy thuộc nơi trình độ tiến hóa tinh thần của người hành thiền. Ở đây Gotrabhū có nghĩa là cái gì khắc phục huyết thống phàm tục, hay cái gì phát triển dòng dõi Siêu Thế.
Một trong bốn javanas thiện thuộc Dục Giới liên hợp với tri kiến phát sanh trong giai đoạn sơ khởi nầy. Đối tượng của ba chặp tư tưởng đầu tiên [2] là tại thế, nhưng đối tượng của chặp gotrabhū (chuyển tánh) là Niết Bàn siêu thế. Dầu sao, chặp tư tưởng đã được phát triển nầy không thể tận diệt những ô nhiễm cố hữu tiềm tàng. Chính chặp tâm Magga (Đạo), theo kế liền sau đó, tác hành nhiệm vụ chứng ngộ Niết Bàn và tận diệt ô nhiễm. Phải nên ghi nhận rằng chặp tâm Magga (Đạo) chỉ phát sanh một lần duy nhất. Tức khắc liền sau đó là hai chặp Phalas (Quả), nếu tiến trình có parikamma (chuẩn bị). Nếu là một tiến trình không có parikamma, như đã ghi trên, thì có ba chặp Quả (Phalas). Trong trường hợp các tầng Thánh thứ nhì, thứ ba, và thứ tư, chặp tư tưởng thứ ba, thay vì là gotrabhū (chuyển tánh), thì được gọi là vodāna, có nghĩa là thanh lọc.
Nếu tiến trình bắt đầu bằng chặp parikamma, thì vodāna là chặp thứ tư. Nếu không có chặp parikamma thì vodāna là chặp thứ ba.
Mỗi Đạo (Magga) trong bốn Thánh Đạo chỉ phát sanh một lần duy nhất trong suốt đời. Nhưng hành giả có thể chứng nghiệm Quả (Phala) liên tục cả ngày. Quả của ba tầng Thánh đầu tiên -- Tu Đà Huờn Quả, Tư Đà Hàm Quả, và A Na Hàm Quả -- theo saujavana thiện.
Trong trường hợp A La Hán Quả, javana tức khắc trước đó phải là hành, bởi vì một vị asekha (bậc Thánh không còn phải tu tập nữa) không còn chứng nghiệm javana thiện.
6. Tihetuka, Ba Nhân,
Được tạo duyên do ba nhân alobha (không-tham, tức quảng đại), adosa (không-sân, tức từ ái), và amoha (không- si, tức trí tuệ).
7. Tức hai loại tâm thuộc Dục Giới đồng phát sanh cùng thọ hỷ và tri kiến.
8. Đó là 4 tâm Thiền Sắc Giới (rūpa Jhāna) đầu tiên và 28 (7x4) tâm Thiền Siêu Thế. A La Hán Quả và Hành không được kể ở đây.
9. Đó là: 1 ngũ thiền Sắc Giới + 4 thiền Vô Sắc Giới + 7 ngũ thiền Siêu Thế (lokuttara pañcamajjhāna).
10. Đó là 4 thiền Sắc Giới đầu tiên + 4 thiền A La Hán Quả đầu tiên.
11. Đó là 1 ngũ thiền Sắc Giới + 4 thiền Vô Sắc Giới + 1 ngũ thiền A La Hán Quả.
Ghi chú:
[1] Tức dập tắt những đặc tính của Dục Giới.
[2] Tức Parikamma, Upacāra và Anuloma.
-ooOoo-
Tadārammana Niyamo
Phương thức diễn tiến của chặp đăng ký
9.
Sabbattha'pi pan' ettha aniṭṭhe ārammaṇe akusala- vipākān' eva pañcaviññāṇasampaticchanasantīraṇa- tadārammaṇāni, iṭṭhe kusalavipākāni, atiṭṭhe pana somanassasahagatān'eva santīraṇatadārammaṇāni.
Tattha'pi somanassasahagatakriyājavanāvasāne somanassasahagatān' eva tadārammaṇāni bhavanti. Upekkhāsahagatakriyājavanāvasāne ca upekkhā- sahagatān'eva honti.
Domanassasahagatajavanāvasāne ca pana tadārammaṇāni c'eva bhavaṅgāni ca upekkhā- sahagatān'eva bhavanti. Tasmā yadi somanassa-paṭisandhikassa domanassasahagatajavanāvasāne tadārammaṇasambhavo natthi. Tadā yaṁ kiñci paricitapubbaṁ parittārammaṇamārabbha upekkhā- sahagatasantīraṇaṁ uppajjati. Tamanantaritvā bhavaṅgapāto' va hoti'ti'pi vadanti ācariyā. Tathā kāmāvacarajavanāvasāne kāmāvacarasattānaṁ kāmāvacaradhammesv'eva ārammaṇabhūtesu tadārammaṇaṁ icchantī'ti.
10.
Kāme javanasattārammaṇānaṁ niyame sati
Vibhūteti mahante ca tadārammaṇamīritaṁ.
Ayam' ettha Tadārammaṇa Niyamo.
§9
Ở đây, trong mọi trường hợp (tức xuyên qua hoặc ngũ quan môn hoặc ý môn) khi đối tượng (12) không đáng được ưa thích, ngũ quan thức, tiếp thọ tâm, suy đạc tâm, đăng ký tâm (phát sanh) là quả bất thiện. Nếu đối tượng đáng được ưa thích, là quả thiện. Nếu đối tượng đáng được vô cùng ưa thích, tâm suy đạc và tâm đăng ký đồng phát sanh cùng thọ lạc.
Về điểm nầy, sau những chặp javanas hành liên hợp với thọ lạc, những chặp đăng kýphát sanh cũng liên hợp với thọ lạc. Sau những javanas hành liên hợp với thọ xả các chặp đăng ký cũng liên hợp với thọ xả.
Nhưng sau những javanas liên hợp với thọ khổ, các chặp đăng ký và bhavaṅga cũng liên hợp với thọ xả. Do đó, với người mà thức nối liền (hay thức tái sanh) liên hợp với thọ lạc, nếu sau những chặp javanas liên hợp với thọ khổ, các chặp đăng ký không phát sanh, chừng ấy một chặp suy đạc tâm phát sanh liên hợp với thọ xả, duyên theo một đối tượng đã quen thuộc từ trước. Tức khắc sau đó, quý vị đạo sư dạy, có sự chìm biến vào bhavaṅga.
Cùng thế ấy, chặp đăng ký được trông đợi sẽ phát sanh đến những chúng sanh ở cảnh Dục Giới sau những chặp javanas thuộc Dục Giới, chỉ khi nào những hiện tượng thuộc Dục Giới trở thành đối tượng.
§10
Tâm đăng ký phát sanh, các Ngài dạy, liên quan đến những đối tượng "sáng" và "rất lớn" khi có sự chắc chắn về những đối tượng, những chúng sanh, và những javanas thuộc Dục Giới.
Đây là phương thức diễn tiến của tâm đăng ký.
Chú Giải
12. Ārammaṇa, Đối Tượng.
Tánh cách đáng được ưa thích hay không đáng được ưa thích của một đối tượng được xác định, không phải tùy hợp theo tâm tánh cá nhân, mà tùy theo bản chất cố hữu của đối tượng ấy. Tâm quả do đó phát sanh được xem là hậu quả của hành động tốt hay xấu, thiện hay bất thiện.
Đối với người không phải Phật tử mà có tánh cố chấp, sự kiện thấy Đức Phật có lẽ là một điều không vui mà có khi là bực tức. Những chặp javanas của người ấy tất nhiên làbất thiện. Tuy nhiên, cái quả trong sạch tiêu cực của nhãn thức được tạo nên do một nghiệp thiện quá khứ, là quả thiện (kusala vipāka). Tâm quả nầy không phải do ý chí của người ấy tạo nên mà là hậu quả dĩ nhiên phải đến. Tiến trình javana trái lại, là do ý chícủa người ấy tạo điều kiện.
Lại nữa, thí dụ đối với một con chó thường, chỉ sự kiện thấy phẩn đã là một nguồn thỏa thích. Đối tượng ấy thông thường là không đáng được ưa thích và là một hậu quả xấu, một quả bất thiện (akusala vipāka). Nhưng tiến trình javana do đó được tạo nên là trong sạch, thiện, đối với chó. Cảm giác đồng phát sanh là thọ lạc.
Chí đến một vị A La Hán, cũng có thể gặt hái một quả bất thiện (akusala vipāka), khi Ngài thấy một đối tượng không đáng được ưa thích, nhưng luồng javana của Ngài không bao giờ là thiện hay bất thiện. Cảm giác đồng phát sanh là thọ xả.
Bây giờ, khi một đối tượng không đáng được ưa thích phát hiện xuyên qua ý môn hay ngũ quan môn thì ngũ quan thức và những chặp tâm tiếp thọ,suy đạc, đăng ký phát sanh trong tiến trình tương ứng đều là quả bất thiện (akusala vipāka). Thọ đồng phát sanh luôn luôn là upekkhā (xả), ngoại trừ trường hợp thân thức, và đây là thọ khổ. Những chặp tư tưởng nầy là quả không thể tránh của những hành động bất thiện.
Nếu đối tượng phát hiện là đáng được ưa thích, những chặp tư tưởng nói trên sẽ là quả thiện (kusala vipāka). Ở đây cũng vậy, thọ đồng phát sanh là xả, ngoại trừ thân thức, và đây là thọ lạc. Tất cả những chặp tư tưởng nầy là hậu quả của những hành động thiện.
Khi đối tượng đáng được ưa thích vô cùng, thọ của chặp tiếp thọ (santīraṇa) sẽ đổi khác. Thay vì là upekkhā (xả), đây là somanassa (lạc). Những chặp đăng ký theo sautiến trình javana hành thuộc Dục Giới đồng phát sanh với thọ lạc cũng liên hợp với một loại thọ tương tợ. Cùng thế ấy, theo sau tiến trình javana upekkhā là những chặp tâm đăng ký liên hợp với thọ xả (upekkhā tadārammaṇas).
Thông thường, những chặp javana khởi sanh trước và những chặp đăng ký tiếp liền theo sau đều có một loại thọ như nhau. Trước là thọ lạc thì sau cũng thọ lạc. Nếu trước là thọ xả, sau cũng thọ xả.
Như vậy, những chặp tâm đăng ký sẽ như thế nào sau một tiến trình javana liên hợp với thọ khổ? Biết rằng không có đăng ký tâm liên hợp với thọ khổ (domanassa).
Nếu thức nối liền (paṭisandhi citta), hay thức tái sanh, của một người liên hợp với thọ lạcthì sẽ không có tâm đăng ký.Và chặp bhavaṅga tức khắc theo liền sau cũng liên hợp với thọ lạc. Trong trường hợp nầy, một tâm suy đạc xả mà không có tác dụng đặc biệt nào, chỉ khởi phát suông trong một chặp. Chặp tâm khởi sanh bất ngờ nầy có một tên kỹ thuật là āgantukabhavaṅga. Thông thường đối tượng của những chặp javanas và của chặp đăng ký là một. Nhưng trong trường hợp đặc biệt nầy, đối tượng khác biệt. Đối tượng của chặp suy đạc nầy là một đối tượng khác thuộc Dục Giới, rất quen thuộc với ta trong kiếp sống. Đối tượng nầy được gọi là paritta (nhỏ hơn, hoặc ít hơn) sánh với những đối tượng cao hơn thuộc Sắc Giới, Vô Sắc Giới và Siêu Thế. Đàng khác, nếu thức tái sanh (paṭisandhi citta) không liên hợp với thọ lạc, các chặp đăng ký(tadārammaṇa) sẽ trở thành vô ký, và những chặp bhavaṅga theo sau đó cũng vậy.
Phải ghi nhận rằng các chặp đăng ký (tadāramaṇa) chỉ phát sanh sau những chặp javanas thuộc Dục Giới, đến những chúng sanh thuộc Dục Giới, và chỉ liên quan đếnnhững đối tượng thuộc Dục Giới "rất lớn" và "sáng".
-ooOoo-
Javana-Niyamo
Phương thức diễn tiến của Javana (13)
11.
Javanesu ca parittajavanavīthiyaṁ kāmāvacara- javanāni sattakkhattuṁ chakkhattum' eva vā jayanti.
Mandappavattiyaṁ pana maraṇakālādīsu pañca- vāram'eva.
Bhagavato pana yamakapāṭihāriyakālādīsu lahuka- ppavattiyaṁ cattāri pañca vā paccavekkhaṇacittāni bhavantī' ti pi vadanti.
Ādikammikassa pana paṭhamakappanāyaṁ mahaggatajavanāni, abhiññājavanāni ca sabbadā pi ekavāram' eva javanti. Tato paraṁ bhavaṅgapāto.
Cattāro pana magguppādā ekacittakkhaṇikā. Tato paraṁ dve tīṇi phalacittāni yathārahaṁ uppajjanti. Tato paraṁ bhavaṅgapāto.
Nirodhasamāpattikāle dvikkhattuṁ catutthāruppa- javanaṁ javati. Tato paraṁ nirodhaṁ phusati. Vuṭṭhānakāle ca anāgāmi phalaṁ vā arahattaphalaṁ vā yathāraham' ekavāraṁ uppajjitvā niruddhe bhavaṅgapāto'va hoti.
Sabbatthā' pi samāpattivīthiyaṁ pana bhavaṅgasota viya vīthiniyamo natthī' ti katvā bahūni pi labbhantī' ti (veditabbaṁ).
12.
Sattakkhattuṁ parittāni maggābhiññā sakiṁ matā
Avasesāni labhanti javanāni bahūni'pi.
Ayam'ettha Javana-Niyamo.
§11
Về các javanas, trong một tiến trình javana nhỏ, những chặp javanas thuộc Dục Giới chỉ chạy trong bảy hoặc sáu chặp.
Tuy nhiên, trong trường hợp một tiến trình "yếu", và vào lúc lâm chung, chỉ năm chặp.
Đối với Đức Thế Tôn, lúc Ngài làm phép yamaka pāṭihāriya (song hành, làm cho nước và lửa cùng phun ra một lượt từ các lỗ chân lông) hay trong những trường hợp tương tợ, thì tiến trình chạy thật nhanh, chỉ có bốn hay năm chặp tư tưởng suy niệm phát sanh, các Ngài dạy như vậy.
Đối với người mới vừa đắc Sơ Thiền, những chặp tâm Cao Thượng và những chặp javanas Siêu Trí Thức chỉ chạy một lần. Sau đó chìm biến vào bhavaṅga (hộ kiếp).
Bốn Đạo (Magga) chỉ tồn tại trong một chặp tư tưởng. Sau đó, tùy trường hợp, hai hoặc ba chặp tâm Quả (Phala) sẽ khởi lên rồi chìm biến vào bhavaṅga.
Vào lúc Chấm Dứt Tối Thượng (Diệt Thọ Tưởng Định) (14), javana Tứ Thiền Vô Sắcchạy hai lần và nhập vào sự Chấm Dứt. Khi xuất (Diệt Thọ Tưởng Định), hoặc tâm A Na Hàm Quả, hoặc tâm A La Hán Quả khởi sanh, tùy trường hợp. Sau khi chấm dứt, tâm nầy chìm biến vào luồng hộ kiếp (bhavaṅga).
Trong tiến trình của những tâm Chứng Ngộ, không có những tiến trình xảy diễn một cách đều đặn giống nhau như diễn tiến của luồng bhavaṅga. Dầu sao, phải hiểu rằng có nhiều javanas Cao Thượng và Siêu Thế phát sanh.
§12
Phải hiểu rằng những javanas nhỏ phát sanh trong bảy chặp, Đạo và những tâm Siêu TríThức chỉ một lần duy nhất, ngoài ra (những tâm Cao Thượng và Siêu Thế), nhiều lần.
Đây là phương thức diễn tiến của javanas.
Chú Giải
13. Javana, Tốc Hành Tâm
Vì rất khó tìm ra một danh từ để chuyển dịch một cách chính xác, ở đây xin giữ lại nguyên vẹn chữ Pāli nầy.
Cả hai -- javana có tánh cách tâm lý, và javana có tánh cách đạo đức -- đều rất quan trọng bởi vì chính ở giai đoạn nầy mà cả hai, tâm thiện và tâm bất thiện, đều được xác định.
Đôi khi luồng javana chỉ tồn tại trong một chặp (sát-na). Những lúc khác, có thể chạy nhiều chặp, tối đa là bảy chặp.
Thông thường những javanas thuộc Dục Giới chỉ tồn tại trong sáu hoặc bảy chặp. Khi ở trong tình trạng mê man bất tỉnh, hay vào lúc lâm chung, chỉ có năm chặp.
Khi Đức Thế Tôn dùng thần thông, làm cho nước và lửa, gần như cùng một lúc, phun ra từ thân Ngài, chỉ có bốn hoặc năm chặp javana phát sanh, vì lúc ấy Ngài suy niệm về những chi Thiền, điều kiện cần thiết để thực hành pháp Yamaka Pāṭihāriya, Song Hành.
Trong trường hợp người hành thiền phát triển Sơ Thiền lần đầu tiên, luồng javana chỉ phát sanh trong một chặp. Cùng thế ấy, những vị phát triển năm pháp Abhiññās là:
i. Thần Thông (Iddividha),
ii. Thiên Nhĩ Thông (Dibba Sota),
iii. Thiên Nhãn Thông (Dibba Cakkhu),
iv. Tha Tâm Thông (Paracittavijjānana), và
v. Tri Mạng Thông (Pubbe-nivāsānusati Ñāṇa, hồi nhớ các tiền kiếp).
Bốn tâm javana Đạo Siêu Thế (Magga) cũng chỉ tồn tại trong một chặp duy nhất. Chính trong khoảnh khắc vĩ đại ấy hành giả chứng ngộ Niết Bàn.
14. Nirodha Samāpatti, Diệt Thọ Tưởng Định.
Cũng được gọi là Đại Định. Một vị A Na Hàm hay A La Hán đã có phát triển Thiền Sắc Giới và Vô Sắc Giới có thể vận dụng chí lực của mình làm cho dòng tâm tạm thời dừng lại trong bảy ngày liền. Khi đạt đến trạng thái ấy, tất cả những sinh hoạt tinh thần đều ngưng lại, mặc dầu nhiệt độ của cơ thể và sự sống vẫn còn. Hơi thở lúc ấy đã chấm dứt. Sự khác biệt giữa một tử thi và cơ thể của người nhập Diệt Thọ Tưởng Định là cơ thể nầy còn sự sống. Kinh sách ghi rằng cơ thể của người nhập Nirodha-samāpatti, Diệt Thọ Tưởng Định, cũng không thể bị gây tổn thương. Sự thành đạt trạng thái Thiền nầy được gọi là Nirodha-Samāpatti. Nirodha là sự chấm dứt. Samāpatti là thành đạt. Nirodha-Samāpatti là thành đạt sự chấm dứt, thường được gọi là Diệt Thọ Tưởng Định, hay Đại Định.
Liền trước khi nhập vào trạng thái nầy vị hành giả chứng nghiệm tứ thiền Vô Sắc, tức PhiTưởng Phi Phi Tưởng, trong hai sát-na tâm.
Liền sau đó luồng tâm chấm dứt, dừng lại cho đến khi Ngài xuất thiền theo ý muốn. Thông thường Ngài nhập Thiền khoảng bảy ngày, không cử động. Kinh sách có ghi lại diễn biến một vị Phật Độc Giác bị lửa đốt trong khi ở trong trạng thái Diệt Thọ Tưởng Định nầy. Nhưng rồi Ngài không hề gì.
Đến khi hành giả xuất Thiền, chặp tư tưởng đầu tiên phát sanh đến Ngài là một chặp A Na Hàm Quả, nếu hành giả là một vị A Na Hàm, hoặc A La Hán Quả, nếu là một vị A La Hán.
Sau đó luồng tâm chìm biến vào bhavaṅga.
-ooOoo-
Puggala-Bhedo
Phân hạng chúng sanh
13.
Duhetukānam'ahetukānañca pan'ettha kriyājavanāni c'eva appanājavanāni ca na labbhanti. Tathā ñāṇa- sampayuttavipākāni ca sugatiyaṁ, duggatiyaṁ pana ñāṇavippayuttāni ca mahāvipākāni na labbhaṅti.
Tihetukesu ca khīnāsavānaṁ kusalākusalajavanāni ca na labbhantī'ti. Tathā sekhaputhujjanānaṁ kriyājavanāni. Diṭṭhigatasampayuttavicikicchā javanāni ca sekhānaṁ. Anāgāmipuggalānaṁ pana paṭighajavanāni ca na labbhanti. Lokuttarajavanāni ca yathāsakamariyānam' eva samuppajjantī'ti.
14.
Asekhānaṁ catucattālīsasekhānam' uddise 15. Chapaññāsāvasesānaṁ catupaññāsa sambhavā.
Ayam' ettha puggalabhedo.
§13
Nơi đây, với những người mà thức tái sanh do hai nhân [1] hoặc không do nhân nào tạo duyên, các chặp javanas hành và javana thiện [2] không phát sanh. Cùng thế ấy, trong một nhàn cảnh những tâm Quả liên hợp với tri kiến cũng không phát sanh [3] . Nhưng trong khổ cảnh những loại tâm nầy cũng không đem lại đại quả không liên hợp với tri kiến.
Với bậc "Vô Nhiễm" (A La Hán), trong những vị mà thức tái sanh do ba nhân tạo duyên, không có javanas thiện hay bất thiện phát sanh. Cùng thế ấy, những chặp javanas hành không phát sanh đến hạng phàm nhân (puthujjana) và hạng "còn phải tu tập" (sekhas). Những chặp javanas liên hợp với tà kiến và hoài nghi cũng không phát sanh đến các vị sekhas [4] . Đối với vị A Na Hàm không thể có javana liên hợp với sân [6] . Nhưng các javanas Siêu Thế, chỉ những bậc Thánh Nhân [5] mới có thể chứng nghiệm, tùy theomức độ chứng ngộ.
§14
Tùy trường hợp phát sanh, được ghi nhận rằng các bậc Asekhas có bốn mươi bốn loại [7], Sekhas có năm mươi sáu [8], ngoài ra, những hạng còn lại có năm mươi bốn [9] loại tâm. Đây là phương thức phân hạng các chúng sanh.
Ghi chú:
[1] Chỉ có những chúng sanh có đủ ba nhân mới có thể thành công phát triển Thiền và thành đạt Thánh Quả.
[2] Đó là alobha, không tham và adosa, không sân.
[3] Vì trạng thái thấp kém của thức tái sanh (hay thức nối liền) nầy, chặp đăng ký có đủ ba nhân (tihetuka tadālambanas) không phát sanh.
[4] Bởi vì khi đắc Quả Tu Đà Huờn các Ngài đã tận diệt thân kiến và hoài nghi.
[5] Bởi vì vị A Na Hàm đã tận diệt mọi hình thức tham dục và sân hận.
[6] Tất cả những vị đã chứng đắc một trong bốn tầng Thánh -- Tu Đà Huờn, Tư Đà Hàm, A Na Hàm và A La Hán -- đều được gọi là Thánh Nhân (Ariya) bởi vì các Ngài đã diệt trừphần lớn hay trọn vẹn các ô nhiễm.
[7] Đó là 18 vô nhân + 16 Hành và Quả Đẹp + 9 Hành Sắc và Vô Sắc Giới + 1 A La Hán Quả. (18 + 16 + 9 + 1 = 44)
[8] Đó là 7 Bất Thiện + 21 (8 + 5 + 4 + 4) Thiện + 23 Quả thuộc Dục Giới + 2 Hướng Tâm + 3 Quả (Phala). (7 + 21 + 23 + 2 + 3 = 56)
[9] Đối với hạng phàm nhân, 54. Đó là 12 Bất Thiện + 17 Vô Nhân + 16 Thiện và Quả Đẹp + 9 Thiện Sắc và Vô Sắc Giới. (12 + 17 + 16 + 9 = 54).
-ooOoo-
Bhūmi Bhedo
Những cảnh giới
15.
Kāmāvacarabhūmiyaṁ pan'etāni sabbāni 'pi vīthicittāni yathāraham' upalabbhanti. Rūpāvacara- bhūmiyaṁ paṭighajavanatadālambanavajjitāni.
Arūpāvacarabhūmiyaṁ paṭhamamaggarūpāvacara- hasanaheṭṭhimāruppavajjitāni ca labbhanti.
Sabbatthā'pi ca taṁ pasādarahitānaṁ taṁ taṁ dvārikavīthicittāni na labbhant'eva.
Asaññasattānaṁ pana sabbathā'pi cittappavatti natth'evā'ti
16.
Asītivīthicittāni kāme rūpe yathārahaṁ
Catusaṭṭhi tathāruppe dvecattālīsa labbhare.
Ayam'ettha Bhūmivibhāgo.
17.
Icc'evaṁ chadvārikacittappavatti yathāsambhavaṁ bhavaṅgantaritā yāvatāyukamabbhocchinnā pavatta- tī'ti.
Iti Abhidhammattha-Saṅgahe Vīthi-Saṅgaha
Vibhāgo nāma Catuttho-Paricchedo.
§15
Trong cảnh Dục Giới, tất cả những tiến trình tâm ghi trên đây phát sanh tùy trường hợp.
Trong cảnh Sắc Giới, (tất cả) ngoại trừ những chặp javanas liên hợp với sân và những chặp đăng ký.
Trong cảnh Vô Sắc Giới, (tất cả) ngoại trừ chặp tâm Đạo đầu tiên, những tâm thuộc Sắc Giới, tiếu sanh tâm, và những loại tâm thấp của Vô Sắc Giới.
Trong tất cả các cảnh giới, đối với những chúng sanh thiếu căn môn, những tiến trình tâm liên quan đến các căn môn tương ứng không phát sanh.
Đối với những chúng sanh không có tâm, tuyệt đối không có tiến trình tâm nào phát sanh.
§16
Trong Dục Giới, tùy trường hợp, có 80 [1] tiến trình tâm. Trong Sắc Giới có 64 [2], và Vô Sắc Giới có 42 [3].
Đây là đoạn về những cảnh giới.
§17
Như vậy, những tiến trình tâm phát sanh xuyên qua sáu căn môn liên tục diễn tiến không gián đoạn ngày nào còn đời sống, những chặp bhavaṅga đánh dấu mỗi tiến trình.
Như vậy chấm dứt chương thứ Tư trong bản Vi Diệu Pháp Toát Yếu, dưới tựa đề Phân Tích các Tiến Trình Tâm.
Ghi chú:
[1] Đó là 54 Kāmāvacara + 18 rūpa và arūpa kusala kriyās + 8 lokuttara. (54 + 18 + 8 = 80)
[2] Đó là 10 akusalas (ngoại trừ 2 paṭigha) + 9 ahetuka vipāka (trừ kāya, ghāna và jivhā viññāṇa) + 3 ahetuka kriyās + 16 kāmāvacara kusala và kriyās + 10 rūpa kusalas và kriyās + 8 arūpa kusala và kriyās + 8 lokuttara. (10 + 9 + 3 + 16 + 10 + 8 + 8 = 64)
[3] Đó là: 10 akusala + 1 manodvārāvajjana + 16 kāmāvacara kusalas và kriyās + 8 arūpa kusala và kriyās + 7 lokuttaras (ngoại trừ Sotāpatti Magga, Tu Đà Huờn Đạo) = 42 (10 + 1 + 16 + 8 + 7 = 42)
-ooOoo-
Những Tiến Trình Tâm
Thí dụ, khi một đối tượng của nhãn quan nhập vào dòng tâm xuyên qua nhãn căn, một tiến trình tâm trôi chảy như sau:
Đồ Biểu 9
Pañcadvāra citta vīthi -- Ati Mahanta
(Tiến trình tâm qua năm căn môn -- Đối tượng "rất lớn")
1 |
* * * |
Atīta Bhavaṅga (Bhavaṅga Quá Khứ) |
2 |
* * * |
Bhavaṅga Calana (Bhavaṅga Rung Động) |
3 |
* * * |
Bhavaṅga Upaccheda (Bhavaṅga Dứt Dòng) |
4 |
* * * |
Pañcadvārāvajjana (Ngũ Môn Hướng Tâm) |
5 |
* * * |
Cakkhu Viññāṇa (Nhãn Thức) |
6 |
* * * |
Sampaṭicchana (Tiếp Thọ Tâm) |
7 |
* * * |
Santīraṇa (Suy Đạc Tâm) |
8 |
* * * |
Votthapana (Xác Định Tâm) |
9 |
* * * |
J A V A N A |
10 |
* * * |
|
11 |
* * * |
|
12 |
* * * |
|
13 |
* * * |
|
14 |
* * * |
|
15 |
* * * |
|
16 |
* * * |
Tadārammaṇa (Đăng Ký Tâm) |
17 |
* * * |
Tức khắc sau tiến trình xuyên qua năm căn môn dòng tâm chìm biến vào Bhavaṅga. Kế đó phát sanh xuyên qua ý môn một tiến trình tâm lấy đối tượng của nhãn quan được thâu nhận trong tâm, nói trên, làm đối tượng. Tiến trình nầy phát sanh xuyên qua ý môn, trôi chảy như sau:
Manodvārika Vīthi
(Tiến trình tâm qua ý môn)
1 |
* * * |
Manodvāravajjana (Ý Môn Hướng Tâm) |
2 |
* * * |
J A V A N A |
3 |
* * * |
|
4 |
* * * |
|
5 |
* * * |
|
6 |
* * * |
|
7 |
* * * |
|
8 |
* * * |
|
9 |
* * * |
Tadārammana (Đăng Ký Tâm) |
10 |
* * * |
Luồng tâm chìm biến vào bhavaṅga trở lại, và hai tiến trình phát sanh như vậy trước khi đối tượng thật sự được hay biết.