Thuật ngữ Phật họcLời nói đầu của Matthieu RicardSống
cuộc đời của mình như thế nào? Sống trong
xã hội ra sao? Mình có thể biết được gì?
Chắc chắnđó là ba câu hỏi phản ánh những bận tâm chính của
chúng ta.
Lý tưởng nhất là
lẽ sống của ta phải đưa
chúng ta đến một
cảm giác viên mãn, từng phút khơi nguồn
sáng tạo và không làm
chúng ta hối hận lúc
lâm chung; cuộc sống trong
xã hội cùng với những người khác phải tạo ra
tinh thần trách nhiệm toàn
nhân loại;
tri thức phải giúp
chúng ta khám phá ra
bản chất của
thế giới xung quanh và
bản chất của
tâm linh con người.
Những câu hỏi này đã tạo tiền đề cho sự ra đời của khoa học,
triết học, chính trị, nghệ thuật, hành động
xã hội và
tâm linh.
Tuy nhiên, sự
phân chia mang tính
chủ quan các
hoạt động này sẽ
chỉ dẫn đến sự lụi tàn
dần dần tồn tại của
con người: không có
tri thức được
nuôi dưỡng bằng
lòng vị tha thì khoa học và chính trị sẽ
trở thành những con dao hai lưỡi,
đạo đức trở nên
mù quáng, nghệ thuật
phù phiếm, xúc cảm
hoang dã và
tâm linh viển vông. Không có
hiểu biết,
tri thức sẽ suy vong; không có
đạo đức, tất cả các
hoạt động này trở nên nguy hiểm, và không có sự
tu chính tâm linh, chúng sẽ trở nên
vô nghĩa.
Từ thế kỷ XVII
cho đến nay, hầu như tất cả
mọi người đều cho rằng khoa học ngày càng
đồng nghĩa vớitri thức; hơn nữa, sự tăng lên theo hàm mũ của
sự tích tụ thông tin chưa hề có dấu hiệu chững lại. Bên cạnh đó,
hoạt động tôn giáo đã
suy giảm tại các
xã hội vô thần và
dân chủ, và
thường có xu hướng cấp tiến hóa tại các
xã hội do các
Quốc giáo cai trị. Cái mà
bình thường phải tạo nên nền tảng của tôn giáo-tình yêu và lòng trắc ẩn-đã bị sai lệch
hết sức thảm họa do những
biến cố lịch sử.
Dù là
giáo điều hay
dựa trên kinh nghiệm thì các
truyền thống lớn về
tâm linh cũng đều
cung cấp, ngoài những
quan niệm siêu hình, còn cả các
quy tắc đạo đức tạo ra những điểm quy chiếu, đôi khi có
tác dụng khai sáng nhưng đôi khi cũng là
yếu tố cản trở.
Ngày nay, các điểm quy chiếu này
dần dần biến mất, hầu hết tất cả
mọi người đều không coi các
giới luật tôn giáo làm
điểm tựa cho
suy nghĩ và hành động của mình nữa, mặc dù theo
truyền thống, họ vẫn theo một
tôn giáo nào đó. Họ
tỏ ra sẵn sàng
tin tưởng hơn vào "ánh sáng" của khoa học và
hiệu quảcủa công nghệ sẽ
cho phép, đấy là họ
hy vọng,
giải quyết được tất cả mọi
vấn đề của tương lai.
Tuy nhiên, một số người lại cho rằng
tham vọng của khoa học muốn biết tất cả là
hoàn toàn ảo tưởng: khoa học về cơ bản bị
giới hạn bởi lĩnh vực
nghiên cứu mà chính nó đã xác định. Và mặc dù công nghệ mang lại những
yếu tố tích cực vô cùng to lớn nhưng nó cũng gây ra những
hậu quả tàn phá không kém phần
nghiêm trọng. Hơn nữa, khoa học không có gì để nói về
lẽ sống của
con người.
Khoa học, tự nó, là một công cụ không tốt nhưng cũng không xấu. Tâng bốc khoa học hay biến nó thành quỷ satăng cũng chẳng khác gì ngợi ca hay
chỉ trích sức mạnh.
Sức mạnh của một cánh tay có thể giết chết hoặc
cứu sống một
con người. Các nhà khoa học không tốt nhưng cũng không xấu như bao người khác trên đời này và như
mọi người khác, họ cũng vấp phải những
vấn đề về
đạo đức nảy sinh từ chính những phát minh của họ.
Khoa học không tạo ra
đạo lý. Khoa học đã
chứng tỏ rằng nó có thể
tác động vào
thế giới chứ không thể làm chủ được
thế giới. Khoa học cũng vượt ra ngoài vòng
kiểm soát của
chúng ta: những
ứng dụng của khoa học, theo cách một
hiện tượng mạnh hơn là sự
kết hợp đơn thuần các bộ phận cấu thành của nó, tạo ra một đà phát triển riêng của chính mình. Trước
thực tế này, chỉ có những phẩm chất của
con người mới có thể định hướng được cách
tác động vào
thế giới của
chúng ta.
Vậy mà những phẩm chất này chỉ có thể nảy sinh từ một "khoa học về tâm linh".
Nghiên cứu tâm linh không phải là trò để làm sang mà là một đòi hỏi tất yếu.
Miệt mài trong suốt nhiều thế kỷ với
nghiên cứu và
tìm kiếm đã không làm cho
con người phát triển được một chút nào trên
con đường tiến tới một chất lượng
tồn tại cao hơn,
trừ phi chúng ta quyết địnhtập trung những
nỗ lực của
chúng ta theo hướng đó.
Đời sống tâm linh phải được
thực hiện với những
quy định nghiêm ngặt của khoa học, nhưng khoa học lại không mang trong lòng những mầm mống của
tâm linh.
Ngày nay, người ta lại thấy có sự
quan tâm trở lại đối với những dạng
tâm linh nhấn mạnh đến các khía cạnh
thực dụng của
kinh nghiệm chiêm nghiệm đã
thoát khỏi những
tín điều nặng nề. Sự
quan tâm mà phương Tây dành cho
Phật giáo đã
đánh thức sự tò mò của các
phương tiện thông tin
đại chúng và
kích thích nhiều
công trình nghiên cứu nhằm
đánh giá những
nguyên nhân của sự
sùng bái này và những hướng phát triển có thể của chúng.
Chúng ta có thể kể ra đây hai
tác phẩm của Frédéric Lenoir Sự gặp gỡ giữa
Phật giáo và phương Tây và
Phật giáo ở Pháp, cũng như những cuộc trao đổì của tôi với bố tôi,
triết gia Jean- Francois Revel.
Bên cạnh đó,
trong vòng 20 năm
trở lại đây, một cuộc đối thoại giữa khoa học và
Phật giáo đã được mở ra theo sáng kiến của
Đạt Lai Lạt Ma và các nhà
tư tưởng Phật giáo khác. Kể từ năm 1987, theo gợi ý của Dam Engle và Francisco Varela, nhiều cuộc gặp gỡ giữa
Đạt Lai Lạt Ma và các nhà khoa học
lỗi lạc(gồm các nhà
thần kinh học, sinh vật học,
tâm lý học,
vật lý học và
triết học) đã được tổ chức
thường xuyên. Từ các cuộc gặp gỡ được đặt tên là Mind and Life (
Tinh thần và Cuộc sống) này, nhiều cuốn sách đã ra đời, trong đó nhiều cuốn đã được dịch sang tiếng
Pháp như Passerelles, Khi
tinh thần giao tiếp với thể xác và Ngủ, mơ, chết, cũng như các cuốn sách phát triển đầy đủ hơn như Khoa học và
Phật giáo của Lan Wallace. Những
trao đổi này đã không được
xây dựng như một
phương tiện dung hòa với
mục đích làm
hài lòng cả hai
quan điểm dựa trên những
xuất phát điểm khác nhau, cũng không phải như một
diễn đàn để các bên khẳng định
sự cố chấp siêu hình của mình. Những cuộc
trao đổi này tạo thành một
yếu tố liên tục của
tri thức, của sự
hiểu biết về
bản chất của các
hiện tượng và của
ý thức. Các cuộc
trao đổi đã được
xây dựng và
tiếp tục theo
tinh thần đối thoại này.
Sự khác biệt lớn nhất giữa khoa học và
Phật giáo nằm ở như
mục đích của chúng. "Đó là sự tự
giải phóng khỏi
đau khổ mà
nguyên nhân của nó là một dạng
đặc biệt của sự
vô minh: một
quan niệm sai lệch về
hiện thực bên ngoài và về cái "tôi"mà ta thường
hình dung là
trung tâm của sự tôn tại của chúng ta”.
Phật giáo sẵn sàng
xem xét lại các
quan niệm của mình nếu người ta
chứng minh được rằng nó là
sai lầm. Không phải là vì
Phật giáo nghi ngờ tính
chân lý sâu xa của các phát hiện của mình hay là vì
Phật giáo chờ đợi sự mất
hiệu lực đột nhiên của các kết quả đã
đạt được từ 2.500 năm nay của khoa học
chiêm nghiệm, mà là vì lời răn của
Đức Phật không cấu thành một
giáo điều. Mà
thực ra, nó được
thể hiện như một tấm bản đô
chỉ đường cho phép người ta
đi theo dấu vết của người hướng dẫn. Lời răn này
hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm chứ không phải
dựa trên một thần khải.
Đạt Lai Lạt Ma từng nói: "Nhận biết các
khám phá của khoa học không phải là
xem xét lại
vấn đề mà là phải làm cho nó mang tính thời sự “. Trong cuộc đi tìm
kiến thức,
Phật giáo không trốn chạy
mâu thuẫn, mà ngược lại, tự làm cho mình thêm
phong phú bằng
mâu thuẫn. Nhiều cuộc
tranh luận siêu hình mà
Phật giáo từng
tham giatrong suốt nhiều thế kỷ với các nhà
triết học Hindou, và các cuộc đối thoại mà
Phật giáo liên tục duy trìvới khoa học và các
tôn giáo khác đã giúp
Phật giáo tự
cải thiện mình cho
tinh tế hơn, xác định rõ và
mở rộng các tầm nhìn
triết học của mình, logic của mình và sự
hiểu biết thế giới của mình.
Thái độ rộng mở của
Phật giáo không phải
xuất phát từ một
chủ nghĩa cơ hội rẻ tiền.
Toàn bộ triết
lý Phật giáo là rất đô sộ, các kinh sách về
đời sống chiêm nghiệm là rất sâu sắc và giàu tính gợi mở cao, bàn về cuộc sống suy niệm, và sự
thực hành tâm linh đòi hỏi một lòng
kiên trì vô hạn. Đại Ẩn sỹ
Tây Tạng Milarépa từng nói: "Đừng
hy vọng đạt được chính quả nhanh chóng, mà hãy suy tư
cho đến hơi thở cuối cùng".
Sự
biến đổi bên trong dẫn đến
Giác ngộ là một cấp độ
hoàn toàn khác với công việc
nghiên cứu triết học hay
tìm kiếm của các khoa học
mô tả.
Phật giáo chủ yếu là một khoa học của
Giác ngộ và, với
quan niệm này, dù Trái đất tròn hay dẹt thì cũng chẳng có gì thay đổi cả.
Các cuộc đối thoại
tiếp theo đây không nhằm
mục đích hằn in vào khoa học những dấu ấn của
huyền học, cũng không phải để tạo chỗ dựa cho
Phật giáo bằng những phát minh khoa học. Chúng cũng không có
ý định làm
sáng tỏ những nét tương đồng ít nhiều giả tạo giữa cách tiếp cận
chiêm nghiệmcủa
Phật giáo và các
lý thuyết khoa học
nhất thiết sẽ phải thay đổi, mà là xác định
vị trí của khoa học trong một
quan niệm rộng lớn hơn về sự sống.
Ngoài ra, chúng cũng nhằm để
chứng tỏ rằng
Phật giáocó khả năng
giải quyết sự
đối lập giữa
chủ nghĩa hiện thực (
quan điểm thông thường theo đó các
hiện tượng tồn tại cũng
bền vững và thực như chúng
thể hiện ra bên ngoài) và các phát hiện của khoa học
hiện đại đi ngược lại sự
gắn bó chặt chẽ này với
hiện thực nội tại của các sự vật. Chính bằng cách này mà nó có thể
cung cấp một khuôn khổ
tư duy và hành động
phù hợp với
thời đại của
chúng ta.
Wemer Heisenberg, một trong những cha đẻ của
vật lý lượng tử, viết: "Tôi cho rằng khát vọng
vượt quanhững điều
đối lập,
bao gồm sự tổng hợp cả
hiểu biết duy lý và trải nghiệm
tâm linh về
tính thống nhất, là một nét đặc trưng nhất, dù được
thể hiện ra hay không được nói ra, của
thời đại chúng ta."
Cuốn sách này cũng đề cập đến hai
cuộc đời, một của nhà
vật lý thiên văn sinh ra đã là
Phật tử, người mong muốn đem những
hiểu biết khoa học của
bản thân đối chiếu với những nguồn gốc
triết học của mình, và một của nhà khoa học phương Tây
trở thành nhà sư, người mà những
kinh nghiệm cá nhânđã
kích thích ông
so sánh hai
con đường nhận thức hiện thực khách quan đó.
Trịnh Xuân Thuận chịu
ảnh hưởng của ba dòng
văn hóa:
Việt Nam, Pháp và Mỹ. Sinh ra ở Hà Nội năm 1948, đúng vào
thời kỳ chiến tranh chống Pháp
ác liệt, 6 năm trước khi Pháp thất bại tại Điện Biên Phủ. Trịnh Xuân Thuận học tại các trường của Pháp tại Sài Gòn. Bị
văn hóa Pháp cuốn hút
đặc biệt, năm 1966, ông
quyết định đến Pháp để theo học chuyên ngành
vật lý, vì theo ông nghĩ, khoa học này có thế
cung cấp các
yếu tố để
trả lời cho các câu hỏi mà ông đã tự đặt ra cho mình về
bản chất của
thế giới. Nhưng, bài
diễn văn nổì tiếng của tướng De Gaulle ở Phnom Penh đòi Mỹ rút quân
ngay lập tức khỏi Đông Nam Á đã làm thay đổì mọi
kế hoạch của ông. Chính quyền Sài Gòn khi đó đã cắt đứt quan hệ với Pháp và người
Việt Nam mất cơ hội đến Pháp học tập. Sau một năm học ở Trường Bách khoa Lausanne, Thụy Sĩ, Trịnh Xuân Thuận sang Mỹ, học tại Caltech (Viện Công nghệ Califomia), "thánh địa" của các nhà
vật lý thiên văn.
Đặc biệt, Caltech có kính
thiên văn đường kính tới 5m đặt trên núi Palomar, một kính
thiên văn lớn
nhất thế giới vào năm 1967. Nơi đây cái bóng của Edwin Hubble, người từng phát
hiện ra các thiên hà và sự giãn nở của
vũ trụ, vẫn còn bao phủ cả khu
đại học.
Thời gian học tập của Trịnh Xuân Thuận rơi vào đúng giai đoạn nở rộ của
vật lý thiên văn, bởi vì đây là thời của những phát
hiện ra các
hiện tượng mới của
vũ trụ.
Bản thân Trịnh Xuân Thuận cũng từng nói: "Trong cái nôi của
trí tuệ này, khó có
thể không trở thành nhà
vật lý thiên văn". Kể từ đó, Trịnh Xuân Thuận không ngừng
quan sát vũ trụ và ông đã
trở thành một trong những chuyên gia lớn trong lĩnh vực
nghiên cứu sự hình thành của các thiên hà. Hiện nay, Trịnh Xuân Thuận giảng dạy tại Trường
đại học Virginie (Hoa Kỳ) và là
tác giả của nhiều cuốn sách
phổ biến khoa học được
đánh giá rất cao.
Về phần mình, tôi cũng đã từng
đi theo con đường khoa học và nhiều năm
nghiên cứu tại Viện Pasteur, Khoa
Di truyền tế bào của Giáo sư Francois Jacob, người đã được giải Nobel về y học. Đây là nơi của những
hoạt động trí tuệ sôi sục đầy hưng phấn. Năm 1967, tôi đến
Ấn Độ để gặp các nhà
tư tưởng lớn của
Tây Tạng. Tôi đã
trở thành đệ tử của một trong số họ, đó là Kanguiour Rinpotché. Nhiều năm
tiếp theo, hè nào tôi cũng đắm mình trong không khí
sáng tạo trong
thảo am của nhà
hiền triết này tại Darịeeling,
đồng thời vẫn
tiếp tục nghiên cứu khoa học. Nhưng, từ năm 1972, sau khi
hoàn thành luận án tiến sĩ, tôi đã
quyết định chuyển đến sống trong dãy Himalaya. Tôi đã sống ở
Ấn Độ, sau đó ở Bhoutan và Népal, nơi tôi đã sống 12 năm với người thầy thứ hai là Khyentsé Rinpotché. Tôi đã nhiều lần được tháp tùng ông đến
Tây Tạng. Hiện nay, tôi sống ở
thảo am Shéchèn, gần Katmandou.
Tôi đã gặp Trịnh Xuân Thuận lần đầu tiên tại trường mùa hè ở Andone năm 1997, và
chúng tôi đã có những cuộc trao đổì rất sôi nổì trong những chuyến đi dài giữa bối cảnh hùng vĩ của các ngọn núi Pyrénée. Cuốn sách này ra đời từ những cuộc
trao đổi cởi mở và
thân thiện đó, những cuộc
trò chuyệnmà trong đó có lúc
chúng tôi thống nhất được
với nhau, nhưng cũng không ít lần
mâu thuẫn nhau.
xem toàn bộ PDF:
cai-vo-han-trong-long-ban-tay-matthieu-ricard-trinh-xuan-thuan