- Chương I: Duyên Kỳ Ngộ
- Chương II: Hiện Hữu Hay Không Hiện Hữu
- Chương III: Đi Tìm Một Người
- Chương IV: Vũ Trụ Trong Một Hạt Cát
- Chương V: Như Một Tia Chớp Trong Đám Mây Mùa Hạ - Sự Vô Thường Giữa Lòng Thực Tại
- Chương VI: Vấn Đề Thời Gian
- Chương VII: Nhị Nguyên (Tâm và Vật)
- Chương VIII: Về Rô Bốt
- Chương IX: Lý Trí Và Thiền Định
- Chương X: Vẻ Đẹp Trong Khoa Học Và Trong Phật Giáo
- Chương XI: Từ Thiền Định Đến Hành Động
- Kết Luận Của Nhà Khoa Học
- Kết Luận Của Nhà Sư
Matthieu Ricard – Trịnh Xuân Thuận - BS: Hồ Hữu Hưng dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2010
Chương IV: Vũ Trụ Trong Một Hạt Cát
Sự tương thuộc và toàn nguyên của các hiện tượng
Khái niệm tương thuộc là cốt lõi trong cái nhìn Phật giáo về thực tại, và khái niệm đó ảnh hưởng rất lớn cuộc sống chúng ta. Sự tương thuộc đó rất gần với khái niệm bất khả phân trong cơ học lượng tử. Cả hai khái niệm đều đưa đến vấn đề đơn giản nhưng cũng rất cơ bản: một vật hoặc một hiện tượng có thể tồn tại theo tự tính không? Nếu không, các hiện tượng trong vũ trụ có liên hệ với nhau đến mức độ nào? Nếu các vật không tồn tại theo tự tính thì chúng ta rút ra kết luận gì về sự sống?
Thuận: Trong một chương trước, Phật giáo bác bỏ ý niệm một nguyên lý sáng thế cũng như khái niệm những vũ trụ song hành mặc dù chấp nhận có vô số vũ trụ. Phật giáo giải thích những hằng số vật lý và những điều kiện tiên khởi một cách chính xác bằng thuyết tương thuộc các hiện tượng, khiến cuộc sống có thể sinh sôi nảy nở trên mặt đất được. Tôi nghĩ đã đến lúc phải làm sáng tỏ thuyết tương thuộc này.
Matthieu: Để làm được điều này chúng ta cần trở lại khái niệm về “Thực tại tương đối”. Theo Phật giáo nhận thức của chúng ta về thế giới gồm những hiện tượng đặc biệt, rõ ràng, sinh ra từ những nguyên nhân và những điều kiện riêng biệt. Nhận thức đó Phật giáo cho là thực tại tương đối hay giả tạo. Kinh nghiệm hằng ngày cho chúng ta thấy dường như các vật thể có thật một cách khách quan và như có tự tính. Nhưng kinh nghiệm đó chẳng qua là do tư tưởng chúng ta tạo nên mà thôi. Dù cho cảm nhận đó được mọi người chấp nhận nó cũng không thể tồn tại. Khi được đem ra phân tích, Phật giáo chủ trương rằng những hiện tượng có mặt vì có liên quan đến hiện tượng khác theo luật Nhân quả. Phật giáo nhìn cuộc đời như một sự trào dâng các hiện tượng có liên hệ với nhau, cũng như có can dự vào sự hình thành của nhau. Còn chúng sinh thì cảm nhận các hiện tượng như có tự tính và tách rời hoàn toàn khỏi họ.
Trong một bài thuyết giảng của Đức Phật, Ngài đã ví các hiện tượng như một tấm lưới lớn dệt bằng ngọc minh châu. Mỗi hạt ngọc đều phản chiếu các hạt ngọc khác cũng như tất cả các hạt ngọc đều phản chiếu các vật thể trên vũ trụ. Điều này phản ánh rõ rệt quan niệm tương thuộc các hiện tượng và không có một hiện tượng nào có thể tách rời ra toàn thể.
Thuận: Các quan niệm về sự trào dâng các hiện tượng cũng giống cái nhìn của vũ trụ học hiện đại: từ một nguyên tử đến cả một vũ trụ qua các thiên hà các ngôi sao và loài người, mọi thứ đều chuyển dịch và thay đổi liên tục.
Matthieu: Không những các vật chuyển động nhưng chúng ta cảm nhận chúng như bất động vì chúng ta nhìn chúng dưới một góc cạnh nào đó. Như vậy đừng nhìn thế gian với dáng vẻ bên ngoài. Phật giáo không phủ nhận những vật thể quy ước mà con người cảm nhận hay nhà khoa học khám phá. Phật giáo chỉ khẳng định khi xét đến bản thể các vật thì không có vật thể nào có tự tính.
Thuận: Vậy thì bản thể của các vật liên hệ như thế nào với sự tương thuộc?
Matthieu: Chữ tương thuộc dịch từ chữ Phạn “Pratiyasamutpada” có nghĩa là hiện hữu bằng cách “cộng sinh”.
Và có thể được giải thích bằng hai cách khác nhau. Cách thứ nhất là “cái này có thì cái kia có” và cách thứ hai là “cái này đã có nên sản sinh ra cái kia”. Nói cách khác, không có vật gì hoàn toàn độc lập với cái khác. Một vật thể chỉ có thể xuất hiện khi nó liên kết, bị quy định cũng như quy định, cùng hiện hữu cũng như cùng vận hành với một vật thể khác và cũng cùng biến dịch liên tục. Sự tương thuộc dính liền mật thiết với sự vô thường của các hiện tượng và giải thích cái mà Phật giáo gọi là “tánh không” có nghĩa là không một vật thể nào có tự tính. Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ VII có bài kệ:
“Hiểu được sự tương thuộc, người ta hiểu được tánh không,
Hiểu được tánh không, người ta hiểu được sự tương thuộc”.
Đấy là cái thấy Trung đạo
Đi ra ngoài vực thẳm tối đen của hư vô và thực tại
Trớ trêu thay, ý niệm tương thuộc phá tan khái niệm vạn vật có tự tính, đồng thời nó cũng giải thích sự xuất hiện của vạn vật. Chúng ta thử quan sát khái niệm một vật thể có tự tính xuất hiện độc lập với các vật thể khác. Bất động và độc lập nó không thể ảnh hưởng gì đến vật thể khác cũng như các vật thể không thể ảnh hưởng gì đến nó. Vì vậy sự tương thuộc là cần thiết cho sự xuất hiện mọi vật thể. Lập luận này cũng bác bỏ quan niệm cho rằng có những hạt độc lập tạo nên vật chất cũng như quan niệm có một thực thể sáng tạo, tự mình tạo nên vật chất. Hơn nữa, sự tương thuộc này gồm luôn cả tâm thức: một vật thể phải tùy thuộc vào một chủ thể thì mới có thể là một vật thể được.
Sự tương thuộc còn là liên hệ giữa cái một và tất cả: một là tất cả và tất cả là một.
Sau rốt khía cạnh tế nhị nhất của sự tương thuộc là sự tùy thuộc giữa nền tảng sự chỉ danh và chính sự chỉ danh một hiện tượng. Hình dáng, kích thước, màu sắc hay những đặc điểm khác cũng chỉ là nền tảng của sự chỉ danh vật thể, toàn thể các thứ đó không làm nên một thực thể hay một vật có tự tính. Sự chỉ danh vật thể chỉ là một cấu tạo tinh thần để chỉ ra hiện thể của một vật. Trong đời sống hằng ngày, khi một vật thể xuất hiện trước chúng ta thì không phải cái tên của vật đó mà chính là vật đó. Nhưng khi chúng ta phân tích vật đó từ những nguyên nhân và điều kiện để nó xuất hiện thì ta không tìm ra được một tự tính nào của nó. Ta không thể nói là không có vật, mà cũng không thể cho nó là tự phát được. Kết luận là vật có mặt, nhưng nó chỉ hiện diện trên danh nghĩa, theo quy định. Một vật thể mà không có tự tính nhưng lại hiện hữu cũng có tác dụng, có vận hành theo luật Nhân quả. Bài kệ Tây Tạng giải thích:
Tánh không, không phải là sự vắng bóng của sự vận hành
Mà là không có trong thực tại tối hậu
Các vật do duyên hợp mà có, thì không có tự tính
Và thế gian này giống như một ảo ảnh
Khi ta hiểu được tánh không và sự duyên hợp
Trên cái nền tảng duy nhất đó
Các khái niệm về tánh không và giả tạm,
Hiện hành song song và không mâu thuẫn với nhau.
Thuận: Tất cả điều gì bạn nói về sự tương thuộc rất ấn tượng với tôi vì lẽ khoa học cũng khám phá ra những kỹ thuật để chứng minh thực tại là một, và độc lập vừa nằm trong thế giới vi mô, và cả trong thế giới vĩ mô. Sự hiển nhiên về các hiện tượng vi mô tương thuộc với nhau dựa trên thử nghiệm tư tưởng thời danh của Einstein và hai cộng sự Boris Podolsky và Nathan Rosen năm 1935. Người ta còn gọi sự thử nghiệm ấy là nghịch lý EPR, lấy mẫu tự đầu tiên của ba nhà bác học. Nó nghịch lý vì Einstein quan niệm thực tại bị chia chẻ ra thành những hạt không liên kết nhau. Và nếu ta giải thích được thực tại chỉ là “Một”, thì nghịch lý EPR sẽ không tồn tại.
Để hiểu thử nghiệm này phải biết rằng ánh sáng cũng như vật chất đều có một bản thể nhị nguyên nghĩa là trong lĩnh vực vật lý, cái mà ta gọi là quang tử (photon), điện tử (electron) vật chất được thể hiện khi là một hạt, khi là một sóng. Đây là một phát minh lạ lùng của cơ học lượng tử. Nhưng lạ lùng hơn là sự sai biệt giữa hạt và sóng có thể nhận rõ với sự có mặt của một người quan sát. Khi ta quan sát một quang tử với một máy đo, nó xuất hiện dưới dạng một hạt. Nhưng khi ta không còn quan sát nó thì nó trở lại hình thể sóng. Sóng này tỏa ra khắp nơi trong không gian giống như những làn sóng tạo nên do một cục đá ném xuống mặt hồ. Và người ta có thể nói rằng quang tử ở khắp nơi trong không gian. Cơ học lượng tử nói rằng nếu không có người quan sát thì không thể biết được quang tử nằm ở đâu vào một thời điểm nào đó. Nhiều lắm là ta có thể phỏng đoán vị trí của nó. Giống như những lượn sóng trong đại dương, làn sóng quang tử cách nhiên (onde probalité) được nhà vật lý người Áo Erwin Schrodinger tính toán vào năm 1926 có những biên độ khác nhau. Cơ may tối đa để gặp một quang tử là ở những biên độ cao, và tối thiểu ở biên độ thấp. Nhưng dù ở biên độ cao, người ta cũng không bao giờ chắc chắn sẽ gặp được quang tử ở một vị trí nào đó. Điều đó có thể xảy ra 3 trên 4 hoặc 9 trên 10 lần. Sự cách nhiên không bao giờ là 100%. Là người theo thuyết định mệnh, Einstein không bao giờ chấp nhận sự may rủi của thuyết cơ học lượng tử. “Thượng đế không hề chơi xúc xắc” và ông không ngừng tìm một kẽ hở trong thuyết cơ học lượng tử và phương thức giải thích cách nhiên về thực tại của thuyết này. Vì thế ông mới nghĩ ra thử nghiệm EPR.
Việc thử nghiệm được tiến hành như sau: hãy tưởng tượng bạn có một máy đo để theo dõi các hạt quang tử. Bây giờ bạn hãy nhìn một hạt tự động chia ra thành hai quang tử A và B. Theo luật đối xứng, hai hạt này sẽ di chuyển theo những hướng khác nhau. Nếu A đi về hướng Bắc chúng ta sẽ bắt gặp B ở hướng Nam. Đến đây thì không có gì đáng ngạc nhiên. Nhưng chúng ta đã quên đi những điều kỳ lạ của cơ học lượng tử: trước khi được máy dò bắt gặp, A không phải là một hạt mà là một sóng. Sóng này không có vị trí nhất định và A có thể có mặt bắt cứ nơi nào. Chỉ khi bị máy dò bắt gặp thì A lại trở thành hạt và di chuyển về hướng Bắc. Nhưng trước khi được máy dò bắt gặp, A không thể biết được hướng nào của nó, như vậy làm sao B đoán được A sẽ đi theo hướng nào để điều chỉnh hướng đi của mình ngõ hầu được bắt gặp cùng một thời điểm ở hướng đối nghịch. Điều này không có ý nghĩa nào hết, ít ra là phải chấp nhận A có thể tự động báo cho B biết hướng đi của mình. Tuy nhiên theo thuyết tương đối của Einstein, không một tín hiệu nào có thể đi nhanh hơn vận tốc ánh sáng. Einstein nói rằng: “Thượng đế không gởi những tín hiệu thần giao cách cảm” vì vậy không thể có tác động huyền bí nào từ xa được.
Dựa trên suy nghĩ đó, Einstein kết luận rằng cơ học lượng tử đã mô tả thực tại một cách thiếu sót. Theo ông, A phải biết hướng đi của mình và thông tin lại cho B trước khi tách rời. A có những đặc tính riêng độc lập với sự quan sát. Và giải thích của cơ học lượng tử theo đó A có thể ở bất cứ nơi đâu là sai lầm. Theo Einstein vận tốc và vị trí của hạt trên một quỹ đạo đã định sẵn trên hạt, hoàn toàn tách rời với sự quan sát. Cơ học lượng tử không thể cho biết quỹ đạo của hạt vì nó không xét đến những thông số bổ sung. Vì vậy nó bị thiếu sót.
Tuy nhiên Einstein đã lầm. Sau cùng các nhà vật lý đã chỉ ra rằng điều mà Einstein nói rằng không thể xảy ra trong thử nghiệm EPR đã thật sự xảy ra. Từ khi được khám phá, cơ học lượng tử không hề có một kẽ hở nào. Các cuộc thử nghiệm đã chứng minh rằng nó đúng cho đến khi có khám phá mới, cơ học lượng tử vẫn là thuyết hay nhất về sự vận hành của nguyên tử và thế giới vi mô.
Matthieu: Khi nào thì có hiệu ứng EPR được kiểm chứng bằng thử nghiệm?
Thuận: Trong thời gian khá lâu, nghịch lý EPR chỉ là một ý niệm của Einstein và các cộng sự. Người ta không biết phải thử nghiệm nó như thế nào. Năm 1964 John Bell, là một nhà vật lý Ái Nhĩ Lan đã nghĩ ra một định lý toán học được biết với cái tên “Bất đẳng thức Bell” có thể kiểm chứng được bằng các đo đạc thực nghiệm xem có các ẩn biến số (variables cachées) nằm trên các hạt như Einstein đã nghĩ hay không? Định lý này có thể đem các cuộc tranh luận từ bình diện siêu hình sang bình diện thực nghiệm. Năm 1982 ở đại học Orsay, nhà bác học người Pháp Alain Aspect và nhóm của ông đã thực hiện một loạt thử nghiệm trên các cặp quang tử để thử hiệu ứng EPR. Họ đã tìm thấy rằng bất đẳng thức Bell đã bị xâm phạm và như vậy Einstein đã sai lầm, cơ học lượng tử đã đúng. Trong thử nghiệm của Aspect cặp quang tử A và B đã tách xa nhau 12cm, tuy nhiên B vẫn tức khắc biết được A đang làm gì.
Matthieu: Làm sao người ta biết được hiện tượng xảy ra là tức khắc và một tín hiệu ánh sáng đem thông tin từ A đến B đã không có đủ thời gian để đi hết quảng đường xa cách nhau?
Thuận: Những đồng hồ điện tử cùng những máy dò để phát hiện A và B cho phép đo một cách chính xác thời điểm đến của các quang tử. Sự khác biệt giữa hai thời điểm đến dưới một vài phần mười của một phần tỷ giây. Các đồng hồ điện tử hiện nay không thể đo khoảng thời gian dưới 10-10 giây. Tuy nhiên trong 10-10 giây, ánh sáng chỉ có thể đi được 3cm kém xa 12cm giữa A và B. Hơn nữa, kết quả cũng y nguyên như vậy khi người ta tăng khoảng cách giữa hai quang tử. Dù biết chắc rằng ánh sáng không thể có đủ thời gian để đi hết khoảng cách giữa A và B để đem đến một số thông tin, cách vận hành của A và B vẫn diễn ra đồng bộ. Trong thử nghiệm gần đây hơn, trong năm 1998, nhà bác học Thụy Sĩ Nicolas Gisin và các cộng sự ở Genève bắt đầu tạo ra một đôi quang tử. Sau đó người ta chuyển một quang tử trên một sợi dẫn quang (fibreoptique) về hướng bắc Genève và quang tử kia về hướng nam. Những máy dò được đặt cách xa nhau 10km. Khi đến đầu sợi dẫn quang, mỗi quang tử sẽ ngẫu nhiên chọn một trong hai lộ trình, một dài và một ngắn. Người ta đã nhận thấy trong mọi trường hợp, các quang tử đã làm giống hệt nhau. Trung bình chúng chọn một trên hai lần lộ trình dài, và cũng một trên hai lần lộ trình ngắn, nhưng trong cả hai trường hợp sự lựa chọn của chúng trùng hợp nhau. Các nhà vật lý Thụy Sĩ tin chắc rằng cả hai quang tử không thể tiếp xúc với nhau bằng ánh sáng vì sự cách biệt về thời gian phản ứng của chúng dưới 3/10 của một phần tỷ giây. Trong khoảng thời gian đó, ánh sáng chỉ đi được 3cm trên 10km chia cắt hai quang tử.
Vật lý cổ điển cho rằng sự lựa chọn của A và B hoàn toàn độc lập vì chúng không thể tiếp xúc với nhau. Nhưng không phải vậy. Sự phản ứng đồng bộ luôn luôn hoàn hảo. Làm thế nào để giải thích rằng B luôn luôn biết tức khắc A đang làm gì? Sự nghịch lý chỉ có được khi chúng ta nghĩ như Einstein rằng thực tại bị chia chẻ và định vị trên mỗi quang tử. Sự nghịch lý không còn nữa nếu chúng ta chấp nhận A và B cùng thuộc về một thực tại toàn nguyên dù cả hai xa cách nhau. A không cần gửi một tín hiệu cho B vì cả hai luôn luôn tiếp xúc bởi một giao lực huyền bí nào đó. Dù ở đâu B cũng thuộc về cùng một thực tại với A.
Matthieu: Dù cả hai hạt ở hai đầu của vũ trụ?
Thuận: Đúng vậy, cơ học lượng tử loại bỏ mọi ý niệm về sự định vị. Các ý niệm về ở đây, ở kia không có ý nghĩa gì cả. Vì đây là kia. Và các nhà vật lý gọi đó là sự bất khả phân.
Matthieu: Sự nhận định này phải có những hậu quả to lớn cho sự hiểu biết về thực tại của các nhà vật lý cũng như sự nhận định bình thường của chúng ta về thế gian.
Thuận: Chắc chắn như vậy. Nhưng vài nhà vật lý vẫn còn hoài nghi về quan niệm một thực tại toàn nguyên không bị chia cắt và họ đã cố gắng tìm một khe hở trong các cuộc thử nghiệm cũng như trong định lý Bell. Cho đến nay thì họ đã thất bại. Cơ học lượng tử không hề sai lầm và hiện tượng EPR gợi lên ý niệm thực tại là “Một” hoặc là tương thuộc để nói theo Phật giáo.
Một thử nghiệm khác cũng rất nổi tiếng và hấp dẫn đã chỉ ra rằng sự tương thuộc không chỉ xảy ra ở thế giới vi mô mà còn cả ở vĩ mô nữa. Đó là thử nghiệm về cái đồng hồ Foucault.
Nhà vật lý học người Pháp Leon Foucault muốn chứng minh rằng Trái đất quay quanh bản thân nó. Năm 1851 ông treo một cái đồng hồ trên nóc vòm Khải hoàn môn. Khi bắt đầu chạy, chiếc đồng hồ đã vận hành một cách đáng ngạc nhiên: mặt phẳng dao động của nó xoay theo múi giờ. Khi người ta đặt nó theo hướng Bắc Nam, sau vài giờ nó dao động theo hướng Đông Tây và nếu chúng ta đặt nó ở hai cực, chiếc đồng hồ xoay một vòng đúng 24 giờ. Tại Paris, vì hiệu ứng vĩ tuyến, chiếc đồng hồ chỉ xoay một phần vòng trong một buổi.
Vì sao hướng của chiếc đồng hồ thay đổi? Foucault trả lời rằng sự chuyển động đó chỉ có dáng như vậy mà thôi vì thật ra chính mặt phẳng dao động của nó nằm yên, chỉ Trái đất quay mà thôi. Sau khi đã chứng minh Trái đất quay, Foucault ngừng tại đó. Nhưng thử nghiệm của Foucaut còn thiếu sót vì sự chuyển động chỉ được mô tả khi so sánh với một chuẩn điểm đứng im: sự chuyển động tuyệt đối là không có– Galilée đã hiểu rằng sự chuyển động là không. Sự chuyển động một vật không phải tự nó có, mà nó chỉ có khi liên quan đến một vật khác.
Để chỉ sự bất động của một chuẩn điểm, một ngôi sao chẳng hạn, chỉ cần đặt cái đồng hồ theo hướng của nó. Nếu ngôi sao nằm im, nó sẽ nằm trong một mặt phẳng dao động của đồng hồ và vì vậy đồng hồ là bất động. Và nếu ngôi sao di chuyển, nó sẽ rời khỏi mặt phẳng dao động của cái đồng hồ.
Hãy thử lại với những thiên thể gần cũng như xa. Nếu ta đặt mặt phẳng của cái đồng hồ theo hướng mặt trời thì mặt trời sẽ dần dần rời xa mặt phẳng dao động của đồng hồ sau vài tuần. Những ngôi sao gần chúng ta nhất cũng sẽ làm như vậy sau nhiều năm, và chòm sao Andromède cách chúng ta 2 triệu năm ánh sáng sau thời gian rất dài. Chỉ có những thiên hà cách chúng ta hàng triệu năm ánh sáng là không rời xa mặt phẳng dao động của chiếc đồng hồ mà thôi.
Tại sao chiếc đồng hồ Foucault lại vận hành như vậy? Hiện nay người ta chưa có câu trả lời. Nhà vật lý người Áo Ernst Mach, người đã tìm ra đơn vị đo tốc độ siêu âm, đã nhìn trong hiện tượng ấy sự phổ hiện của vật chất và tác dụng của nó. Theo ông, khối lượng một vật là kết quả của tác dụng toàn vũ trụ lên vật ấy. Đấy là nguyên tắc Mach. Khi ta cố đẩy một chiếc xe, sức cản của chiếc xe là từ toàn vũ trụ. Mach chưa bao giờ định ra công thức tác động huyền bí đó rất khác với lực hấp dẫn và từ đó đến nay chưa có người nào làm được việc này. Cũng giống như thử nghiệm EPR về thế giới vi mô.
Matthieu: Theo Phật giáo, đây là một định nghĩa hay về sự tương thuộc. Các hiện tượng tùy thuộc vào nhau vì cùng tồn tại trong cùng một toàn thể và toàn thể này vận hành theo luật Nhân quả. Chúng ta lại trở về với vấn đề “Cái này có vì cái kia có, cái này thay đổi vì cái kia cũng thay đổi”. Vậy từ từ người ta cũng thấy ngay rằng mọi thứ đều có liên hệ với nhau.
Thuận: Cái tương thuộc này phù hợp với kết quả các cuộc thử nghiệm mà tôi miêu tả trước. Cả thử nghiệm EPR, cái đồng hồ của Foucault, quán tính của Mach cũng không thể giải thích bằng lời bốn lực căn bản được biết trong vật lý. Điều này làm đau đầu các nhà vật lý.
Matthieu: Tôi nghĩ có một ví dụ có thể nói lên được sự khác biệt giữa quan điểm khoa học và quan điểm Phật giáo. Theo nhiều nhà khoa học, sự khám phá ra các hiện tượng đều thuộc về một toàn nguyên là rất ấn tượng, tuy nhiên nó có rất ít ảnh hưởng đến cuộc sống chúng ta. Trái lại đối với Phật tử, sự tương thuộc các hiện tượng có một ảnh hưởng rất lớn. Sự tương thuộc giúp ta xem lại nhận thức của chúng ta về thế giới để làm giảm bớt các nỗi lo sợ, các tình cảm yêu ghét của chúng ta. Sự tương thuộc phải khiến chúng ta đập tan bức tường ảo tưởng giữa “Ta” và “Người”. Nó cho thấy sự phi lý của các tình cảm như kiêu căng, ghen tị, tham lam và độc ác. Nếu tất cả chúng sinh đều tương thuộc thì chúng ta cảm thông được với hạnh phúc và đau khổ của người khác. Muốn xây dựng hạnh phúc của riêng mình trên sự đau khổ của kẻ khác không những là vô luân, mà còn không thực tế nữa. Tâm Từ và tâm Bi trong Phật giáo xuất phát từ sự tương thuộc này. Hiểu được sự tương thuộc dần dần đưa đến một sự chuyển hóa nội tâm trên con đường đưa đến giác ngộ.
Thuận: Sự tương thuộc các hiện tượng bằng trách nhiệm phổ biến là một chương trình độc đáo. Nó làm sống lại những lời của Einstein. Thật ra ngôn ngữ vật lý chưa diễn tả được tính cách toàn nguyên và thiêng liêng của thực tại. Vài người còn nghĩ đến “một thực tại bị che phủ” như nhà vật lý người Pháp Bernard d’Espagnat.
Matthieu: Nếu nghĩ về cái thực tại bị che phủ đó như là một thực tại thực sự đằng sau các hiện tượng thì lại hóa ra xem thế gian này là thực. Nhưng nếu xem từ “thực tại bị che phủ” đồng nghĩa với bất khả tư nghì thì Phật giáo đồng ý. Một điểm quan trọng khác mà chúng ta cần ghi nhớ là sự tương thuộc không những là giữa các hiện tượng mà còn là các điều kiện để các hiện tượng xuất hiện.
Thuận: Heisenberg cũng chia sẻ quan điểm đó khi ông viết: “Thế giới giống như một tấm vải phức tạp dệt bằng các hiện tượng liên kết với nhau để trở thành một tấm vải duy nhất”. Nếu cho là sự tương thuộc là một định luật cơ bản thì tôi đồng ý, nhưng khoa học chưa biết phải diễn tả nó như thế nào. Nhưng dù sao các nhà khoa học cũng nhận rõ rằng có sự ràng buộc chằng chịt trên thế gian này. Big Bang là một thí dụ. Chúng ta đều là sản phẩm của vụ nổ tiên khởi này. Những nguyên tử Hydro và Helium bao gồm 98% khối lượng vật chất trong vũ trụ được chế tạo trong ba phút đầu tiên của vụ nổ. Những nguyên tử Hydro của các đại dương hay con người chúng ta cũng đều từ đó mà ra. Như vậy chúng ta cùng chung một phổ hệ. Còn những nguyên tố nặng của 2% còn lại thuộc về thuật luyện kim nguyên tử trong các vì sao hay từ các vụ nổ các thiên thể siêu tâm linh.
Chúng ta là sản phẩm của những hạt bụi trên các vì sao cũng là anh em muôn thú với cỏ cây hoa lá. Với việc chúng ta thở, chúng ta đã có liên hệ với vạn vật trên thế gian. Khi một cơ thể sống chết đi và tan rã, những nguyên tử từ cơ thể đó sẽ thoát ra môi trường và xâm nhập vào các cơ thể khác. Cơ thể của chúng ta đang chứa khoảng một tỷ nguyên tử của cây bồ đề nơi Đức Phật đã thành Đạo.
Matthieu: Điều này cũng chỉ cho phép xem hiệu ứng EPR một cách khác: vì các hạt nối kết với nhau thật chặt chẽ sau vụ nổ Big Bang, chắc chắn các hạt ấy còn tồn tại đến bây giờ. Vậy là cái toàn thể, cái Một vẫn là điều kiện tự nhiên của mọi hiện tượng. Nhưng đối với Phật giáo không phải việc các hạt nối kết với nhau là quan trọng mà là cái việc chúng ta tương thuộc lẫn nhau và chúng ta cùng có chung ý niệm sống hạnh phúc và tránh đau khổ.
Thuận: Một loại kết nối khác được khoa học khám phá là chúng tương thuộc nhau về mặt di truyền. Nguồn gốc của chúng ta là phát xuất từ giống người Homohabilis xuất hiện ở Phi châu cách nay một triệu tám trăm ngàn năm dù chúng ta thuộc nòi giống gì và màu da ra sao. Là con cháu của các vì sao, người ngày nay có thể đã cảm thấy dòng dõi thuộc vũ trụ của mình, khi ta nhìn thấy lần đầu tiên, trái đất của chúng ta trôi lăn trong vũ trụ mênh mông. Và sự toàn nguyên nói trên làm cho chúng ta phải có trách nhiệm về trái đất của chúng ta và phải cố tránh tàn phá môi trường của nó.
William Blake đã diễn tả hết sức ngoạn mục sự toàn nguyên của vũ trụ bằng các vần thơ sau:
Thấy được vũ trụ trong một hạt cát
Và cả một thiên đường trong một bông hoa dại
Nắm lấy cả vũ trụ trong lòng bàn tay
Và cả vĩnh cửu trong một giờ.
Matthieu: Khi nghe các câu thơ của Blake, tôi lại chợt nhớ đến bốn câu kệ của Đức Phật:
Thấy trong một nguyên tử
Và trong mỗi nguyên tử
Toàn thể thế gian
Đó là điều bất khả tư nghì.
Các bản văn Phật giáo cũng nói rằng Đức Phật biết rõ bản thể cũng như sự đa dạng của các hiện tượng như xem trong lòng bàn tay của mình và Ngài có thể biến một sát na thành vĩnh cửu và ngược lại. Nếu người ta suy nghĩ kỹ về ý nghĩa của bốn câu kệ, người ta nhận ra ngay sự toàn giác của Đức Phật. Chúng ta không cần xem Đức Phật như Thượng đế. Chỉ cần hiểu rằng sự Giác Ngộ sẽ đưa đến một cái nhìn Nhất nguyên về vạn vật và bản thể của chúng. Thi sĩ triết gia Ấn Độ Asva… (Vô ước) có viết: “Trong đại định ta có thể nhìn xuyên suốt cái Nhất nguyên của vũ trụ”. Ngược lại, vô minh che lấp mất nhận thức đúng đắn về bản thể muôn loài.
Thuận: Sự có mặt vô số vũ trụ đã đưa tôi đến việc suy nghĩ về sự có mặt của các hình thái thông minh khác trong vũ trụ. Vũ trụ mà ta quan sát được gồm trăm tỷ thiên hà, mỗi thiên hà gồm trăm tỷ ngôi sao. Và nếu mỗi ngôi sao có một số hành tinh xoay quanh giống như hệ Mặt trời thì số hành tinh trên vũ trụ là hàng trăm ngàn tỷ tỷ. Như vậy rất đáng nghi ngờ là chỉ có Trái đất chúng ta là có đời sống và tâm thức. Sự có mặt của những nền văn minh ngoài hành tinh chúng ta nêu lên những câu hỏi về thần học thật thú vị. Ví dụ như theo Thiên chúa giáo, Đức chúa trời đã gửi con- Ngài Jesus Christ xuống trần gian để cứu độ loài người. Có chăng một số Jesus Christ khác đã đến những hành tinh nơi có sự sống và tâm thức để cứu độ những cư dân tại đó?
Matthieu: Phật giáo đã đề cập đến hàng tỷ thế giới với nhiều hình thức sự sống khác nhau. Trong đa số các thế giới ấy đều có một vị Phật đứng ra dạy dỗ chúng sinh đạt tới giác ngộ.
Thuận: Triết gia người Ý Giordano Bruno đã nêu lên những câu hỏi trên vào cuối thế kỷ thứ 16. Ông ta gợi ý một vũ trụ vô tận có vô số thế giới với nhiều hình dáng, sự sống khác nhau. Ông ta đã phải trả giá bằng chính mạng sống của mình vì Nhà thờ đã đưa ông ta lên giàn hỏa vào năm 1600. Cũng khá thú vị khi biết rằng Phật giáo đã nêu lên cùng vấn đề cách đây hơn hai ngàn năm.
Matthieu: Người ta cũng bảo rằng trên mỗi cọng cỏ, mỗi hạt bụi, trong mỗi nguyên tử và trong mỗi lỗ chân lông của các vị Phật có vô số thế giới mà vẫn đủ chỗ cho tất cả tồn tại. Nói cách khác, do sự tương thuộc, mỗi phần có thể gồm thêm các phần khác mà không cần thay đổi kích thước. Điều này cũng tương tự như trong kinh Phật nói rằng có thể đặt núi Tu Di trong một hạt cải.
Thuận: Đây là một hình ảnh đáng kinh ngạc. Trong các cuộc nói chuyện của chúng ta, tôi vẫn thán phục khả năng của Phật giáo dùng những hình ảnh nên thơ để diễn tả những ý niệm khó hiểu đôi khi đi ngược lại sự hiểu biết thông thường và không nằm trong ngôn ngữ thông dụng. Theo Phật giáo có chăng một thế giới nếu không có tâm thức để nhận biết?
Matthieu: Thật vậy, thế giới chung quanh ta không biến đi khi chúng ta không có khả năng nhận biết. Tuy nhiên đây là một câu hỏi sai vì lẽ một mặt tâm thức có mặt nhưng vẫn tương thuộc vào các thứ khác, và mặt khác người ta không thể hiểu hay mô tả thực tại nếu không có tâm thức. Thực tại mà chúng ta nhận biết chỉ là một thực tại quy ước còn bản thể của thực tại đó chính là cái “không” và Phật giáo đã chọn con đường Trung đạo vượt khỏi cái “có” và cái “không”. Long Thọ đã nói trong “Trung đạo luận”:
Hiện hữu hay hằng hữu
Không hay hư vô
Người trí không chọn cái hữu hay cái vô
Và Long Thọ tiếp tục:
Cái gì có mặt do sự có mặt một thứ khác
Không phải là thứ đó, nhưng cũng không phải khác
Và như vậy nó không phải có cũng không phải không.
Và Đức Phật cũng nhận định trong một chiếc gương sáng, mọi vật vẫn phản chiếu nhưng không thật, mọi hiện tượng phản chiếu trong tâm thức cũng hệt như vậy.