17. Phẩm Sơ Phát-tâm Công-đức

03 Tháng Tám 201612:29 CH(Xem: 2736)
17. Phẩm Sơ Phát-tâm Công-đức
KINH HOA NGHIÊM  

Hán Dịch: Đại-Sư Thật-Xoa-Nan-Đà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh 
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 – 1983

 

 PHẨM SƠ PHÁT TÂM CÔNG ĐỨC
THỨ MƯỜI BẢY


 Lúc bấy giờ, Thiên-Đế-Thích bạch Pháp-Huệ Bồ-Tát rằng :

 Thưa Phật-tử ! Bồ-Tát sơ phát bồ-đề tâm được bao nhiêu công-đức ?

 Pháp-Huệ Bồ-Tát nói :

 Nghĩa đó rất sâu, khó nói, khó biết, khó phân-biệt, khó tin hiểu, khó chứng, khó làm, khó thông-đạt, khó tư-duy, khó đạt-lượng, khó thu nhập.

 Tuy nhiên, thừa oai-thần của đức Phật, tôi sẽ nói cho ông.

 Này Phật-tử ! Giả sử có người đem tất cả đồ sở-thích cúng-dường chúng-sanh trong vô-số thế-giới ở mười phương trọn một kiếp; rồi sau đó dạy họ thọ-trì ngũ-giới thanh-tịnh. Cứ theo ý ông, công-đức của người này nhiều chăng ?

 Thiên-Đế thưa : 'Công-đức của người này, trừ Phật ra, không ai có thể lường được.'

 Pháp-Huệ Bồ-Tát nói : 'Này Phật-tử ! Công-đức của người này đem so với công-đức sơ-phát-tâm của Bồ-Tát chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần ức, một phần trăm ngàn na-do-tha ức, một phần số, một phần ca-la, một phần toán, một phần dụ, nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà.

 Giả sử có người đem tất cả đồ sở-thích cúng-dường chúng-sanh trong mười vô-số thế-giới ở mười phương trọn trăm kiếp, rồi sau đó dạy họ đều tu thập-thiện. Cúng-dường như vậy trọn trăm ngàn kiếp rồi dạy trụ tứ-vô-lượng-tâm. Cúng-dường trọn ức kiếp rồi dạy trụ tứ-vô-sắc-định. Cúng-dường trọn trăm ức kiếp rồi dạy trụ quả Tu-Đà-Hoàn. Cúng-dường trọn ngàn ức kiếp, rồi dạy trụ quả A-La-Hán. Cúng-dường trọn trăm ngàn na-do-tha ức kiếp, rồi dạy trụ Bích-Chi-Phật.

 Này Phật-tử ! Cứ theo ý của ông, công-đức của người này có nhiều chăng ?

 Thiên-Đế thưa : 'Công-đức của người này, trừ Phật ra, không ai có thể lường được.'

 Pháp-Huệ Bồ-Tát nói : 'Này Phật-tử ! Công-đức của người này đem so với công-đức sơ-phát-tâm của Bồ-Tát chẳng bằng một phần trăm, một phần ngàn, một phần trăm ngàn, một phần ức, một phần trăm ngàn na-do-tha ức, một phần số, một phần ca-la, một phần toán, một phần dụ, nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà.

 Giả-sử có người đem tất cả đồ sở-thích cúng-dường chúng-sanh trong mười vô-số thế-giới ở mười phương trọn trăm kiếp, rồi sau đó dạy họ đều tu thập-thiện. Cúng-dường như vậy trọn ngàn kiếp rồi dạy tứ-thiền. Cúng-dường như vậy trọn trăm ngàn kiếp rồi dạy tứ-vô-lượng-tâm. Cúng-dường trọn ức kiếp rồi dạy trụ tứ-vô-sắc-định. Cúng-dường trọn trăm ức kiếp rồi dạy trụ quả Tu-Đà-Hoàn. Cúng-dường trọn ngàn ức kiếp rồi dạy trụ quả Tư-Đà-Hàm. Cúng-dường trọn trăm ngàn ức kiếp, rồi dạy trụ quả A-Na-Hàm. Cúng-dường trọn trăm ngàn na-do-tha ức kiếp, rồi dạy trụ Bích-Chi-Phật.

 Này Phật-tử ! Cứ theo ý của ông, công-đức của người này có nhiều chăng ?

 Thiên-Đế thưa : 'Công-đức của người này chỉ có Phật là biết được thôi.'

 Pháp-Huệ Bồ-Tát nói : 'Này Phật-tử ! Công-đức của người này đem so với công-đức của Bồ-Tát sơ-phát-tâm chẳng bằng một phần trăm, nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà.

 Tại sao thế ? Này Phật-tử ! Tất cả chư Phật lúc sơ-phát-tâm, chẳng phải chỉ vì đem tất cả đồ sở-thích cúng-dường chúng-sanh trong mười vô-số thế-giới ở mười phương trải qua trăm kiếp, nhẫn đến trăm ngàn na-do-tha kiếp mà phát bồ-đề tâm. Cũng chẳng phải chỉ vì giáo-hóa những chúng-sanh ấy tu ngũ-giới, thập-thiện, tứ-thiền, tứ-không, nhẫn đến khiến trụ nơi quả A-La-Hán và Bích-Chi-Phật mà phát bồ-đề tâm. Chính là vì khiến Chủng-tánh Như-Lai chẳng dứt, vì đầy khắp tất cả thế-giới, vì độ thoát tất cả chúng-sanh trong tất cả thế-giới, vì biết rõ cả sự thành hoại của tất cả thế-giới, vì biết rõ chúng-sanh cấu tịnh trong tất cả thế-giới, vì biết rõ sở-thích, phiền-não, tập-khí của tất cả chúng-sanh, vì biết rõ sự chết đây sanh kia của tất cả chúng-sanh, vì biết rõ căn tánh phương-tiện của tất cả chúng-sanh, vì biết rõ tâm hành của tất cả chúng-sanh, vì trí biết rõ tam-thế chúng-sanh, vì biết rõ cảnh-giới bình-đẳng của tất cả Phật, vì những điều trên đây mà phát tâm vô-thượng bồ-đề.

 Này Phật-tử ! Giả-sử có người trong một khoảng một niệm có thể qua khỏi phương đông vô-số thế-giới, đi luôn như vậy trọn vô-số kiếp, số thế-giới của người này đã trải qua khó có ai biết được.

 Người thứ hai, trong một niệm có thể qua khỏi tất cả thế-giới của người thứ nhứt đã trải qua trong vô-số kiếp, người này cũng đi luôn mãi trọn vô-số kiếp.

 Cứ lần lượt tuần-tự như vậy đến người thứ mười. Chín phương kia cũng đều như vậy. Thế là trong mười phương có cả thảy trăm người. Số thế-giới của trăm người này đã trải qua còn có thể biết được tế-hạn.

 Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát vô-thượng bồ-đề tâm, không ai có thể biết tế-hạn được.

 Này Phật-tử ! Tại sao vậy ? vì Bồ-Tát phát bồ-đề tâm không có tế-hạn. Nghĩa là vì muốn biết rõ thập-phương tất cả thế-giới, muốn biết diệu thế-giới tức là thô thế-giới, và thô tức là diệu, thế-giới ngửa tức là thế-giới úp, và úp tức là ngửa, tiểu thế-giới tức là đại thế-giới và đại tức là tiểu, thế-giới rộng tức là thế-giới hẹp và hẹp tức là rộng, một thế-giới tức là bất-khả-thuyết thế-giới và bất-khả-thuyết tức là một, bất-khả-thuyết thế-giới vào trong một thế-giới và một thế-giới vào trong bất-khả-thuyết, uế thế-giới tức là tịnh thế-giới, và tịnh tức là uế, muốn biết trong đầu một sợi lông tất cả thế-giới tánh sai-biệt, trong tất cả thế-giới một đầu lông một thể-tánh, muốn biết trong một thế-giới xuất-sanh tất cả thế-giới, muốn biết tất cả thế-giới không thể-tánh, muốn dùng một niệm mà biết hết tất cả thế-giới rộng lớn mà không chướng-ngại. Vì cớ trên đây mà phát tâm vô-thượng bồ-đề.

 Lại ví-dụ : giả-sử có người trong khoảng một niệm có thể biết kiếp số thành hoại trong vô-số thế-giới ở phương Đông, cứ niệm niệm biết như vậy trọn vô-số kiếp.

 Người thứ hai trong khoảng một niệm có thể biết tất cả kiếp số của người thứ nhứt đã biết trong vô-số kiếp, rồi niệm niệm biết như vậy trọn vô-số kiếp.

 Cứ tuần tự tăng lên đến người thứ mười, chín phương kia cũng như vậy.

 Thế là có cả thảy trăm người. Kiếp số thành hoại của tất cả thế-giới trong mười phương qua sự hiểu biết của trăm người này, còn có thể biết được ngằn mé.

 Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát-tâm không ai có thể biết được ngằn mé.

 Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát chẳng phải chỉ vì biết sự thành hoại của bao nhiêu thế-giới đó mà phát tâm vô-thượng bồ-đề. Mà vì muốn biết rõ sự thành hoại của tất cả thế-giới không thừa không sót nên phát tâm.

 Nghĩa là muốn biết kiếp dài tức là kiếp ngắn, ngắn tức là dài, dài ngắn bình-đẳng, một kiếp bình-đẳng với vô-số kiếp, vô-số với một củng vậy, kiếp có Phật bình-đẳng với kiếp không Phật, không với có cũng vậy, trong kiếp một Phật có bất-khả-thuyết Phật, trong kiếp bất-khả-thuyết Phật có một Phật, hữu-lượng kiếp bình-đẳng với vô-lượng kiếp, vô-lượng kiếp bình-đẳng với hữu-lượng kiếp, hữu-tận kiếp bình-đẳng với vô-tận kiếp, vô-tận với hữu-tận cũng vậy, bất-khả-thuyết kiếp bình-đẳng với một niệm, một niệm bình-đẳng với bất-khả-thuyết kiếp, tất cả kiếp vào phi-kiếp, phi-kiếp vào tất cả kiếp. Vì muốn trong một niệm biết hết kiếp số thành hoại của tất cả thế-giới trong ba thời quá-khứ, vị-lai và hiện-tại, nên phát tâm vô-thượng bồ-đề.

 Đây gọi là sơ-phát-tâm đại-thệ trang-nghiêm trí thần-thông rõ biết tất cả kiếp.

 Lại ví-dụ : 'Giả-sử có người, trong khoảng một niệm có thể biết những tri-giải sai biệt của tất cả chúng-sanh trong vô-số thế-giới ở phương Đông. Niệm niệm biết rõ như vậy mãn vô-số kiếp.

 Người thứ hai trong khoảng một niệm có thể biết những tri-giải của tất cả chúng-sanh mà người thứ nhứt đã biết trọn vô-số kiếp. Lần lượt tuần-tự đến người thứ mười. Chín phương kia cũng đều như vậy.

 Những tri-giải riêng biệt của tất cả chúng-sanh trong mười phương như vậy, còn có thể biết được ngằn mé.

 Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát-tâm, không ai có thể biết được ngằn mé.

 Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát phát tâm chẳng phải vì chỉ muốn biết bao nhiêu tri-giải của bao nhiêu chúng-sanh đó, mà vì muốn biết những tri-giải của các chúng-sanh trong tất cả thế-giới.

 Nghĩa là Bồ-Tát phát tâm vô-thượng bồ-đề, vì muốn biết tất cả tri-giải sai-biệt vô-biên, tri-giải sai-biệt của một chúng-sanh bình-đẳng với tri-giải của vô-số chúng-sanh, vì muốn được trí phương-tiện biết rõ bất-khả-thuyết tri-giải sai-biệt, muốn biết rõ mỗi mỗi tri-giải sai-biệt của tất cả chúng-sanh trọn vẹn không thừa sót, muốn biết rõ tri-giải thiện, bất-thiện, quá-khứ, hiện-tại, vị-lai, muốn biết rõ tri-giải tương-tợ và chẳng tương-tợ, muốn biết rõ tất cả tri-giải tức là một tri-giải, một tri-giải tức là tất cả tri-giải, muốn biết được sức tri-giải của Như-Lai, muốn biết rõ sự sai-biệt của hữu-thượng-giải, vô-thượng-giải, hữu-dư-giải, vô-dư-giải, đẳng-giải, bất-đẳng-giải, hữu-y-giải, vô-y-giải, cộng-giải, bất-cộng-giải, hữu-biên-giải, vô-biên-giải, sai-biệt-giải, vô-sai-biệt-giải, thiện-giải, bất-thiện-giải, thế-gian-giải, xuất-thế-gian-giải, muốn được vô-ngại ở nơi tất cả diệu-giải, đại-giải, vô-lượng-giải, chánh-vị-giải, muốn dùng vô-lượng phương-tiện biết rõ trọn vẹn thập-phương tất cả chúng-sanh-giới, mỗi chúng-sanh có nào là tịnh-giải, tế-giải, thô-giải, muốn biết rõ trọn vẹn thâm-mật-giải, phương-tiện-giải, phân-biệt-giải, tự-nhiên-giải, tùy-nhân-khởi-giải, tùy-duyên-khởi-giải.

 Vì muốn được như trên đây mà Bồ-Tát phát tâm vô-thượng chắnh-đẳng chánh-giác.

 Lại ví-dụ : Giả-sử có người trong khoảng một niệm, có thể biết căn tánh sai-biệt của tất cả chúng-sanh trong vô-số thế-giới phương Đông, niệm niệm biết như vậy trọn vô-số kiếp.

 Người thứ hai, trong một niệm, có thể rõ biết tất cả sự biết về căn-tánh chúng-sanh trọn vô-số kiếp của người thứ nhứt.

 Lần lượt tuần-tự đến người thứ mười. Chín phương kia cũng đều như vậy.

 Những căn-tánh sai-biệt của bao nhiêu chúng-sanh trong bao nhiêu thế-giới của trăm người đó rõ biết trọn vô-số kiếp, còn có thể biết được ngằn mé.

 Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát-tâm, không ai có thể biết được ngằn mé.

 Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát phát tâm chẳng phải chỉ vì biết bao nhiêu căn-tánh đó, mà chính vì muốn biết rõ trọn vẹn những căn-tánh sai-biệt của tất cả chúng-sanh trong tất cả thế-giới. Nói rộng ra, nhẫn đến muốn biết trọn vẹn tất cả lưới căn-tánh mà Bồ-Tát phát tâm vô-thượng bồ-đề.

 Lại ví-dụ : Giả-sử có người trong khoảng một niệm có thể biết những chỗ sở-thích của những chúng-sanh trong vô-số thế-giới ở phương Đông, niệm niệm biết như vậy trọn vô-số kiếp. Tuần tự nới rộng đến người thứ mười. Chín phương kia cũng đều như vậy. Chỗ sở-thích của thập phương chúng-sanh này còn có thể biết được ngằn mé.

 Công-đức thiện-căn của Bồ-Tát sơ-phát-tâm, không ai có thể biết được ngằn mé.

 Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát phát-tâm chẳng phải vì chỉ để biết chừng ấy sở-thích của bao nhiêu chúng-sanh đó, mà chính là vì muốn biết tất cả sở-thích của tất cả chúng-sanh trong tất cả thế-giới.

 Lại ví-dụ : Giả-sử có người trong khoảng một niệm có thể biết những phương-tiện của những chúng-sanh trong vô-số thế-giới ở phương Đông. Tuần tự nới rộng như vậy nhẫn đến người thứ mười. Chín phương kia cũng đều như vậy.

 Những loại phương-tiện cùng thập phương chúng-sanh đó còn có thể biết được ngằn mé.

 Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát-tâm không ai có thể biết được ngằn mé.

 Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát phát-tâm chẳng phải vì để biết bao nhiêu phương-tiện của thập phương chúng-sanh đó, mà chính là để biết trọn vẹn những phương-tiện của tất cả chúng-sanh trong tất cả thế-giới.

 Lại ví-dụ : Giả-sử có người trong khoảng một niệm có thể biết những tâm sai-biệt của những chúng-sanh trong vô-số thế-giới ở phương Đông. Nới rộng nhẫn đến những tâm sai-biệt của những chúng-sanh trong thập-phương thế-giới, còn có thể biết ngằn mé.

 Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát-tâm, không ai có thể biết được ngằn mé.

 Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát phát tâm chẳng phải chỉ vì để biết ngần ấy tâm sai-biệt, mà chính vì để biết trọn vẹn những tâm sai-biệt của tất cả chúng-sanh trong tất cả thế-giới.

 Lại ví-dụ : Giả-sử có người trong khoảng một niệm có thể biết những nghiệp sai-biệt của những chúng-sanh trong vô-số thế-giới ở phương Đông. Nới rộng nhẫn đến những nghiệp sai-biệt của những chúng-sanh trong thập phương thế-giới, còn có thể biết ngằn mé.

 Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát-tâm, không ai có thể biết được ngằn mé.

 Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát phát tâm chẳng phải chỉ vì để biết những nghiệp sai-biệt của bao nhiêu chúng-sanh đó, mà chính là vì để biết rõ trọn vẹn những nghiệp sai-biệt của tất cả chúng-sanh trong tất cả thế-giới và cả tam-thế.

 Lại ví-dụ : Giả-sử có người trong khoảng một niệm, có thể biết những phiền-não của chúng-sanh trong vô-số thế-giới ở phương Đông. Lần lượt nới rộng nói đến người thứ mười và chín phương kia, còn có thể biết được ngằn mé.

 Công-đức căn lành của Bồ-Tát sơ-phát-tâm, không ai có thể biết được ngằn mé.

 Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát phát tâm chẳng phải chỉ vì để biết những phiền-não của bao nhiêu chúng-sanh đó, mà chính vì để biết rõ trọn vẹn những phiền-não sai-biệt của những chúng-sanh trong tất cả thế-giới.

 Nghĩa là muốn biết rõ trọn vẹn nhửng phiền-não nhẹ, nặng, chủng-tử hiện-hành, tất cả chúng-sanh có vô-lượng phiền-não, các loại sai-biệt, các loại giác-quán để đói trị sạch tất cả những tạp-nhiễm.

 Muốn biết trọn vẹn phiền-não y tựa vô-minh, phiền-não tương-ưng với ai, để dứt kiết-sử phiền-não của tất cả loài.

 Muốn biết trọn vẹn tham-phần, sân-phần, si-phần và đẳng-phần phiền-não, để dứt căn-bổn phiền-não.

 Muốn biết trọn vẹn ngã phiền-não, ngã-sở phiền-não, ngã-mạn phiền-não, để giác-ngộ hết tất cả phiền-não.

 Muốn biết trọn vẹn từ điên-đảo phân-biệt sanh ra căn-bổn phiền-não, tùy phiền-não, nhơn thân-kiến sanh sáu mươi hai kiến chấp, để điều-phục tất cả phiền-não.

 Muốn biết trọn vẹn cái phiền-não, chướng-phiền-não, để phát tâm đại-bi, tâm cứu hộ dứt tất cả phiền-não khiến tất cả trí-tánh thanh-tịnh.

 Vì muốn được như vậy mà Bồ-Tát phát tâm vô-thượng bồ-đề.

 Lại ví-dụ : Giả-sử có người trong khoảng một niệm đem các thứ thượng-vị ẩm-thực, y-phục, hoa hương, phan lọng, tăng-già-lam, cung-điện thượng-diệu, màn-trướng báu, những tòa sư-tử trang-nghiêm và những diệu-bửu cung kính cúng-dường vô-số chư Phật phương Đông và những chúng-sanh trong vô-số thế-giới, luôn trọn vô-số kiếp và cũng khuyên những chúng-sanh đó đồng cúng-dường Phật. Đến khi chư Phật nhập diệt đều xây tháp cao rộng trang-nghiêm để thờ xá-lợi và hình tượng của Phật trọn vô-số kiếp. Chín phương kia cũng đều như vậy.

 Này Phật-tử ! Công-đức của người trên đây, theo ý ông, có nhiều chăng ?

 Thiên-Đế thưa : 'Công-đức đó chỉ có đức Phật là biết được thôi'.

 Pháp-Huệ Bồ-Tát nói : 'Công-đức đem sánh với công-đức của Bồ-Tát sơ-phát-tâm không bằng một phần trăm, nhẫn đến chẳng bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà.

 Nới rộng như thế tuần-tự đến người thứ mười. Công-đức cúng-dường của tất cả người trên đây cũng không bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà đối với công-đức của Bồ-Tát sơ-phát-tâm.

 Tại sao vậy ? Vì Bồ-Tát phát tâm chẳng phải chỉ hạn cúng-dường bao nhiêu đức Phật như vậy, mà chính vì để cúng-dường thập-phương tam-thế tất cả chư Phật.

 Bồ-Tát phát tâm này rồi, có thể biết tất cả quá-khứ chư Phật lúc mới thành chánh-giác đến lúc nhập niết-bàn, có thể tin bao nhiêu thiện-căn của tất cả vị-lai chư Phật, có thể biết bao nhiêu trí-huệ của tất cả hiện-tại chư Phật.

 Tam-thế chư Phật có bao nhiêu công-đức, Bồ-Tát này có thể tin được, thọ được, có thể biết, có thể tu, có thể được, có thể chứng, có thể trọn nên, có thể cùng chư Phật bình-đẳng một tánh.

 Tại sao vậy ? Bồ-Tát này vì chẳng dứt phật-chủng mà phát tâm, vì đày khắp tất cả thế-giới, vì độ thoát tất cả chúng-sanh, vì biết rõ sự thành hoại của tất cả thế-giới, vì biết rõ sự cấu-tịnh của tất cả chúng-sanh, vì biết rõ ba cõi thanh-tịnh của tất cả thế-giới, vì biết rõ sở-thích, phiền-não, tập-khí của tất cả chúng-sanh, vì biết rõ tất cả chúng-sanh chết đây sanh kia, vì biết rõ căn-tánh phương-tiện của tất cả chúng-sanh, vì biết rõ tâm hành của tất cả chúng-sanh, vì trí biết rõ tam-thế của tất cả chúng-sanh.

 Vì những điều trên đây mà Bồ-Tát phát tâm vô-thượng bồ-đề.

 Do phát tâm nên thường được tất cả tam-thế chư Phật ức-niệm, sẽ được vô-thượng bồ-đề. Liền được tất cả tam-thế chư Phật ban diệu-pháp. Liền cùng tất cả tam-thế chư Phật thể-tánh bình-đẳng. Đã tu pháp trợ-đạo của tất cả tam-thế chư Phật. Trang-nghiêm phật-pháp bất cộng của tất cả tam-thế chư Phật. Được trọn vẹn trí-huệ thuyết pháp của tất cả tam-thế chư Phật.

 Tại sao vậy ? Vì phát tâm như đây sẽ được thành Phật.

 Nên biết người này đồng với tam-thế chư Phật, bình-đẳng với cảnh-giới của chư Phật, bình-đẳng với công-đức của chư Phật, được trí-huệ chơn-thật một thân cùng vô-lượng thân rốt ráo bình-đẳng của chư Phật.

 Lúc vừa phát tâm liền được thập phương tất cả chư Phật đồng khen ngợi, liền có thể thuyết pháp giáo-hoá điều-phục chúng-sanh trong tất cả thế-giới, liền có thể chấn-động tất cả thế-giới, liền có thể chiếu sáng tất cả thế-giới, liền có thể dứt diệt những khổ ác đạo của tất cả thế-giới, liền có thể nghiêm-tịnh tất cả quốc-độ, liền có thể thị-hiện thành Phật trong tất cả thế-giới, liền có thể khiến tất cả chúng-sanh đều được vui mừng, liền có thể vào tất cả pháp-giới-tánh, liền có thể được trí-huệ quang-minh của tất cả Phật.

 Bồ-Tát sơ-phát-tâm đây chẳng phải cầu được một ít trong tam-thế, như là Phật, phật-pháp, Bồ-Tát, bồ-tát-pháp, Độc-giác, độc-giác-pháp, Thinh-văn, thinh-văn-pháp, thế-gian, thế-gian-pháp, xuất-thế-gian, xuất-thế-gian-pháp, chúng-sanh, chúng-sanh-pháp, mà chỉ cầu được nhứt-thiết-chủng-trí, nơi các pháp-giới, tâm không chấp trước.

 Lúc bấy giờ, do thần-lực của Phật, mười phương đều mười ngàn phật-sát vi-trần-số thế-giới chấn-động sáu cách, mưa hoa trời, hương trời, tràng hoa trời, y-phục trời, báu-trời, đồ trang-nghiêm-trời, trỗi kỹ-nhạc trời, phóng quang-minh trời và âm-thinh trời.

 Lúc đó, mười phương, đều qua khỏi ngoài mười phật-sát vi-trần-số thế-giới, có mười ngàn phật-sát vi-trần-số Phật đồng hiệu Pháp-Huệ, và đều hiện thân ra trước Pháp-Huệ Bồ-Tát mà bảo rằng :

 Lành thay ! Lành thay ! Này Pháp-Huệ ! Nay ông có thể thuyết được pháp đó. Chúng thế-gian ở mười phương, đều mười ngàn phật-sát vi-trần-số chư Phật cũng thuyết pháp đó.

 Lúc ông thuyết pháp đó, có mười ngàn phật-sát vi-trần-số Bồ-Tát phát tâm vô-thượng bồ-đề. Chư Phật chúng thế-gian đều thọ-ký cho họ : qua khỏi ngàn bất-khả-thuyết vô-biên kiếp, đồng xuất thế thành Phật trong một kiếp và đồng hiệu Thanh-Tịnh-Tâm Như-Lai, thế-giới khác nhau.

 Chư Phật chúng thế-gian sẽ hộ-trì pháp này, khiến chư Bồ-Tát thời vị-lai, người chưa nghe đều được nghe.

 Như ở Ta-Bà thế-giới này, trên đảnh Tu-di thuyết pháp như vậy khiến các chúng-sanh nghe pháp thọ hóa, mười phương trăm ngàn ức-na-do-tha vô-lượng, vô-biên, tận pháp-giới hư-không-giới, trong tất cả thế-giới cũng nói pháp này giáo-hóa chúng-sanh. Bồ-Tát thuyết-pháp đồng tên Pháp-Huệ. Đều do thần-lực của Phật, nguyện-lực của Phật, vì muốn hiển-thị phật-pháp, vì dùng trí-quang chiếu khắp, vì muốn khai xiển thật nghĩa, vì khiến chứng được pháp-tánh, vì khiến hội chúng đều hoan-hỷ, vì muốn khai thị nhơn phật-pháp, vì được tất cả Phật bình-đẳng, vì rõ pháp-giới vô-nhị, nên thuyết-pháp như vậy.

 Lúc đó Pháp-Huệ Bồ-Tát quan-sát khắp tất cả chúng-hội mười phương thế-giới, muốn đều thành-tựu các chúng-sanh, muốn đều trừ sạch những nghiệp quả báo, muốn đều khai hiển thanh-tịnh pháp-giới, muốn đều nhổ trừ căn-bổn tạp-nhiễm, muốn đều tăng-trưởng tín giải rộng lớn, muốn đều khiến biết rõ căn-tánh vô-lượng chúng-sanh, muồn đều khiến biết pháp tam-thế bình-đẳng, muốn đều khiến quan-sát niết-bàn-giới, muốn tăng-trưởng thiện-căn thanh-tịnh của mình, thừa oai-lực của Phật mà nói kệ rằng :

 Vì lợi thế-gian phát đại tâm

 Tâm đó khắp cùng cả mười phương

 Chúng-sanh, quốc-độ pháp tam-thế

 Phật và Bồ-Tát biển tối-thắng.

 Rốt ráo hư-không khắp pháp-giới

 Chỗ có tất cả những thế-gian

 Như các Phật-pháp đều qua đến

 Phát tâm như vậy không thối-chuyển.

 Từ-niệm chúng-sanh không tạm bỏ

 Lìa những não hại khắp nhiêu ích

 Quang-minh chiếu thế làm sở-quy

 Thập-Lực hộ niệm khó nghĩ bàn.

 Thập phương quốc-độ đều đến vào

 Tất cả hình sắc đều thị-hiện

 Như Phật phước trí rộng vô-biên

 Tùy thuận tu nhơn không chấp trước.

 Có cõi ngửa, hoặc nghiêng, hoặc úp

 Thô diệu rộng lớn vô-lượng thứ

 Bồ-Tát một khi phát đại-tâm

 Đều qua đến được không chướng-ngại.

 Bồ-Tát thắng hạnh bất-khả-thuyết

 Đều siêng tu tập vô-sở-trụ

 Thấy tất cả Phật lòng mến thích

 Khắp vào biển pháp sâu của Phật.

 Thương xót ngũ-thú các quần-sanh

 Khiến trừ cấu uế khắp thanh-tịnh

 Nối thạnh phật-chủng chẳng đoạn-tuyệt

 Dẹp dứt cung ma không có thừa.

 Đã trụ Như-Lai bình-đẳng tánh

 Khéo tu vi-diệu phương-tiện-đạo

 Nơi Phật cảnh-giới sanh tín-tâm

 Được Phật quán đảnh tâm không trước.

 Nhớ nghĩ báo ân cho đức Phật

 Lòng như kim-cương chẳng bị ngăn

 Có thể chiếu rõ công-hạnh Phật

 Tự-nhiên tu tập hạnh bồ-đề.

 Các loài sai-biệt vô-lượng tưởng

 Nghiệp quả và tâm cũng chẳng một

 Nhẫn đến căn-tánh các loại khác

 Một khi phát tâm đều thấy rõ.

 Tâm đó rộng lớn khắp pháp-giới

 Vô-y, vô-biến, như hư-không

 Xu-hướng phật-trí, không sở-thủ

 Rõ chắc thiệt-tế lìa phân-biệt.

 Biết tâm chúng-sanh không sanh-tưởng

 Rõ thấu các pháp không pháp-tưởng

 Dầu khắp phân-biệt mà vô-biệt

 Ức na-do cõi đều qua đến.

 Vô-lượng chư Phật diệu-pháp-tạng

 Tùy thuận quan-sát đều vào được

 Căn hạnh chúng-sanh đều biết cả

 Đến chỗ như vậy là như Phật.

 Nguyện lớn thanh-tịnh hằng tương-ưng

 Thích cúng-dường Phật không thối-chuyển

 Trời người thấy đó không nhàm chán

 Thường được chư Phật chỗ hộ niệm.

 Tâm đó thanh-tịnh vô-sở-y

 Dầu quán thâm-pháp mà chẳng chấp

 Tư-duy như vậy vô-lượng kiếp

 Ở trong tam-thế không sở trước.

 Tâm đó kiên-cố khó chế ngăn

 Đến Phật bồ-đề không chướng-ngại

 Chí cầu diệu-đạo trừ mê hoặc

 Đi khắp pháp-giới chẳng khổ nhọc.

 Biết pháp ngữ ngôn đều tịch-diệt

 Chỉ vào chơn-như tuyệt dị-giải

 Chư Phật cảnh-giới đều thuận quán

 Đạt nơi tam-thế tâm vô-ngại.

 Bồ-Tát mới phát tâm rộng lớn

 Có thể qua khắp mười phương cõi

 Pháp-môn vô-lượng bất-khả-thuyết

 Trí-quang chiếu khắp đều sáng tỏ.

 Đại-bi rộng độ rất không sánh

 Từ-tâm cùng khắp đồng hư-không

 Mà với chúng-sanh chẳng phân-biệt

 Thanh-tịnh như vậy đi thế-gian.

 Thập phương chúng-sanh đều an-ủy

 Tất cả chỗ làm đều chơn-thật

 Hằng dùng tịnh-tâm lời chẳng khác

 Thường được chư Phật đồng gia-hộ.

 Quá-khứ chỗ có đều ghi nhớ

 Vị-lai tất cả đều phân-biệt

 Thập phương thế-giới khắp vào trong

 Để độ chúng-sanh khiến ra khỏi.

 Bồ-Tát đầy đủ diệu trí-quang

 Khéo rõ nhơn-duyên không có nghi

 Tất cả mê hoặc đều dứt trừ

 Như vậy mà đi nơi pháp-giới.

 Ma-Vương cung-điện đều dẹp phá

 Chúng-sanh màn lòa đều trừ dứt

 Lìa những phân-biệt tâm chẳng động

 Khéo rõ cảnh-giới của Như-Lai.

 Lưới nghi tam-thế đều đã trừ

 Đối với Như-Lai sanh tịnh-tín

 Do tin được thành trí bất-động

 Do trí thanh-tịnh hiểu chơn-thiệt.

 Vì khiến chúng-sanh được xuất ly

 Tận thời vị-lai khắp lợi-ích

 Mãi mãi cần khổ tâm chẳng nhàm

 Nhẫn đến địa-ngục cũng an-thọ.

 Phước trí vô-lượng đều đầy đủ

 Chúng-sanh căn dục đều rõ biết

 Và những nghiệp-hạnh đều biết cả

 Theo sở-thích họ vì thuyết-pháp.

 Rõ biết tất cả không vô-ngã

 Từ-niệm chúng-sanh thường không bỏ

 Dùng một đại-bi vi-diệu âm

 Vào khắp thế-gian mà diễn-thuyết.

 Phóng đại quang-minh các mầu sắc

 Chiếu khắp chúng-sanh trừ đen tối

 Trong quang Bồ-Tát ngồi liên-hoa

 Vì chúng xiển-dương pháp thanh-tịnh.

 Nơi đầu một lông hiện các cõi

 Chư đại Bồ-Tát đều sung mãn

 Chúng-hội trí-huệ sai-khác cả

 Đều rõ biết được tâm chúng-sanh.

 Thập phương thế-giới bất-khả-thuyết

 Một niệm đi khắp hết tất cả

 Lợi ích chúng-sanh cúng-dường Phật

 Nơi chỗ chư Phật hỏi thâm-nghĩa.

 Nơi chư Như-Lai tưởng là cha

 Vì lợi chúng-sanh tu giác-hạnh

 Trí-huệ thiện-xảo thông pháp-tạng

 Vào nơi thâm-trí không sở-trước.

 Tùy thuận tư-duy nói pháp-giới

 Trải vô-lượng kiếp chẳng cùng tận

 Trí dầu khéo vào không xứ sở

 Không có mỏi nhàm không sở-trước.

 Sanh trong nhà tam-thế chư Phật

 Chứng được Như-Lai diệu pháp-thân

 Khắp vì quần-sanh hiện các sắc

 Ví như thuật-gia làm tất cả.

 Hoặc hiện mới tu hạnh thù-thắng

 Hoặc hiện sơ-sanh và xuất-gia

 Hoặc hiện dưới cây thành bồ-đề

 Hoặc vì chúng-sanh hiện nhập diệt.

 Bồ-Tát trụ nơi pháp hi-hữu

 Là Phật-cảnh chẳng phải nhị-thừa

 Thân ngữ ý tưởng đều đã trừ

 Các thứ tùy nghi đều hiện được.

 Bồ-Tát chỗ được các phật-pháp

 Chúng-sanh tư-duy phát cuồng loạn

 Trí nhập thiệt-tế tâm vô-ngại

 Khắp hiện Như-Lai sức tự-tại.

 Đây ở thế-gian không sánh bằng

 Huống là lại thêm hạnh thù-thắng

 Dầu chưa đầy đủ nhất-thiết-trí

 Đã được Như-Lai tự-tại-lực.

 Đã trụ nhứt-thừa đạo rốt-ráo

 Sâu vào pháp vi-diệu tối-thượng

 Khéo biết chúng-sanh thời, phi-thời

 Vì lợi-ích nên hiện thần-thông.

 Phân thân đầy khắp tất cả cõi

 Phóng tịnh quang-minh trừ đời tối

 Ví như Long-Vương khởi đại-vân

 Khắp tuôn mưa mầu đều đầy thấm.

 Quan-sát chúng-sanh như ảo-mộng

 Do nghiệp-lực nên thường lưu chuyển

 Đại-bi xót thương đều cứu vớt

 Vì nói vô-vi tịnh pháp-tánh.

 Phật-lực vô-lượng đây cũng vậy

 Ví như hư-không vô-lượng-biên

 Vì khiến chúng-sanh được giải-thoát

 Ức kiếp siêng tu không mỏi nhọc.

 Quan-sát tư-duy diệu công-đức

 Khéo tự-tại hạnh đệ-nhứt vô-thượng

 Nơi các thắng-hạnh luôn chẳng bỏ

 Chuyên niệm sanh thành nhứt-thiết-trí.

 Một thân thị-hiện vô-lượng thân

 Tất cả thế-giới đều đầy khắp

 Tâm đó thanh-tịnh vô phân-biệt

 Một niệm khó nghĩ, sức như vậy.

 Nơi các thế-gian chẳng phân-biệt

 Nơi tất cả pháp không vọng-tưởng

 Quán sâu các pháp mà chẳng lấy

 Hằng cứu chúng-sanh không sở-độ.

 Tất cả thế-gian chỉ là tưởng

 Ở trong các thứ đều sai khác

 Biết cảnh-giới tưởng hiểm và sâu

 Vì hiện thần-thông để độ thoát.

 Ví như thuật-gia sức tự-tại

 Bồ-Tát thần-biến cũng như vậy

 Thân khắp pháp-giới và hư-không

 Tùy tâm chúng-sanh đều được thấy.

 Năng sở phân-biệt lìa cả hai

 Tạp nhiễm thanh-tịnh không sở-thú

 Hoặc phược hoặc giải trí đều quên

 Chỉ nguyện khắp ban vui quần-chúng.

 Tất cả thế-gian chỉ tưởng lực

 Dùng trí mà vào tâm vô-úy

 Tư-duy các pháp cũng như vậy

 Suy cầu tam-thế bất-khả-đắc.

 Hay vào quá-khứ trọn thời trước

 Hay vào vị-lai trọn thời sau

 Hay vào hiện-tại tất cả chỗ

 Thường siêng quan-sát không chỗ có.

 Tùy-thuận niết-bàn pháp tịch-diệt

 Trụ nơi vô-tránh vô-sở-y

 Tâm như thiệt-tế không gì sánh

 Chuyên hướng bồ-đề trọn chẳng thối.

 Tự-tại những thắng hạnh không thối khiếp

 An trụ bồ-đề chẳng động lay

 Phật và Bồ-Tát cùng thế-gian

 Cùng tận pháp-giới đều sáng tỏ.

 Muốn được tối-thắng đạo đệ nhứt

 Là vua giải-thoát nhứt-thiết-trí

 Nên phải mau phát bồ-đề tâm

 Hết hẳn hữu-lậu lợi quần-sanh.

 Xu-hướng bồ-đề tâm thanh-tịnh

 Công-đức rộng lớn bất-khả-thuyết

 Vì lợi quần-sanh nên khen thuật

 Phật-tử các ngài nên nghe kỹ.

 Vô-lượng thế-giới đều làm bụi

 Trong mỗi hạt bụi vô-lượng cõi

 Mỗi cõi chư Phật đều vô-lượng

 Đều hay thấy rõ không sở-thủ.

 Khéo biết chúng-sanh không sanh-tưởng

 Khéo biết ngữ-ngôn không ngữ-tưởng

 Nơi các thế-giới tâm vô ngại

 Đều khéo biết rõ không sở-trước.

 Tâm đó rộng lớn như hư-không

 Việc trong tam-thế đều rõ suốt

 Tất cả nghi-hoặc đều dứt trừ

 Chánh-quán phật-pháp không sở-thủ.

 Mười phương vô-lượng các quốc-độ

 Một niệm qua đến lòng vô-trước

 Liễu đạt thế-gian những pháp khổ

 Đều trụ vô-sanh chân-thiệt-tế.

 Vô-lượng nan-tư chỗ chư Phật

 Đều đến hội đó để lễ Phật

 Thường làm thượng-thủ hỏi Như-Lai

 Bồ-Tát thật-hành những nguyện-hạnh.

 Tâm thường nhớ đến Phật mười phương

 Mà không sở-y không sở-thủ

 Hằng khuyên chúng-sanh trồng thiện-căn

 Trang-nghiêm quốc-độ khiến thanh-tịnh.

 Tất cả chúng-sanh trong ba cõi

 Dùng vô-ngại-nhãn đều quan-sát

 Bao nhiêu tập tánh những căn giải

 Vô-lượng vô-biên đều thấy rõ.

 Chúng-sanh sở-thích đều rõ biết

 Như vậy tùy nghi vì thuyết pháp

 Nơi những nhiễm tịnh đều thông đạt

 Khiến kia vô-số những tam-muộI

 Bồ-Tát một niệm đều vào được

 Trong đó tưởng trí và sở-duyên

 Đều khéo biết rõ được tự-tại.

 Bồ-Tát được trí rộng lớn này

 Mau đến bồ-đề không sở-ngại

 Vì muốn lợi ích các quần-sanh

 Mọi nơi tuyên dương đại-nhơn pháp.

 Khéo biết thế-gian kiếp dài ngắn

 Một tháng nửa tháng và ngày đêm

 Quốc-độ riêng biệt tánh bình-đẳng

 Thường siêng quan-sát chẳng phóng-dật.

 Đến khắp mười phương các thế-giới

 Mà nơi phương xứ không sở-thủ

 Nghiêm-tịnh quốc-độ đều không thừa

 Mà chẳng phân biệt là nghiêm-tịnh.

 Chúng-sanh thị-xứ hoặc phi-xứ

 Và đến những nghiệp hoặc báo khác

 Tùy thuận tư-duy vào Phật-lực

 Nơi đây tất cả đều rõ biết.

 Tất cả thế-gian những căn tánh

 Những thứ nghiệp-hạnh vào ba cõi

 Lợi-căn và trung cùng hạ-căn

 Tất cả như vậy đều quan-sát.

 Tịnh cùng bất-tịnh những tri-giải

 Thắng, liệt và trung đều thấy rõ

 Công-hạnh chỗ đến của chúng-sanh

 Ba cõi tương-tục đều thuyết được.

 Thiền-định giải-thoát các tam-muội

 Nhiễm-tịnh nhơn khởi đều chẳng đồng

 Và cùng đời trước khổ vui khác

 Tịnh tu phật-lực đều hay thấy.

 Chúng-sanh nghiệp hoặc nối các loài

 Dứt các loài này được tịch-diệt

 Những pháp hữu-lậu trọn chẳng sanh

 Và tập chủng kia đều rõ biết.

 Như-Lai phiền-não đều trừ hết

 Đại-trí quang-minh chiếu thế-gian

 Bồ-Tát ở trong Phật thập-lực

 Dầu chưa chứng được cũng không nghi.

 Bồ-Tát ở trong một chưn lông

 Niệm khắp mười phương vô-lượng cõi

 Hoặc có tạp nhiễm hoặc thế-gian

 Các thứ nghiệp hạnh đều rõ biết.

 Trong một vi-trần vô-lượng cõi

 Vô-lượng chư Phật và Phật-tử

 Các cõi riêng khác không tạp loạn

 Như một, tất cả đều thấy rõ.

 Nơi một chưn lông thấy mười phương

 Hết Hư-không-giới các thế-gian

 Chẳng có một nơi không có Phật

 Cõi Phật như vậy đều thanh-tịnh.

 Ở trong chưn lông thấy cõi Phật

 Lại thấy tất cả các chúng-sanh

 Tam-thế sáu loài đều chẳng đồng

 Ngày, đêm, giờ, tháng có phược giải.

 Đại-trí như vậy các Bồ-Tát

 Chuyên tâm xu-hướng ngôi Pháp-Vương

 Nơi cảnh Phật trụ thuận tư-duy

 Mà được vô-biên đại-hoan-hỷ.

 Bồ-Tát phân thân vô-lượng ức

 Cúng-dường tất cả chư Như-Lai

 Thần-thông biến-hiện thắng vô-tỉ

 Chỗ Phật sở-hành đều trụ được.

 Với vô-lượng Phật đều mến khen

 Bao nhiêu pháp-tạng đều say nếm

 Thấy Phật nghe pháp siêng tu hành

 Như uống cam-lộ lòng vui đẹp.

 Đã được Như-Lai thắng tam-muội

 Khéo vào các pháp trí tăng-trưởng

 Tín tâm bất động như Tu-Di

 Làm tạng công-đức cho quần-sanh.

 Từ-tâm rộng lớn khắp chúng-sanh.

 Đều nguyện mau thành nhứt-thiết-trí

 Mà luôn vô-trước, không sở-y

 Lìa các phiền-não được tự-tại.

 Trí rộng lớn thương xót chúng-sanh

 Nhiếp khắp tất cả đồng với mình

 Biết không, vô-tướng, không chơn thật

 Mà lòng tu hành không lười trễ.

 Bồ-Tát phát tâm lượng công-đức

 Ức kiếp ca ngợi không hết được

 Vì xuất-sanh các đức Như-Lai

 Và quả Thinh-văn quả Độc-giác.

 Mười phương quốc-độ các chúng-sanh

 Ban cho an-vui vô-lượng-kiếp

 Khuyên trì ngũ giới và thập thiện

 Tứ-thiền, tứ-tâm, các định-xứ.

 Lại trọn nhiều kiếp ban an vui

 Khiến dứt phiền-não thành La-Hán

 Những phước-đức đó dầu vô-lượng

 Nhưng chẳng bằng công-đức phát tâm.

 Lại dạy ức chúng thành duyên-giác

 Được hạnh vô-tránh đạo vi-diệu

 Đem đó sánh với bồ-đề tâm

 Toán-số thí-dụ không bằng được.

 Một niệm qua được trần số cõi

 Như vậy đi mãi vô-lượng kiếp

 Số những cõi đó còn tính được

 Công-đức phát tâm chẳng thể biết.

 Quá-khứ, vị-lai và hiện tại

 Bao nhiêu kiếp-số vô-lượng-biên

 Những kiếp số này còn biết được

 Công-đức phát tâm chẳng thể lường.

 Do tâm bồ-đề khắp mười phương

 Bao nhiêu phân-biệt đều biết cả

 Một niệm tam-thế đều thấu tỏ

 Vì lợi-ích vô-lượng chúng-sanh.

 Thập phương thế-giới những chúng-sanh

 Ý muốn, tri-giải và phương tiện

 Đến hư-không-giới đều lường được

 công-đức phát tâm khó lường biết.

 Bồ-Tát chí nguyện khắp mười phương

 Từ-tâm lợi khắp các quần-sanh

 Đều khiến tu-hành Phật công-đức

 Thế nên sức đó không ngằn mé.

 Chúng-sanh : muốn, hiểu, lòng sở-thích

 Căn-tánh, phương-tiện, hạnh riêng biệt

 Nơi trong một niệm đều rõ biết

 Nhứt-thiết-trí-trí tâm đồng đẳng.

 Tất cả chúng-sanh các hoặc nghiệp

 Ba cõi tương-tục không tạm dứt

 Những ngằn mé này còn biết được

 Công-đức phát tâm khó nghĩ bàn.

 Phát tâm hay lìa nghiệp phiền-não

 Cúng-dường tất cả chư Như-Lai

 Nghiệp hoặc đã lìa tương-tục dứt

 Khắp trong bình-đẳng đời được giải-thoát.

 Một niệm cúng-dường vô-biên Phật

 Cũng cúng vô-số các chúng-sanh

 Đều dùng hương hoa và tràng đẹp

 Tràng phan lọng báu y-phục tốt.

 Thức ngon tòa báu chỗ kinh-hành

 Các thứ cung-điện đều nghiêm tốt

 Tỳ-Lô-Giá-Na diệu bửu-châu

 Như-ý ma-ni phát sáng chói,

 Như vậy niệm niệm đem cúng-dường

 Trọn vô-lượng kiếp bất-khả-thuyết

 Người đó phước-tụ dầu lại nhiều

 Chẳng bằng phát tâm công-đức lớn.

 Đã nói bao nhiêu những ví-dụ

 Không có bằng được bồ-đề-tâm

 Bởi vì tam-thế chư Như-Lai

 Đều từ phát tâm này mà có.

 Phát tâm vô-ngại không chừng ngằn

 Muốn cầu lượng đó không thể được

 Nhứt-thiết-trí-trí nguyện tất thành

 Bao nhiêu chúng-sanh đều độ trọn.

 Phát tâm rộng lớn đồng hư-không

 Sanh những công-đức đồng pháp-giới

 Công-hạnh phổ-biến không khác : 'như'

 Trọn lìa chấp-trước bình-đẳng : 'Phật'.

 Tất cả pháp-môn đều vào cả

 Tất cả quốc-độ đều qua được

 Tất cả trí-cảnh đều thông-đạt

 Tất cả công-đức đều thành-tựu.

 Tất cả năng-xả luôn tương tục

 Tịnh các giới-phẩm không sở-trước

 Đầy đủ vô-thượng công-đức lớn

 thường siêng tinh-tấn bất-thối-chuyển.

 Vào thâm thiền-định thường tư-duy

 Trí-huệ rộng lớn đồng tương-ưng

 Đây là bực Bồ-Tát tối-thắng

 Xuất sanh tất cả đạo Phổ-Hiền.

 Tam-thế tất cả chư Như-Lai

 Đều dùng tam-muội đà-la-ni

 Thần-thông biến-hóa đồng trang-nghiêm.

 Mười phương chúng-sanh vô-biên-lượng

 Thế-giới hư-không cũng như vậy

 Phát tâm vô-lượng hơn số kia

 Do đây hay sanh tất cả Phật.

 Bồ-đề tâm là gốc thập-lực

 Cũng là gốc tứ-biện vô-úy

 Và mười tám phật-pháp bất-cộng

 Tất cả đều từ phát tâm được.

 Chư Phật thân sắc-tướng đoan-nghiêm

 Nhẫn đến diệu-pháp-thân bình-đẳng

 Trí-huệ vô-trước đáng cúng-dường

 Đều do phát tâm mà được có.

 Tất cả Độc-Giác Thinh-Văn thừa

 Sắc-giới tứ-thiền tam-muội lạc

 Và vô sắc-giới tứ định-xứ

 Đều do phát tâm làm cội gốc.

 Tất cả Trời người tự-tại vui

 Nhẫn đến các loài các thứ vui

 Tinh-tấn, định, huệ, căn, lực thảy

 Tất cả đều do sơ-phát-tâm.

 Từ nhơn phát khởi tâm rộng lớn

 Thời hay tu-hành lục-độ hạnh

 Khuyên các chúng-sanh tự-tại chánh-hạnh

 Ở trong tam-giới thọ an-vui.

 Trụ Phật-trí vô-ngại thiệt nghĩa

 Bao nhiêu diệu-hạnh đều khai mở

 Hay khiến vô-lượng các chúng-sanh

 Đều dứt hoặc nghiệp hướng niết-bàn.

 Trí-huệ sáng chói như tịnh-nhựt

 Các hạnh đầy đủ như trăng tròn

 Công-đức luôn đầy như biển-cả

 Không nhơ không ngại đồng hư-không.

 Khắp phát vô-biên nguyện công-đức

 Đều ban vui tất cả chúng-sanh

 Tận thuở vị-lai y nguyện hạnh

 Thường siêng tu tập độ chúng-sanh.

 Vô-lượng đại-nguyện khó nghĩ bàn

 Nguyện khiến chúng-sanh đều thanh-tịnh

 Không, vô-tướng, vô-nguyện, vô-y

 Do vì nguyện-lực đều hiển rõ.

 Rõ pháp tự-tánh như hư-không

 Tất cả tịch-diệt đều bình-đẳng

 Pháp-môn vô-số bất-khả-thuyết

 Vì chúng-sanh nói không sở-trước.

 Thập phương thế-giới chư Như-Lai

 Đều đồng tán-thán sơ-phát-tâm

 Tâm này vô-lượng đức trang-nghiêm

 Đến được bờ kia đồng với Phật.

 Như số chúng-sanh ngần ấy kiếp

 Nói công-đức đó chẳng thể hết

 Bởi ở nhà lớn của Như-Lai

 Các pháp thế-gian không dụ được.

 Muốn biết tất cả các phật-pháp

 Phải nên mau phát bồ-đề-tâm

 Tâm này hơn hết trong công-đức

 Tất được Như-Lai vô-ngại-trí.

 Chúng-sanh tâm hành đếm biết được

 Quốc-độ vi-trần cũng đếm được

 Ngằn mé hư-không có thể lường

 Phát tâm công-đức không lường được.

 Xuất-sanh tam-thế tất cả Phật

 Thành-tựu thế-gian tất cả vui

 Tăng-trưởng tất cả thắng công-đức

 Dứt hẳn tất cả các nghi hoặc.

 Khai-thị tất cả diệu cảnh-giới

 Trừ hết tất cả các chướng-ngại

 Thành-tựu tất cả cõi thanh-tịnh

 Xuất-sanh tất cả trí Như-Lai.

 Muốn thấy thập-phương tất cả Phật

 Muốn ban vô tận công-đức tạng

 Muốn diệt chúng-sanh tất cả khổ

 Phải nên mau phát bồ-đề-tâm.