- Chương I: Duyên Kỳ Ngộ
- Chương II: Hiện Hữu Hay Không Hiện Hữu
- Chương III: Đi Tìm Một Người
- Chương IV: Vũ Trụ Trong Một Hạt Cát
- Chương V: Như Một Tia Chớp Trong Đám Mây Mùa Hạ - Sự Vô Thường Giữa Lòng Thực Tại
- Chương VI: Vấn Đề Thời Gian
- Chương VII: Nhị Nguyên (Tâm và Vật)
- Chương VIII: Về Rô Bốt
- Chương IX: Lý Trí Và Thiền Định
- Chương X: Vẻ Đẹp Trong Khoa Học Và Trong Phật Giáo
- Chương XI: Từ Thiền Định Đến Hành Động
- Kết Luận Của Nhà Khoa Học
- Kết Luận Của Nhà Sư
Matthieu Ricard – Trịnh Xuân Thuận - BS: Hồ Hữu Hưng dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2010
Chương II: Hiện Hữu Hay Không Hiện Hữu
Vũ trụ có chăng một sự khởi đầu? Cái quan niệm về sự khởi đầu của mọi hiện tượng dĩ nhiên là điều bận tâm nhất của các tôn giáo và của khoa học. Theo thuyết Big Bang, vũ trụ được tạo dựng từ 15 tỷ năm, cùng một lúc với không gian và thời gian, là lý thuyết có tính thuyết phục nhất để giải thích việc hình thành vũ trụ. Phật giáo tiếp cận vấn đề một cách khác hẳn. Phật giáo tự hỏi rằng sự hiểu biết về một khởi nguyên có thực sự cần thiết không? Hay chúng ta chỉ luôn tự biết về thực tại, điều gì đang xảy ra trong cuộc sống của chính mình. Thuyết Big Bang là một sự bùng nổ nguyên thủy, hay chỉ là một sự khởi đầu của một tiến trình vô thủy vô chung của vô số vũ trụ? Quan niệm thông thường của chúng ta có cho phép chúng ta đi đến chỗ tự hỏi: có chăng một sự khởi đầu? Và quan niệm này phải chăng đã phản ánh cái xu hướng xem các hiện tượng như là thực sự tồn tại?
Thuận: Theo sự hiểu biết hiện nay của chúng ta, thuyết giải thích rõ ràng nhất về sự khởi nguyên của vũ trụ là thuyết Big Bang. Người ta nghĩ rằng vũ trụ được hình thành cách đây 15 tỷ năm trong một cuộc nổ dữ dội từ một trạng thái vô cùng nhỏ bé, nóng và đặc, đồng thời cũng làm nảy sinh không gian và thời gian.
Từ đó vũ trụ mở rộng ra, trở nên loãng và nguội dần. Người ta đã đi đến thuyết này khi nhà vật lý thiên văn người Mỹ Edwin Hubble đã quan sát từ năm 1929 và nhận thấy đa số những thiên hà đều xa lánh dãy ngân hà của chúng ta. Điều đáng ngạc nhiên hơn là càng ở xa, các thiên hà ấy lại càng di chuyển xa chúng ta nhanh hơn. Người ta đã kết luận rằng tất cả các thiên hà đã dùng cùng một thời gian để đi từ chỗ thời điểm của chúng ta đến chỗ hình thành hiện nay. Bây giờ hãy tưởng tượng một quỹ đạo đảo ngược, các thiên hà sẽ lại gặp nhau ở cùng một nơi, vào cùng một thời điểm trong không gian. Vì thế, có ý niệm một sự khởi đầu theo khoa học: thuyết Big Bang thay thế cho thuyết sáng tạo của các tôn giáo.
Thuyết Big Bang cũng khó thuyết phục các nhà khoa học vào giai đoạn đầu. Tuy nhiên vài người đã bắt đầu chú ý đến sự bùng nổ nguyên sinh. Đức cha người Bỉ, Georges le Maitre đã nói tới “Nguyên tử sơ khai”. Nhà vật lý hai giòng máu Nga-Việt, George Gamor cho rằng trong khoảng thời gian ba trăm ngàn năm, nhiệt độ và tỷ trọng của vũ trụ đã đến mức cực độ, do đó không một cấu trúc hiện nay như các thiên hà, các ngôi sao có thể hình thành được và khi ấy, vũ trụ gồm những hạt và ánh sáng mà thôi. Theo Gamor, ánh sáng nguyên tử đó rất sáng và nhiều năng lực vẫn còn tồn tại đến chúng ta ngày nay, nhưng vì đã tốn rất nhiều thời gian để đến được dãy ngân hà của chúng ta nên đã nguội đi rất nhiều.
Matthieu: Phải chăng đó là cái mà người ta gọi là ánh sáng hóa thạch?
Thuận: Thật ra còn cái sót lại của sự bùng nổ sáng tạo. Nhưng không ai chịu khó tìm kiếm nó cho đến năm 1965, khi tình cờ người ta phát hiện ra nó. Sự chậm trễ đó có hai nguyên nhân: một là “Big Bang” làm các nhà vật lý thiên văn khó chịu vì sự hàm súc ý nghĩa thần thoại của nó. Lý do thứ hai đến từ một thuyết vũ trụ rất thịnh hành của ba nhà khoa học người Anh là Hermann Bondi, Thomas Gold và Fred Hoyle khả dĩ tránh được ý niệm sáng thế. Đó là thuyết vũ trụ bình ổn luôn luôn tồn tại nguyên thể với không gian và thời gian. Những sự quan sát sau đó đã đảo ngược lý thuyết đó. Đầu thập niên sáu mươi đã có khám phá những“Quasars” tức những ngôi sao ở ngoài biên vũ trụ, có sức phát ra những năng lượng khổng lồ trong một khối rất đặc. Cùng lúc, những thiên hà phát sóng (radiogalacies) cũng được phát hiện. Nhưng số quasar và các thiên hà phát sóng đó có vẻ giảm bớt đi khi tuổi thọ của vũ trụ kéo dài. Và như vậy, diễn trình này hoàn toàn đi ngược lại giả thuyết vũ trụ bình ổn. Và thuyết này đã bị phủ nhận hoàn toàn với sự khám phá ra ánh sáng hóa thạch vào năm 1965. Như vậy, thuyết Big Bang trở thành hình tượng của sự khởi đầu vũ trụ vì nó giúp giải thích được sự di chuyển của các thiên hà, ánh sáng hóa thạch, và sự cấu thành hóa học của các vì sao.
Matthieu: Nhưng một sự khởi đầu như thế diễn ra như thế nào?
Thuận: Các nhà vật lý học bảo chúng ta rằng vũ trụ đến từ chân không. Nhưng không phải cái chân không tĩnh lặng không có một chất hay sinh khí nào: cái không lượng tử (vide quantique) này sôi sục năng lượng dù rằng nó không có vật chất. Khoảng không mà chúng ta nghĩ là trống rỗng luôn luôn bị xuyên suốt bởi những trường năng lượng có thể diễn tả được bằng danh từ “sóng”. Năng lượng của cái không tiên khởi đã đẩy vũ trụ vào một cuộc bùng nổ hỗn loạn mà các nhà thiên văn vật lý gọi là “lạm phát”. Sự lạm phát này đưa đến một sự trương nở chóng mặt của mỗi thành phần vũ trụ trong một thời gian cực ngắn. Giữa 10-35 và 10-32 giây sau Big Bang, từ chỗ chỉ bé tí bằng một phần 10 triệu tỷ, tỷ lần kích thước của một nguyên tử hydro, vũ trụ lớn lên cỡ bằng một trái cam. Cùng trong thời gian ấy vũ trụ loãng ra và nguội dần nhanh chóng để đi đến một cấu trúc phức tạp. Đầu tiên nó còn nóng hơn cả các địa ngục mà Dante đã mô tả và không có một cấu trúc nào hình thành được. Nhờ vào sự nguội dần mà các cấu trúc dần dần xuất hiện. Và năng lượng của các chân không bắt đầu can thiệp vào bằng cách tạo ra vật chất. Einstein đã đem đến cho chúng ta chìa khóa của các cơ chế đó với các công thức có lẽ nổi danh nhất trong lịch sử khoa học: E=mc2. Một số năng lượng có thể biến thành một mảnh vật chất.
Những hạt nguyên khai (quak và điện tử chẳng hạn) xuất hiện từ khoảng không tiên khởi kết hợp lại thành nguyên tử, phân tử và sau cùng là các vì sao. Các vì sao này hội tụ lại thành hàng trăm tỷ thiên hà và các thiên hà này dệt nên tấm thảm khổng lồ của vũ trụ. Một trong các thiên hà, là dãy ngân hà của chúng ta, gần một ngôi sao là mặt trời, trên cái hành tinh gọi là trái đất những phân tử kết hợp lại thành những chuỗi AND là thành phần cơ bản của sự sống, của tri thức và của con người để có thể tự hỏi về thế giới bao quanh họ và về vũ trụ sản sinh ra họ.
Matthieu: Các lý thuyết dù có sức thuyết phục về diễn trình hình thành vũ trụ, cũng không giải quyết thỏa đáng vấn đề nhân quả của vụ nổ Big Bang. Một người bạn học giả Tây Tạng của tôi khi được nghe về thuyết Big Bang đã kêu lên “Vũ trụ, thời gian, không gian bắt đầu bằng một tiếng nổ lớn không duyên cớ ư? Như vậy có khác gì nói đến sự có mặt của một đấng sáng tạo là nguyên nhân đó”. Theo Phật giáo, thời gian và không gian chỉ là khái niệm của chúng ta do sự tiếp xúc với các hiện tượng, chúng hoàn toàn không có dự tính, nói cách khác chúng không “thật”. Vì thế nên ý tưởng có một khởi đầu tuyệt đối của không gian và thời gian là không thể chấp nhận được. Vậy thì không có gì dù là sự khởi đầu có vẻ như là hiển hiện của thời gian và không gian, không thể hiện hữu không duyên cớ, không điều kiện, nói cách khác, không một cái gì có thể bắt đầu sinh hoặc chấm dứt tồn tại. Big Bang chỉ là một giai đoạn trong tiến trình không có khởi đầu và không có kết thúc.
Thuận: Bạn nêu ra vấn đề khá rối rắm về điều gì đã xảy ra trước khi có Big Bang. Khoa học có cho phép chúng ta ngược dòng thời gian đến phút giây sáng thế hay không? Câu trả lời là không. Hiện nay có bức tường kiến thức mà người ta gọi là bức tường Planck, tên của một nhà vật lý người Đức, người đầu tiên đã quan tâm đến vấn đề này. Bức tường kiến thức xuất hiện vào khoảng thời gian 10-43 giây đồng hồ (con số một chỉ đến sau 43 con số 0). Và ở thời điểm đó, vũ trụ bằng 10 triệu tỷ nhỏ hơn một nguyên tử hydro và đường kính của nó là chiều dài Planck bằng 10-33cm.
Matthieu: Tại sao lại có các kích thước đặc biệt như vậy? Phải chăng đó là một giới hạn hay là một khúc điểm? Và những kích thước như vậy có một giá trị tuyệt đối không? Người ta có cảm tưởng là bị vướng mắc vào một bức tường có một sự hiện hữu nội tại.
Thuận: Thời gian và chiều dài Planck không phải là giới hạn nội tại, mà chúng có chỉ vì sự ngu dốt của chúng ta mà thôi. Hiện nay chúng ta không thống nhất được hai lý thuyết lớn nhất của thế kỷ 20. Đó là cơ học lượng tử và thuyết tương đối. Cơ học lượng tử Planck diễn tả vật thể nhỏ nhất và chỉ ra cách di chuyển của các nguyên tử và ánh sáng khi mà luật hấp dẫn không có tác động. Lý thuyết Einstein diễn tả vật thể cực lớn, giúp cho chúng ta hiểu được vũ trụ và cấu trúc của nó khi mà hai cực nguyên tử và điện tử (electromagnétique) không tác động. Và đây chính là nhược điểm, vì chúng ta chưa biết được vận hành của vật chất và ánh sáng một khi bốn lực tự nhiên (lực nguyên tử mạnh và yếu, lực điện từ và lực hấp dẫn) cùng bình đẳng vào thời điểm 10-43 giây đồng hồ sau vụ nổ tiên khởi.
Matthieu: Tại sao lại có một sự sai biệt giữa bản thể của tiểu vũ trụ và đại vũ trụ, khi mà đại vũ trụ chỉ là sự trương nở của tiểu vũ trụ. Có lẽ đó chỉ là vấn đề viễn tưởng mà thôi.
Thuận: Đúng là điều tôi đã nói. Bức tường Planck không phải là một giới hạn căn bản cho sự hiểu biết. Nó chỉ là dấu hiệu sự bất lực của chúng ta trong việc dung hợp cơ học lượng tử và thuyết tương đối. Đằng sau bức tường Planck còn có một thực tại chưa được các nhà vật lý biết đến. Vài người nghĩ cặp đôi “thời gian và không gian” rất mực gắn bó trong thế giới hiện nay sẽ vỡ tan. Thời gian không còn tồn tại. Những khái niệm quá khứ, hiện tại, tương lai không còn ý nghĩa gì nữa. Và không gian khi tách rời khỏi thời gian chỉ là một bọt khí lượng tử không hình dáng. Độ cong và địa thế của nó trở nên hỗn loạn và chỉ có thể diễn tả bằng danh từ trừu tượng. Mọi thứ đều có vẻ bấp bênh. Những nhà vật lý khác đang làm việc trên thuyết các siêu sợi (supercordes) cho rằng bọt lượng tử không có thật. Theo họ, những hạt sơ khai của vật chất được cấu thành do sự rung động của những khúc sợi mà kích thước chỉ bằng chiều dài của Planck. Không có gì có thể nhỏ hơn các siêu sợi ấy, vấn đề chuyển động của không gian dưới mức chiều dài Planck là không còn đặt ra nữa. Thuyết này hứa hẹn sẽ thống nhất hai thuyết cơ học lượng tử và thuyết tương đối nhưng nó bị bao trùm bởi một bức màn toán học dày đặc và đã không được kiểm nghiệm. Dù sao đi nữa có thể là một trong số các hình thể di động trong bọt khí lượng tử đã đưa đến sự hình thành vũ trụ cùng với thời gian và không gian cách đây khoảng15 tỷ năm. Trước đó vì không có thời gian nên không biết không gian có tồn tại không? Một thời gian vô tận có thể còn ẩn sau bức tường Planck.
Matthieu: Khi mà bạn nói thời gian vô tận, tức là bạn nói không có khởi đầu?
Thuận: Mọi giả thuyết có thể chấp nhận được. Thời điểm 10-40 chỉ là kết quả ngoại suy các luật vật lý đã có từ thời gian 0. Nhưng những quy luật vật lý này đã mất giá trị sau bức tường kiến thức Planck. Và ngành vật lý thật sự bắt đầu vào thời điểm 10-34 giây sau Big Bang.
Matthieu: Phật giáo cảm nhận thực tại vũ trụ bằng một cái nhìn khác hẳn. Phật giáo cho rằng các hiện tượng không thực sự được sinh ra theo nghĩa từ không đến có. Chúng chỉ hiện hữu giả tạm mà không có thực thể. Thực tại tương đối hay quy ước thuộc về kinh nghiệm chúng ta đối với thế giới theo cách chúng ta nhận biết, nghĩa là gán cho chúng một nhãn hiệu khách quan. Theo Phật giáo, nhận biết ấy là giả tạo vì khi phân tích triệt để, không có hiện tượng nào là có thực thể. Và cái không cuối cùng mới là chân lý tuyệt đối. Và như vậy vấn đề “sáng tạo” là hoàn toàn sai. Tuy nhiên các hiện tượng vẫn diễn ra trên thế gian và chúng không phải là không thật có, nhưng không có hiện tượng nào có một thực thể riêng biệt. Như vậy, hiện tượng giống như là một giấc mộng, một ảo ảnh vừa như có mà thật ra là không. Cũng hệt như hình ảnh phản chiếu trong một tấm gương, nó rõ ràng nhưng không thật có. Triết gia Ấn Độ thời danh vào thế kỷ thứ II, Bồ tát Long Thọ đã nói: “Các hiện tượng là do một sự duyên hợp, thực chất chúng không hiện hữu”. Chúng không diễn tiến một cách tự phát, cũng không do một năng lực siêu hình nào mà theo đúng luật nhân quả.
Nói về chân lý tuyệt đối thì không có sáng tạo, không có thời gian, không có chấm dứt. Sự mâu thuẫn này đã chỉ ra tính vô thường của các hiện tượng. Các hiện tượng này có muôn hình muôn vẻ nhưng thực sự chúng là “không”. Và trong một thế giới quy ước thì không thể có khởi đầu vì lẽ mỗi việc xảy ra đều có nguyên nhân. Vậy thì bạn thử nói xem Big Bang có thể thật sự là một khởi đầu hay chỉ là một giai đoạn trong quá trình tiến hóa của vũ trụ.
Thuận: Như chúng ta đã nói, khoa vật lý của chúng ta đã mất phương hướng bên kia bức tường Planck. Trước Big Bang chỉ là sự khởi đầu của một chu kỳ trong vô số chu kỳ. Trong cả hai trường hợp, vấn đề sáng tạo ra vũ trụ từ hư vô (exnihilo) khi thời gian là không, thì không thể đặt ra được. Đây cũng là một lối nói để loại ra vấn đề sáng thế. Nhưng tất cả chỉ là sự suy diễn và không dựa trên sự quan sát hay kinh nghiệm nào.
Matthieu: Ta có thể hiểu Big Bang như một sự xuất hiện một loạt các hiện tượng từ một tiềm năng vô tận nhưng không hình tướng, cái mà Phật giáo gọi là những “vi trần”. Từ này không nói lên một thực thể cụ thể, nhưng là một tiềm năng của hư không mà ta có thể so sánh với cái không vật lý.
Shantideva thế kỷ thứ VI đã viết:
Khi cái có không đồng thời với cái không
Vậy thì nó có từ bao giờ
Vì lẽ cái không sẽ không mất đi
Khi mà cái có chưa xuất hiện
Và cái có không thể xuất hiện
Khi mà cái không chưa mất đi
Cũng như thế, cái có không thể đồng thời là cái không
Vì như thế mọi vật sẽ có hai bản thể.
Lý do vì sao cái “không là gì” không thể trở thành bất cứ cái gì, bởi lẽ nó không thể biến hóa mà không mất đi tánh không của nó. Nhưng làm sao khả dĩ buông bỏ một cái gì không có? Cái không chỉ là một khái niệm để đối lại với cái có. Cái không không thể tự có khi vắng bóng cái có. Cái không không thể thay đổi được. Các văn bản đều viết: “Một tỷ nguyên nhân cũng không làm nảy sinh được cái không có”. Nếu có một vật gì xuất hiện thì đó là đã có sẵn một mầm mống tiềm ẩn.
Thuận: Vật lý cho rằng các tiềm năng này là do năng lực của cái không. Nhưng vẫn còn lại câu hỏi: Cái không này được hình thành như thế nào? Có chăng một cái không bất thình lình bị gián đoạn trở nên đầy tiềm năng và đồng thời không gian, thời gian xuất hiện.
Matthieu: Một sự gián đoạn không nguyên cớ xảy ra trong một cái gì không có? Phải chăng là một sự khởi đầu lạ lùng! Big Bang hay mọi sự khởi đầu của một vũ trụ đặc biệt không thể xuất hiện mà không có nguyên nhân cũng không điều kiện. Thế giới hiện tượng không thể xuất hiện từ cái không. Mặt khác, điều cơ bản theo Phật giáo là các hiện tượng và thời gian không thể bắt đầu hay chấm dứt bởi lẽ chúng không có thực thể riêng biệt. Khi chúng ta nói đến một sự khởi đầu, tâm trí chúng ta nghĩ ngay đến khởi đầu của một cái gì. Quan niệm về khởi đầu và chấm dứt của vũ trụ thuộc về chân lý tương đối. Trên quan điểm chân lý tuyệt đối chúng không có ý nghĩa gì cả. Khi chúng ta nhìn thấy một lâu đài trong giấc mơ, ta không cần biết ai đã xây nó. Mọi tôn giáo, mọi triết lý đều vấp phải vấn đề sáng tạo. Khoa học đã loại bỏ vấn đề sáng thế, còn Phật giáo đi xa hơn đã phủ nhận cả một sự khởi đầu.
Thuận: Bạn hẳn còn nhớ giai thoại rất nổi tiếng về nhà bác học thế kỷ 18, Pierre Simon de Laplace? Khi ông ta trao tặng quyển “Khảo luận về cơ học cõi trời” cho Napoleon vì Hoàng đế đã trách cứ ông đã không đả động gì đến đấng sáng tạo. Và Laplace đã trả lời: “Tâu Bệ hạ, thần không cần đến giả thuyết đó”. Nhưng một vấn đề vẫn tiếp tục tồn tại: Vì sao lại có vũ trụ? Vì sao lại có Big Bang?
Vì sao lại có các luật thiên nhiên? Và đây là câu hỏi thời danh của Leibniz: “Tại sao lại có một cái gì thay vì không có gì hết?” Vì lẽ cái không, đơn giản và dễ chấp nhận hơn cái có. Và cũng vì nếu có cái gì thì người cũng phải suy nghĩ vì sao nó có, và vì sao nó có như ta nhận thấy mà không phải khác hơn.
Matthieu: Ta có thể trả lời bằng câu nói nổi tiếng của Long Thọ “Vì lẽ tất cả đều rỗng không, nên tất cả đều có thể có”. Theo Phật giáo, không những cái không là bản thể tối hậu của các hiện tượng mà còn là tiềm năng để các hiện tượng xuất hiện vô cùng tận. Để đơn giản hóa, các lục địa, cây cỏ, rừng núi, sông ngòi có thể xuất hiện vì có không gian dành cho chúng. Nếu bầu trời bằng đá thì sẽ không có được mấy thứ. Cũng thế nếu thực tại là bất di bất dịch, thường hằng thì những đặc tính của nó cũng sẽ như thế, không thể thay đổi được. Vì lẽ những hiện tượng không có thực thể nên chúng có thể xuất hiện vô cùng tận. Nếu hiểu rằng mọi hiện tượng đều không thì ta có thể hiểu dễ dàng chân lý tương đối hay quy ước. Tiến trình này không phải độc đoán và luật nhân quả sẽ đem lại sự hài hòa giữa nhân và quả. Đấy là cái “không” Phật giáo- không phải là hư vô, mà là không có sự thường hằng và độc lập các hiện tượng.
Thuận: Nhiều người đã cho cái không là hư vô và người ta đã gán cho Phật giáo là hư vô chủ nghĩa.
Matthieu: Đó là một sai lầm lớn. Có hai quan điểm vừa cực đoan vừa sai lầm: thuyết hư vô và thuyết hiện tại duy vật. Khi Leibniz tự hỏi “tại sao lại phải có một cái gì, hơn là không có gì cả?”, câu hỏi này hàm ý thật sự có cái gì, và như vậy là phải bắt đầu tự hỏi là có chăng một thực tại khách quan. Theo thuyết Trung đạo của Phật giáo thì không phải không, mà cũng không phải có. Và người ta có thể hỏi lại Leibniz: “Tại sao lại là không, khi mà hiện tượng sờ sờ ra đó”? Các hiện tượng là do duyên hợp thấy dường như có, nhưng thật ra không có thực thể, và bản thể của chúng vượt mọi hiểu biết của con người bình thường khi cho rằng chúng vừa có lại vừa không. Chỉ có cái biết bằng trí huệ, siêu việt lên tư tưởng, mới hiểu được bản thể nhất nguyên của vạn vật trong ấy khái niệm về chủ thể, khách thể không còn ý nghĩa nữa.
Thuận: Thế thì Phật giáo giải thích ra sao về sự hình thành của vũ trụ? Phật giáo có một vũ trụ học không?
Matthieu: Thật sự Phật giáo có một vũ trụ học nhưng không phải hình thức giáo điều. Một vài khía cạnh của nó đã lỗi thời, nhưng chúng còn một giá trị tượng trưng gắn liền vào thiền định. Bề ngoài chúng cũng gần giống như những tư tưởng về việc hình thành vũ trụ thời ấy, nhưng không được chính Đức Phật thuyết giảng. Phải luôn nhớ rằng khái niệm về sự hình thành vũ trụ thuộc về chân lý tương đối thuộc lãnh vực các hiện tượng. Theo chiều hướng đó, Phật giáo đề cập đến những vi trần gồm chứa một tiềm năng hiện hữu. Sau đó người ta nói đến năm lực, rồi đến năm màu ánh sáng, dần dần trở thành năm đại: đất, nước, gió, lửa và không gian từ đó nảy sinh các thiên thể, các lụa địa, sông, nước, rừng rậm và sau cùng là con người. Người ta không hề nói đến một sự sáng tạo tiên khởi vì lẽ nguyên nhân đầu tiên là không thể chấp nhận được.
Thuận: Ngày nay chúng ta không còn nghĩ đến thế gian này như là hậu quả của sự thương ghét của các vị thần linh. Tôi đặc biệt rất có ấn tượng về quan niệm trùng hợp “không mà có” (chân không diệt hữu) của Phật giáo và của khoa học.
Matthieu: Đúng vậy, nhưng hãy cẩn thận có một sự khác biệt quan trọng. Khoa học nói đến một vũ trụ vật chất còn Phật giáo quan niệm không tách rời khỏi tâm. Nói cách khác chủ thể, khách thể, năng sở là một. Trên bình diện mô tả, Phật giáo nghĩ đến một chu kỳ vũ trụ gồm bốn giai đoạn: thành, trụ, hoại, không. Và những vi trần sẽ đảm bảo sự liên tục trong việc hình thành vũ trụ kế tiếp. Sự kế tục của các chu kỳ là vô thủy vô chung.
Thuận: Quan niệm này có giống như quan niệm của Ấn Độ giáo cho rằng vũ trụ thở, khi thở ra thì vũ trụ nở ra và khi thở vào thì nó co lại?
Matthieu: Hình ảnh này có vẻ thơ mộng, nhưng vài trường phái Ấn Độ giáo cho rằng ngoài vũ trụ theo chu kỳ còn có nhiều vật thể bất di dịch và có thể sáng tạo điều mà Phật giáo cho là vô ích và phi lý.
Thuận: Khái niệm về một vũ trụ có chu kỳ cũng nằm trong vũ trụ học hiện đại. Nếu vũ trụ này gồm nhiều chất liệu, sức hấp dẫn của các chất này vào một thời điểm nào đó có thể chặn đứng lại quá trình trương nở và đảo ngược sự di chuyển các thiên hà. Người ta sẽ có một Big Bang lộn ngược và một sự tàn phá khủng khiếp xảy ra. Các ngôi sao bốc hơi trong một biển lửa dữ dội và vật chất sẽ nát vụn thành những hạt, những nguyên tố. Vũ trụ tan biến và kết thúc trong một biển ánh sáng chói lòa và trở lại trạng thái cực nhỏ, nóng và đặc. Không gian và thời gian biến mất. Vũ trụ đã tan biến như vậy có thể tái sinh được không từ đống tro tàn, giống như một con phượng hoàng để bắt đầu một chu kỳ mới với những luật vật lý mới? Không ai biết được, như chúng ta đã thấy vật lý đã cùng đường vào thời Planck khi nó tiếp cận đến những nhiệt độ và tỷ trọng cùng cực.
Matthieu: Theo Phật giáo, sự kết thúc một chu kỳ vũ trụ sẽ diễn ra với một vụ nổ lớn kinh hồn cuối cùng. Người ta đã nói đến bảy lò than hồng kế tục sẽ lần lượt cháy tiêu vũ trụ. Vũ trụ sẽ trở thành không để rồi sau đó một chu kỳ mới lại xuất hiện.
Thuận: Theo vũ trụ học hiện đại, nếu vũ trụ khởi đầu lại một chu kỳ mới, các chu kỳ mới này sẽ không giống nhau. Mỗi vũ trụ mới tích tụ năng lực và khi một chu kỳ mới xảy ra thì vũ trụ sẽ kéo dài tuổi thọ hơn chu kỳ trước và vũ trụ mới cũng sẽ to lớn hơn. Nhưng nếu vũ trụ của chúng ta không có đủ vật chất để lực hấp dẫn ngăn sự trương nở của nó, nó sẽ loãng đi khi hết tuổi thọ, và như vậy sẽ không có một chu kỳ mới. Và cũng như thế các ngôi sao sẽ tiêu thụ hết các chất đốt nguyên tử của chúng ta và sẽ tắt lịm. Chúng sẽ không còn chiếu sáng bầu trời nữa và thế gian sẽ chìm đắm trong một đêm dài lạnh giá, sức nóng tàn lụi dần, nhiệt độ xuống thấp gần số không tuyệt đối nhưng không bao giờ vươn tới được. Và không có năng lượng thì không thể có đời sống. Trong một tương lai xa thẳm, vũ trụ chỉ còn là biển ánh sáng trong đó gồm chứa các vi trần. Những vụ quan sát gần đây về các hiện tượng nổ các vì sao trong những thiên hà xa xôi, và những giao động về nhiệt độ của ánh sáng hóa thạch và sự phân bố các thiên hà cho thấy thay vì sự trương nở của vũ trụ bị chậm lại do tác động của lực hấp dẫn, trái lại có vẻ còn tăng tốc do sự hiện diện khả thi của một “năng lực đen” chống lại lực hấp dẫn trong vũ trụ. Nếu kết luận này đúng, vũ trụ sẽ tiếp tục trương nở và sẽ không còn có Big Bang nữa. Nhưng những sự quan sát này mới chỉ bắt đầu và kết luận này cần thời gian để trải nghiệm.
Matthieu: Vũ trụ nếu xem như là một loạt biến hóa không có khởi đầu thì không chỉ là vũ trụ của vật chất. Theo Phật giáo, tinh thần cũng không có chỗ khởi đầu. Cặp “tâm - vật” là một vấn đề đặt sai vì lẽ cả hai đều không có thực thể. Vấn đề “tâm - vật” là bất khả tư nghì, không có nghĩa là không thể nắm bắt được vì vượt quá khả năng của chúng ta mà là vì với những ý niệm thông thường cũng không thể với tới được.
Thuận: Điều này giống một cách lạ lùng định lý bất toàn của Godel quy định rằng: không thể chứng minh được một hệ thống có mạch lạc hay không khi ta còn ở trong định lý đó. Định lý của nhà toán học người Đức Godel hàm súc một giới hạn cho việc hiểu biết một hệ thống nào đó, vũ trụ của chúng ta chẳng hạn, khi chúng ta vẫn còn ở trong hệ thống đó. Muốn hiểu phải đi ra khỏi hệ thống. Dù sao khoa học hiện nay không thể nói lên điều gì được về định đề cặp nhị nguyên “tâm - vật”
Matthieu: Cái tính cách bất khả tư nghì đó thuộc về bản thể tối hậu của các hiện tượng tức “tánh không”. Nó giải tỏa được cái ảo giác các hiện tượng là có thật. Vượt ra ngoài các ý niệm, cái bản thể ấy có thể gọi là bất khả tư nghì nhưng không đồng nghĩa với vô minh. Trái lại, cái hiểu biết trực giác không lựa chọn, không nhị nguyên là một đặc điểm của sự tỉnh thức.
Một vài trường phái Phật giáo mô tả thế giới hiện tượng trong thiền định, tức bản thể các hiện tượng mà bản thể này vượt mọi khái niệm về không gian thời gian. Và khi thế giới hiện tượng đi ra ngoài bản thể thì sẽ có nhận định sai lầm về “tâm - vật”. Và khi đã có nhị nguyên thì vô minh xuất hiện và thế giới này là phản ánh của vô minh.