- MỤC LỤC
- Lời giới thiệu
- Đôi Nét Về Ngài Pabongka Rinpoche
- Lời dẫn nhập của Trijang Rinpoche
- Phần Một Những Chuẩn Bị Sơ Khởi Ngày Thứ Nhất
- Phần Một Những Chuẩn Bị Sơ Khởi Ngày Thứ Hai
- Phần Một Những Chuẩn Bị Sơ Khởi Ngày Thứ Ba
- Phần Hai Những Nghi Thức Chuẩn Bị Ngày Thứ Tư
- Phần Hai Những Nghi Thức Chuẩn Bị Ngày Thứ Năm
- Phần Hai Những Nghi Thức Chuẩn Bị Ngày Thứ Sáu
- Phần Ba Nền Tảng Của Đạo Lộ Ngày Thứ Bảy
- Phần Ba Nền Tảng Của Đạo Lộ Ngày Thứ Tám
- Phần Ba Nền Tảng Của Đạo Lộ Ngày Thứ Chín
- Phần Ba Nền Tảng Của Đạo Lộ Ngày Thứ Mười
- Phần Ba Nền Tảng Của Đạo Lộ Ngày Mười Một
- Phần Ba Nền Tảng Của Đạo Lộ Ngày Mười Hai
- Phần Ba Nền Tảng Của Đạo Lộ Ngày Mười Ba
- Phần Bốn Phạm Vi Trung Bình Ngày Mười Bốn
- Phần Bốn Phạm Vi Trung Bình Ngày Mười Lăm
- Phần Năm Phạm Vi Lớn Ngày Mười Sáu
- Phần Năm Phạm Vi Lớn Ngày Mười Bảy
- Phần Năm Phạm Vi Lớn Ngày Mười Tám
- Phần Năm Phạm Vi Lớn Ngày Mười Chín
- Phần Năm Phạm Vi Lớn Ngày Hai Mươi
- Phần Năm Phạm Vi Lớn Ngày Hai Mươi Mốt
- Phần Năm Phạm Vi Lớn Ngày Hai Mươi Hai
- Phần Năm Phạm Vi Lớn Ngày Hai Mươi Ba
- Phần Năm Phạm Vi Lớn Ngày Hai Mươi Bốn
- Lời Cuối Trang Sách Của Trijang Rinpoche
- Phụ Lục 3 Ba Nòng Cốt Của Đạo Lộ
- Phụ Lục 4 Trang Hoàng Yết Hầu Những Người May Mắn
- Phụ Lục 5 Pháp Luyện Tâm Bảy Điểm
PHẦN HAI
NHỮNG NGHI THỨC CHUẨN BỊ
NGÀY THỨ NĂM
Pabongka Dorje Chang đề cập vắn tắt cách làm thế nào để khởi lên những động lực tốt. Ngài trích dẫn lời Long Thụ (Nàgàrjuna):
Thật ngu ngốc nếu vứt bỏ hôi thối
Vào một bình chứa bằng vàng ngọc
Nhưng còn ngu hơn nữa là phạm tội
Sau khi đã được sinh làm người.
Bạn chỉ nên lắng nghe giáo lý này sau khi đã khởi động lực thích đáng theo đúng cách. Pháp mà bạn sắp được nghe là Pháp sẽ đưa những người may mắn đến ngang hàng chư Phật.
Khi ấy Rinpoche nhắc lại những tiêu đề ngài đã giảng:
Tiêu đề chính thứ tư của Lam-rim là: “Trình tự theo đó nhưng đệ tử phải được giảng Những Chỉ Dẫn Thực Thụ.” Tiêu đề này có hai tiêu đề phụ: một là cách phụng sự bậc thầy. Trong pháp danh trì đặc biệt này có sáu nghi lễ chuẩn bị cần theo. Tôi đã giảng sáu nghi lễ chuẩn bị theo một bài giảng ngắn gọn, nghĩa là Con Đường Nhanh. Hôm qua tôi đã nói đến ba nghi lễ đầu tiên. Nghi lễ thứ tư như sau.
1.1.4. Khẩn cầu ruộng phước.
Như đức Tsongkapa vĩ đại có nói, khi tâm ta rất chậm lụt, - nghĩa là học mà không thể nhớ, suy nghĩ mà không hiểu ý nghĩa, thiền quán mà không phát sinh được gì trong dòng tâm thức - thì chúng ta nên nương tựa vào năng lực của ruộng phước.
Chúng ta bị đè nén bởi một lớp nghiệp chướng sâu dày; ta lâm vào tình trạng tuyệt vọng vì không nhớ được những danh từ đã học, quán sát mà không hiểu sâu ý nghĩa, thiền định mà không thực chứng được điều gì trong tâm thức. Nhưng nếu ta khẩn cầu phước điền đặc biệt này, tích lũy công đức, và thanh lọc nghiệp chướng, thì chúng ta sẽ đạt đến kết quả. Đức Tsongkapa vĩ đại hỏi Đức Văn Thù nên theo phương pháp nào để mau phát sinh thực chứng trong dòng tâm thức. Văn Thù nói phải tập trung vào sự phối hợp ba điều: cần xin bậc thầy của mình; xem thầy không khác chư thiền thiên trong khi cố gắng tích lũy công đức: và tiếp tục chính yếu là đưa nội tâm những đề mục thiền mà mình hành trì.
Vậy sự xây dựng kho công đức và thanh lọc chướng ngại sẽ làm thuần thục dòng tâm thức bạn. Bạn sẽ không phát sinh thực chứng nếu bạn cố đưa vào nội tâm những đề tài thiền quán Lam-rim mà không cầu khẩn sự ban phước của Phước điền; dù bạn kiên trì bao nhiêu, bạn cũng chậm tiến một cách thảm hại. Nhưng nếu bạn làm thuần thục dòng tâm thức, bạn sẽ phát sinh thực chứng rất nhanh, không khó nhọc, và những lỗi lầm của bạn sẽ chín rất nhanh (nghĩa là, thọ quả báo ngay hiện tại - DG chú) như là bạn nặn cho máu mủ chảy ra hết. Những thiền đức của bạn cũng chín rất nhanh và sẵn sàng cho bạn hưởng, như trái chín trên cây đến thời rụng. Đức Tsongkapa vĩ đại đã nêu gương cho chúng ta với sự tích lũy công đức và tịnh hóa bản thân tại Oelga Choelung bằng cách lễ bái, dâng cúng madala vũ trụ, vân vân. Sau đó ngài có một linh kiến về đức Long Thụ và bốn đệ tử của vị này. Một trong những đệ tử ấy - Buddhapàlita - ban phước cho Tsongkapa bằng cách đặt trên đầu ngài một quyển luận sớ bằng Phạn ngữ của Buddhapàlita nhan đề Sự Tầm Cầu Phật Quả. Ngày hôm ấy Tsongkapa muốn đọc luận sớ này, và khi đọc đến chương mười tám, ngài triển khai thực chứng về tri kiến vô cấu mà phái Pràsangikas đã nói. Ngài đã đọc luận này nhiều lần trước đấy nhưng rõ ràng là lần này dòng tâm thức của ngài mới thuần thục để thực chứng.
Có nhiều chuyện xảy ra như thế trong đời các bậc thánh quá khứ. Je Kaelzang Taenzin là một trong những bậc thầy đã thừa kế Pháp này. Một ngày kia khi sắp đến làng Hrunggpa ở Dagpe để đọc kinh tại một nhà gia chủ, Ngài xin Kaelzang Kaedrub một quyển kinh để đem đi, và được trao tuyển tập của phái Kadammmpa trong đó có bài ca Kim cương dựa trên pháp luyện tâm. Vừa khi đọc bài ấy ngài chân thật phát tâm bồ đề trong dòng thức. Hôm sau, lúc khẩn cầu ruộng phước ở nghi lễ chuẩn bị, đọc đến đoạn gọi những tên tác giả của Lam-rim mở đầu bằng “Hỡi những bậc hiền thánh, những người luôn thương yêu săn sóc tất cả hữu tình…,” ngài bỗng nghe một cảm giác nóng bỏng nơi trán.
Như vậy, khi dòng tâm thức chúng ta đủ thuần thục, ta có thể đột nhiên triển khai thực chứng do một hoàn cảnh tầm thường nhất. Như Dolpa Rinpoche nói:
“Nếu bạn cam đảm xây dựng những kho công đức, thanh lọc bản thân cho hết những nghiệp chướng, và khẩn cầu những bậc thầy và chư vị thần linh, thì bạn sẽ phát khởi được những thực chứng tưởng chừng như không bao giờ phát khởi được dù có nỗ lực một trăm năm. Như thế đấy là các pháp hữu vi: chúng không phải luôn luôn cố định.”
Và những bậc thánh trong quá khứ đã cho lời chỉ giáo khẩu truyền này trong truyền thống: “Bạn giống như một hạt giống không có chất ẩm khi bạn không xây dựng kho công đức.” Vậy sự tích lũy công đức, sự thanh lọc bản thân. Và cầu khẩn phước điền là những việc cốt tử. Những người trong các tu viện lớn không chỉ có tranh biện suốt buổi: họ còn tụng kinh rất nhiều trong những cuộc hội họp, thực tập, tranh luận, vân vân. Người ta phải xem trọng những việc này, vì chúng cốt để tích lũy công đức và thanh lọc nghiệp chướng.
Bạn cầu khẩn ai để tích lũy công đức và thanh lọc bản thân? Bạn cầu khẩn Phước điền. Phép thiền quán về ruộng phước bởi thế là chính yếu, nên nó có riêng một tiêu đề. Danh từ “phước điền” có nghĩa pháp quán này là một thửa ruộng phì nhiêu để xây dựng kho công đức của bạn. Người ta đánh giá cao một thửa ruộng thông thường vì nó có cho mùa gặt tốt; còn ruộng phước đem lại năng lực lớn lao cho những sự tích lũy công đức, thanh lọc bản thân, và cho sự khẩn cầu của bạn. Bởi thế bạn phải xem trọng phần quán phước điền này. Một thửa ruộng thông thường chỉ sản xuất một ít giạ lúa. Ruộng công đức sẽ sản xuất hậu quả của vô số năng lượng từ cái hạt giống li ti. Ruộng đất chỉ có thể trồng trọt vào một vài thời tiết trong năm; còn ruộng công đức (phước điền) thì luôn luôn sẵn sàng để được trồng bằng những hạt giống của sức khỏe và hỉ lạc. Thật đáng tiếc xiết bao nếu bạn để cho ruộng này khô cằn vì không gieo hạt giống công đức nào trong đó. Như đức Tsongkapa vĩ đại có nói:
Có kinh dạy rằng: “Ruộng thánh linh này - nguồn suối của tất cả sức khỏe và hạnh phúc - luôn luôn sẵn sàng để gieo trồng những hạt giống sức khỏe và hạnh phúc vào mọi thời tiết và mọi mùa. Bởi thế bạn hãy cuốc lật thửa ruộng này bằng cái cày đức tin. “Thật đáng tiếc xiết bao nếu người ta bỏ trống thửa ruộng này, không làm gì với nó.
Và:
“Chúng ta không xem trọng ruộng công đức, thửa ruộng tối thượng, như chúng ta xem trọng những thửa ruộng thông thường. Chúng ta không hành xử đúng cách.”
Nếu sự cầu khẩn ruộng công đức là chuyện cốt tử đến thế, thì bạn có thể tự hỏi, “Tôi phải khởi sự làm sao để làm việc này?” bởi thế tôi sẽ giải thích tiến trình này, khởi đầu bằng lối giải thích trong tác phẩm Con Đường Nhanh về ruộng công đức, vì mỗi bản văn Lam-rim nói một cách khác nhau về nghi thức chuẩn bị.
Ở điểm này các bạn có thể tự hỏi, “Trước khi tôi có thể khởi sự quán ruộng công đức, tôi phải giải tán pháp quán quy y. Làm sao tôi làm chuyện này, vì những sách chỉ dẫn không nói rõ?” Quả thế có ba chỉ giáo khác nhau về sự giải tán pháp quán quy y, những chỉ dẫn này không được bàn một cách minh bạch để cho bạn một vài lối thoát. Những chỉ dẫn này là: pháp quán quy y trở thành ánh sáng vàng nghệ tan vào khoảng trống giữa hai lông mày của bạn; hoặc bạn tưởng tượng pháp quán trở thành một sự trống rỗng không có trung tâm; hoặc toàn thể hình tượng quán quy y đều thăng hư không, và sau khi bạn quán ruộng công đức ở dưới đó, bạn hòa nhập pháp quán quy y vào ruộng công đức cho những thực thể trí giác đi vào ruộng. Những chỉ dẫn này được để mơ hồ như thế bạn phải thụ giáo bằng khẩu truyền.
Bước đầu để quán ruộng công đức là sự thánh hóa mặt đất. Bạn đọc lời sau đây (trích từ quyển Trang Hoàng Yết Hầu Những Người May Mắn):
Xin cho mặt đất khắp nơi
Không còn sỏi đá gai góc
Có bản chất của ngọc lưu ly
Nhưng vẫn mềm dịu.
Bạn đừng có nghĩ tưởng rằng tất cả những gì sau đây diễn tiếp trong phạm vi căn phòng chật hẹp của bạn. Bạn quán mặt đất rộng bao la, như thể bạn đang đứng giữa một bình nguyên bát ngát. Mặt bằng ấy phẳng lì, hoặc làm bằng vàng ròng nạm những hoa văn bằng ngọc lưu ly, hoặc làm bằng ngọc lưu ly nạm vàng. Mặt bằng này rất mềm mại khi chạm tới nó, và trở lại hình dáng cũng khi hết chạm.
Mặt bằng ấy sờ đến là đầy phúc lạc. Rải rác đó đây những cây báu, nhiều giống chim thần đang đậu trên cây hót lên diệu pháp. Có nhiều ao hồ với đáy trải cát bằng vàng ròng. Toàn thể bình nguyên này được vây quanh bằng những núi ngọc ngà châu báu. Hãy quán theo trong kinh nói về Sự Trải Bày Ruộng Thanh Tịnh. Mặt bình nguyên này thật hoàn hảo về môi trường, không bị hỏng vì những vết nứt rạng hay hầm hố.
Khi ấy bạn phải dâng đồ cúng. Trong thực tế bạn chỉ có thể cúng bảy chén nước và thắp một cây hương, nhưng nếu trong thiền định bạn quán tưởng toàn thể đất trời đầy những phẩm vật cúng dường như của Bồ tát Phổ Hiền - bạn sẽ được công đức tương xứng với sự dâng cúng ấy. Như kinh Hoa Nghiêm nói: “Phần lớn vật cúng đường là những tàn lọng…” nghĩa là những thứ bạn cúng dường là tàn, lọng, tràng phan bảo cái v.v… bạn cũng nên cúng thêm hoa, hương, đèn, trầm, thực phẩm v.v… Chẳng hạn, thực phẩm thì phải được quán là có nhiều hào quang vây quanh. Nên đọc thần chú biến hóa thành nhiều đồ cúng hoặc chú cúng dường.
Om nama bhagavate, vajra sara pramardane tathagàtaya, arhate samyaksam buddhaya, tadyathà, om vajre, vajre mahà vajre, mahà tejra vajre, mahà vidya vajre mahà bodhicita vaje, sarva bodhi mandopa samkramana vajre, varva karma àvarana vishodhana vajre svàhà
Người ta bảo nếu bạn tụng thần chú này thì một số lượng khổng lồ phẩm vật dâng cúng sẽ mưa xuống trên chư Phật - những Đấng Chiến thắng - và các Pháp tử của ngài, mặc dù bạn chỉ có thể cúng rất ít vật phẩm có thực.
Rồi bạn hô triệu năng lực của chân lý (trích từ quyển Trang Hoàng Yết Hầu… của Jampael Lhuendrub):
“Do sự thật về Ba ngôi báu, do năng lực ban phúc của tát cả chư Phật Bồ tát, cùng với năng lực của sự thanh tịnh bất khả tư nghì của pháp giới, nguyện cho tất cả vạn pháp trở thành chân như.”
Khi bạn đọc, “…nguyện cho tất cả vạn pháp trở thành chân như,” sự quán tưởng của bạn trở về chân như - dù bạn quán tưởng lớn hay nhỏ đến đâu.
Bây giờ đến phần bàn về tiến trình thực sự quán ruộng phước. Theo bản kinh Con Đường Nhanh, có hai cách quán ruộng phước. Một cách theo những bài giảng ngắn gọn; cách kia theo bản văn Cúng Dường Đạo sư - một chỉ giáo kỳ diệu rút từ tác phẩm Những Quyển Sách Thần Diệu Của Phái Gelugpas. Pháp hành trì này là pháp thiền du già (yoga) của Gyelwa Ensapa va Choekyi Dorje, một bậc thánh giả vĩ đại khác. Họ đạt đến sự hợp nhất với chân lý chỉ trong một đời bằng cách nương vào pháp quán dâng hiến, tuệ giác và thiền định, thực thể này lồng vào bên trong thực thể kia.
Ở điểm này hãy tụng (tút từ Trang Hoàng Yết Hầu…):
Trong không gian, đại lộ mà chư thần sử dụng,
Được thấy như là phối hợp của phúc lạc và Tánh không
Giữa những đồ cúng dường của Phổ Hiền
Như những lớp mây trùng trùng điệp điệp.
Có cây ước trang hoàng bằng lá hoa và trái.
Trên đỉnh cây có một bảo tòa rực rỡ năm màu;
Trên bảo tòa một đóa sen to lớn
Với những vầng nhật nguyệt,
Trên đó an tọa vị thầy gốc của tôi
Người đã ba lần tử tế với tôi.
Ngài tự bản chất vốn là tất cả chư Phật;
Nhưng mang dáng vẻ một thầy tu ào vàng
Với một gương mặt, hai bàn tay
Và một nụ cười tỏa rạng.
Bàn tay phải của thầybắn ấn thuyết pháp;
Tay trái bắt ấn nhập định
Trong khi cầm một bình bát đựng đầy cam lồ
Ngài mặc ba thứ Pháp y màu vàng chói
Đầu đội mũ học giả hiền trí màu vàng.
Nơi tim ngài là Thích Ca Mâu Ni và Kim Cương Trì
Dưới dạng một mặt hai tay đang cầm chuông và kim cương chùy
Ngài cũng ngồi với Dhatvoshvarì;
Họ thưởng htức vừa đại lạc vừa Không thánh
Họ mang trang sức quý giá và thiên y lụa là.
Ở điểm này, tâm thức bạn nắm được trí tuệ cốt tủy về sự bất khả phân giữa đại lạc và Không tánh; trí tuệ này mang hình dạng của hư không, “đại lộ mà chư thầy xử dụng.” Trong khoảng không ấy bạn làm pháp quán ruộng phước. Lý do bạn làm bước đầu tiên này là để thấy được vạn pháp như một hợp nhất giữa đại lạc và chân không liên hệ đến ý nghĩa của thần chú evam (như thị) rồi trong sự thấu hiểu ấy, bạn xuất hiện như một vị trời. Nhưng vì trong thính chúng ở đây có nhiều người chưa được khai thị vào mật pháp Tối thượng Du già, cho nên thật chưa phải lúc để bàn những chuyện ấy, và tôi chỉ có thể nói đến chừng này mà thôi. Dù sao các bạn cũng phải quán những đồ cúng của đức Phổ Hiền trên những lớp mây trời như sóng cuộn.
Ở giữa mặt đất báu ấy có một cái hồ sữa trong đó có một cây ước đứng, làm bằng bảy thứ quý: rễ bằng vàng, thân bằng bạc, cành bằng lưu ly, lá bằng thủy tinh, hoa bằng hổ phách, cánh hoa bằng ngọc bích. Và trái bằng kim cương. Tất cả mọi thành phần của cây ấy, ví dụ rễ cây, đều có số lượng vàng số bảy nhân lên nhiều lần. Cây ấy làm thỏa man tất cả ước muốn của bạn đồng lúc và đúng như bạn mong. Tiếng xào xạc của lá cây cũng nói lên bốn pháp ấn là vô thường, vô ngã, khổ và niết bàn. Một bảo tòa đứng ở giữa thân cây trên một đóa hoa khổng lồ, tòa ấy được nâng bởi tám con sư tử có ý nghĩa như sau. Chư đại Bồ tát hóa hình sư tử và đỡ pháp tòa này để tỏ sự tôn kính, v.v…; và cũng như sư tử là chúa tể các thú vật trong rừng, Phật là chúa tể của tất cả trời thần và ngoại đạo ở thế gian. Có tám con sư tử để tượng trưng tám của cải, và chúng họp thành bốn đôi để ám chỉ Bốn Vô úy.
Phía trên bảo tòa này có mười một tòa sen. Tòa càng cao thì khoảng cách càng lớn giữa hai tầng tòa. Tòa trên chót đỉnh có bốn cánh. Một nhật luân làm bằng thủy tinh quý giá an vị trên gương sen. Một nguyệt luân làm bằng thủy tinh an vị trong nhật luân. Hai dĩa tròn này giống như hai mặt da trống.
Hoa sen biểu trưng sự từ bỏ. Nó mọc trong bùn như không nhuốm mùi bùn. Sự từ bỏ cũng thế, không bị nhiễm bởi những lỗi lầm của sinh tử. Mặt trời làm chín cái chưa chín, nên nhật luân biểu tượng cho hậu quả chín mùi mà Bồ đề tâm tuyệt đối (nghĩa là trí tuệ thấy được Tánh không, (xem Ngày Hai Mươi Hai, trang…) có được trong dòng tâm thức của ta. Ánh sáng trắng của mặt trăng làm dịu cơn nóng bức; vừng nguyệt luân tượng trưng cho bồ đề tâm tương đối (nghĩa là tâm mong cầu giác ngộ)- một cái gì bản chất trắng bạch, làm tiêu tan cảm giác hận thù. Những tòa sen bởi thế được làm bằng ba thành phần ấy để biểu trưng rằng những hình đứng ấy đều là những bậc Thầy của ba căn bản của đạo lộ. Hoa sen cũng tượng trưng cho Phạm Vi Nhỏ Và Trung Bình, Nhật luân, Nguyệt luân tượng trưng cho Phạm Vi Lớn.
Kế tiếp bạn phải quán nhân vật chính ở trên tòa sen này. Ai là nhân vật chính trong Ruộng phước của pháp Cúng dường Đạo sư? Người thì nói đó là Tsongkapa, người thì cho là bổn sư của hành giả, người lại gọi vị ấy là “Vị Thầy trong pháp Cúng Dường Đạo sư.” Nhưng ngài được gọi là “Lama Lozang Tubwang Dorje Chang.” Ngài có danh hiệu “Lama” (thầy) vì là bổn sư của bạn; danh hiệu “Lozang” vì là Tsongkapa (pháp dnah của ngài là Lozang Dragpa); “Tubwang” vì là đấng đạo sư Thích Ca Mâu Ni của chúng ta; và “Dorje Chang” vì là Phật Kim cương trì (Vajradhara). Bởi thế ngài là cả bốn, nhưng bốn cương vị này không rời nhau. Đây là nhân vật chính trong pháp quán ruộng phước. Điều này có nghãi là bốn dòng tâm thức khác nhau. Đây là nhân vật chính trong pháp quán ruộng phước. Điều này có nghĩa là bốn dòng tâm thức khác nhau phối hợp hay không? Thực sự không phải vậy, vì làm sao ta có thể nhập bốn dòng làm một! Cả bốn vốn dĩ là một ngay từ đầu. Chúng ta có thể nghĩ đấy là những dòng tâm thức khác nhau, nhưng có những chứng cứ trong kinh luận chứng minh cho bạn thấy cả bốn chỉ là một.
Bốn vị là một thực thể duy nhất. Nhưng với chúng ta Kim cương trì màu xanh, cầm kim cương chùy và chuông, mặc y phục của báo thân Phật; Thích Ca Mâu Ni có đầu cao, đi chân không, mặc y phục của Ứng thân Phật. Thế nên chúng ta không bao giờ liên kết hai người với nhau. Điều ấy không đúng. Đức Phật hiển bày ứng thân tối thượng (thắng ứng thân) của ngài mỗi khi ngài thuyết tạng Luật hay tạng Kinh. Khi ngài dạy tạng Mật, thì ngài hiển bày thân Kim cương trì. Lại nữa, khi Ngài dạy mật điển Guhyasamàja, ngài xuất hiện dưới dạng Kim cương trì có ba đầu sáu tay. Khi giảng mật điển Huruka có bốn mặt mười hai tay vân vân. Ngài hóa hiện vô số thân hình phù hợp với kinh điển hay mật điển Ngài dạy, nhưng Ngài vẫn là Thích Ca Mâu Ni. Như vậy Thích Ca và Kim cương trì tuy hai mà một, đấy không phải là hai dòng tâm khác nhau. Khi Thích Ca Mâu Ni không còn một đệ tử nào trực tiếp nữa, thì Ngài nhập Niết bàn. Nhưng ngay cả về sau đó, Ngài vẫn xuất hiện nhiều lần ở Ấn làm những hiền giả và thánh giả, giảng Pháp dưới những hình thức ấy. Trong lần truyền giáo đầu tiên tại Tây Tạng, Ngài hóa làm Shàntarakshita, Padmasambhava vân vân, để giảng Pháp. Trong lần truyền giáo thứ hai trên đất Tây Tạng, Ngài hóa thân làm nhiều học giả hiền trí để dạy Pháp: Atìsha, Je Tsongkapa, vân vân. Nhưng Je Lozang Dragpa tự bản chất là một với Thích Ca Mâu Ni.
Đức Phật dạy rằng trong đời vị lai, Thích Ca Mâu Ni - Kim cương trì sẽ hóa hình làm những đạo sư thời mà năm thứ suy đồi thắng thế.
(chú thích của DG: “ngũ trược ác” năm thứ suy đồi là:
1. Kiếp trược - thời đại dơ uế - nghĩa là vào cuối một thời kiếp, thì mọi sự đều xấu, thường gọi là thời hắc ám so với thời kiếp gọi là thời hoàng kim thì cái gì cũng tốt.
2. Kiến trược, là cái thấy hay quan niệm dơ uế, “điên đảo” như vô thường cho là thường, khổ cho là vui, v.v…
3. Phiền não trược, là nhiều tham sân si hơn ở đâu đầu thời đại.
4. Chúng sinh trược, nghĩa là những gì sanh ra vào thời mạt pháp đều nhuốm ít nhiều sự nhơ uế này nên không thù thắng như vào thời hoàng kim.
5. Mạng trược là mạng sống ngắn ngủi, chỉ trên dưới một trăm năm, không thọ như đầu thời kiếp.)
Bạn có thể tự hỏi, “Vậy ai là hóa thân của Thích Ca Kim cương trì, người được xem như là đang làm việc để cứu tôi?” Bạn không cần phải tìm đâu xa hơn ngoài vị thầy của bạn. Mật điển Shrikhasama nói:
Tất cả những vị ấy đều là hiện thân của năm vị Phật thiền
Họ xuất hiện dưới nhiều hình thức hóa thân
Cũng như nhiều tấm ảnh khác nhau của một người.
Họ vẫn hiện thân của cùng một nguồn đại lạc.
Họ cùng cảm thức một nguồn đại lạc ấy
Nhưng khoác nhiều hình dạng khác nhau.
Bạn có thể hiểu đoạn trích này theo nhiều cách. Nó có thể áp dụng cho sự tách riêng về thân thể trong giai đoạn viên mãn, hoặc bạn có thể áp dụng nó vào cách mà bạn nên thờ bậc thầy như sau:
Giả sử một vũ công đứng đầu (trong một cuộc lễ ở tu viện) mặc dù trang phục mà đen đội mão đen xuất hiện, người ta sẽ la lên: ‘Đấy là Hắc Mạo” nhưng đấy chỉ là vũ công. Rồi khi y đi vào hậu trường, khắc mặt nạ của Diêm vương mà đi ra, người ta sẽ hô: “Đó là Diêm vương.” Nhưng kỳ thực cũng là một vũ công ấy, mặc dù trang phục và tên gọi có khác nhau. Phật hay Kim cương trì cũng vậy, xuất hiện dưới dạng Thích Ca Mâu Ni. Je Tsongkapa, hoặc bậc thầy của chính bạn. Tất cả những vị này chỉ là một.
Bạn phải quán tưởng nhân vật chính của ruộng phước với niềm tin chắc như thế. Vậy nhân vật này đã được danh hiệu là “Lama Lozang Tubwang Dorje Chang.” Nhưng ngài còn nhiều hơn thế nữa, “Ngài, tự bản chất, là tất cả chư Phật.” Bạn phải tin chắc rằng bậc thầy là một thực thể chứa đựng tuệ giác cốt yếu của tất cả chư Phật hiện thân trong một hình hài vật lý duy nhất. Tôi sẽ bàn chi tiết điều này trong đoạn nói về phụng sự một bậc thầy.
Nếu không hiểu thấu đáo những điều ấy, thì những phép quán của bạn về Du già đạo sư cũng chỉ là một mớ tư duy mờ nhạt, dù bạn thiền định nhiều đến đâu đi nữa. Chúng ta đọc thấy câu sau đây trong Những Giai Đoạn Lớn Của Đạo Lộ:
“Ta nên hiểu những điều nói trên đây là chỉ giáo nổi tiếng về thiền pháp gọi là Đạo sư Du già. Nhưng sẽ không ăn thua gì nếu người ta chỉ thiền quán về đề mục ấy vài lần mà thôi.”
Sự tụng đọc đề cập ba sự tử tế của bậc thầy. Theo truyền thống kinh tạng, đó là: giới pháp, truyền thụ, và giảng kinh. Trong truyền thống mật điển, đó là cho những pháp quán đảnh chính yếu, bàn mật điển, và chỉ giáo. Chúng ta nói “ba lần tử tế” vì ta nhận cả ba thứ ấy từ một bậc thầy.
Bên ngoài, nhân vật chính có hình dạng của Phật Tsongkapa vĩ đại - một tu sĩ khoác y vàng. Cái y đặc biệt này có màu hơi đỏ, đó là màu tấm y ngoài cùng ngài mặc. Tay phải ngài bắt ấn thuyết pháp; tay trái ngài cầm bình bát đầy nước cam lồ trong khi bắt ấn nhập định. Ngón cái và ngón trỏ cả hai tay đều cầm những cong sen xanh đang nở trọn vẹn, những cánh hoa ngang tầm vai ngài. Gươm trí tuệ dựng trên đóa hoa ở bên phải ngài. Đầu gươm bốc lửa. Một quyển Bát nhã Bát Thiên Tụng ngồi trên đóa hoa bên trái ngài; quyển kinh này tự nói lên nội dung của nó. Bạn cũng có thể tưởng tượng quyển kinh ấy là quyển bạn đang chuyên môn trong việc học, quán tưởng và thiền định của bạn.
Ba y ngài mặc có màu vàng hoe. Có ba loại màu vàng: vàng nghệ, vàng hơi đỏ, và đỏ. Những màu này đi với cái khăn quàng của ngài, y trên không tay, và y dưới. Ngài đội mão học giả màu vàng; cái mũi nhọn của nó dựng đứng. Tất của những màu sắc này hàm ẩn nhiều chuyện, nhưng sẽ mất quá nhiều thì giờ nếu bạn luận về chúng. Bạn hãy đọc những chi tiết này trong những bài giảng về pháp Quán Một Trăm Vị Thần cõi Đâu Suất và pháp Đạo sư Du già
Hãy quán Thích Ca ngồi trong tim Tsongkapa, Kim cương trì ngồi trong tim Thích Ca. trong tim Kim cương trì an tọa thực thể của định là âm HÙM màu xanh. Những hình ảnh này không phải là những thực thể tách rời ngồi bên cạnh nhau, như một dãy pháp khí. Thích ca được đặt trong tim Tsongkapa để chứng tỏ rằng bậc thầy bên ngoài đường như có hình dạng một thầy tu, mà bên trong chính là Thích Ca Phật. Và Kim cương trì ngồi trong tim Thích Ca để chứng tỏ rằng bậc đạo sư bí mật là Kim cương trì. Chúng ta nói “ba thực thể ngồi trong tim của nhau,” nên bạn có thể tưởng rằng chỉ có ba hình ảnh trên đây là đủ. Tuy nhiên, hai vị đầu là những thực thể dấn thân hành động, còn Kim cương trì là thực thể trí tuệ. Vậy, cần phải đặt một chữ HUM màu xanh nơi tim vị ấy dùng để ám chỉ đấy là một thực thực thể của thiền định. Pháp quán ba thực thể này là một trong những chìa khóa sâu xa nhất của mật điển, nên tôi không dám bàn ở đây.
Bài tụng tiếp tục như sau: (trích từ Trang Hoàng Yết Hầu…):
Thầy tôi có những tướng quý và tướng phụ
Tỏa ra hàng ngàn tia sáng
Một áng cầu vồng ngũ sắc bao phủ ngài.
Ngài ngồi thế hao sen; năm uẩn thuần tịnh của ngài
Là năm vị Phật thiền;
Tứ đại của ngài là bốn bà vợ;
Giác quan, mạch máu, bắp thịt và khớp xương ngài
Thực sự là những Bồ tát; những lỗ chân long nơi ngài
Là hăm mốt ngàn Ha hán;
Chân tay ngài - chư thần phẫn nộ.
Những tia sáng từ thân thể ngài là thần bảo hộ các phương.
Đế Thích, Phạm Thiên và chư thiên khác
Đều lạy dài dưới chân ngài. Xung quanh ngài an tọa
Những bậc thầy của tôi, rất nhiều vị thần hộ mạng,
Mandala của họ, chư thiên tùy tùng thị giả họ,
Chư Phật và Bồ tát,
Nam thần Dakas và những thần Hộ pháp.
Tất cả ba cửa (thân, khẩu, ý - DG) của họ đều có dấu ấn kim cương.
Những tia sáng hình lưỡi câu tỏa ra từ những chữ HUM nơi họ.
Đem lại những thực thể trí tuệ từ chỗ ở tự nhiên
Bỗng tan hòa vào nhau không thể phân biệt, và đọng lại.
Bậc thầy ngồi kiết già, bạn quán năm uẩn của ông (xem Ngày Hăm Hai, trang…) là năm Phật thiền, v.v… Phật thiền này rút từ mật điển gốc của mandala về thân của Guhyasamàja. Tôi sẽ bàn vắn tắt về điểm này. Chỉ giáo này nói chi tiết trong Chuỗi Hoa Kim Cương mật điển bình giải về Guhyasamàja. Pháp thiền hiện tại của chúng ta giống như madala thân của đức Guhyasamàja ba mặt sáu tay. Nếu bạn không quán nổi, thì cứ quán theo hình ảnh một mặt hai tay như nói trong các mật điển Du già. Sắc uẩn (biểu tượng) của bậc thầy trải từ nhục kế (đỉnh đầu nhô cao) cho đến chân tóc của ngài; uẩn này trong bản chất chính là Phật Tỳ lô giá na. Thọ uẩn của thầy trải từ đường tóc xuống đến yết hầu; uẩn này trong bản chất chính là đức Phật A Di Đà. Vân vân, (như tả trong mật điển Guhyasamàja)
Như thế, năm uẩn, biểu trưng của năm Phật thiền, ngồi chồng lên nhau. Mỗi nhục kế của ngài ngồi dưới chạm vào đáy tòa sen của vị Phật thiền ngồi trên. Hãy phát khởi phép quán này từ nơi rốn của thân thể bậc thầy - như cái lõi của một thân cây. Bốn đại của thầy được biểu trưng bằng bốn bà vợ ôm lấy năm vị Phật, tám Bồ tát - Địa tạng (Kshitagarbha) vân vân - tượng trưng cho mạch máu, bắp thịt khớp xương cũng như sáu căn của thầy. Những mạch máu và bắp thịt của thầy bản chất chính là Di Lặc, đang ngồi trên nhục kế của thầy. Phổ Hiền ngồi trên tám khớp xương chính. Bài tụng không nói rõ năm bà vợ Kim cương - Kim cương sắc (Vajraùpà), v.v… - nhưng cũng như trong mandala thân của Guhyasamàja, họ đang giao hợp một số Bồ tát nam tánh này.
Bản văn nói “những lỗ chân lông nơi ngài là hăm mốt ngàn La hán.” Những vị La hán này không phải là Thanh văn hay Duyên giác, mà là La hán Đại thừa, nghĩa là những vị Phật thánh. Quả thế mỗi lỗ chân lông của nhân vật chính này là một cõi Phật. Hãy tưởng tượng trong cõi này, có vô số Phật đang thực hành mười hai hạnh: vị thì đang hàng ma, vị thì đang chuyển Pháp luân, vân vân. Đây là ý nghĩa câu “tất cả cõi Phật hiện ra trong một thân Phật.” (xem ngày Mười Hai, trang…). Một mật điển về đức Thánh Quan Tự Tại cho ta biết danh hiệu từng cõi Phật trong những lỗ chân lông ấy, cũng như danh hiệu đức Như Lai ngự trong ấy. Bạn phải áp dụng chỉ dẫn này cho tất cả hình ảnh Phật. Phần nhiều văn bản đưa ra số hai mươi mốt ngàn, nhưng con số thật sự thì không nhất định.
Hãy quán mười vị thần phẫn nộ trên mười đoạn của tứ chi ngài, ví dụ như thần Diêm vương (Yamàtaka) trên bàn tay phải.
Bây giờ có năm vị thần ở trái tim của hình trung ương. Họ được định vị trí như sau. Lớn nhất là A Súc Bệ (Akshobhy - Phật thiền). Thích ca an tọa trong trái tim của vị này, Kim cương trì ở trong trái tim Thích Ca. Nữ thần Màmakì ngồi trước mặt A Súc bệ, trong dáng giao hợp với ngài. Văn Thù (một trong tám vị Bồ tát) ngồi sau lưng A Súc bệ, mặt hướng về trước.
Thân thể của nhân vật chính tuôn ra những đạo hào quang, đầu mỗi hào quang có những hóa thân như chư thần bảo hộ bốn phương, vân vân. Quán tưởng những vị chư thiên vĩ đại như Pham Vương, Đế Thích lạy dài dưới chân của nhân vật chính.
Mặc dù có thể bạn không quán được tất cả những hình ấy một cách rõ rệt cho lắm, song điều cốt tử là đạt đến niềm xác tín rằng năm uẩn của bậc thầy bạn, bốn đại, sáu giác quan, v.v… của ông thực sự là năm Phật thiền, bốn bà vợ, chư thần phẫn nộ, vân vân. Thế đấy là cách bạn quán tưởng hình ảnh chính yếu. Bây giờ hãy nói đến cách quán tưởng quyến thuộc của ông ta.
Những luồng ánh sáng tuôn từ tim của nhân vật chính. Vài luồng đi về phía tay phải và tỏa rộng ra - trên đó an tọa những bậc thầy thuộc Hệ Phái Hành Vi Quảng Đại; những luồng sáng khác thì đi về phía trái và tỏa rộng cho những vị thầy thuộc Hệ Phái Tri Kiến Sâu Xa. Một vài luồng đi về phía trước cho những ông thầy đã đích thân dạy bạn giáo lý; những luồng khác đi về phía sau - những vị thầy thuộc Hệ Phái Dâng Hiến ngồi trên ấy, nhưng hơi cao hơn những nhóm khác.
Bây giờ, có nhiều điểm sâu sắc tôi có thể nói về cách bạn sắp xếp những vị hành giả thuộc Hệ Phái Dâng Hiến. Những vị nổi tiếng của dòng này là Kim cương trì, Tilopa, Nàropa, Dombhìpa, Atìsha, vân vân. Nhưng, như Drubkang Geleg Gyatso đã nêu, những vị thuộc hai hệ phái kia đã truyền xuống hệ phái Dâng Hiến từ một bậc thầy này đến bậc thầy khác không để cho truyền thống bị thoái hóa. Bởi vậy ta không cần phải quán thêm một hệ phái nữa. Trái lại Kardo Lozang Gomchung tuyên bố rằng Hệ Pháp Dâng Hiến gồm những thành phần thuộc các dòng dõi của Guhyasamàja, Heruka và Yamàtaka. Je Ngagwang Jampa và Lama Yongdzin Rinpoche cho rằng dòng này gồm hai hệ phái chính: Mười sáu Droplets của phái Kamdampas và dòng Bí mật của Hoàng mạo phái (Gelugpa). Đức tôn sư tôi cho một lời chỉ giáo sâu sắc để phối hợp những cách giải thích khác nhau ở trên. Bây giờ tôi sẽ trao lại cho các bạn không giữ lại một điều gì. Hãy quán một hàng thẳng đứng gồm những nhân vật trong nhóm này - trừ Kim cương trì ở trên hết - đều có hình dạng Đức Văn Thù, khởi đầu với chính Văn Thù, và xuống dần cho đến vị thầy của bạn. Bên phải hàng dọc này là những bậc thầy của mật điển Guhyasamàja và Yamàtaka. Mỗi hệ phái trong hai hệ này có hàng dọc riêng. Bên trái của Đức Văn Thù là những hệ phái của mật điển Heruka và mật điển Mười sáu Drops. Mỗi hệ phái này cũng có hàng dọc riêng. Bên trái của Đức Văn Thù là những hệ phái của mật điển Heruka và mật điển Mười sáu Drops. Mỗi hệ phái này cũng có hàng dọc riêng. Je Sherab Gyatso cũng mô tả một sự sắp xếp tương tự trong những trước tác của ngài. Có nhiều chỉ dẫn khác nữa, nhưng muốn biết thêm chi tiết bạn phải tra cứu Quyển sách của Phái Kadampas, những tác phẩm của Kachen Namkha Dorje về Cúng Dường Đạo sư, những bài giảng ghi âm của thầy giáo đạo Tsongkapa về pháp Cúng dường Đạo sư, những tiểu sử của những bậc thầy trong hệ phái theo pháp hành trì này, và những trước tác đã nói trên của Sherab Gyatso.
Còn có một chỉ dẫn truyền khẩu rất đặc biệt về cách làm thế nào để sắp xếp những bậc thầy thuộc trường phái Kadampas cũ và mới (xem Ngày Thứ Sáu, trang…). Chừng ấy cũng đủ cách quán tưởng các bậc thầy.
Kế tiếp, tòa sen ở tầng thứ nhất có bốn cánh. Hãy đặt ba mươi hai vị thần thuộc Kim cương bộ của A Súc bệ thuộc nhóm Guhyasamàja trên cánh hoa mặt trước; mười ba thần thuộc mật bộ Yamàntaka đứng trên cánh hoa bên phái của Guhyasamàja; 62 thần thuộc mật bộ Heruka (theo bản của Luipa) ở trên cánh hoa bên trái). Chín vị thần của mật bộ Hevajra (theo bản Kàpàlin) đứng trên cánh hoa phía sau.
Theo một truyền thống khác, bạn quán Guhyasamàja - cha đẻ của mật bộ - đứng trên cánh hoa bên phải của nhân vật chính. Chư thần huộc Heruka - mẹ đẻ của mật bộ - đứng bên trái nhân vật chính. Chư thần thuộc Yamàntaka - mật điển có đủ tất cả điểm then chốt của hai mật điển cha và mẹ - đứng trên cánh hoa giữa ở trước mặt nhân vật chính.
Trong bất cứ trường hợp nào, bạn cũng phải quán toàn thể madala (đồ hình) của mỗi mật bộ cùng với chư thần trong đồ hình. Nếu điều này quá sức bạn, thì hãy quán chư thần chính yếu và toàn bộ quyến thuộc mà không cần quán madala của họ. Nếu chuyện này bạn cũng không thể làm, thì hãy quán chư thần chính yếu mà thôi.
Ở tầng thứ hai phái dưới, hãy quán chư thần khác thuộc pháp Tối thượng Du già, với thần Kàlachakra ở mặt trước. Chư thần của mật điển Du già ở tầng thứ ba. Chư thần thuộc mật điển hành động (Charya) đứng ở tầng thứ tư. Chư thần thuộc mật điển Kriyà (thiên về Quán - DG) ở tầng thứ năm. Trên tầng thứ sáu, chúng ta có chư Phật dưới dạng ứng thân thù thắng. Tầng thứ bảy là những Bồ tát, thứ tám Duyên giác, thứ chín Thanh Văn. Thứ mười là những nam thần nữ thần. Và ở tầng thứ mười một, hay quán chư thần hộ pháp.
Những chủng tự biểu tượng cho thân khẩu ý giác ngộ có thể nhìn thấy trên ba điểm của thân thể các hình tượng trong ruộng phước; một chữ O… màu trắng bản chất của kim cương thân và Phật Tỳ lô giá na, nằm ở đỉnh đầu các vị ấy; một chữ ÀH màu đỏ biểu tượng kim cương ngữ và Phật A Di Đà nằm ở yết hầu; và một chữ HUM màu xanh biểu tượng Kim cương ý và Phật A Súc bệ nằm ở tim. Mặc dù bài tụng không nói rõ, chúng ta được biết phải có chữ SVÀ màu vàng nằm ở rốn: đây là bản thân bản thân đức Phật Bảo sanh; và một chữ HA màu lục phải nằm ở hạ bộ của mỗi hình tượng: đó là bản thân Phật Amoghasiddha hay Bất không thành tựu. Ba Kim cương trên chỉ đặc biệt chư Phật mới có. Bởi thế, bạn phải xem tất cả ruộng phước chất đều là chư Phật - cả đến những vị Thanh văn, Duyên giác, vân vân ở đấy cũng đều là những hình ảnh chư Phật hóa thân. Và bạn cũng phải hiểu rằng tất cả không trừ một vị nào, đều là những hóa thân của bậc thầy của bạn.
Chúng ta còn phải phát triển ba thái độ đối với ruộng phước: tính rõ rệt của những hình tượng hiện ra đập vào mắt, chúng ta xem tất cả như là có thật, và tin tưởng rằng thật kỳ diệu để cúng dường các vị ấy.
Sau khi quán tưởng như vậy xong, bạn hãy triệu thỉnh những thực thể trí tuệ ấy. Kỳ thực các vị ấy không cần phải hiệu thỉnh, họ đã hiện ra trước mặt bạn khi bạn quán tưởng. Một kinh nói: “Chư Phật sẽ hiện ra trước mặt bất cứ ai cố hết sức quán tưởng ngài.”
Trong khi tranh luận chúng ta thường nghe lời cả quyết rằng “không một chỗ nào mà trí Phật không soi đến.” Chúng ta phải sử dụng tốt những lời cả quyết ấy. Chúng ta có thể sẵn sàng so sánh điều này với một nhận xét của mật tông: đối với những thực thể đã đạt đến phúc lạc của sự hợp nhất, thì thân giác ngộ và ý giác ngộ đã trở thành một thực thể duy nhất.
Chỉ trong một sát na, nhất thiết trí của Phật.
Đi khắp phạm vi của mọi cái khả tri
Bất kỳ nơi đâu mà trí Phật soi đến
Thì ở đâu cũng có thân của Phật.
Nghĩa là: nơi nào Nhất thiết trí của Phật lan đến thì thân giác ngộ của Phật cũng lan đến. Chúng ta chỉ cần cố quán tưởng chư thần trong ruộng phước, thì chư thần sẽ hiện ra ngay trước mặt ta. Nhưng ta không trông thấy được các ngài chỉ vì nghiệp của chúng ta và những chướng ngại phát sinh từ đấy. Điều này được chứng minh bằng những câu chuyện về cách Asanga (Vô Trước) thấy được đức Di Lặc, hay cách Chandragomin thấy được Quán Tự Tại. Vậy, chư Phật Bồ tát hiện ra trước chúng ta một cách không cần dụng công nỗ lực, cũng như bóng trăng hiện rõ trong những cái chậu để giữa trời. Ngay khi ta vừa quán tưởng, là chư Phật đã đến với ta, có điều là ta trông thấy được các ngài. Cũng tương tự như ta không trông thấy rồng và phi nhân sống trong những hố sâu và những nơi khuất nẻo.
Nhưng tùy theo thái độ bạn có xem như các ngài đích thân hiện đến với bạn hay không mà bạn được công đức hay không. Bởi thế, không những bạn phải triệu thỉnh để khỏi sợ những vị ấy - chỗ nương tựa của bạn - không đến, mà bạn còn triệu thỉnh để ổn định sự quán tưởng của bạn.
Khi ấy bạn đọc như sau (trích từ Trang Hoàng Yết Hầu…):
Hỡi chư vị che chở mọi hữu tình,
Hàng phục Ma vương và quyến thuộc của ma,
Người biết mọi sự và biết một cách toàn hảo
Hỡi chư Phật Thế tôn và tùy tùng của ngài
Xin hãy đến đây. Ja hùm bam hoh:
Các ngài trở nên bất khả phân với những bồ tát.
Khi bạn tụng những lời trên, hãy nghĩ: “Chư vị trong ruộng phước đều có những đức trí tuệ, từ bi và năng lực. Bởi thế, như trong chuyện về Madadhabhadrì, tất cả các ngài đều đang hiện đến trong một đám diễn hành bất tận và kỳ ảo.” Đồng lúc ấy, ánh sáng tỏa ra từ tim các vị trong ruộng phước. Ánh sáng này; soi thẳng đến tim chư Phật ở mười phương, và từ mỗi vị Phật tuôn ra những phước điền trọn vẹn. Tất cả những phước điền này hòa tan thành một ruộng phước duy nhất đứng trên hình ảnh bạn quán lúc đầu. Ruộng này lại tỏa ra nhiều loạt đầy đủ này lại tan vào trong mỗi vị ở trong ruộng phước của bạn. Bạn quán tưởng rằng mỗi thành phần trong phước điền của bạn giờ đây tự bản chất thể hiện hoàn toàn chỗ quy y của bạn.
Nếu chúng ta làm pháp quán này, thì về sau ta sẽ không nói những lời bình phẩm giá trị về ruộng phước; đấy cũng là một điềm tốt cho tương lai khi chúng ta thực sự du hành trên đạo lộ và hưởng những quả của đạo lộ.
Cũng nên thêm rằng, đây là một truyền thống mật tông, nên khi ta hấp dẫn những thực thể trí tuệ thì họ đến, vì họ có sự gắn bó với những thực thể dấn thân thực hành; và khi ấy ta làm cho họ hoan hỉ với những sự cúng dường của ta.
Kế đến ta làm lễ tắm rửa cho những vị ấy. Ruộng phước thì không dơ uế vì tội lỗi, nghiệp chướng, bụi đất, vân vân, nhưng người xưa nói: “Pháp thân là vô cấu; nhưng để phụng sự ngài và để tỏ lòng kính ngưỡng của con….” Nói cách khác, ta làm lễ tắm Phật là để tịnh hóa bản thân ta khỏi các nghiệp chướng, v.v…
Có nhiều cách để quán cái nhà tắm nhưng vì pháp đặc biệt này liên hệ đến Mật điển Tối thượng Du già, nên theo đây thì nhà tắm có bốn cửa lớn và những mặt tiền trang hoàng lộng lẫy như các cung điện ở trung tâm một madala mật tông. Cái nhà chỉ có một tầng, mái được chống đỡ bằng bốn trụ làm bằng những vật quý báu. Trong tòa nhà thì trần được trang trí bằng một tàn lọng đầy ngọc trai. Giữa nhà có một cái ao tắm. Đáy ao bằng lưu ly có trải một lớp vụn vàng ròng, phần dưới nhô cao như một cái mu rùa. Những chi tiết trang trí khác giống như thường tả trong các mật điển của pháp Tối thượng Du già. Có đủ bục tắm dành cho tất cả những thành viên trong ruộng phước; từ ba phía có những lối dẫn đến những bục tắm ấy, mỗi lối đi có bốn bực cấp. Một bức tường thấp làm bằng ngọc báu vây quanh tòa nhà; trong tường có một lỗ hổng nạm ngọc để chứa những y phục sẽ được cởi bỏ của chư vị trong ruộng phước. Hãy quán những y phục mới mà bạn dâng cúng cho ruộng phước, bồn chứa nước tắm, v.v… Nếu bạn có dụng cụ cho nghi lễ tắm rửa, thì hãy dùng cái bình bát để biểu trưng cho ao tắm. Đổ một ít nước từ cái bình quán đảnh của bạn vào trong cát. Gạch hai đường ngang trên tâm gương lễ của bạn bằng nước lấy trong bình, dùng lông chim công thường trang trí bình mà vẽ; xong làm hai đường thẳng đứng để lập thành chín ô vuông. Lấy thêm nước trong bình mà vẽ những cái chấm: một chấm ở ô vuông trung tâm, và mỗi phương trong bốn phương chấm một chấm, chừa trắng những ô ở bốn góc. Cái bản kẽ hình vuông ấy tiêu biểu cho nhà tắm; năm chấm là ngũ bộ Phật thiền. Kết tiếp hãy tụng:
Đây là nhà tắm thơm tho
Nền bằng thủy tinh trong sáng
Cột nhà sáng đẹp tuyệt trần
Làm bằng đủ thứ châu ngọc
Trang trí với tàng lọng ngọc trai.
Ngay sau khi Phật ra đời
Chư thiên tắm rửa thân ngài;
Nay con cũng dùng nước chư thiên
Để tắm rửa thân các đấng Thiện Thệ.
Om sarva thatàgata abhishekata samaya shriye àh hùm.
Thân ngài sinh từ mười triệu đức hạnh tuyệt hảo
Lời ngài làm thỏa mãn hi vọng của vô lượng hữu tình
Ý ngài thấy biết tất cả đúng như thật:
Con xin tắm rửa thân ấy của Thích Ca - Kim cương trì.
Om sarva thatàgata abhishekata samaya shriye àh hùm.
Con tắm rửa thân thể của hệ phái Hành động Quảng đại
Con tắm rửa thân thể của hệ phái Hành động Dâng hiến
Con tắm rửa thân thể những bậc thầy trong hệ phái con theo.
Om sarva thatàgata abhishekata samaya shriye àh hùm.
Con tắm rửa thân chư Phật, những bậc đạo sư của chúng con,
Con tắm rửa thân của Thánh Pháp, đấng che chở cho chúng con,
Con tắm rửa thân của Tăng, những vị cứu cánh của chúng con.
Con tắm rửa thân của Ba Ngôi Báu, nơi nương tựa của chúng con.
Om sarva thatàgata abhishekata samaya shriye àh hùm.
Lúc mới khởi sự đọc đoạn trên, bạn hãy quán ruộng phước bay xuống nhà tắm, hoặc quán các ngài đang sử dụng các bực cấp đi đến nhà tắm, đồng thời bạn đọc câu chú trên, và quán ba nữ thần để hầu hạ mỗi vị trong ruộng phước. Một nữ thần rửa trán của thân Phật, một thoa dầu, và một đem dâng y phục mới. Trong khi họ tắm rửa, bạn tưởng tượng nữ thần đầu tiên lấy nước từ nơi ao để đổ lên thành viên của ruộng phước mà bà hầu; tâm của phước điền phát sanh đại lạc trong khi điều này xảy ra.
Sau khi tắm, thân thể các ngài được lau khô với bài kệ và chú sau đây:
Con lau những thân thể các ngài với thứ vải vô song -
Sạch sẽ và thấm nhuần hương chọn lọc.
Om hùm tràm hrìh àh kàya vishodhanaye svàhà.
Pháp này phù hợp với nghi lễ sái tịnh cổ truyền. Loạt nữ thần thứ hai lau khô chư vị trong ruộng phước tại năm điểm trên thân thể họ: trán, yết hầu, tim, và hai vai - vì nước trên thân các ngài đã đậu lại trên những điểm này. Các ngài không cần lau từ đầu xuống chân như chúng ta khi tắm. Kế đến xức dầu thơm. Hãy đọc:
Con xức dầu thân thể sáng chói của Mâu Ni
- Sáng chói như vàng ròng khéo luyện -
Với những thứ hương chọn lọc
Mà hàng tỷ thế giới có được để hiến dâng.
Nước thơm có màu vàng ròng, mùi vô cùng dễ chịu, và tuyệt đối không lầy nhầy.
Rồi bạn tưởng tượng hàng loạt nữ thần thứ ba dâng y phuc mới. Đọc:
Do lòng tin kiên cố của con,
Con xin dâng thiên y - mềm, nhẹ,
Mỏng - cho ngài, người đã thành tựu
Thân kim cương bất hoại.
Xin cho con cũng được thân kim cương.
Mỗi nhân vật trong ruộng phước nhận y phục thích ứng y của thần an lạc, hoặc của thần phẫn nộ. Hãy tưởng tượng Dromtoenpa nhận một tấm y xanh trong lót lông chồn, và một cái nịt lưng quấn sáu vòng quanh eo lưng ngài. Làm việc này là một điềm tốt.
Rồi các nữ thần dâng phước điền những thứ trang hoàng thích hợp. Đọc:
Tất cả chư Phật đều đã được trang sức một cách tự nhiên.
Bằng những tướng quý và vẻ đẹp,
Các ngài không cần đồ trang sức khác,
Nhưng con vẫn dâng lên ngọc ngà đẹp nhất
Để tất cả hữu tình sẽ được
Cái thân đủ tướng quý như ngài.
Khi ấy các vị trong ruộng phước trở lên lại chỗ ngồi của họ; trong khi bạn đọc:
Vì chư Phật thương xót tất cả chúng sinh và con,
Nên con xin ngài hãy lưu lại
Bằng thần lực
Bao lâu con còn dâng của cúng dường.
Những y phục cũ mà các vị ruộng phước bỏ trong lỗ hổng bức tường trước khi xuống nhà tắm, bây giờ trở thành ánh sáng màu trắng tan giữa lông mày bạn. Hoặc bạn cũng có thể tưởng tượng đại diện của sáu loài tái sanh tiến đến xin chia những phần di vật ấy. Có sáu đường nước chảy từ nơi ao tắm, đưa nước tắm đến sáu cõi. Hãy tưởng tượng nước ẩy tẩy trừ hết đau khổ của các hữu tình. Và hãy quán tưởng nước ấy biến thành phẩm vật cung cấp cho nhu cầu của mọi người. Rồi quán nhà tắm, vân vân tan vào hư không.
1.1.5. Dùng lời cầu nguyện bảy phần và một madala thế giới - Những pháp hành chứa mọi điểm then chốt để tích lũy công đức và thanh lọc bản thân.
Geshe Dolpa nói:
Nếu bạn can đảm xây dựng những sưu tập công đức, thanh lọc những nghiệp chướng, và cầu khẩn các bậc đạo sư và chư thần, thì bạn sẽ phát triển được những thực chứng tưởng không bao giờ chứng được dù có tu một trăm năm; như thế đấy là vì các pháp hữu vi: chúng không cố định. Một ngày kia bạn sẽ chứng được.
Nghĩa là, điều cốt yếu là xây dựng kho công đức. Những thực hành pháp cầu nguyện gồm bảy thành phần và dâng cúng Madala thế giới là then chốt của tiến trình xây dựng này. Những thực hành này thật thiết yếu cho toàn thể sự tu tập của bạn.
Một số người xem nhẹ những thực hành này vì nghĩ, “Nó chỉ dành cho những người không thể thực hành những đức hạnh lớn lao,” hoặc “Đấy chỉ là một thực hành dẫn nhập, nó không cần thiết cho những thực hành chính yếu.” Nhưng không phải vậy; trong kinh giáo của như mật tông không có cách nào tốt hơn thanh lọc bản thân hơn là xây dựng kho công đức và tịnh trừ nghiệp chướng bằng cách làm sự cầu nguyện gồm bảy thành phần trước ruộng phước vô thượng, tức là bậc thầy của ta, chư Phật và chư Bồ tát. Trong mật tông, sự cầu nguyện gồm bảy thành phần còn quan trọng hơn nữa. Bốn hạng mật điển bàn về bảy thành phần này một cách đầy đủ; và chúng ta được biết trong cả những giai đoạn “phát sinh” của mật điển Tối thượng Du già, hành giả cũng phải tích lũy công đức và thanh lọc chướng ngại bằng cách làm sự cầu nguyện gồm bảy thành phần trước ruộng phước, nghĩa là đảnh lễ, cúng dường v.v… Đức Tsongkapa vĩ đại - hiện thân của Đức Văn Thù - đã thực hành tích lũy công đức và tịnh hóa bản thân tại Oelga, và kết quả ngài đã triển khai được tuệ giác và những kinh nghiệm thực chứng, phi thường. Đây là một điển hình của sự ngộ đạo nhanh chóng khi dòng tâm thức của hành giả đã thuần thục. Ngay cả chư bồ tát ở mười địa vị cũng tu hạnh cốt yếu là tích lũy công đức và tịnh hóa bản thân. Bồ tát sơ địa hóa ra hàng trăm thân hình đi đến hàng trăm cõi Phật để cúng dường. Và bồ tát từ địa thứ mười hai trở lên càng hóa nhiều thân hơn nữa, làm nhiều sự cúng dường hơn nữa cho đến khi thành Phật quả. Bởi thế, hiển nhiên là chúng ta cũng phải làm như các ngài.
{Kabje Paongka Rinpoche bàn thêm chi tiết về điểm này.}
Vậy, sự thực hành gồm bảy thành phần là điều cần chủ yếu cho việc tích lũy công đức và thanh lọc bản thân, trong kinh tạng cũng như mật tạng. Những lỗi lầm của bạn sẽ chín như một ung nhọt sẵn sàng vỡ ra, những thiện đức của bạn sẽ như trái chín sẵn sàng để hái. Chư Thánh trong quá khứ đã dạy: “Bạn giống như hột giống khô cằn nếu không tích lũy công đức.” Nghĩa là trong khi bạn tiếp tục đưa vào nội tâm những đề mục thiền quán Lam-rim, thì đồng thời bạn vẫn phải tự nỗ lực tích lũy công đức và tịnh hóa bản thân nhờ pháp cầu nguyện gồm bảy thành phần. Người ta bảo, bạn sẽ không được cái gì cả nếu bạn chỉ hành trì những phần nào bạn cho là có lý.
Tôi có thể mô tả danh từ “bảy thành phần” như sau: giả sử một cái xe được cấu tạo bằng bảy phần, thì nó sẽ không chạy được vì nó thiếu một phần. Cũng vậy, nếu một trong bảy thành phần (của sự cầu nguyện) mà thiếu đi, thì sự tích lũy công đức và thanh lọc nghiệp chướng sẽ bất thành.
Bây giờ tôi sẽ nói về bảy thành phần ấy.
a- Thành phần thứ nhất: KÍNH LỄ
Có ba cách kính lễ: thân sụp lạy, tán thán bằng lời, và tâm lễ. Đọc bài sau đây (rút từ tác phẩm Bài Tụng Về Những Hành Vi Cao Quý):
Chư Phật trong ba thời, những đấng Sư tử trong nhân loại
Các ngài có mặt khắp ở mười phương thế giới
Con xin kính lễ từng vị một
Bằng thân lời ý thanh tịnh của con.
Với sự cầu nguyện mãnh liệt này
Con lạy dài trước tất cả các Đấng Chiến thắng.
Con tưởng tượng con có nhiều thân thể
Như số lượng cát bụi trong vũ trụ.
Theo những giáo lý được ghi chép, mỗi thân mà bạn hóa ra phải có vô số đầu. Điều này coi bộ bất tiện quá. Bạn chỉ cần tưởng tượng ra tất cả những thân mà bạn đã được sinh ra từ vô thỉ đến nay - nhưng dưới hình dạng loài người - là đủ.
Bài tụng tiếp theo:
Trên mỗi hạt bụi có vô số lượng Phật
Nhiều bằng số bụi thế giới; và chư Phật ấy
An tọa giữa chúng hội Bồ tát.
Cũng vậy con tin rằng
Tất cả chư Phật ở đầy khắp pháp giới.
Câu này có nghĩa mỗi đức Phật hiện hữu có thể ngồi trên một hạt bụi nhỏ li ti. Giả sử một trăm người cũng nhìn một hạt lúa: hạt lúa ấy xâm chiếm nhãn thức của một trăm người. Trí căn bản của chư Phật cũng thế, có thể để vào một vi trần duy nhất. Sắc thân một vị Phật cũng được thấy trên bất cứ vi trần nào mà căn bản trí của Phật ấy chiếu đến. Đây là một đức của sự hợp nhất (giữa Sắc và Không hay vật và tâm; hoặc giữa đại lạc với tánh không. DG chú), và chính vì tâm của chư Phật và những luồng khi lực của các ngài luôn luôn đi liền nhau.
Bài cầu nguyện tiếp tục:
Con ca tụng những đức tính của tất cả chư Phật
Bằng một biển vô tận những lời ca,
Bằng một đại dương âm thanh vi diệu.
Để xưng tán các đấng Thiện thệ.
Dù đưa lên một ngón tay để tỏ dấu kính phước điền cũng gọi là thân lễ bái.. có một dọc dài những cách khác nhau để lễ bái bằng thân. Chạm tứ chi và đầu bạn xuống đất gọi là kiểu lạy “nửa chừng”. Còn “lạy trọn vẹn” là đặt thân thể nằm dài trên mặt đất. Cách lễ bái này được đề cập đầu tiên trong Kinh nói:
“Muốn lễ lạy, hãy đặt toàn thân xuống đất như cây đổ, giống như đồng tử Manibhadra đã làm.”
Những lợi lạc của sự lễ bái như sau. Kinh Phân loại Nghiệp nói đến mười lợi ích như có thân thể đẹp, làn da sáng chói, v.v… Những kinh khác nói hành giả sẽ được công đức trở thành một ông vua chuyển luân cho mỗi vi trần trên mặt đất mà thân thể bạn bao phủ (có nghĩa bao nhiêu vi trần là bấy nhiêu vua). Kiểu lạy nửa chừng được bàn trong các mật điển; đó là cách mà bậc hiền trí Nàropa đã lạy. Purchog Ngagwang Jampa nói: “Nếu bạn tin tưởng vào những lợi lạc của sự lễ bái, thì bạn sẽ ước sao tay chân và thân thể của mình dài thêm.”
Trước khi lạy, bạn chắp hai tay vào nhau. Ngoại đạo lực sư có tục lệ áp hai lòng tay vào nhau, nhưng chúng ta (người Tây Tạng-DG) không theo tục ấy: chúng ta đặt những ngón cái vào bên trong hai bàn tay úp lại với nhau để cho ở trong hai lòng tay không bị trống rỗng. Khi ấy hình thù hai bàn tay ta giống như một viên ngọc ước.
Sau đó bạn đặt hai tay úp vào nhau ấy lên đỉnh đầu: điều này đem lại khả năng đạt được tướng nhục kế (đỉnh đầu nhô cao, một trong tướng hảo của Phật. DG). Rồi hãy đưa hai tay xuống khoảng giữa hai lông mày. Điều này đem lại khả năng có được tướng urna (bạch hào) của Phật. Sau đó đặt tay nơi yết hầu để có khả năng đạt ngữ giác ngộ có tiếng nói đủ sáu mươi âm thanh du dương. Rồi đặt tay nơi tim bạn để cầu khả năng có được ý giác ngộ. Tất cả những tác động này vừa tích tập công đức lại vừa tịnh hóa bản thân, làm sạch nghiệp chướng về thân, lời, ý.
Người ta bảo nếu bạn úp hai bàn tay khi lạy xuống hay khi đứng lên, thì trong kiếp tái sinh bạn sẽ có móng cong như móng ngựa. Bởi thế hãy đặt sát những ngón vào nhau mà để chúng nằm thẳng trên mặt đất. Đừng có nắm bàn tay lại. Những động tác này sẽ giúp bạn có được một trong những tướng hảo của Phật là giữa các ngón tay chân có một mạng lưới mỏng bằng ánh sáng. Hãy đặt hai bàn tay và trán bạn trên mặt đất. Hãy để ý, cái cách bạn lên khỏi nền nhà có quan hệ đến sự kiện bạn vượt lên khỏi sinh tử mau hay chậm; bởi thế bạn phải đứng lên cho nhanh như một con chồn. Lại nữa, nếu bạn có thể tái sanh làm một loài đi bằng bụng - loài bò sát chẳng hạn. Bởi thế đừng bị cám dỗ nằm nghỉ mệt một lát trên nền nhà. Nếu bạn không đứng thẳng người lên giữa hai lần lễ lạy, mà cứ để cái lưng hơi cong mà lạy xuống, thì bạn có thể tái sanh làm một loài vật với hai chân sau không đứng thẳng được. Vậy bạn hãy thẳng lưng lên. Không nên lạy thật nhanh để được nhiều lạy; hãy lạy mỗi lạy một cách thích đáng. Je Rinpoche khuyên chúng ta không nên cứ tích lũy một số lượng khổng lồ những cái lạy, như tính cho được một trăm ngàn lễ trong nghi thức chuẩn bị chẳng hạn. Thay vì thế hãy kể phẩm chất của sự lễ bái.
Một vài người có thể tuyên bố, “Tôi sắp làm một kỳ nhập thất chuẩn bị,” {Chú thích: là một kỳ nhập thất trước khi học pháp hay trước khi làm một lễ nhập thất quan trọng khác.} và làm vắn tắt khi họ lễ bái. Điều này rất sai. Bạn phải tích lũy công đức và thanh lọc nghiệp chướng ngay cho đến khi bạn đạt giác ngộ. Những người sơ học như chúng ta cần phải nỗ lực tinh tiến để tích lũy công đức và thanh lọc bản thân suốt cả đời. Hai chuyện ấy còn quan trọng hơn thiền định rất nhiều: bạn sẽ không thành đạt được cái gì cả nếu bạn tuyên bố: “Tôi đã làm xong việc nhập thất chuẩn bị” rồi sau đó cứ tà tà thoải mái.
Nếu những sự lễ bái của bạn đã là xây dựng kho công đức và thanh lọc nghiệp chướng, thì bạn không cần lo ngại nếu bạn chưa lạy đủ số một trăm ngàn lần. Có câu chuyện sau đây chứng minh. Có bốn người cùng nhập thất. Môt người chưa tụng xong một số lượng lớn bài kệ quy y, và ba người kia hỏi anh ta đã tụng được bao nhiêu lần. Anh hỏi lại, “Các bạn chỉ nhắm đến số lượng mà thôi hay sao?” Một cách lý tưởng là bạn phải làm nhiều lễ lạy đúng cách; nhưng thường bạn chỉ đếm số những lễ bái của mình để khoe khoang.
Bạn có thể làm lễ luôn luôn trong khi thì hành phận sự hàng ngày. Khi đang đi trên đường mà bạn tình cờ trông thấy những biểu tượng về thân khẩu ý giác ngộ chẳng hạn, bạn nên chắp tay lại. Đó là một hình thức cung kính. Người ta bảo, nếu bạn thực sự biết cách tu tập, thì bạn có thể biến mọi cử động của thân thể bạn thành ra Pháp.
b. Thành phần thứ hai: CÚNG DƯỜNG
Tác phẩm Bài Tụng Về Những Hành Vi Cao Quý tiếp:
Con xin dâng lên chư Phật
Những đóa hoa thơm và tràng hoa chọn lọc
Tiếng xập xõa chạm nhau,
Nước thơm tuyệt hảo, bảo cái đẹp nhất,
Những đèn dầu và trầm hương thượng hạng
Con xin dâng lên chư Phật
Những tấm y quý giá, hương bột thơm nhất
Từng đụn cao như núi Tu di-
Một trưng bày những phẩm vật tối thượng.
Tất cả vật cúng dường vô song này
Con quán tưởng để dâng lên chư Phật.
Dâng lên tất cả chư Phật sự kính lễ này của con
Phẩm vật cúng dường này do năng lực
Của tín tâm con vào những hành vi cao cả.
Chúng ta nghĩ thật đáng hỗ thẹn xiết bao nếu ta để một thửa ruộng phì nhiêu cả năm không trồng trọt; nhưng điều ấy không có gì đáng tiếc. Trăm ngàn lần đáng tiếc hơn nữa nếu chúng ta không tích lũy công đức đối với ruộng phước. Mặc dù bất cứ thiện căn nào ta tích lũy công đức sẽ không đúng với pháp nếu không kèm theo ít nhất là một lòng mong mỏi có được tái sanh tốt; song đối với ruộng phước thì không thế; nếu bạn tích lũy công đức bằng cách lễ bái cúng dường ruộng phước thì công đức ấy chắc chắn sẽ là nhân tố để bạn thành quả Phật - mặc dù có thể là (khi lễ lạy) bạn không có ngay cả một mong cầu tái sanh tốt đẹp. Ngay cả khi bạn dâng cúng Phật với những động cơ xấu, hành vi cúng dường ấy cũng vẫn góp phần vào giác ngộ của bạn về sau. Kết quả đặc biệt mà bạn có được ấy là do năng lực của phước điền.. một ví dụ: trong một thửa ruộng phì nhiêu, thì dù bạn canh tác qua loa sơ sài bạn cũng chắc chắn được nhiều kết quả tốt đẹp.
Trong những câu trên, “nước thơm” nói đây là thứ nước do nấu nhiều hương liệu khác nhau, như hương trầm, v.v… Những “đóa hoa tuyệt hảo” vân vân có thể không là những của dâng cúng tối thượng, nhưng câu “một sự trưng bày tối thượng” là ám chỉ tất cả những đồ cúng đã nói ở trên. “Hương” phải cùng một loại là trầm chẳng hạn. “Hương bột” là bột trầm, v.v… “Đụn” ám chỉ từng đống bột hương. “Từng đụn hương bột” còn có cách giải thích khác.. “Đụn” ở đây có thể là một bọc vải chứa những bột trầm ấy, được treo vào các bảo cái (tàn lọng) và tỏa ra hương thơm mỗi khi gió thổi. Bài tụng về Những Hành Vi Cao Quý nói đến bảy loại phẩm vật là hoa thơm, vân vân.
Những phẩm vật tối thượng là những thứ thù thắng nhất toát ra từ chư Phật và chư Bồ tát do các ngài sản xuất bằng tâm bồ đề và sự cầu nguyện. Mặc dù chúng ta không thể dâng những thứ ấy, có những vật ta có thể dâng. Kinh do Sàgaramati thỉnh vấn nói đến hai thứ cúng dường: hộ trì chánh pháp và phát tâm mong cầu vô thượng bồ đề. Kinh Sen Trắng Của Tâm Đại Bi nói đến một sự dâng cúng thứ ba là áp dụng những gì đã học vào thực hành. Những bậc thầy của chúng ta dạy ta làm một loại dâng cúng thứ tư, ấy là làm cho thiện căn của ta biến thành những phẩm vật dâng cúng.
Sự cúng dường tối thượng “hộ trì chánh pháp” là kể từ hành vi gìn giữ những giáo lý được truyền thừa và thực chứng cho đến hành vi nhỏ nhất như chỉ thuộc một âm duy nhất trong một bài chú. “Áp dụng những gì đã học vào thực hành” nghĩa là thực hành ý nghĩa bất cứ gì ta đã học hay thuộc. Ta nên theo gương geshe Chaen Ndgawa đọc tạng Luật mà ném bỏ tấm da thú ông đang lót ngồi (xem trang…). Người ta bảo nếu bạn cứ chờ xem thiên văn lý số mới khởi sự thực hành pháp tu, thì ta có thể chết trước khi ấy. Ngay cả việc thực hành những gì bạn biết về chuyện quét nhà cũng là một sự cúng dường bằng sự thực hành của bạn. Những người uyên thâm cổ thư không nên làm gì ngoài ra áp dụng ý nghĩa sự học của họ vào thực hành; như Butoen Rinpoche nói:
Họ muốn thủ thắng và làm nhục người khác;
Họ hành động lừa bịp, xử dụng ngôn ngữ xấu xa;
Nói đủ thứ vô nghĩa, chọc giận người khác:
Kiểu tranh luận ấy đưa họ xuống địa ngục.
Nghĩa là người ta không nên làm như vậy.
Về sự “làm cho thiện căn của ta biến thành những phẩm vật dâng cúng”; bạn tưởng tượng những đức hạnh mà bạn có được nhờ sự học, vân vân, thành ra những phẩm vật bằng vật chất để dâng hiến - như trong câu trích dẫn này: “Giữa một đại dương mà nước trong như giới hạnh…” “dâng hiến một hồ nước phẳng lặng của sự học…” Và trong Đạo Sư Du Già chúng ta tìm thấy “Trong một cái hồ cho mong ước, đây là những vật hiến dâng của con, vừa thực chất vừa tưởng tượng…” Đây là sự dâng hiến những công đức căn bản của bạn, được tưởng tượng thành một lạc viên.
“Phát tâm mong cầu vô thượng bồ đề” nghĩa là phát bồ đề tâm và dâng hiến việc ấy cho chư Phật Bồ tát để làm cho các ngài hoan bỉ.
Bốn điều trên là thứ cúng dường tối thượng mà ta có thể làm. Không thể có vật cúng dường nào tốt hơn thế. Nhưng người đã xuất gia thọ giới trong chúng ta trước hết phải cúng dường những điều ta thực hành; khi ấy dù thì dù gặp lúc nghèo khó ta cũng không nên dùng các tà mạng để sống. Ngay dù cho có tiền, người xuất gia cũng chỉ nên nỗ lực nhiều nhất vào việc cúng dường bằng việc tu hành của mình. Drolungpa nói trong tác phẩm Những Giai Đoạn Của Giáo Lý:
Có mười loại cúng dường thành tựu;
Tượng, tháp, cái có thực, cái tưởng tượng
Những việc đích thân ta đã làm,
Những việc người khác đã làm giùm cho ta,
Việc phụng sự của ta, và sự vô si của ta.
Vậy ngài bảo ta cũng nên làm những sự cúng dường như thế.
Ở điểm này, bạn dâng một madala thế giới. Lời Đức Văn Thù khác với Lam-rim trong hai tác phẩm Con Đường Nhanh và Con Đường Dễ. Theo hai bản sau này, bạn dâng cúng phẩm vật của bạn trước, rồi mới hiến dâng madala thế giới. Theo bản Lời Đức Văn Thù thì ta nên dâng hiến madala thế giới trước, việc này sau pháp cúng dường bậc thầy, v.v…
“Mandala” Tạng ngữ là kyil kor (vòng quanh trung tâm). Kyil hay “trung tâm” ám chỉ “tinh túy”; “kor” hay “quay vòng tròn: ám chỉ sự trích rút ra. Vậy danh từ mandala có nghĩa là “rút ra cái cốt tủy.” Điều này có ý nghĩa lớn lao.
Madala thường có hình tròn. Nhưng hình dáng của nó nên phù hợp với khuynh hướng nghiệp của bạn; bởi thế madala bình vuông hay tương tự cũng được.
Một vài người bảo, “Sự dâng cúng bên ngoài không quan trọng bằng thiền định bên trong.” Nhưng theo mật tông chúng ta thấy tác phẩm của Mã Minh (Ashvaghosha) nhan đề Năm Mươi Bài Tụng Về Bậc Thầy nói:
Chắp tay thành kính
Dâng lên bậc thầy, đạo sư của ngươi
Những mandalas và hoa.
Một hôm Dromtoenpa đến thăm ẩn sĩ vĩ đại Gampopa. Vị này đang dùng tất cả thời giờ để nhập định, bỏ phế madala của ông bám đầy bụi dơ. Drom hỏi tại sao ông không dâng cúng madala. Gampopa đáp ông đang nội quán, không có thời giờ quán madala. Drom quở trách: “Ông nói cái gì? Atìsha là một thiền giả vượt hơn ông xa chừng, thế mà ngài dâng cúng madala mỗi ngày ba lần.” Sau đó, Gampopa đặt nhiều nỗ lực vào việc dâng cúng madala và nhờ vậy đã triển khai thực chứng.
Nếu bạn giàu, bạn nên có một bộ sậu madala làm bằng vàng bạc đồng vân vân; nếu không thì đá slate sơn mài, hay gỗ cũng được. Tsongkapa đã dùng một madala bằng đá trong lúc ngài nhập thất ở Oelga, Những nội dung của madala có thể là châu báu, ngũ cốc, và dược phẩm. Hoặc sỏi cát v.v… cũng được. Nếu bạn giàu, bạn sẽ tích lũy nhiều công đức nếu cúng những gì tốt nhất. Đáy madala càng lớn càng tốt nhưng nhỏ nhất cũng phải bằng cái bát ăn của bạn. Bạn phải dâng cúng madala ít nhất mỗi năm một lần, hay mỗi tháng một lần.
Giọt một giọt nước thơm trên từng đầu ngón tay bạn, rồi hoặc đặt ngón tay cái vào trung tâm (trên đỉnh của cái đáy madala), và di chuyển những ngón tay quanh vành madala, hoặc đặt những ngón tay ở giữa mà di chuyển ngón cái quanh vành.
Dâng hiến madala như sau: Cầm cái madala trong tay trái bạn, với ít ngũ cốc trong lòng tay. Chà xát đáy ba lần bằng cánh tay phải theo chiều kim đồng hồ, tưởng tượng bạn đang lau sạch tội lỗi và nghiệp chướng. Rồi chà xát ba lần theo chiều ngược lại, tưởng tượng thọ mạng, thân ngữ ý nghiệp của bạn được tịnh hóa. Rồi đọc những bài dâng madala nội tâm, dài và ngắn, (xem trang…)
Sau đây là những cách khác nhau để làm đầy madala theo truyền thống. Bạn lấy phía đông của đáy madala làm cạnh đối diện với ruộng phước - những thực thể bạn dâng đồ cúng - hoặc làm cạnh đối diện với bạn. Khi làm madala hiến dâng, thì để phương đông là cạnh madalla đối diện với ruộng phước; khi làm một madala xin cầu điều gì, thì để phương đông là cạnh đối diện với bạn. Ở đây ta nên áp dụng quy ước thứ hai, vì bạn đang xin cầu ruộng phước ban phước cho mình.
Theo truyền thống của Sakya Drogoen Choepag thì madala có ba mươi bảy tụ tượng trưng cho: núi Tu Di (1), bốn đại lục (4); tám tiểu lục địa (8); núi báu (1); bò ước (1); mùa màng không cần cày cấy (1); bảy báu dấu hiệu của vua chuyển luân (xe báu, vv) (7); bình báu (1); tám nữ thần (8); thần mặt trời (1); mặt trăng (1); lọng (1); tràng phan chiến thắng (1).
Tsongkapa theo truyền thống hai mươi ba tụ. Khác với madala hai mươi lăm tụ là không có hai tụ sau đây: đáy madala bằng vàng và dãy núi Thiết vi.
Sự bày ra Núi Tu di và bốn đại lục trong mandala là theo Thế Thân (Vasubandhu) trong tác phẩm Kho tàng Siêu vật. Hãy tham khảo quyển này để biết thêm chi tiết về trưng bày của madala. Các biển và Núi Tu Di được vây quanh bằng một vòng núi sắt. Ở trung tâm là núi Tu di làm bằng bốn báu vật. Mặt phía đông màu trắng, nam xanh, tây đỏ, bắc vàng chói.
Tưởng tượng có rất nhiều núi báu v.v… trên mỗi đại lục. Những núi báu, cây ước là tài nguyên của mỗi đại lục đặc biệt ấy. Bò ước được làm bằng châu báu, phân tiểu nó toàn bằng vàng ròng. Mùa gặt không cần cày cấy gồm một thứ lúa không có vỏ trấu, gặt buổi sáng thì chiều đã mọc lại, gặt buổi chiều thì sáng đã mọc lại. Trong madala hai mươi lăm tụ, bạn không làm những “tụ” riêng cho bốn thứ này (núi báu, bò báu, lúa báu-DG) vì chúng ta đã bao hàm trong sự hiến dâng bốn đại lục.
Bảy biểu tượng báu của vương quyền được nói trong câu thơ: “Làm bằng vàng lấy từ biển Jàmbuna…” Bảy báu này (thêm bình báu) bềnh bồng trong hư không, xâm chiếm bốn phương tám hướng giữa các đại lục và núi Tu di. “Tụ” tám thần nữ thần nữ của sắc đẹp, v.v… - thuộc về madala 37 tụ nói trên, mặc dù chính những nữ thần thì đứng trên những chiếc xe xung quanh núi Tu di (trong sự quán tưởng). Nhưng trong madala 25 tụ thì bạn không làm một tụ nào để biểu trưng cho các nữ thần ấy, vì bạn đã dâng hiến một tụ biểu trong núi tu di.
Tụ biểu trưng mặt trời ở về phía trái Tu di sơn, tụ mặt trăng ở bên phải, lọng báu ở phía sau, tràng phan ở trước, hướng về phía bạn - đây là điểm tốt lành. Bạn cũng có thể đặt mặt trời ở phía tây, mặt trăng ở phía đông, lọng báu phía bắc, tràng phan phía nam. Đây cũng là điềm lành.
Hãy dâng hiến những của cải của chư thiên và nhân loại trong khi lmà một tụ ở chính giữa.
Đừng quán madala lớn hơn thực tế, nhưng quán bốn đại lục, các cõi trời vân vân, cách nào để chúng cũng không nhỏ bớt. Vị giáo đạo Tsechogling cho một ví dụ bổ ích trong khi ngài ở Tsehilhuenpo: bạn có thể thấy toàn thể gương mặt một người trong một cái bọt nước nổi lên trên chén trà. Nó cũng giống như thấy một gương mặt nhỏ trong một cái gương lồi, hay nhìn một ngọn núi qua một lỗ kim.
Bạn phải tuần tự quán cho đến lúc thấy được hàng tỷ vũ trụ trong ba giai đoạn - mỗi lần nhân sự quán của bạn lên gấp ngàn lần. Nói cách khác, bắt đầu với một nhóm ngàn thế giới, rồi một ngàn nhóm ngàn thế giới, rồi ngàn lần của những nhóm sau này.
Theo tôi, câu “Con dâng madala này, rưới đầy nước thơm…” là câu mà Sadàprarudita (xem ngày thứ bảy, trang…). Có hai bản khác nhau: một bản nói: “Tất cả được quán tưởng cho cõi Phật…” còn bản kia là “Tất cả được quán đi vào một cõi Phật…” “Cho” nghĩa là phép quán được thực hiện “cho những vị Phật trong ruộng phước.” Nhưng có thể bậy nếu cúng các ngài cai thế giới bất tịnh gồm núi Tu di cùng bốn đại lục. Như vậy “đi vào một cõi Phật” có nghĩa là những thứ này chỉ bất tịnh trong một sác na đầu tiên của sự quán tưởng mà thôi; sát na kế tiếp tất cả chúng đều được chuyển hóa vào một môi trường thanh tịnh. Hai cách quán này mỗi thứ đều có chỗ lợi lạc tương ứng của nó.
Dagpo Rinpoche nói trong tác phẩm Thi Ca về Mandala: “Phạm Thiên, Đế Thích giúp đỡ người trì giới…” Nghĩa là, bạn nên quán tưởng các vị ấy đang giúp đỡ bạn làm madala dâng hiến, nếu bạn là những tăng ni trì giới. Nếu bạn chưa thụ giới, thì cũng phải nhờ một tỷ kheo giúp bạn. Nhưng núi Tu di và bốn đại lục được hình thành do cộng nghiệp của hữu tình, bởi thế bạn không cần sự giúp đỡ của Phạm Thiên, Đế Thích, v.v… để làm madala dâng hiến: toàn thể thế giới hệ gồm núi Tu di và bốn đại lục là y báo của phần riêng bạn trong cọng nghiệp ấy.
Hãy quán một tỷ thế giới hệ gồm núi Tu di và bốn đại lục trong mỗi hệ, nếu bạn làm được sự quán tưởng ấy. Nếu không, chỉ cần quán một thế giới hệ là đủ. Nếu bạn dâng cúng madala một cách thích đáng, thì cũng lợi ích giống như thực sự dâng bốn châu lục địa và núi Tu di, v.v… Như khi vua A Dục còn là một cậu bé trong tiền kiếp, ông đã đặt bụi đất và bát khất thực của Phật Tỳ Bà Thi, mà tưởng tượng bụi ấy là vàng ròng. Tuy vậy ông đã nhận được sự lợi lạc cũng như dâng cúng vàng thật, và hậu quả là về sau ông được tái sanh làm vua A Dục, và đã xây mười triệu bảo tháp trong một ngày. Vậy không gì tốt hơn là dâng cúng một madala vũ trụ để tích lũy công đức - điều ấy hoàn tất sự tích tập của bạn, điều ấy thực thuận tiện và là một việc làm thẳng thắng, vân vân. Bởi thế, quả là một vật thiết cốt để sở hữu, cái đáy bất bằng đồng thau hình tròn này!
Cuối lễ dâng madala, bạn nghiêng cái đáy về phía bạn hoặc phía ngoài, khi trút những gì chứa trong ấy vào lại trong túi vải đựng chúng. Nếu bạn cần ban thêm phước, thì hãy trút chúng về phía mình; nếu muốn tránh né những sự can thiệp, thì hãy hướng ra khỏi mình để trút.
Hãy cốt làm sự quán tưởng cho đúng cách hơn là làm thật nhiều lễ dâng hiến madala. Khi bạn muốn có một số lượng nhiều về bất cứ gì, chỉ cần làm phần dâng hiến thuộc nghi thức chuẩn bị này nhiều lần là được. Hãy tụng câu: “Con cho đến ngày giác ngộ, con xin quay về nương tựa Phật, Pháp và thánh chúng…”; đoạn làm sự dâng hiến gồm bảy tụ: một tụ cho núi Tu di, bốn tụ cho bốn đại lục, một tụ cho mặt trời, một cho mặt trăng.
Tỷ kheo ni Lakshmì có những linh kiến về Thánh Quán Tự Tại sau khi đã dâng cúng một số lượng madala. Đức Tsongkapa chuyên cần làm những lễ dâng madala trong khi ở Oelga Choelung, và kết quả là ngài triển khai chánh kiến. Bởi thế, ai cũng nên nỗ lực để thực hành pháp môn này.